2

1.Khởi động:

Ý nghĩa và tác dụng: Để làm nóng cơ thể và hạn chế chấn thương, người ta thường sử dụng những động tác chuẩn bị tương tự như hoạt động sắp tới, được gọi là khởi động.Khởi động chung và khởi động riêng.

*Khởi động chung:

Nhằm tăng cường các chức năng của cơ thể như tang cường khả năng hung phấn của hệ thần kinh trung ương, hệ vận động,tang cường trao đổi chất, thân nhiệt và các chức năng thực vật như hô hấp, tuần hào tạo điều kiện thuận lợi cho cơ thể chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động.

*Khởi động chuyên môn:

Nhằm gây tình trạng hung phấn thích hợp nhất ở các phần của hệ vận động tham gia và hoạt động sắp tới. Động tác các phần khởi động chuyên môn về phối hợp, kết cấu, biên độ, nhịp độ và sức mạnh phải tương đương như hoạt động sắp tới.

Lưu ý: Phần khởi động chung đối với các môn thể thao có thể tương tự nhau nhưng phần khởi động chuyên môn phải phản ánh được đầy đủ đặc điểm của hoạt động sắp tới.

Thời gian khởi động: Thường kéo dài 20-30 phút.

2.Trọng động, thi đấu:

-Ý nghĩa và tác dụng: Là phần cơ bản nhất của buổi tập. Đòi hỏi người tập phải tập trung nhiều sức lực nhất, do yêu cầu đòi hỏi quá cao người tập phải gắng sức nhiều, cho nên những thương tật thường xảy ra tập trung trong thời gian này.

-Diễn biến tâm lý, sinh lý trong quá trình này rất phức tạp.Tùy theo đặc điểm của người tập, hình thức, mức độ luyện tập và thi đấu mà sự xảy ra tâm, sinh lý khác nhau.

2.1.Qúa trình bắt đầu hoạt động: là quá trình thích nghi của cơ thể với mức hoạt động mới, định hình của động tác được hình thành.Các chức năng thực vật cũng tang lên, do đó đòi hỏi quá trình này một thời gian nhất định.

Trình độ luyện tập càng cao, quá trình bắt đầu vận động càng diễn ra nhanh hơn. Khởi động có một vai trò để rút ngắn quá trình bắt đầu vận động, quá trình này càng chóng kết thúc.Sự phối hợp hoạt động giữa hệ vận động và cơ quan thực vật diễn ra càng sớm nên hoạt động càng có hiệu suất cao.

2.2Trạng thái ổn định:

-Sau thời kỳ bắt đầu vận động xuất hiện trạng thái ổn định.Trong trạng thái này khả năng hoạt động của cơ thể giữ ở mức cố định trong một khoảng thời gia.Người ta thấy rằng phản xạ tang dần lên,yếu tố thể dịch như các sản phẩm chuyển hóa những hóc môn cũng được tang cường.Người ta phân biệt ra trạng thái ổn định thật và ổn định giả.

+Trạng thái ổn định thật xảy ra ở hoạt động với cường độ trung bình.

+Trạng thái ổn định giả xảy ra ở hoạt động với cường độ lớn và cường độ dưới cực đại với điều kiện này phải kéo dài 3-5 phút trở lên.

-Còn trong hoạt động với cường độ cực đại và dứi cực đại khác, trạng thái ổn định không xuất hiện vì trong thời gian hoạt động quá ngắn vá cường độ quá cao.( chạy 100-200m).

Trong trạng thái ổn định sự tiêu thụ oxy của cơ thể quá cao.Mặc dù tương đối ổn định nhưng nhu cầu oxy vẫn không thõa mãn cho cơ thể nên hiện tượng oxy tăng dần lên, làm cho pH giảm xuống.

Người ta chỉ nói đến trạng thái ổn định giả khi các quá trình sinh lý tang dần trong thời kỳ bắt đầu vận động, đạt tới mức giới hạn và được duy trì ở mức này trong thời gian tương đối dài (6-10phút).

Hoạt động torng trạng thái ổn định rất khó nhọc và đòi hỏi sự căng thẳng cao độ của hệ vận động và các hệ thống khác nữa.

2.3.Cực điểm hô hấp thứ II:

*Khái niệm: Sự giảm sút tạm thời khả năng hoạt động torng vận động kéo dài được gọi là cực điểm và sự khắc phục trạng thái này đặc trưng bởi cảm giác hoạt động bớt khó khan được gọi là “Hô hấp thứ II”.

*Biểu hiện: Cảm thấy khó thở, mệt, đau cơ, đôi khi muốn bỏ cuộc, sự phối hợp động tác rối loạn, có nhiều động tác thừa, khả năng thả lỏng của các cơ bị giảm, hoạt động các cơ quan thực vật có những biến đổi lớn như:Về tuần hoàn trạng thái cực điểm mạnh tăng 800 1/ phút  hoạc hơn trong 1 số trường hợp loạn nhịp và ngoại tầm thu huyết áp tăng.Axitcacbonic và axit lactic bị tích lũy nên pH của máu giảm.

-Trong trạng thái hô hấp thứ II thăng bằng axit kiềm được khôi phục.Thời gian xuất hiện và mức độ thể hiện của cực điểm phụ thuộc vào trình độ tập luyện và cường độ hoạt động.

+Nếu cường độ tăng lên đột ngột sẽ làm xuất hiện cực điểm nhanh và thể hiện mạnh hơn.

+Nếu trình độ tập luyện tốt và cường độ hoạt động tang dần, cực điểm có thể không xuất hiện.Khởi động làm cho cực điểm xuất hiện nhẹ và nhanh chóng chuyền sang hô hấp thứ II.

-Hoạt động với cường độ rất cao không thể kéo dài được lâu.

-Ý chí con người là một nhân tố quan trọng torng việc khắc phục “cực điểm”.

2.4.Mệt mỏi:

Mệt mỏi là một trạng thái sinh lý đặc biệt của cơ thể người, thể hiện bởi sự giảm sút tạm thời khả năng hoạt động.Mệt mỏi xuất hiện sua khi hoạt động, do hậu quả của hoạt động và mất đi sau khi nghỉ ngơi.Cảm giác mệt mỏi là cảm giác chủ quan, nhưng lại xuất hiện một cách khách quan do cơ thể trạng thái mệt mỏi.Do đó, về thời gian xuất hiện và cường độ thể hiện thì mệt mỏi và cảm giác mệt không phải bao giờ cũng tương ứng với nhau.

Mệt mỏi được xem là tín hiệu của giới hạn những biến đổi sinh lý.Những biến đổi này phải đạt mức khá lớn mới làm triển khai mạnh mẽ các quá trình hồi phục và nâng cao trình độ tập luyện.

Trong quá trình phát triển của mệt mỏi, ngưởi ta có thể chia ra hai giai đoạn:

-Giai đoạn mệt mỏi tiềm tang”mệt mỏi sơ phát” lúc này mệt mỏi xuất hiện như một trạng thái hoạt động khó khan, nhưng nếu dung ý chí mà khắc phục lại tang cường được khả năng hoạt động, khả năng sinh lý của cơ thể và tạo điều kiện cho hoạt động kéo dài.

-Giai đoạn mệt mỏi không khắc phục được” mệt mỏi thứ phát”.Dù tập luyện, khả năng hoạt động nâng đến mức độ nào đi nữa, cơ thể cũng không thể hoạt động mãi được và cuối cùng khả năng hoạt động bị giảm xuống rồi phải ngừng hoạt động. Đó là giai đoạn mệt mỏi  không khắc phục được nhưng vẫn là mệt mỏi sinh lý, có tính chất bảo vệ.Nếu dấu vết  của mệt mỏi chưa mất đi, nhưng lại phải hoạt động tiếp tục thì mệt mỏi tích lũy lại và dần dần chuyển sang loại mệt mỏi bệnh lý hay mệt mỏi quá mức, phải một thời gian dài mới mất đi.

3.Hồi tỉnh:

Là phần không thể thiếu được trong buổi tập luyện và thi đấu TDTT.Trọng động và thi đấu đòi hỏi VDV mất nhiều sức lực, nếu tập luyện thi đấu tốt.Cuối cùng và diễn biến sinh lý của cơ thể tiến đến lúc mệt mỏi.Mệt mỏi là tính hiệu của giới hạn những biến đổi sinh lý, là đỉnh cao của quá trình tập luyện và thi đấu.Từ đó cơ thể VDV muốn trở về trạng thái bình thường đòi hỏi phải có thời gian hồi phục.

-Hồi tỉnh tốt, cơ thể mau chóng hồi phục sức khỏe, tránh được những chấn thương, bệnh tật nguy hiểm có thể xảy ra.

-Trái lại hồi tỉnh không tốt hoặc bỏ phần hồi tỉnh manh lại hậu quả vô cùng tai hại cho cơ thể như : VDV suy nhược cơ thể, bệnh loãn mạch máu chân, bệnh sa dạ dày, bệnh thận, đau cơ….

Như vậy, hồi tình là phần nối tiếp của buổi tập luyện và thi đấu. Đây là một nguyên tắc tập luyện, 1 nguyên tắc vệ sinh học TDTT cơ bản có tính chất bắt buộc đối với người VDV.

Trước lúc mệt mỏi cơ thể VDV có những biến đổi về sinh lý ở mức độ cao về tuần hoàn, tần số của tim lên tới 200 lần/ phút hoặc hơn nữa.Trong một phút lượng máu phân phối không đều tập trung nơi vận động nhiều và nơi thấp của cơ thể, có hiện tượng thiếu máu não, tim làm việc rất khẩn trương, căng thẳng về hô hấp.Hiện tượng nổi bật nhất là oxy torng cơ thể.Axit lactic ứ đọng trong máu nhiều, về thần kinh rất căng thẳng, các giác quan điều tiết cơ thể cũng căng thẳng…

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: