Thành phố bị lãng quên

r/nosleep #nosleep
u/Malmto (6.1k points - x5 silvers - x7 golds - x2 platinums)
Đã có ai nghe nói tới thành phố này chưa?! Dường như chẳng có ai nhớ tới nó và thứ gì đó kinh hoàng có lẽ đã xảy ra ở đây.

Rõ ràng là có một thành phố ở phía bắc Thuỵ Điển mang tên Korona, nhưng bằng cách nào đó tất cả chúng ta đều lãng quên nó. Tôi là một sĩ quan cảnh sát làm việc tại Kalix, một khu đô thị rất gần với nơi mà thành phố Korona đã mất từng tồn tại. Tại nơi đó, giờ chỉ có một cánh rừng rậm rạp, không có bảng biển tên gọi của thành phố nữa, nhưng những chi tiết rõ ràng có liên quan đến gia đình tôi khiến tôi tin chắc nơi này thực sự có thật.

Cả thế giới chỉ là đã lãng quên nó thôi... Tôi không thể tưởng tượng được bằng cách nào và tại sao, chỉ có thể đưa ra kết luận như vậy. Đối với tôi thì tất cả mọi việc bắt đầu khi hai gã nhặt việt quất người Romania tới văn phòng nhỏ của tôi, báo cáo về việc họ tìm thấy thứ gì đó rất sâu trong cánh rừng. Họ không rành tiếng Thuỵ Điển hay tiếng Anh để giải thích họ đã tìm thấy những gì, nhưng rõ ràng nó thực sự làm họ phát hoảng. Theo như tôi hiểu, hẳn là có liên quan đến xác người. Cuối cùng, sau khi mang theo một người phiên dịch ở thị trấn kế bên đi cùng, sự thật được tiết lộ: họ đã vấp vào xác một đứa trẻ khoảng dưới 10 tuổi.

Họ dẫn tôi và hai đồng nghiệp - cùng với một đội cứu thương - tới địa điểm mà họ tìm thấy cái xác. Mặt trời đã khuất phía sau màn sương mù dày đặc khi chúng tôi đến nơi. Tôi châm một điếu thuốc khi chúng tôi rẽ từ đường chính để đi vào cánh rừng, nơi đứa trẻ được phát hiện. Tôi cảm thấy có chút khó chịu khi phải đương đầu với xác một đứa bé, nhưng tôi cũng từng xử lý những trường hợp tương tự thế này trước đây rồi - vài vụ tai nạn xe hơi - và cũng không bị ảnh hưởng gì lắm cho tới nay. Công việc thôi mà, tôi nghĩ.

Hai gã người Romania dừng lại khi chúng tôi tới gần và từ chối đi tiếp. Sự sợ hãi ánh lên trong ánh mắt họ còn hơn cả những gì tôi có thể tưởng tượng trong một hoàn cảnh căng thẳng như này. Một trong hai cộng sự của tôi ở lại với họ, còn chúng tôi thì tiếp tục tiến lên. Chúng tôi sớm gặp phải một tảng đá khổng lồ, tảng đá này đã được những dải băng đặt ở đó từ thời kỷ băng hà còn bao phủ Châu Âu. Đồng nghiệp của tôi đi quanh đó và vài phút sau anh chạy lại, mặt mũi nhợt nhạt như vừa gặp phải quỷ dữ. Anh gập người, nôn ngay trước mặt tôi.

"Nó..." anh ta nói. "Nó ở bên kia kìa... mẹ kiếp."

Tôi tiến đến kiểm tra cùng với nhân viên y tế mà không hỏi thêm gì. Những gì chúng tôi tìm thấy phía sau tảng đá... thật sự không tự nhiên chút nào. Một nửa đứa trẻ - một bé gái tóc vàng - hợp nhất với tảng đá, như thể nó là một bóng ma đang đi xuyên qua đấy thì bất thần biến lại thành người trước khi hoàn toàn thoát ra khỏi tảng đá. Hoặc, như đồng nghiệp của tôi nhận xét, như thể đứa bé đã dịch chuyển tức thời vào đúng tảng đá. Đứa bé đầy đau đớn, cặp mắt chết chóc nhìn chằm chằm vào cánh rừng, như thể muốn kể một thảm kịch nào đó mà chẳng ai biết tới, với những người còn sống. Những nhân viên y tế nhanh chóng lảng tránh ánh mắt của đứa bé trong yên lặng, kinh hoàng bởi định mệnh mà cô bé phải chịu, nhưng tôi thì chẳng thể nào nhìn ra chỗ khác được. Tôi chưa bao giờ là một người sùng đạo, nhưng trải nghiệm này khiến tôi nghi ngờ tất cả mọi thứ mình từng tin tưởng.

Và tôi không chỉ muốn nói tới cái chết bị thảm mà cô bé này phải hứng chịu, nửa người bị nhấn chìm trong tảng đá... Có điều gì đó về cô bé này nữa. Thứ gì đó khiến tôi cảm thấy bên trong mình hoàn toàn trống rỗng, như thể một phần trong linh hồn tôi đã biến đi, để lại một khoảng trống trong tim, và rồi khoảng trống đó nhanh chóng bị lấp đầy bằng nỗi khổ đau tôi chưa từng gặp bao giờ. Đó là một cảm giác kinh khủng, và còn tồi tệ hơn khi một phần nhỏ trong tôi nhận ra cô bé. Tôi chẳng thể nhớ rõ nữa... gương mặt cô bé giống như một ký ức mơ hồ trong một giấc mơ đã gần như bị quên lãng.

Chúng tôi tụ tập lại và bắt đầu nói chuyện, cố gắng hiểu chuyện gì đang diễn ra nhưng không được, những nhân viên y tế thì đang tiếp cận cái xác. Tôi cố gắng tập trung vào sự thật khi chúng tôi điều tra hiện trường. Cô bé mặc một chiếc áo khoác màu hồng. Chúng tôi tìm thấy một bông hoa kỳ lạ trong một bên túi cô bé - màu sắc của nó thật khác lạ và gợi tôi liên tưởng đến phần cánh của những con bọ - và một thẻ thư viện màu vàng với dòng chữ đánh đố chúng tôi. "Thư viện Korona."

Có cả tên của cô bé trên tấm thẻ nữa. Khi thấy cái tên đó, cả thế giới của tôi chao đảo. "Isabella Lexelius", viết tay, nét chữ con gái.

"Đó chẳng phải họ của ngài sao, ngài sĩ quan?" Đồng nghiệp của tôi hỏi.

"Đúng... đúng thế..." Tôi không biết phải nói hay nghĩ gì.

"Ơ, thế ông có biết con bé không?"

"Tôi... tôi không biết... không... không, tôi chưa bao giờ gặp con bé trước đây cả. Chắc là trùng hợp thôi."

"Trùng hợp kinh khủng luôn đó, thưa ngài."

Tôi không đáp lời.

"Có thứ gì đó trên đấy nữa này," một trong những nhân viên y tế nói.

Có một cuốn sổ trên đám rêu dính máu bên dưới cô bé. Hẳn nó đã rơi xuống khỏi bàn tay đang khẽ đung đưa bên trên. Tôi nhặt lên, mở ra đọc. Những trang giấy đầy các con chữ nhỏ xíu, được viết bởi một kiểu chữ viết tay khác với chữ của cô bé.

"Thưa ngài!" một trong những nhân viên y tế nói. "Chúng ta phải mang vài vật dụng tới để cắt cô bé ra."

"Ừ." Tôi lơ đãng đáp.

"Còn nữa ạ," nhân viên y tế nói.

Tôi đặt cuốn sổ vào trong túi chứa bằng chứng. "Gì vậy?"

"Có quá nhiều máu." Nhân viên y tế chỉ xuống mặt đất.

"Ý cậu là gì khi nói có quá nhiều máu?" Tôi hỏi.

"Bên dưới tảng đá, thưa ngài," anh ta giải thích. "Không thể chỉ có máu của cô bé chảy ra được."

Một giây im lặng rồi tôi nói.

"Chúng ta phải trở lại đây với những dụng cụ tốt hơn."

Hôm sau, chúng tôi đã chuyển được phần thân của cô bé ra khỏi tảng đá và mang về nhà xác để khám nghiệm. Chúng tôi cũng cố gắng dùng cần trục để cẩu tảng đá, nhưng nó không hề nhúc nhích. Thay vào đó, chúng tôi đào một cái hố bên dưới, nhưng cũng chẳng tìm thấy bất kì phần thân thể nào. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là thu thập nhiều mẫu máu nhất có thể.

Trong suốt thời gian giám định cái xác, tôi đã đọc cuốn sổ ghi chép. Nó kể một câu chuyện về Korona. Tôi nghĩ đây chỉ là câu chuyện hư cấu của một gã loạn trí đã giết chết bé gái này - cho đến vài tuần trước, khi phòng giám định pháp y gọi điện cho tôi.

Tôi vẫn không thể tin nổi nhưng họ bảo không còn cách giải thích nào khác. Họ đã kiểm tra DNA của đứa bé và so sánh với tôi, bởi vì tên họ của con bé. Đó là ý tưởng của tôi vì tôi không muốn ai nghi ngờ gì mình. Chúng tôi chẳng nghĩ nó sẽ tiết lộ ra được điều gì đâu, nhưng không... Bé gái khoảng 10 tuổi có tên Isabella này, chính là con gái tôi. Tôi chắc chắn chuyện này là không thể xảy ra được. 10 năm trước tôi sống cùng vợ cũ, tôi chưa bao giờ lừa dối em bất cứ lần nào, và chắc chắn chúng tôi không hề có con. Chúng tôi đã chung sống với nhau khoảng 5 năm, vậy nên tôi sẽ biết nếu như thời điểm đó chúng tôi có em bé. Và tất nhiên phần kiểm tra DNA cũng chẳng có nhầm lẫn nào cả.

Bên dưới đây là những gì được viết trong cuốn sổ. Tôi gõ ra đây với hy vọng biết đâu có ai đó nhớ tới thành phố Korona hoặc đã từng sống tại đó. Xin hãy liên lạc với tôi nếu bạn có bất cứ thông tin gì.

Đây là nọi dung bên trong cuốn sổ:

Tên tôi là Helena Fredriksson. 5 năm trước tôi là một người hoàn toàn khác. Hồi đó, tôi trẻ hơn, không phải chỉ về thể xác, mà cả về tâm hồn nữa. Tôi có niềm vui trong cuộc sống, có cả hy vọng lẫn ước mơ. Bây giờ tất cả đã tan biến... tôi không có đủ thời gian để viết hết nhưng tôi sẽ cố gắng giải thích những gì đã xảy ra với chúng tôi - với toàn bộ dân chúng ở đây, chi tiết nhất có thể.

"Sự kiện" - là từ mà chúng tôi dùng để gọi nó - xảy ra vào ngày 7 tháng 9 năm 2013. Tôi chỉ ghé Korona 1 ngày để đưa cháu gái của tôi - Isabella - tới lễ khai trương của The Red Grove - công viên giải trí mới của thành phố. Đây là công viên lớn nhất Thuỵ Điển, và Isabella đã khẩn nài bố mẹ đưa tới lễ khai trương, nhưng vì cả hai đều bận việc không đi được, thế nên họ nhờ tôi tới đưa con bé đi. Tôi là người duy nhất họ tin tưởng khi có việc cần giúp đỡ với bé Isabella. Sau những gì đã xảy ra, tôi ước mình đã không ở trong tình thế này.

Chúng tôi đến nơi khá sớm, vài tiếng trước giờ mở cửa, vậy nên không cần phải xếp hàng cả ngày trời để được vào bên trong. Thời tiết thật tuyệt. Trước đó một chút trời đổ mưa nên tôi hơi lo lắng, nhưng khi vào thành phố thì thậm chí chẳng còn lấy một gợn mây.

Isabella cứ huyên thuyên không ngừng rằng chúng tôi sẽ được chơi vui thế nào, và nhìn con bé hạnh phúc tim tôi không thể không cảm thấy ấm áp. Mất khá thời gian mới tới được công viên giải trí vì một trong những tuyến phố chính bị chặn lại do một cuộc diễu hành bên quân đội. Chuyện này không phiền chúng tôi lắm, thậm chí còn làm tăng thêm bầu không khí lễ hội nữa. Để tránh đoàn diễu binh, chúng tôi bắt xe buýt tới trung tâm thành phố, quảng trường Freyja, rồi từ đó đi tàu điện ngầm tới cụm thương mại Yellow Neutral - toà nhà chọc trời cao nhất Thuỵ Điển. Từ đó đi bộ tới The Red Grove khá ổn.

Đã có rất đông người ở đó. Hoá ra còn có nhiều người đi tới đây bằng phà dưới sông mà tôi chẳng biết. Thế này nghĩa là, rốt cuộc thì chúng tôi vẫn phải xếp hàng. Isabella chẳng bận tâm lắm, nhưng tôi biết con bé sẽ sớm thấy đói bụng, và tôi lo rằng điều này sẽ phá hỏng tâm trạng của nó. May thay, có một người đàn ông bán xúc xích đang đẩy xe dọc theo đoàn người. Tôi mua xúc xích và soda cho Isabella. Bố mẹ con bé không thích việc tôi mua đồ ăn vớ vẩn cho nó, nhưng một ngày như này chắc họ sẽ hiểu thôi. Người đàn ông còn bán những quả bóng bay màu đỏ. Isabella muốn có một trái. Tôi cố gắng nói cho con bé hiểu là chúng tôi sẽ phải mang theo nó suốt cả ngày, và trong công viên còn có nhiều bóng hơn, nhưng con bé không chịu. Lưỡng lự một hồi, cuối cùng tôi cũng mua cho nó một quả.

Lúc này, chẳng ai hay biết cả cuộc đời của họ chuẩn bị thay đổi ngay tức khắc.

Isabella bất cẩn làm tuột quả bóng. Tôi lo rằng con bé sẽ buồn, nhưng không có chuyện gì cả. Chúng tôi nhìn quả bóng dần bay lên trên không trung và bị gió cuốn đi. Rất nhanh, quả bóng chẳng còn lại gì ngoài một chấm đỏ trên nền trời xanh bao la. Rồi, đột nhiên, nó biến mất.

"Nó bay đi đâu rồi?" Isabella hỏi.

Tôi không giải thích được. Nó chỉ vừa biến mất.

"Dì không biết," tôi nói. "Chắc nó nổ rồi."

Nhưng có một cảm giác không thoải mái mà tôi không lý giải nối khiến mình nghi ngờ chuyện đó. Rồi chỉ sau vài phút, những cơn gió rất mạnh tới từ mọi hướng. Mùi hương trong gió làm tôi liên tưởng tới thứ gì đó bị thối rữa.

"Eo ơi," Isabella nói, mái tóc trắng dài của con bé tung bay trong gió. "Mùi gì vậy ạ?"

Tôi nắm chặt lấy tay con bé, "Dì không biết," tôi đáp.

Mọi người nhìn quanh đầy bối rối, giọng nói vui vẻ của họ dần chuyển thành lo lắng. Có chuyện gì đó đã xảy ra, nhưng không ai biết đó là gì. Tiếng còi hú vang lên từ xa, dường như tới từ cụm thương mại.

"Ôi lạy chúa," một người phụ nữ nói rồi chỉ vào toà tháp chọc trời. "Phần đỉnh của toà nhà đã biến mất!"

Không dễ nhận thấy, nhưng bà ta nói đúng. Phần đỉnh của toà nhà đã biến mất, như thể bị cắt phăng đi bằng một con dao. Isabella quá thấp nên không nhìn thấy gì, nhưng con bé nhận ra có gì đó không ổn trên gương mặt của mọi người và trở nên rất lo lắng.

"Dì nghĩ chúng ta nên đi khỏi đây," tôi nói, hành động theo bản năng. "Ở đây không an toàn."

Isabella oà khóc. "Nhưng còn lễ khai trương, chúng ta không..."

"Chúng ta sẽ trở lại sau, cháu yêu," tôi nói khi đưa con bé ra khỏi đám đông. Một trong những chiếc phà chuẩn bị rời bến. Chúng tôi nhanh chóng bước lên. Vài người khác theo sau chúng tôi, nhưng hầu hết mọi người đều đứng lại, với hy vọng mọi việc sớm sáng tỏ. Isabella khóc lóc nhưng không hề giận dỗi. Khi chiếc phà chầm chậm rời khỏi bến sông, một chấn động bùng nổ từ đám đông trên đất liền. Toi không thấy được chuyện gì xảy ra nhưng đột nhiên mọi người gào thét trong sợ hãi và cố gắng chạy xuống nước. Rõ ràng họ vừa trốn thoát khỏi thứ gì đó nhưng tôi không nhìn thấy được. Tất cả những gì tôi biết là mọi người dẫm đạp lên nhau khi cố gắng nhảy xuống sông và bơi đi. Đó là một cảnh tưởng kinh khủng, và tôi lấy làm mừng vì Isabella không đủ cao để nhìn qua khỏi tay vịn của chiếc phà.

Tiếp đến, những tiếng còi của hệ thống báo động khẩn cấp bắt đầu hú lên những âm thanh kinh khủng cho thảm hoạ sắp xảy đến. Mọi người đều hỏi những câu không ai trả lời được. Hầu hết đều nghĩ rằng chúng tôi bị khủng bố hoặc đám người Nga tấn công.

Tôi gọi điện cho chị mình nhưng không có sóng. Tôi cố thử bằng điện thoại của Isabella nhưng cũng vậy. Sau đó tôi phát hiện ra rằng, chẳng ai có sóng điện thoại cả. Ở phía bên kia của dòng sông, mọi người đang nhìn ra ngoài cửa sổ, cố xem xem chuyện gì đang xảy ra, nhưng những gì họ thấy chỉ là phần chóp của toà nhà Yellow Neutral bị cắt đi một cách bất thường.

"Nhìn kìa," Isabella nói và chỉ lên trời. "Cháu chưa bao giờ nhìn thấy một con chim lớn đến vậy!"

Một sinh vật trông như con chim khổng lồ chao lượn trên đầu chúng tôi. Nó đen tuyền như hắc ín. Dù không chắc lắm nhưng nó có vẻ cũng rất bối rối khi nhìn thấy chúng tôi, giống như việc chúng tôi bối rối khi nhìn thấy nó vậy. Nó liệng trên khu trung tâm thành phố vài vòng rồi bay đi mất. Việc nhìn thấy một con chim khổng lồ hay là thứ gì đó, cũng khiến sự bối rối của chúng tôi trở thành sợ hãi. Chúng tôi vẫn không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng chúng tôi biết rằng việc này không liên quan gì đến khủng bố hay lực lượng nước ngoài. Thực sự đó là một thứ gì đó khác, thứ gì đó không thể tin được và cũng không thể chối bỏ được.

Chiếc phà thả chúng tôi ở khúc gần quảng trường Freyja. Mọi người dường như đều hoảng sợ dù chẳng ai biết có chuyện gì đã xảy ra cả. Vài người đóng gói đồ đạc để chạy khỏi thành phố, những người khác thì đang chạy đi đâu đó - có lẽ tới chỗ người thân - nhưng nhiều nhất là đám đông vây quanh các sĩ quan cảnh sát, những nhân viên lái xe hay người trong quân đội từ đoàn diễu hành để tìm kiếm thông tin. Nhưng họ chỉ nhận được những câu trả lời giống nhau lặp đi lặp lại, gào hét để cố át đi tiếng còi hú từ hệ thống báo động khẩn cấp rằng: chẳng ai biết chuyện gì xảy ra cả và họ cần phải trở về nhà, nghe radio để biết thêm tin tức.

"Chúng tôi nghe radio làm sao được khi bị cúp điện vậy?!" Một bà cụ lên tiếng. "Nhìn quanh mà xem, chẳng có điện mà!"

Bà ta nói đúng.

"Về nhà và đóng cửa sổ lại rồi đợi tới khi có điện," một viên cảnh sát nói."Chúng tôi không biết có chuyện gì đang diễn ra nhưng an toàn nhất là cứ làm theo đúng quy trình..."

Anh ta bị ngắt lời bởi một thứ xảy ra cách đó vài mét. Người đầu tiên cố gắng rời khỏi thành phố - một người đàn ông cưỡi trên một chiếc xe máy ồn ào - đã quay trở lại. Tôi đang bế Isabella, an ủi con bé thì nghe anh ta lên tiếng nói với mọi người. Tôi xuyên qua đám đông để tới gần hơn. Anh ta bước vào giữa quảng trường và trèo lên phần chân bức tượng Freyja. Vài người tin anh ta, nhưng những người đã trông thấy sinh vật kỳ lạ trên trời kia thì biết chắc chắn anh ta đang nói sự thật, dù rằng thật bất khả thi.

"Chẳng còn đường thoát nữa!" Người đàn ông hét lên. "Đường chính đã bị cắt bỏ tại rìa thành phố và... chỉ còn cánh rừng thôi. Tôi không thể giải thích được. Tôi xin lỗi. Nhưng đó là sự thật. Chúng ta đã bị bao vây bởi một cánh rừng dày đặc và chẳng có con đường nào xung quanh cả."

"Vậy thì đúng rồi," viên cảnh sát kế bên tôi lẩm bẩm, "Lạy Chúa lòng lành, tất cả đều là sự thật."

Tôi hỏi anh ta có ý gì. Đầu tiên, anh không muốn trả lời, nhưng khi nhìn thấy sự bối rối của tôi, cũng như lệ trên cặp mắt ngây thơ của cháu tôi, anh ta quay sang, lặng lẽ nói:

"Trước khi chúng tôi không liên lạc được với trực thăng giám sát cuộc diễu hành, phi công đã nói một thứ không ai hiểu nổi. Anh ta... anh ta đang đâm xuống. Thứ gì đó đã làm hỏng lưỡi rô tơ trên máy bay. Và anh ta nói rằng mọi thứ đã thay đổi... tầm nhìn thay đổi. Trước khi anh ta lao xuống đất và hét lên rằng anh ta đã nhìn thấy cánh rừng ở hướng tây và đại dương ở hướng đông."

Càng nhiều báo cáo đến và tất cả đều kể cùng một câu chuyện: cả thế giới bao quanh thành phố đã được thay thế trong tức khắc. Thành phố vẫn vậy, nhưng bầu trời thì không. Cuối cùng, những tiếng còi hú im bặt, những chiếc xe ngừng bấm còi và những tiếng lộn xộn chói tai cũng biến mất. Một sự im lặng kỳ dị bao trùm cả thành phố. Cảm giác vô cùng không thực.

Tôi không biết điều này có nghĩa là gì. Tôi cố gắng giải thích cho cháu mình nhưng nó chỉ mới 5 tuổi và không thể hiểu nổi. Con bé muốn về nhà với bố mẹ và tôi chẳng biết phải làm sao. Nó đã rất mệt và muốn nghỉ ngơi, vậy nên tôi vào một phòng trọ kế đó thuê phòng ở. Rất sớm thôi nền kinh tế của thành phố sẽ sụp đổ, nhưng trong vài ngày đầu ở thế giới mới toanh không ai biết tới này, mọi người vẫn chấp nhận tiền thanh toán.

Tiếp theo đó là 5 năm thử thách và gian khổ bất tận, một trận chiến không ngừng để sống sót mà chẳng có hy vọng về một sự giúp đỡ hay giải cứu nào. Tất cả bắt đầu vào đêm đầu tiên. Mặt Trời, gần giống với trước kia, nhưng mới hơn và hơi vẻ kì lạ, lặn xuống phía bắc thay vì phía tây, và vào buổi tối, những ngôi sao lạ mọc lên, bao phủ toàn bộ bầu trời. Khi tôi nhìn lên từ ô cửa sổ nhỏ của mình, tôi không cảm thấy sợ hãi mà chỉ có cảm giác lạc lối. Những cảm giác kỳ lạ nhất trong suốt ngần ấy năm chắc hẳn là những nghịch lý lẫn lộn giữa những đường phố quen thuộc và sự nhận thức về việc thay thế hoàn toàn. Tôi nghĩ điều này là một phần lý do tại sao mọi người tập trung ở trung tâm thành phố, tự lừa dối bản thân vào ảo tượng là họ đang ở nhà, dù thẳm sâu bên trong, họ biết, họ không thể trốn thoát được khỏi số phận, khi bị mắc kẹt vào một nơi hoàn toàn không được biết tới.

Sau đó, khi lùi khỏi cửa sổ, tôi nghe thấy những tiếng động. Mọi người la hét, tiếng súng nổ, tiếng xe lái đi điên cuồng xuyên qua phố mà chẳng biết phải đi đâu, và thỉnh thoảng là những tiếng hú kỳ dị khiến tôi sợ lạnh toát người. Tôi chưa bao giờ thấy bất cứ thứ gì xảy ra đêm đó, nhưng nó đã thay đổi toàn bộ dân số - hơn 2 triệu người - mãi mãi.

Tôi đóng cửa sổ và trốn sau giường với Isabella. Con bé khóc gọi mẹ, nhưng tôi cố gắng giữ tay trên chiếc miệng run run của nó.

Đêm tiếp theo yên tĩnh hơn, có lẽ bởi không ai dám ra ngoài. Trong suốt những ngày này, tôi sớm nhận ra, mối nguy không đến từ cánh rừng bí mật ngoài kia, mà nó tới từ chính những con người đang ở đây. Rất khó để biết được có bao nhiêu tội ác đã diễn ra, nhưng chính mắt tôi trông thấy - ăn trộm, cướp bóc và thậm chí là giết người - tôi cho rằng tỉ lệ tội phạm đã tăng lên rất nhiều. Tuy vậy, đây vẫn chưa phải là một tình trạng vô chính phủ hoàn toàn. Cảnh sát và vài lực lượng quân đội trong thành phố ở cuộc diễu hành lúc trước đã giữ được một số quân lệnh sống còn cho dân chúng. Bởi vì người bình thường không có súng, cảnh sát và quân đội sẽ không bị đe doạ bởi phần đa dân chúng.

Một người bước lên làm thủ lĩnh - chính là người đàn ông đi chiếc xe máy nọ - và sau vài tuần, mọi người dường như hợp tác khá hoà bình. Thức ăn còn lại trong các cửa hàng được phân phối khá công bằng và mọi người có thể chấp nhận việc đó không ngần ngại, kể cả tôi nữa.

Các nhà khoa học từng làm việc trong các trường đại học vào lúc đó không thể lý giải được chuyện gì đã xảy ra, nhưng với sự giúp đỡ của hàng trăm công dân, họ cố gắng xây dựng một lò phản ứng hạt nhân nho nhỏ nhằm khôi phục điện năng cho thành phố. Tôi cũng giúp đỡ khá nhiều. Tôi không biết nhiều về vật lý hạt nhân nhưng tôi cố gắng làm tất cả những gì có thể. Những gì chúng tôi làm được mới tuyệt làm sao, và sau những chuyện tồi tệ thì một cảm giác tự hào dần lớn trong ngực tôi. Dù rằng, cuộc sống của chúng tôi ở thế giới này thật không hề đơn giản. Rất khó khăn là đằng khác.

Bên cạnh vấn đề cá nhân của mình là phải giữ cho Isabella khoẻ mạnh và an toàn - tôi cũng khá thành công mặc dù con bé chẳng bao giờ cảm thấy thực sự an toàn cả - thì còn có ba vấn đề chính dần trở nên nghiêm trọng hơn mỗi ngày.

Vấn đề đầu tiên là tình trạng đồ ăn và nước uống. Vài người cố gắng trồng khoai tây và lúa mì ngoài công việc hoặc trên sân bóng, nhưng thực sự vẫn không đủ. Chúng tôi đang dần thiếu nước uống và đồ ăn. Trời thỉnh thoảng có mưa nhưng rất ít người chịu uống nước mưa vì lo ngại vấn đề an toàn. Để đánh bại vấn đề này và tìm ra giải pháp cho những vấn đề khác nữa - một đội thám hiểm được cử đến khám phá khu rừng. Về cơ bản thì tất cả đều kết thúc giống nhau, không ai trở về cả. Chỉ có một hoặc hai lần 8 đó cố gắng quay trở lại thành phố, nhưng họ không còn là chính mình nữa. Như thể có thứ gì đó trong khu rừng đã bắt giữ linh hồn họ và thả cho thể xác quay trở lại, không có lấy một vết xước.

Vấn đề thứ hai là tự nhiên. Vài tháng đầu nó đã tha cho chúng tôi nhưng ngay khi chúng tôi có điện, nó đã xuất hiện. Mãi về sau tôi mới nhìn thấy tận mắt nhưng - thường thì là ngẫu nhiên - những sinh vật kỳ bí tiến vào thành phố. Đôi khi chúng chỉ bước qua, và không bao giờ quay trở lại. Một nữ cảnh sát - một trong những người mới được tuyển dụng - kể với tôi rằng cô ấy đã đi theo một đứa trẻ trần truồng màu xanh khi nó bước vào thành phố một cách nghiêm khi, và sau đó lại bỏ đi một lần nữa.

Những lần khác thì là đám quái vật mơ hồ trút sự tàn phá của chúng lên trên phố, giết nhiều người nhất có thể trước khi quay trở về nơi chúng xuất hiện.

Một lần - đây là chuyện tôi thực sự chứng kiến - một con rết khổng lồ, màu trắng tinh với hàng trăm đôi mắt đỏ rực, đột nhiên xuất hiện từ dưới cống. Nó nhanh chóng trèo lên toà nhà - như thể nó biết chắc mình đang làm gì - và chui vào một trong những chiếc cửa sổ trên tầng thượng. Tiếp đến là tiếng thét từ mọi người bên trong toà nhà. Vài người trốn thoát được, nhưng những người còn lại bị xé vụn. Chỉ sau 5 phút, con rết thoát khỏi toà nhà qua lối chính, với những đốt thân trắng nhuốm máu, và nó quay trở lại dưới ống cống.

Những đợt tấn công này làm tăng dần nỗi sợ hãi và hoảng loạn trong chúng tôi. Dù rằng nó không thường xuyên xảy ra, nhưng cũng đủ để khiến mọi người luôn căng thẳng.

Vấn đề thứ ba cũng không được để ý cho lắm cho tới gần đây. Đó là vấn đề về sức khoẻ. Không có dấu hiệu để nhận biết một người có nhiễm bệnh hay không nhưng có vài người - khoảng trên dưới 1% dân số đã bị ốm. Căn bệnh khởi phát bằng một cơn sốt, và dần dần chuyển thành những biến đổi như một cơn ác mộng tấn công con người một cách ngẫu nhiên. Hầu hết những đột biến này khiến cho nạn nhân tàn tật và biến dạng, nhưng thỉnh thoảng - dù là rất hiếm - những nạn nhân cũng phát triển các đặc tính dường như rất tốt cho họ. Trường hợp biến đổi cực độ nhất mà tôi nhìn thấy là một cô gái trẻ mọc một con mắt thứ 3 ở giữa trán. Đồng tử của con mắt này lấp lánh sắc màu kỳ diệu và cô gái khẳng định rằng cô có thể dùng con mắt thứ ba để nhìn được cảm xúc của những người khác.

Vào giai đoạn đầu của thời kỳ khủng hoảng sức khoẻ này, những người bị bệnh bị đối xử cực kỳ tệ hại, như thể họ là những con quái vật từ khu rừng. Sự đối đãi này trở nên tồi tệ hơn khi họ nhận thấy những sinh vật kì dị từ bên ngoài không bao giờ tấn công người bệnh. Lúc đó, một đám đông tập trung ở quảng trường Freyja và đòi đuổi những người ốm ra khỏi thành phố. Thật may quân đội đã ngăn chặn việc này.

Tuy nhiên, cuối cùng thì những người ốm vẫn bị đưa vào khu rừng. Dù rằng không phải đuổi họ đi mà chỉ khiến cho sự miễn dịch của họ với tự nhiên trở nên hữu dụng. Chuyện này cuối cùng lại vô cùng thành công khi giải quyết được vấn đề về thực phẩm và nước uống. Họ có thể khám phá xung quanh và tìm được rau quả, trái cây cùng những động vật có vú nhỏ mà họ săn được.

Đó là một bước ngoặt cho chúng tôi. Và sau đó may mắn lại tới. Tất cả những nỗ lực đánh bắt hải sản trước giờ đều thất bại, rồi đột nhiên cá xuất hiện khắp mọi nơi trên sông. Chúng tôi sớm nhận ra có những giai đoạn khác nhau khi cá ở xa trên biển hoặc gần bờ. Tuy nhiên, khi chúng tiến lại gần bờ thì những cơn báo kỳ bí màu tím sẽ kéo dài hàng tuần phá huỷ thành phố. Và chúng tôi vẫn sống sót. Tuy rằng nhiều người thì không thế, nhưng cuộc sống vẫn tồn tại được. Cuối cùng, chúng tôi cũng chiếm ưu thế.

Trong suốt 5 năm tại đó, thảm hoạ tai ương không có nhiều và toàn bộ sự tập trung của chúng tôi chỉ để tồn tại khiến chúng tôi không còn nghĩ tới việc nhớ nhà nữa. Kể cả Isabella cũng ngày càng ít nhắc đến bố mẹ khi dần lớn lên. Thời gian qua đi, mọi người đều quen với tình trạng kỳ dị và họ tìm thấy bản thân mình trở về tháng 7 năm 2013. Rất nhiều người tự vẫn, nhưng hầu hết mọi người lựa chọn tiếp tục sống trên vùng đất bí ẩn này.

Tuy nhiên, có hai sự kiện đã thay đổi mọi thứ. Đầu tiên, một việc đã xảy ra đối với đội thám hiểm ngoài biển. Hàng trăm người, hầu hết là đàn ông, quyết định khám phá đại dương với một trong những chiếc tàu tuần dương xịn nhất được bỏ neo kế bên thành phố. Có lẽ đây là một khám phá vĩ đại nhất, một cách để tìm ra câu trả lời cho những việc chúng tôi đang mắc kẹt. Điều này truyền cảm hứng cho chúng tôi. Hàng ngàn người trong đó có cả tôi và Isabella đều tập trung để chứng kiến con thuyền chầm chậm ra khơi. Cảm giác thật giống năm năm trước khi chúng tôi đứng đợi công viên khai trương. Chúng tôi đều nhìn chằm chằm vào đường chân trời khi con thuyền có tên Birdo de Espero - Cánh chim hy vọng - nhỏ dần thành một cái chấm bé xíu trước mặt trời. Chúng tôi tưởng tượng cuộc thám hiểm diệu kỳ của họ và trông đợi ngày họ trở về. Nhưng sau đó, có thứ gì đó lớn hơn bất cứ thứ gì chúng tôi từng nhìn thấy, trồi lên khỏi mặt nước và nuốt trọn lấy Cánh chim hy vọng.

Vài người la hét, những người khác bật khóc. Đây là một đòn giáng mạnh cho thành phố. Chỉ biết rằng cứ như vậy - một sinh vật nào đó có thể nuốt trọn toàn bộ con tàu sang trọng bằng một cú đớp - có thể tước đoạt rất nhiều hy vọng về tương lai của rất nhiều người.

Sự kiện tiếp theo thì hoàn toàn khác biệt. Ít nhất có thể nói là một phép màu. Nó xuất hiện chỉ một tháng sau vụ phá huỷ con tàu Cánh chim hy vọng. Một người lính canh trẻ - chỉ khoảng 15 tuổi vào thời điểm chúng tôi biến mất khỏi Trái đất, khám phá ra rằng khi cậu ta đứng ở một điểm cố định tại quảng trường Freyja, cậu ta có thể bắt được một trạm phát sóng radio ở thế giới cũ. Trạm phát có tên là Synthwave Mix và hầu hết chỉ phát những bản nhạc kiểu này. Ngay lập tức hy vọng quay trở lại, nhưng lần này hy vọng hoàn toàn khác so với 5 năm trước chúng tôi tự gây dựng cho mình. Hy vọng sẽ được quay trở về nhà. Những người ở trường đại học điều tra rất kỹ khu vực đó để xác định chính xác địa điểm sóng radio xuất hiện. Họ không thành công cho lắm nhưng không lâu sau họ đã phát hiện chúng phát ra từ trong lòng đất bên dưới quảng trường Freyja.

Khi các nhà khoa học điều tra khu vực này thì những người bình thường xuất hiện rất nhiều. Họ đều mang theo radio hoặc thứ gì đó khác bên mình, giống như lũ trẻ con mang theo những con thú nhồi bông để cảm thấy an toàn, hy vọng có thể mở âm thanh Sythwave Mix này có cảm giác quê nhà đã mất. Tất nhiên, khu vực mà sóng radio có thể bắt được là rất nhỏ và cảnh sát đã phải xua mọi người đi để có chỗ cho các nhà khoa học làm việc. Vài ngày sau, các nhà khoa học đã đặt một bộ loa lớn ở dưới chân bức tượng Freyja và kết nối chúng tới tất cả người nhận để mọi người có thể nghe được trạm phát sóng radio đó.

Ngày và đêm khá thư thái, có chút buồn, nhạc synthetic chơi không ngừng cho toàn thành phố. Mọi người tập trung quanh bức tượng. Họ chẳng còn sợ nguy hiểm khi đêm xuống nữa. Điều này đã trở thành truyền thống mới của thành phố chúng tôi. Cuối ngày tập trung tại bức tượng và ngồi quanh đó như là những con chiên, trong cuộc hành hương của chúng tôi. Mọi người tạp trung không phải vì âm nhạc, mà là bởi nguồn gốc của nó. Vẫn vậy, những gia điệu điện tử sớm trở thành hy vọng và khao khát của chúng tôi. Lúc thì mọi người đứng dậy khiêu vũ. Đôi khi khóc vì một niềm vui sướng cay đắng khó tả. Mặc dù, thứ khiến tất cả chúng tôi câm lặng và tập trung là khi người dẫn chương trình bắt đầu nói gì đó.

Thông thường, họ chỉ nói về âm nhạc mà họ đang phát sóng - hoàn toàn không biết toàn bộ thành phố đang lắng nghe như một thứ tôn giáo - nhưng trong những dịp hiếm hoi, họ nói về thế giới bên ngoài. Vào những lúc đó, cảm giác như trái tim của chúng tôi đã ngừng lại với dự đoán rằng họ sẽ nói điều gì đó về chúng tôi, về những nỗ lực tìm ra nơi mà tất cả chúng tôi đã biến mất và làm cách nào để đưa chúng tôi trở lại? Nhưng không có bất kỳ tin tức nào về chúng tôi, giống như thể họ đã quên hay chưa bao giờ biết về chúng tôi cả. Số phận bi thảm của thành phố Korona không bao giờ xuất hiện. Tuy nhiên, chúng tôi chưa bao giờ từ bỏ niềm tin.

Mất một quãng thời gian dài - và bây giờ tôi đang tiến gần hơn đến hiện tại - nhưng cuối cùng, các nhà khoa học quyết định đào một hố lớn ngay tại nơi mà sóng radio dường như tràn lên trên mặt đất. Đây không phải là nhiệm vụ dễ dàng và an toàn. Công việc diễn ra trong nhiều tuần. Tất cả chúng tôi đều xắn tay vào làm. Không ai thực sự biết chính xác mình đang tìm kiếm gì, chúng tôi chỉ biết rằng đó là một điều gì đó.

Khi chúng tôi chạm đến đáy, nơi tảng đá quá khó có thể đào xuyên qua được, một đống đất bao trùm quảng trường. Nỗ lực của chúng tôi không phải là vô ích, chúng tôi đã phát hiện ra. Ngay bên dưới nơi sóng radio đã được phát lên, có một hố nhỏ trên nền đá. Mọi người được yêu cầu tránh xa khỏi nó trong khi các nhà khoa học tiến hành điều tra. Đầu tiên, họ cố gắng đo độ sâu. Việc này mất một chút thời gian vì thật khó để tìm được sợi dây thừng đủ dài. Cuối cùng, người ta ước tính độ sâu khoảng 700 mét. Tiếp theo, một số thiết bị đã được gửi xuống gắn với phần cuối của sợi dây thừng, và ngạc nhiên là mọi thứ đã được gửi xuống đều bị cái hố nuốt chửng. Tất nhiên, không ai biết thứ đó đi đâu nhưng tất cả chúng tôi đều nghĩ giống nhau. Bằng cách nào đó, nó đã trở về nhà. Đó là một giả thiết hợp lý cho rằng thứ duy nhất thoát ra từ cái lỗ - sóng vô tuyến - đến từ Trái Đất. Chúng tôi đều hân hoan trong khám phá này. Nhiều thí nghiệm đã được thực hiện và mặc dù một số câu hỏi vẫn chưa nhận được câu trả lời đồng thuận - ngay cả giữa các nhà khoa học - liệu rằng cái hố có thực sự là cánh cổng để quay trở lại thế giới của chúng tôi hay không.

Có hai vấn đề lớn cần được giải quyết. Đầu tiên là sự an toàn. Mỗi lần thứ gì đó gắn với sợi dây biến mất ở đáy hố, sợi dây đều bị cắt đứt giống như tòa nhà chọc trời 5 năm trước đó. Điều này có nghĩa là bất cứ ai vào lỗ cũng có thể bị cắt đứt. Tuy nhiên, vấn đề này đã được giải quyết khá sớm. Bằng cách buộc một chiếc máy ảnh vào sợi dây thừng, kết nối với một màn hình phía trên mặt đất, người ta phát hiện ra rằng sợi dây thừng chỉ bị cắt đứt khi bị kéo lại. Miễn là nó không được kéo trở lại, màn hình vẫn nhận được tín hiệu từ máy ảnh. Chiếc máy ảnh này không bao giờ ghi lại bất cứ thứ gì khác ngoài bóng tối của những gì được cho là ở phía bên kia, nhưng vì nó tiếp tục hoạt động cho đến khi sợi dây thừng được kéo lại, điều này dường như không phải là một vấn đề lớn. Cuối cùng thì, trong hoàn cảnh đó, một số vấn đề kỹ thuật đã được dự kiến.

Vấn đề thứ hai là cái hố quá nhỏ để cho người chui xuống. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để mở rộng nó, nhưng nền đất dường như được làm từ một vật liệu không thể bị đào ra bởi bất kỳ thiết bị nào của chúng tôi. Điều này vô cùng khó chịu. Nó làm cho chúng tôi cảm thấy như mình đã đạt đến đích chỉ để khám phá ra rằng mình vẫn không thể vượt qua nó. Cuối cùng, một trong những nhà khoa học nói rằng cô muốn gửi đứa con trai mười tuổi của mình xuống hố. Cậu bé đủ nhỏ để chui vừa vào đó. Điều này đã được tranh luận rộng rãi trong một thời gian khá dài trước khi được phê duyệt. Người mẹ lập luận rằng thành phố Korona không phải là nơi để con trai mình sống, và rằng tất cả các bằng chứng cho thấy lỗ hổng là cách duy nhất để trở về nhà.

Cậu bé rất dũng cảm. Dù biết rằng mình có lẽ sẽ không bao giờ gặp lại người mẹ khốn khổ của mình nhưng nó vẫn tiếp tục. Cậu ta được đưa cho một chiếc bộ đàm và sau một lời tạm biệt đầy nước mắt với mẹ mình, cậu bé bị đẩy xuống hố đen sâu hơn 700 mét. Cậu bé được hướng dẫn nói vào bộ đàm sau khi đến đầu bên kia, xác nhận rằng mình an toàn. Sau khi sợi dây được kéo đi, người mẹ đợi chờ con trai mình thông báo. Tuy nhiên, cậu bé chưa làm điều đó. Trong nhiều tuần, người mẹ ngồi ở rìa hố - dưới sức nóng tàn nhẫn và dưới cơn mưa như trút - gọi đi gọi lại con trai mình bằng bộ đàm. Không ai biết liệu có bất cứ điều gì sai lầm không. Vì không có sóng vô tuyến nào khác được phát ra ngoài Synthwave Mix, có thể sóng radio khác không thể xâm nhập vào thế giới của chúng tôi vì một lý do nào đó. Tuy nhiên, chính quyền cho rằng cái hố quá không an toàn để bất kỳ ai khác chui vào.

Tuy nhiên, điều này không thay đổi suy nghĩ của mọi người. Cái hố này đại diện cho hy vọng thực sự duy nhất mà chúng tôi có thể cảm nhận được trong nhiều năm. Và so với tất cả những điều khủng khiếp trong thế giới này có thể phá hủy chúng tôi bất cứ lúc nào, dễ dàng như thổi một cây nến, thì sự nguy hiểm khi chui qua hố là có vẻ chấp nhận được. Cái hố được bảo vệ bởi cảnh sát, nhưng hầu hết cảnh sát cũng đã chia sẻ ý kiến với tập thể của thành phố rằng chiếc hố là lối thoát duy nhất... không phải cho người lớn, mà là dành cho con cái của chúng tôi.

Và bây giờ tôi đang ngồi đây, trong căn phòng tôi đã trả tiền 5 năm trước, viết những dòng này. Trong vài tuần qua, nhiều phụ huynh đã gửi con cái của họ xuống hố vào ban đêm. Thế giới này thực sự không dành cho chúng. Mặc dù có thể sống sót, nhưng chúng xứng đáng với những gì tốt hơn. Do đó, giống như nhiều người khác, tôi quyết định gửi Isabella về nhà. Khi tôi nói với con bé về điều đó, nó nhìn tôi bằng một đôi mắt tràn đầy hạnh phúc mà tôi chưa từng thấy kể từ khi cả hai bị gửi đến thế giới khủng khiếp, đáng sợ này.

Tôi đã viết về chuyện này cả ngày nay. Đây là chứng ngôn của tôi về những gì đã xảy ra với Korona. Tôi sẽ đưa quyển sổ này cho Isabella. Tôi chắc rằng con bé sẽ có thể đưa nó cho cha mình. Bằng cách nào đó, tôi biết rằng con bé sẽ tìm được đường về nhà với cha mẹ. Chẳng bao lâu sau, trời sẽ tối, và tôi sẽ đưa Isabella đến quảng trường Freyja, một lần cuối.

Tôi xin lỗi vì câu chuyện quá dài!

Helena
____________________
Link Reddit: https://redd.it/a2idn5
____________________
Xem thêm bài dịch của mình tại: https://redditvn.com/user/573348288
Dịch bởi Bùi Thu Vân | https://redditvn.com/write
________________________________
Bài đăng của bạn Bùi Thu Vân trong group:
https://www.facebook.com/groups/redditvietnam/permalink/694862230911182/
https://www.facebook.com/groups/redditvietnam/permalink/696157307448341/

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #tunkun