.....

Yêu thích cái đẹp, luôn tìm tòi, khám phá và đưa chúng vào trong văn chương để tôn vinh, ngợi ca là nét riêng biệt ở Nguyễn Tuân giúp ông trở thành một nhà văn lớn trong cả nền văn học lãng mạn cũng như văn học Cách mạng Việt Nam. Mỗi lời văn of NT đều là những nét bút trác tuyệt như nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý of ngôn ngữ. Đặc biệt khi viết về một thời vàng son của dân tộc nay chỉ còn vang bóng cùng hình ảnh "những nho sĩ cuối mùa" ông đã khẳng định tên tuổi mình trên tác phẩm "Vang bóng một thời" với 11 truyện ngắn. Mà xuất sắc, tiêu biểu trong đó là việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn "Chữ người tử tù" trên ba phương diện: tài hoa, khí phách hiên ngang và nhân cách trong sáng. Qua đó, tác giả hướng người đọc đến những điều tốt đẹp trong đời, đến với chân, thiện, mĩ, gạn đục khơi trong, tìm đc lẽ sống đích thực cho mỗi người.
NT sinh ra trong một gđ nhà Nho khi Hán học đã tàn. NT là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có 1 vị trí quan trong và có đóng góp ko nhỏ đối với VH VN hiện dại: thúc đẩy thể tùy bút, bút kí, văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện đại 1 phong cách tài hoa và độc đáo.
Đọc qua truyện, ta sẽ dễ dàng nhận ra nguyên mẫu của nhân vật Huấn Cao chính là nhà Nho tài tử Cao Bá Quát – người đã đứng dậy lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống nhà Nguyễn ở thế kỉ XIX. Điểm đặc biệt gây được sự chú ý, tò mò của người đọc là ở việc xây dựng tình huống truyện đặc sắc. Đó là cuộc gặp gỡ giữa hai con người ở vị thế đối lập nhau nhưng lại có ý nghĩa soi chiếu, rọi sáng cho nhau. Nhờ có điều đó mà hình tượng Huấn Cao hiện lên, tỏa sáng giữa cái tăm tối nơi tù ngục nhơ bẩn với ba cái nhất: đẹp nhất, tự nhiên nhất và khách quan nhất.
Trc hết, ta thấy HC là một người " văn võ toàn tài". Sở dĩ ông bị đày làm tử tù là do ông bất mãn với triều đình nên đã nổi dậy đấu tranh nhưng ko may lại thất bại. Từ đó, ông được biết đến với cương vị là người nghệ sĩ  tài hoa trong nghệ thuật thư pháp được đánh giá qua lời của Viên quản ngục và thầy thơ lại. Mở đầu truyện cái tên Huấn Cao xuất hiện trong phiến trát của Sơn Hưng tuyên đốc bộ đường đưa xuống. Cái tên ấy làm cho viên quản ngục khi nghe cũng phải cảm thấy ngờ ngợ "Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh rất đẹp đó không?". Hình ảnh HC hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn. Quả thực, danh tiếng của Huấn Cao gần xa ai ai cũng biết và thầy thơ lại, viên quản ngục cũng không ngoại lệ. Cả hai người họ đều mến mộ, kính phục ông Huấn đến thầy thơ lại cũng phải chặc lưỡi bộc bạch suy nghĩ của mình "giả thử tôi là đao phủ, phải chém chết nhưng ngươi như vậy tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc". Còn viên quản ngục, một người say mê nghệ thuật thư pháp cũng thấy rằng "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm...Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời". Đó là sự đề cao, ngưỡng mộ đến tuyệt đối mà viên quản ngục dành cho ông Huấn. Chính bởi sự trân trọng và đề cao như vậy viên quản ngục đã bất chấp mọi hiểm nguy mà biệt đãi ông Huấn một cách đặc biệt để mong mỏi một ngày ông Huấn bớt giận chịu cho chữ mình. Thậm chí Viên quản ngục còn nhẫn nhục, hạ thấp mình chịu đựng những câu nói nặng lời, sự khinh bạc của Huấn Cao bởi lẽ nếu không có được chữ do ông Huấn cho thì quản ngục sẽ ân hận suốt đời. Ngần ấy chi tiết đã trở thành minh chứng cho giá trị của những nét chữ do Huấn Cao viết. Như vậy, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân người nghệ sĩ đã được lí tưởng hóa cùng ngòi bút của nghệ thuật. Huấn Cao đã được đưa lên đứng đầu trong nghệ thuật thư pháp dưới cái nhìn của những con người đam mê nghệ thuật truyền thống trong nét đẹp văn hóa của dân tộc.Không chỉ được biết đến với tài năng trong nghệ thuật thư pháp mà ngay từ khi xuất hiện trực diện trong truyện Nguyễn Tuân còn hướng ta đến với một Huấn Cao là con người của khí phách hiên ngang bất khuất. Ngay từ đầu truyện thầy thơ lại đã trầm trồ ông Huấn là người có tài bẻ khóa vượt ngục. Hơn thế nữa hình ảnh của Huấn Cao còn là hình tượng của bậc anh hùng đầu đội trời chân đạp đất cùng ý chí chọc trời khuấy nước. Trước sự bất bình với triều đình phong kiến Huấn Cao đã nổi dậy đứng về phía nhân dân lao động – những con người thấp cổ bé họng, họ cùng nhau chống lại xã hội phong kiến thối nát, mục ruỗng. Bởi thế mà với nhân dân ông là anh hùng còn với bọn quan thần thì ông lại là "kẻ cầm đầu bọn phản nghịch" và trong mắt bọn lính Huấn Cao "ngạo ngược và nguy hiểm". Khí phách ấy càng được tô đậm trong hình ảnh Huấn Cao ngày đầu tiên bị giải đến nhà ngục. Mặc dù đeo gông nặng trên mình nhưng Huấn Cao vẫn rất đỗi ung dung. Trong lúc chờ đợi cửa ngục mở rộng ông còn thản nhiên nói mọi người "dỗ gông cho rệp rơi xuống". Đó là hình ảnh của một con người dù thân thể bị xích nhưng tinh thần thì hoàn toàn tự do làm những gì mình cần làm. Đặc biệt ông còn làm ngơ trước những lời uy hiếp, dọa nạt của một tên lính, ông vẫn lạnh lùng, tiếp tục chỉ huy những người tử tù khác "thúc mạnh mũi gông xuống thềm đá tảng, đánh thuỳnh một cái để dỗ trận mưa rệp xuống nền đá". Đó là hành động của sự coi thường, khinh bỉ mà Huấn Cao "dành" cho bọn lính áp giải – một thái độ đáng kính nể. Sống trong cảnh tù đày tưởng chừng như ông Huấn sẽ bị hành hạ, đánh đập, sống những ngày cuối đời đau đớn, tẻ nhạt nhưng không, sự thật lại trái lại với lẽ thường. Trong những ngày này ông vẫn bình thản nhận thịt rượu từ viên quản ngục và coi như đó chỉ là "một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm". Với ông, nhà ngục dơ bẩn này không thể làm vấy bẩn, giam cầm được tinh thần của một con người có khí phách. Thậm chí, mặc cho nhận đc "cặp mắt hiền lành", sự biệt đãi đặc biệt, sự nhỏ nhẹ, khép nép của viên quản ngục thì ông vẫn tỏ thái độ khinh bạc qua cái đuổi "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây". Cách xưng hô "ta-ngươi", Huấn Cao đã đặt mình lên trên quản ngục, coi quản ngục chỉ la một kẻ tiểu nhân. Người ta vào tù thường sợ bị tra tấn, sợ roi vọt, sợ những thủ đoạn tàn bạo nhưng với Huấn Cao "đến cái cảnh chết chém ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai" nên khi nói ra những lời lẽ như vậy chứng tỏ ông không hề sợ bị viên quản ngục báo thù hay dở trò lưu manh. Điều đó càng làm nổi bật hơn khí phách ngang tàng trước cường quyền, bạo lực, tô đậm thêm thái độ không hề run sợ trước cái ác, luôn ung dung, tự tại trong mọi hoàn cảnh. Khí phách ấy còn được tác giả tiếp tục nhấn mạnh hơn trong thái độ bình thản, điềm tĩnh không một chút lo lắng, run sợ khi biết tin ngày mai bị giải về kinh lĩnh án, khác hoàn toàn so với sự "tái nhợt người đi" của viên quản ngục. Sau khi thấu hiểu tấm lòng của viên quản ngục ông còn chủ động sắp xếp việc cho chữ. Có thể thấy, Nguyễn Tuân đã thể hiện sự trân trọng của cá nhân đối với khí thế của người anh hùng không bị vật chất hay quyền lực mua chộc, một con người luôn đặt vị trí của mình cao hơn những kẻ cặn bã.
Tài năng và khí phách là một trong những tố chất tạo nên một con người hoàn hảo. Tuy nhiên để trở nên hoàn hảo đến mức tuyệt đối, để đạt đến ngưỡng chân thiên mĩ con người ấy cũng cần phải có thiên lương trong sáng – bản tính tốt của con người do trời phú cho và phẩm chất ấy cũng có ở Huấn Cao. Nhân cách trong sáng ấy chính là tấm lòng coi thường, xem nhẹ danh lợi, quyền lực. Việc Huấn Cao đứng dậy cùng nhân dân chống lại triều đình phong kiến là lẽ sống vì mọi người, một lẽ sống cao đẹp luôn sẵn sàng chấp nhận mọi nguy hiểm. Tính ông Huấn vốn khoảnh, từ chỗ tri kỉ ông ít chịu cho chữ "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Câu nói ấy cho ta thấy hai điều đáng quý ở Huấn Cao: Tiền bạc không mua được chữ của ông và quyền thế không thể ép ông viết chữ. Điều đó xuất phát từ ý thức trong việc chơi chữ của Huấn Cao. Với ông, chơi chữ là một thú vui tao nhã và chỉ những con người có nhân cách thanh cao có tâm hồn nghệ sĩ mới được thưởng thức vẻ đẹp của nghệ thuật và cũng vì lẽ đó mà ông kiên quyết không chịu cho chữ viên quản ngục. Thế nhưng khi biết được tấm lòng quý trọng đặc biệt với kẻ tài đức cũng như tâm hồn nghệ sĩ trong viên quản ngục Huấn Cao đã xúc động bày tỏ: "Thiếu chút nữa ta đã phụ mật một tấm lòng trong thiên hạ". Giờ đây Huấn Cao đã hiểu rõ được tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" của quản ngục, thấy được tấm lòng trong sạch hiếm có của những con người sống trong cái xã hội cặn bã ấy. Nguyễn Tuân lại một lần nữa làm đẹp thêm hình ảnh Huấn Cao với bức chân dung về một tâm hồn trong sáng, nhân phẩm thanh cao một người nghệ sĩ chân chính cùng lẽ sống:sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.
Từng lời văn, chi tiết xen kẽ, đan xen nhau cùng nhau tạo nên nét đẹp của Huấn Cao. Những vẻ đẹp ấy đã được Nguyễn Tuân tái hiện, làm sáng bật lên trong phần cuối cùng của truyện. Bức tượng đài về nhân vật Huấn Cao được hoàn thiện đầy đủ và trọn vẹn nhất trong cảnh cho chữ. Khoảng khắc khi màn đêm buông xuống, lúc mà con người ta đã muốn chìm sâu vào trạng thái nghỉ ngơi, ko một chút cảm xúc để có thể khơi nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật thì lại chợt xuất hiện bóng dáng của một người đang giương oai diễu võ vẽ ra từng nét chữ đẹp đến mê người. Đã vậy, khoảng thời gian ấy còn như là chiếc đồng hồ luôn nhắc ông rằng " sáng mai HC phải ra pháp trường chịu án chém". Ấy vậy mà, ông vẫn không bận lòng về cái chết đag đón đợi mình. Ông vẫn miệt mài, say sưa sáng tạo cái đẹp trên miền đất chết. Khí phách và tài năng ấy lại một lần nữa được tái hiện nhưng với một cách rất lạ và rất khác "Một người tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván". Trong ko gian nơi "buồng giam tối tăm, ẩm thấp, bẩn thỉu,trên tường thì đầy mạng nhện, dưới đất thì bừa bãi phân chuột, phân gián", một ko gian ko hề phù hợp với cảnh cho chữ nhưng ông vẫn làm nên được một tác phẩm tuyệt vời. Điều đó cho thấy,viết chữ chỉ là thú vui tao nhã,  thanh tao of những bậc danh sĩ thời xưa. Chính vì lẽ đó, HC đã chấp nhận cho chữ VQN bởi ông cũng ko còn time và sự lựa chợn nào khác. Ko chỉ có thế, ta còn thấy ở đây, vị thế của con ng bị đảo lộn. Trong hoàn cảnh cái chết đag cận kề thì người sắp phải rời xa thế trần là HC lại đường hoàng, đĩnh đạc "dâm tô từng nét chữ trên vuông lụa trắng", những nét chữ "ngay ngắn, vuông vắn, tưới tắn, nó nói lên cái hoài bão tung hoành of một đời con người". Ngược lại, VQN thì "khúm núm, cất những đồng tiền kẽm", và thầy thơ lại thì "gầy gò, tay run run bưng chậu mực". làm rõ lên sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối: màn đêm bao trùm cả nhà giam, chỉ có ánh sáng tỏa ra từ bó đuốc, đối lập tương phản giữa cái đẹp, cái thiện, cái cao cả với cái xấu, cái dơ bẩn, cái thấp hèn. Thế nhưng, HC lại ko có một chút mảy may hay bận lòng đến cái chết of sáng mai, ông vẫn say sưa tạo ra cái đẹp để lại cho đời. Đặc biệt hơn nữa là HC ko chỉ tặng cho VQN những nét chữ đáng quí mà còn dành cho VQN những lời khuyên đầy giá trị. Tấm lòng của ông cũng được thể hiện qua lời khuyên viên quản ngục nên thay đổi chỗ ở, đổi nghề, đánh thức lương tâm, bản tính lương thiện vốn có ở viên quản ngục. Chính nhờ có những con người như HC đã tác động và lam thay đổi VQN. Câu nói cuối cùng of VQN "kẻ mê muội này xin bái lĩnh" đã tạo nên một kết thúc mở cho tác phẩm. Nó gợi cho ng đọc suy nghĩ rằng VQN sẽ có sự thay đổi lơn đc thể hiện qua dụng ý và khát vọng of NT: cái đẹp sẽ trường tồn và chiến thắng tất cả, cái thiện nó có sức lan tỏa và cảm hóa đc những con ng trót đi lầm đường lạc lối. Qua cảnh tượng cho chữ 'xưa nay chưa từng có", đã tô đầm hình ảnh HC với tấm lòng, khí phách và thậm chí nó còn thấm đậm nước mắt đầy thương cảm of người đọc với vẻ đẹp nhân cách cao thượng sáng ngời of 1 con ng tài hoa.
Đọc xong tác phẩm "chữ ng tử tù", ta ko thể ko khâm phục và quí trọng nhân vật HC. Một con người lúc nào cũng tỏa ra khí chất cao cao tại thượng mà thiện lương, trong sáng
chỉ xem thường mọi thứ vật chất phù phiếm chứ ko khinh thường những con người bần cùng, chất phác trong xã hội. Đối với ông, nhân cách con người mới là điều quan trọng nhất. Sống là phải biết đối nhân xử thế, sống đẹp, sống có đạo đức mà ko hổ thẹn với lòng mình. Ko phải thể hiện ra ngoài tấm lòng nhân hậu của mình mà bên trong tâm hồn thì rỗng tuếch, đầy những toang tính, mưu mô. Lúc cận kề với khó khăn thì lo sợ, làm điều sai trái với lương tâm của mình. HC đã dạy cho chúng ta bài học về chân, thiện, mĩ trong nhân gian để sống sao cho đúng vs danh xưng mà một con người của mình. Làm người thì phải sống cho ra người.
Với việc sử dụng khéo léo các biện pháp nghệ thuật đặc trưng, tiêu biểu như bút pháp lãng mạn lí tưởng hóa, nghệ thuật lấy xa tả gần cùng nghệ thuật đòn bẩy – đặt Huấn Cao trong mối tương quan với các nhân vật khác để rồi từ đó Nguyễn Tuân đã biến nhân vật của mình thành một vì sao tỏa sáng nơi tù ngục. Từ đó, nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử of cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước.
Cuối cùng, tác giả muốn thể hiện thái độ ngợi ca, trân trọng, yêu mến, có phần nuối tiếc về hình tượng nhân vật này. Đồng thời đó cũng là biểu hiện của lòng yêu nước thầm kín và tinh thần dân tộc sâu sắc. Đặc biệt, cái mà nhà văn muốn hướng đến tất cả mọi người là quan niệm thẩm mĩ: cái tài đi liền với cái tâm sẽ tạo nên một nhân cách, một tâm hồn, một tấm lòng cao đẹp và khẳng định cái thiện và cái đẹp luôn song hành cùng nhau, không thể tách rời.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: