VỀ CHỦ NGHĨA BÁ QUYỀN VÀ BÀNH TRƯỚNG TRUNG-QUỐC 2
PHẦN HAI
NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA CHỦ NGHĨA BÁ QUYỀN, BÀNH TRƯỚNG TRUNG-QUỐC
Những tham vọng bá quyền và bành trướng xem Trung-quốc là trung tâm của thế giới là cơ sở của mọi chính sách của tâp đoàn phản động trong giới cầm quyền ở Trung-quốc mấy chục năm nay. Đó cũng là trục trung tâm của toàn bộ các quan điểm triết học, kinh tế, các phương thức chính trị và đường lối quốc tế của các thế lực phản động Trung-quốc.
Tháng 9 năm 1959, tại một hội nghị bàn về vấn đề đối ngoại, người đứng đầu Nhà nước Trung-hoa nói: "Chúng ta phải thu phục trái đất. Mục tiêu của chúng ta là cả trái đất".
Đại hội 9 Đảng Cộng sản Trung-quốc họp tháng 4-1969 đã chính thức vạch ra hướng phấn đấu thực hiện yêu cầu chiến lược ổn định và củng cố bên trong, tập hợp lực lượng bên ngoài, tìm cách duy trì, mở rộng ảnh hưởng và vị trí quốc tế, từng bước nhanh chóng làm cho Trung-quốc từ cường quốc châu Á, vươn lên thành cường quốc hạt nhân ngang hàng Xô, Mỹ, có vai trò chi phối thế giới, giành quyền bá chủ thế giới.
Phải chăng, đối với một chính đảng tự xưng là mác-xít-lê-nin-nít, một nhà nước tự cho mình là chuyên chính vô sản - nhà nước xã hội chủ nghĩa, như các nhà lãnh đạo Trung-quốc thường rêu rao, lại có thể có một đường lối chính trị, một chiến lược quốc tế mang bản chất dân tộc chủ nghĩa, sô-vanh nước lớn với tham vọng bành trướng, làm bá chủ thế giới? Thật ra tham vọng bành trướng, mưu đồ thôn tính các nước khác và thiết lập bá quyền của một dân tộc này đối với một dân tộc khác hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa Mác -Lê-nin, với nền chuyên chính vô sản chân chính. Chiến lược đó chỉ có thể là con đẻ của những giai cấp bóc lột, phản động.
I- CƠ SỞ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI CỦA CHỦ NGHĨA BÁ QUYỀN, BÀNH TRƯỚNG TRUNG-QUỐC
Chủ nghĩa bành trướng, tham vọng làm bá chủ từng khu vực, toàn thế giới là thuộc tính của các giai cấp bóc lột khi đã có thế lực. Bất cứ giai cấp bóc lột nào trong lịch sử khi đã có thế lực Nhà nước cũng đều có tham vọng kéo dài biên giới của sự thống trị của mình sang nước khác, các khu vực khác và ra toàn thế giới. Dù đó là giai cấp chủ nô, giai cấp phong kiến hay giai cấp tư sản đế quốc cũng đều muốn áp đặt sự thống trị ra ngoài phạm vi dân tộc chúng. Khác chăng chỉ là khả năng của giai cấp ấy và do đó là những quy mô, thủ đoạn của chúng.
Giai cấp chủ nô thành La-mã đã tiến hành hàng loạt các cuộc chiến tranh nhằm chinh phục các nước khác và lập nên đế quốc La-mã. Ở thế kỷ thứ 13 các thế lực phong kiến Nguyên-Mông đã bành trướng và thôn tính hàng loạt nước ở châu Âu và châu Á. Đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa, cuộc chiến tranh của Na-pô-lê-ông đã là một cuộc chiến tranh nhằm mục đích xâm lược có tính thế giới.
Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản độc quyền. Sự xuất hiện những tổ chức độc quyền, những công ty đa quốc gia, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước v.v.. là hệ quả của sự phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa tương ứng với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất đã xã hội hoá đến cao độ khiến cho các tổ chức độc quyền có khả năng khống chế toàn bộ đời sống kinh tế trong một nước và của nhiều nước.
Tiềm lực kinh tế và quân sự đồ sộ của các nước đế quốc là cơ sở vật chất của chiến lược toàn cầu của chúng, một chiến lược nhằm chinh phục toàn thế giới.
Chủ nghĩa phát-xít Đức, Ý, Nhật là thế lực đế quốc chủ nghĩa thực hành chiến lược toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai với mưu đồ tiêu diệt nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên là Liên-xô, đè bẹp các nước đế quốc chủ nghĩa khác để rồi thống trị toàn thế giới. Nhưng thế lực phát-xít đã bị đánh bại. Chiến lược tập thể tay ba mưu toan chinh phục toàn thế giới bị tan vỡ.
Sau khi chủ nghĩa phát-xít bị đập tan, chủ nghĩa đế quốc Mỹ xuất hiện như một cường quốc khổng lồ, đầy tham vọng bá chủ toàn thế giới. Nhưng thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng tham vọng bành trướng, bá chủ toàn thế giới của chủ nghĩa đế quốc Mỹ đã bị thất bại liên tiếp mà đỉnh cao là sự thất bại của chúng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt-nam.
Ngày nay, đi theo vết xe lịch sử của giai cấp thống trị nước Trung-hoa cũ, những người lãnh đạo Trung-quốc cầm quyền ở Bắc-kinh cũng công khai thực hành chủ nghĩa dân tộc nước lớn, sô-vanh nhằm mục tiêu thiết lập quyền bá chủ trên toàn thế giới.
Vấn đề đặt ra là: chủ nghĩa bá quyền bành trướng Trung-quốc được dựa trên cơ sở nào? Đâu là màu sắc Trung-quốc của chủ nghĩa bá quyền và bành trướng ấy?
Chủ nghĩa bá quyền Trung-quốc hiện nay được hình thành trong những điều kiện hết sức phức tạp. Nó xuất hiện từ một nước vốn trước đây vừa là nửa thuộc địa, vừa là nửa phong kiến, một nước vốn rất lạc hậu về các mặt kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa, trì trệ kéo dài hàng bao nhiêu thế kỷ trong chế độ phong kiến tập quyền hà khắc, từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã đi vào con đường của cách mạng dân chủ tư sản.
Mặc dù bắt đầu từ thế kỷ thứ XIX phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và quan hệ hàng hóa - tiền tệ đã phát triển và đã đẩy nhanh quá trình tan rã của chủ nghĩa phong kiến, song ngành kinh tế cơ bản của Trung-quốc vẫn là nông nghiệp, một nền nông nghiệp với biết bao tàn tích phong kiến nặng nề.
Sự lạc hậu của nền nông nghiệp Trung-quốc cũng như việc duy trì những tàn tích phong kiến trong nền kinh tế còn là hệ quả của sự thống trị lâu dài của chủ nghĩa đế quốc đối với đất nước Trung-hoa. Bọn đế quốc nắm những mạch máu kinh tế, phần lớn đại công nghiệp, vận tải và liên lạc, các cơ quan tín dụng, dựa vào những yếu tố phong kiến ở nông thôn để kiểm soát toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế.
Trong 10 năm đầu của thế kỷ thứ XX, tổng số tư bản đầu tư của nước ngoài đã tăng từ 800 đến 1.500 triệu đô-la mà phần lớn lại nhờ chính vào những khoản lợi nhuận mà chúng thu được trên đất Trung-hoa. Vì thế Trung-quốc ngày càng trở thành một nước nửa thuộc địa, phụ thuộc về kinh tế vào các nước đế quốc.
Như vậy là, cho tới khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung-hoa nền kinh tế Trung-quốc chủ yếu vẫn là nền kinh tế tiểu nông lạc hậu do sự thống trị của những tàn tích phong kiến được bọn tư bản nước ngoài và bọn tư bản quan liêu duy trì.
Nền kinh tế của Trung-quốc còn có cơ sở kinh tế tư bản chủ nghĩa, chủ yếu là của tư bản nước ngoài và chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước mà đại diện là bọn tư bản quan liêu tập trung trong tay "bốn họ" lớn của Trung-quốc là Tưởng, Tống, Khổng, Trần.
Bản thân sự phát triển trong nội bộ nền kinh tế của Trung-quốc, theo quy luật chung, cũng dần dần dọn đường cho sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng đặc điểm của Trung-quốc ở đây là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển trong sự kìm hãm của chế độ phong kiến tập quyền hà khắc và áp lực của tư bản nước ngoài.
Cùng với sự phát triển bên trong về xã hội - kinh tế của đất nước và do kết quả của sự xâm nhập của tư bản nước ngoài đã xuất hiện những xí nghiệp tư bản chủ nghĩa trong các lĩnh vực kinh tế.
Sự xâm nhập của tư bản nước ngoài được đặc biệt phát triển từ sau các cuộc chiến tranh thuốc phiện (1840 - 1842 và 1856 - 1860). Nước Anh và sau đó là các nước Tây Âu khác đã buộc triều đình nhà Thanh phải thừa nhận quyền tự do buôn bán ở các cửa biển Trung-quốc. Việc mở cửa thị trường Trung-hoa bằng bạo lực cho các hàng hóa công nghiệp tư bản chủ nghĩa phương Tây đã đưa đến cuộc khủng hoảng sâu sắc của triều đại Mãn - Thanh lạc hậu. C. Mác nhận xét: "Sự nhập cảng các sản phẩm công nghiệp của nước ngoài này cũng ảnh hưởng đến nền công nghiệp Trung-quốc giống như nó đã ảnh hưởng trước đây đến nền công nghiệp của tiểu Á, của Ba-tư và Ấn-độ. Những người thợ dệt của Trung-quốc đã chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của nước ngoài và điều này đã gây ra sự tan rã tương ứng trong đời sống xã hội"(1).
Và đến cuối thế kỷ thứ XIX, do ảnh hưởng của tư bản nước ngoài, sự phát triển của nền công nghiệp Trung-quốc được đẩy nhanh.
Nền công nghiệp Trung-quốc - Chủ yếu do tư bản nước ngoài đầu tư xây dựng - tuy đã có những công ty độc quyền lớn của chủ nghĩa đế quốc, song sự phát triển bị kìm hãm bởi nhiều nhân tố bên trong cũng như bên ngoài.
Khác với các nước phương Tây và Nhật-bản, do sự thống trị của tư bản nước ngoài, của các quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa, do những xu hướng địa phương chủ nghĩa còn mạnh mẽ, sự xuất hiện và phát triển của nền công nghiệp nhà máy - công xưởng này không đưa đến sự hình thành một thị trường thống nhất toàn dân tộc.
Nguyên nhân này cùng với các nguyên nhân khác như chính trị không ổn định, chính sách phản động của Quốc dân đảng, sự xâm lược của Nhật-bản, tư bản nước ngoài chiếm địa vị thống trị v.v... đã làm cho nền công nghiệp Trung-quốc vừa phát triển yếu ớt, vừa phát triển một cách què quặt: Chủ yếu chỉ có các ngành liên quan đến việc chế biến nguyên liệu nông nghiệp (công nghiệp dệt, xay xát v.v..), công nghiệp khai thác (chủ yếu để xuất khẩu). Còn công nghiệp nặng thì phát triển cực kỳ chậm chạp.
Bên cạnh nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, một nền công nghiệp kém phát triển còn tồn tại một loại hình kinh tế đáng chú ý là ở Trung-quốc trước ngày giải phóng: tư bản quan liêu.
Đó là một hình thức quan hệ kinh tế đặc biệt, nảy sinh ra từ thời đại đế quốc chủ nghĩa, trong một nước mà sự phát triển của các quan hệ tư nhân tư bản chủ nghĩa diễn ra trong điều kiện các quan hệ phong kiến, gia trưởng chiếm địa vị thống trị, trong điều kiện có áp lực thường xuyên về kinh tế, xã hội, chính trị của tư bản nước ngoài.
Thực chất của tư bản quan liêu chỉ là tư bản thương mại - cho vay của tư nhân nhưng mang hình thức là tư bản xã hội, tư bản nhà nước.
Tư bản quan liêu là loại tư bản đại diện cho quyền lợi của giai cấp địa chủ, của bọn đại tư bản và bọn quan chức Nhà nước. Quá trình tập trung của loại tư bản này và sự độc quyền của nó đối với các ngành kinh tế của đất nước gắn liền chặt chẽ với việc chiếm đoạt chính quyền của bè lũ Tưởng-Giới-Thạch phản động, với sự thiết lập chế độ độc tài của bọn quân nhân và các chính trị gia của giai cấp đại tư bản cấu kết với bọn địa chủ.
Bọn tư bản quan liêu hướng hoạt động chủ yếu của chúng vào việc độc quyền hóa lĩnh vực lưu thông, trước hết vào lĩnh vực tài chính. Điều đó là tất yếu bởi vì, bản thân tư bản quan liêu ra đời và phát triển cũng trên cơ sở những hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, hơn nữa, độc quyền trong lĩnh vực này được sự chi viện của tư bản nước ngoài.
Từ những năm 30 của thế kỷ này, vị trí của tư bản quan liêu - được tập trung vào trong tay "bốn họ" lớn của Trung-quốc, được mở rộng và củng cố dần trong lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực công nghiệp.
Bọn tư bản quan liêu đồng thời cũng là những tên địa chủ và cho vay nặng lãi. Chúng là kẻ sở hữu những vùng đất đai tốt nhất ở khắp Trung-quốc.
Sự xuất hiện nhân tố tư bản quan liêu ở Trung-quốc một mặt làm nảy sinh ra những xí nghiệp công nghiệp lớn, hiện đại, độc quyền, nhưng mặt khác lại là nhân tố kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nói chung, nền công nghiệp nói riêng. Tư bản quan liêu là sự dung hợp của bọn tư sản mại bản, của bọn địa chủ lớn, bọn cho vay nặng lãi và bọn tư bản công nghiệp lớn. Sự dung hợp này đòi hỏi phải vừa dựa vào tư bản nước ngoài, vừa phải duy trì tất cả những hình thức bóc lột tiền tư bản chủ nghĩa.
Sự phát triển của tư bản quan liêu đã thu hẹp những phương tiện cần thiết để đổi mới và mở rộng sản xuất. Cho nên trình độ tập trung của tư bản quan liêu càng cao bao nhiêu thì mức độ ăn bám của nó càng lớn bấy nhiêu, chúng càng ngăn cản sự phát triển của nền sản xuất xã hội nhiều bấy nhiêu.
Mặc dù trong nền kinh tế có những bước phát triển - đặc biệt những ngành có liên quan đến sản xuất hàng quân sự vũ khí, song về căn bản nền kinh tế của Trung-quốc đến nay vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp, một nền kinh tế kém phát triển; 3/4 dân cư hoạt động vẫn làm nông nghiệp, công nghiệp nặng chưa đủ sức trang bị lại về kỹ thuật cho công nghiệp và nông nghiệp.
Thích ứng với một nền kinh tế lạc hậu như trên là một cơ cấu xã hội kém phát triển.
Năm 1949, tổng số công nhân Trung-quốc chỉ có 2,5 triệu đến 3 triệu công nhân. Còn tuyệt đại bộ phận dân cư là nông dân và tiểu tư sản thành thị. Trong nông thôn bần, cố, trung nông chiếm 90% dân cư (tình hình trước cải cách ruộng đất). Trong cải cách khoảng 300 triệu bần nông và cố nông được chia ruộng đất.
Giai cấp tư sản hồi trước khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung-hoa là một giai cấp yếu kém và chia ra làm 2 nhóm: giai cấp tư sản mại bản mà chủ yếu là giai cấp đại tư sản ra đời và lớn lên trong sự cấu kết với bọn đế quốc; giai cấp tư sản dân tộc bao gồm chủ yếu là loại tư sản trung bình và nhỏ.
Nhân vật chủ yếu của nền kinh tế Trung-quốc là những người sản xuất nhỏ, chủ yếu là nông dân. Các giai cấp khác còn lại của xã hội Trung-quốc chỉ là những hòn đảo nhỏ trong đại dương mênh mông của giai cấp nông dân.
Do vị trí kinh tế và chính trị thực tế trong đời sống xã hội, nói chung, giai cấp tiểu tư sản không thể là giai cấp độc lập. Nó chỉ có thể phát triển và ngả theo hoặc giai cấp tư sản hoặc giai cấp vô sản. Giai cấp tiểu tư sản Trung-quốc cũng dao động theo hai khuynh hướng ấy. Bị chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản mại bản, phong kiến quan liêu áp bức bóc lột giai cấp tiểu tư sản Trung-quốc trước hết là giai cấp nông dân về cơ bản là quần chúng cách mạng và đã có quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường trong lịch sử cách mạng Trung-quốc. Nhưng trên con đường cách mạng của mình, giai cấp tiểu tư sản Trung-quốc, trước hết là giai cấp nông dân không được hướng đi theo phong trào cách mạng của giai cấp vô sản để có thể triệt để giải phóng mình, lại bị lừa gạt, ru ngủ trong khuynh hướng của chủ nghĩa dân tộc tư sản, tiêm nhiễm nặng các tàn tích của chủ nghĩa phong kiến tập quyền. Một bộ phận trong giai cấp tiểu tư sản Trung-quốc đặc biệt là những người tiểu tư sản trí thức đã không thấy rõ được con đường cách mạng chân chính, lại từ bỏ cách mạng và trở thành kẻ cầm cờ của chủ nghĩa dân tộc tư sản thực hiện chủ nghĩa bá quyền, bành trướng.
Những người tiểu tư sản này đã bị ngả nghiêng trong những khó khăn thực tế trên con đường phát triển của cách mạng, cuối cùng xa rời cách mạng và bị lôi cuốn theo các thế lực tư sản phản động. Tính chất không kiên định, không rõ ràng của giai cấp tư sản, tính dao động và cực đoan, v.v... biểu hiện rõ ràng trong những hành động "bí ẩn" và "khác thường" của ban lãnh đạo Trung-quốc, trong hành động phi lô-gích và mâu thuẫn, trong sự nghiêng ngả đột ngột của họ, trong tình trạng không ổn định thường xuyên ở trong nước v.v...
Là giai cấp tiểu tư sản thì dù ở nước nào cũng có những thuộc tính giống nhau. Tuy nhiên, trong từng nước riêng biệt, do bị chi phối bởi những truyền thống lịch sử, dân tộc, những hoàn cảnh, điều kiện xã hội - chính trị riêng bịêt v.v... tính chất tiểu tư sản cũng có những màu sắc riêng.
Ở Trung-quốc nét đặc trưng trước hết của giai cấp tiểu tư sản - chủ yếu là nông dân, là số lượng đông đảo của nó. Chưa có nơi nào trên trái đất nông dân, giai cấp tiểu tư sản lại có một số lượng đông đảo đến như vậy.
Bản thân số lượng đông đảo của giai cấp này cũng tạo ra cho chính quần chúng và nhất là cho những người cầm đầu quần chúng một ảo tưởng về nguồn vô tận về người. Và điều này lại dẫn đến việc coi khinh nhân cách, coi rẻ mạng người, dẫn đến thái độ dửng dưng đối với số phận và điều kiện tồn tại của con người, dẫn đến sự ra đời của quan niệm, "nhân dân chỉ là một tờ giấy trắng". Chính quan niệm này vừa cho phép, vừa biện hộ cho sự chuyên quyền đối với quần chúng, cho những trò chơi trên sinh mạng của hàng chục và hàng trăm triệu quần chúng.
Lớp quần chúng tiểu tư sản của Trung-quốc lại là lớp quần chúng đã bị các giai cấp thống trị từ trước tới nay giam hãm trong chính sách ngu dân của chúng. Tình trạng kém văn hóa này đã được Các Mác coi là một sức mạnh yêu quái và lấy làm lo ngại rằng nó sẽ là nguyên nhân của nhiều tấn thảm kịch(1).
Thắng lợi của cách mạng Trung-quốc đã ném một trọng lượng khổng lồ trên bàn cân thế giới. Nó đã làm nghiêng hẳn sự đối sánh lực lượng trên vũ đài thế giới. Từ đó, những người theo chủ nghĩa dân tộc nước lớn mà từ lâu vẫn nuôi tham vọng giữ vai trò bá quyền ở Phương Đông và Đông Nam châu Á, đã có một Nhà nước mới, một đội quân đông, để mưu đồ làm sống lại cái "quá khứ hùng cường" của mình và trả thù cho những năm dài bị lăng nhục.
Thắng lợi của cách mạng Trung-quốc được coi là một bộ phận quan trọng của phong trào giải phóng dân tộc lại bị những người theo chủ nghĩa dân tộc tư sản phản động lái theo hướng khác, nuôi dưỡng tư tưởng bá quyền đối với các dân tộc khác trên thế giới của họ.
Tóm lại, chủ nghĩa bá quyền, bành trướng trong giới cầm quyền Bắc-kinh này sinh ra và dựa trên cơ sở một nền kinh tế chủ yếu là tiểu nông, phân tán, lạc hậu, cát cứ với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong sự kìm hãm của chế độ phong kiến tập quyền hà khắc và sự tranh chấp của các nước đế quốc chủ nghĩa, nảy sinh ra và dựa trên cơ sở xã hội là tính tự phát của giai cấp tiểu tư sản đi theo giai cấp tư sản mại bản, một giai cấp tiểu tư sản đông đảo, bị chìm đắm trong chủ nghĩa ngu dân từ bao đời nay, được nuôi dưỡng bằng nguồn sữa độc của chủ nghĩa dân tộc nước lớn, bằng ý chí phục thù mù quáng.
II - CHỦ NGHĨA BÁ QUYỀN, BÀNH TRƯỚNG TRUNG-QUỐC VÀ CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC MỸ
Một điều cần chú ý là: để thực hiện tham vọng dân tộc chủ nghĩa sô-vanh nước lớn, bá chủ thế giới, ban lãnh đạo Bắc-kinh một mặt muốn lợi dụng chủ nghĩa đế quốc và trước hết là đế quốc Mỹ, nhưng mặt khác lại được chính bọn đế quốc, đặc biệt là đế quốc Mỹ, khuyến khích, ủng hộ và cổ vũ.
Tập đoàn phản động Trung-quốc từ lâu chìm sâu trong các tính toán bá quyền, bành trướng đã có mưu đồ chống Liên-xô, chống các trào lưu cách mạng. Do đó, có sự gặp nhau giữa những người lãnh đạo Trung-quốc và đế quốc Mỹ.
Không phải đến ngày nay những người theo chủ nghĩa dân tộc sô-vanh nước lớn ở Trung-quốc mới bộc lộ những tính toán đen tối của họ trong quan hệ với Mỹ.
Trước khi nước Cộng hòa nhân dân Trung-hoa ra đời, chính quyền Quốc dân đảng của Tưởng-Giới-Thạch thống trị đại bộ phận Trung-quốc, còn Đảng Cộng sản Trung-quốc làm chủ khu giải phóng với trung tâm là Diên-an. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, khi chiến tranh lan đến Thái-bình-dương thì Mỹ lập nhiều căn cứ không quân trên đất Trung-quốc. Từ đấy các chính khách Mỹ cùng với các quân nhân, chuyên gia, nhà báo, nhà văn, gián điệp kéo vào Trung-quốc, và thường qua lại khu giải phóng của Đảng cộng sản Trung-quốc. Trên đất Trung-quốc khi ấy có ba lực lượng cùng tiến hành chiến tranh với Nhật (Mỹ, Tưởng, Đảng Cộng sản Trung-quốc). Nhưng ở Trung-quốc vẫn luôn luôn có sự xung đột giữa quân đội của Tưởng và của Đảng Cộng sản Trung-quốc. Cần phải dàn xếp cuộc nội chiến này.
Trong Đảng Cộng sản Trung-quốc lúc ấy đã có sự phản đối về việc để Mỹ làm trung gian hòa giải. Đến tháng 12 năm 1945 một lần nữa Đảng Cộng sản Trung-quốc lại nhận Mỹ đứng ra hòa giải.
Những sự kiện đó nói lên rằng phái theo chủ nghĩa dân tộc sô-vanh nước lớn ở Trung-quốc từ lâu đã có những ý đồ và hoạt động tiếp xúc với những đại diện của chính phủ Mỹ, muốn đặt quan hệ với Mỹ và lợi dụng những quan hệ ấy để chống Liên-xô, từng bước thực hiện ý đồ bá chủ của mình.
Về phía Mỹ, cũng từ lâu, trong chính giới Mỹ đã có những phe phái khác nhau cùng chủ trương dùng con bài Trung-quốc để thực hiện mưu đồ chống phá cách mạng của mình.
Thoạt đầu phe cánh của Ru-dơ-ven chủ trương tạo ra một nước Trung-quốc "thống nhất, dân chủ, độc lập và hùng cường", nâng đỡ nước Cộng hòa nhân dân Trung-hoa vào số các đại cường quốc có ngang quyền với Mỹ, Anh và Liên-xô để mưu dùng Trung-quôc trong những tính toán bá quyền của Mỹ.
Một phe đứng đầu là Taft chủ trương chỉ dùng con bài Tưởng-Giới-Thạch, Quốc dân đảng đánh bại cộng sản, đối địch với Liên-xô. Một phe khác tự cho là "hiện thực chủ nghĩa" từ năm 1942 đã tiếp xúc với Đảng Cộng sản Trung-quốc và nhìn thấy trước thắng lợi của Đảng Cộng sản Trung-quốc nên chủ trương dùng Trung-quốc sau này làm đối địch hẳn với Liên-xô để Mỹ nắm lấy quyền bá chủ.
Tuy có những tính toán khác nhau trong các phe phái dưới thời Ru-dơ-ven, nhưng tất cả các chính giới của Mỹ ngay từ đầu đều quan tâm tới việc tìm kiếm một lực lượng sẵn có tiềm năng chống Liên-xô, quan tâm đến sự liên minh hoặc hợp tác với Mỹ, có một thế ngang hàng với các đại cường quốc và có uy tín trên trường quốc tế. Họ đều coi lực lượng duy nhất đáp ứng được tiêu chuẩn ấy là Trung- quốc. Họ đã chủ ý đến phái dân tộc chủ nghĩa và nhìn thấy triển vọng biến chuyển của nhóm này trong Đảng Cộng sản Trung-quốc thành những kẻ phát ngôn cho lợi ích dân tộc tư sản Trung-quốc. Trong chính giới Mỹ trường phái tự do "hiện thực" đã đi tới khẳng định sự đúng đắn của mình đối với phái dân tộc chủ nghĩa và quan tâm đặc biệt đến nhóm này để phục vụ cho kế hoạch lâu dài cũng như cho chiến lược của Mỹ ở Viễn Đông.
Tiếp đó, khi nước cộng hòa nhân dân Trung-hoa thành lập và ký hiệp ước hữu nghị Trung - xô, chính quyền Mỹ đã phải ngả hẳn theo chính sách thù dịch và gây sức ép dối với Cộng hòa nhân dân Trung-hoa.Tuy nhiên, cũng ngay trong thời kỳ này phái "tự do hiện thực" trong chính giới Mỹ vẫn theo đuỗi chủ trương của họ trong thời kỳ Ru-dơ-ven.
Và cũng thời kỳ này diễn ra những tính toán phức tạp trong quan hệ Mỹ - Trung-quốc.
Một mặt thì những người theo chủ nghĩa dân tộc sô-vanh trong Đảng Cộng sản Trung-quốc trong khí thế cách mạng chung ở trong nước và trên thế giới phải dựa vào Liên-xô và giương cao ngọn cờ "chống đế quốc Mỹ" nhưng lại từng bước bộc lộ thái độ thù địch với Liên-xô và tìm đường đi gần lại với Mỹ.
Một mặt khác, những biến đổi về chất trên sân khấu chính trị thế giới - những biến đổi trong đối sánh lực lượng có lợi cho chủ nghĩa xã hội - thúc bọn cầm quyền nước Mỹ, vào khoảng đầu những năm 70, phải vớt vát lại vị trí đã suy yếu của Mỹ bằng cách tìm đường dựa vào tiềm lực ở Bắc-kinh để chống lại ba dòng thác cách mạng, chống Liên-xô.
Chính đó là tình hình đã dẫn đến bước bình thường hóa quan hệ giữa chính quyền Oa-sinh-tơn với Cộng hòa nhân dân Trung-hoa.
Sự phát triển quanh co từ thái độ "hiểu ngầm nhau" đến thái độ "hòa giải" với nhau, trong quan hệ Mỹ - Trung-quốc có nguồn gốc sâu xa thuộc về bản chất của chủ nghĩa đế quốc Mỹ và lập trường bá quyền, bành trướng của những người theo chủ nghĩa dân tộc sô-vanh Trung-quốc.
Những tính toán của Mỹ và Trung-quốc dã gặp nhau. Bắc-kinh thì tính toán tranh thủ những điều kiện làm cơ sở cho việc thực hiện ý đồ chống Liên-xô, chống ba trào lưu cách mạng trên thế giới, thực hiện tham vọng sô-vanh nước lớn, bá quyền của họ. Còn về phía Mỹ, họ cũng tính toán đề đứng vững hơn trên lập trường của "chính sách hiện thực".
Trong cuộc hôn nhân Mỹ - Trung này, mỗi bên đều mưu đồ lợi ích riêng của mình. Mọi quan hệ Mỹ - Trung đã được hai bên sử dựng như là một phương tiện để đạt tới một mục đích riêng của mình: giành bá chủ thế giới trên cơ sở lần lượt liên minh và đánh bại từng đối thủ của mình trên bước đường đi tới mục tiêu.
Nhưng điểm gặp nhau của những người lãnh đạo Trung-quốc và đế quốc Mỹ, với ý đồ khác nhau, có dựa trên cơ sở ngang bằng về cán cân lực lượng hay không? Nói cách khác trong mối quan hệ Mỹ -Trung, địa vị của mỗi nước ra sao? Trong thực tế ai sẽ lợi dụng ai? Liệu Trung-quốc có thề thực hiện được chính sách cổ truyền của mình là "liên minh với người xa, đánh bại người láng giềng" của mình không? Cần phải xem xét đến những yếu tố khách quan và chủ quan của chủ nghĩa bá quyền, bành trướng, sô-vanh nước lớn của Trung-quốc.
Có hai nhân tố cơ bản đã tác động vào lập trưởng hành trướng của những nhà lãnh đạo Trung-quốc khi chủ nghĩa dân tộc tư sản được phát huy và giữ địa vị ưu thế trong sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung-quốc từ trước và sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Nhân tố thứ nhất là thắng lợi của cách mạng đã tạo ra thế Đảng Cộng sản đứng đầu một trong những nước lớn nhất thế giới, đông dân nhất thế giới từ lâu được nuôi dưỡng trong tham vọng giữ vai trò bá quyền ở phương Đông và Đông Nam châu Á.
Nhân tố thứ hai là cách mạng Trung-quốc thắng lợi khách quan là một bộ phận quan trọng của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới với vai trò là nhân tố làm thay đổi cán cân so sánh lực lượng thế giới có lợi cho chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới.
Hai nhân tố này vừa góp phần phát triền chủ nghĩa dân tộc trong chính sách đối ngoại của nhóm có tham vọng bá quyền, bành trướng vừa làm tăng thêm xu hướng đại cường quốc và tham vọng của những lãnh tụ theo chủ nghĩa dân tộc muốn nắm quyền bá chủ về hệ tư tưởng và chính trị.
Nhưng để có thể thực hiện được tham vọng dân tộc chủ nghĩa sô-vanh nước lớn, bá chủ thế giới, còn phải xét đến nhân tố tiềm lực kinh tế và quân sự của Trung-quốc - nói chính xác hơn là của chủ nghĩa bành trướng Trung-quốc.
Năm 1949, thu nhập quốc dân tính theo đầu người ở Trung-qaốc thấp hơn nhiều so với nước Nga năm 1913. Nếu nước Nga bắt đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ trình độ phát triền trung bình của chủ nghĩa tư bản, thì ở Trung-quốc chủ nghĩa tư bản mới chỉ đi những bước đầu tiên vào đầu thế kỷ thứ 20.
Năm 1949 tỉ trọng của công nghiệp trong tổng sản lượng công nghiệp và nông nghiệp chỉ chiếm 17 % . Sản lượng gang, thép, thép dát không vượt quá 2 triệu tấn, than đá - 60 triệu tấn, điện - 1,8 triệu kilôoát. Hơn 4/5 dân cư làm nông nghiệp và hầu hết công việc nông nghiệp đều làm bằng tay. Mạng lưới vận tải hiện đại phát triển hết sức thấp(1).
Sự xâm lược của Nhật và sự thống trị của Quốc dân đảng đã gây tổn thất lớn cho công nghiệp Trung-quốc. Năm 1949, sản lượng than chỉ có 252 nghìn tấn, thép -158,4 nghìn tấn, than đá-31 triệu tấn, điện - 4,3 tỷ ki-lô-oát giờ(2).
Sau hơn một phần tư thế kỳ từ ngày thành lập chế độ Cộng hòa nhân dân, Trung-quốc vẫn chưa biến thành một nước công nghiệp.
Trong mấy năm đầu của nước Cộng hòa nhân dân Trung-hoa sự phát triển của công nghiệp với sự giúp đỡ tích cực của Liên-xô theo hiệp ước hữu nghị Xô -Trung đã tăng lên với những nhịp độ mạnh mẽ: từ 1949 đến 1953 sản lượng công nghiệp tăng gấp 5,6 lần. So với năm 1949 tổng giá trị sản lượng công nghiệp của Trung-quốc năm 1971 tăng gấp 20 lần. Ba năm sau nhịp độ có xu hướng hạ thấp. Về nông nghiệp, đầu năm 1974 tổng giá trị sản lượng có thể đạt 91,7 tỉ, chỉ tăng 51% so với năm 1957 vì có bảy năm đình đốn do những kết quả thảm hại của chính sách "đại nhảy vọt" trong nông nghiệp. Trong tổng sản phẩm xã hội, tỷ trọng nông nghiệp chiếm khoảng 1/4 (năm 1957 là 1/3) nhưng lại chiếm tới 70% tổng số người lao động. Điều này chứng tỏ sự mất cân đối sâu sắc trong sự phát triển kinh tế của Trung-quốc.
Trong những năm gần dây, Trung-quốc có đạt được một sự tiến bộ trong các ngành công nghiệp có liên quan với quân sự và công nghiệp dầu mỏ để xuất khẩu, nhưng nhìn chung sự phát triền của công nghiệp vẫn đang gặp nhiều trở ngại.
Những chỉ tiêu sản xuất công nghiệp tính theo đầu người vẫn còn rất thấp: năm 1974 mới đạt khoảng 200 ki-lô-oát/giờ điện, khoảng 500kg than đá, 70kg dầu mỏ, 30 kg gang thép, hơn 11 mét vải bông. Chính sách quân sự hóa có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ quá trình tái sản xuất công nghiệp của nước này (riêng việc chuẩn bị cho nổ quả bom nguyên tử đầu tiên đã chi phí mất khoảng 10 tỉ nhân dân tệ).
Tình trạng kỹ thuật rất lạc hậu, tỉ trọng của Trung-quốc trong sản xuất thép của thế giới chỉ đạt 3,6%; điện - 1,4%, dầu mỏ 1%, ô-tô - 0,18% (trong khi dân số chiếm 1/5 số dân toàn thế giới).
Mức sống của nhân dân rất thấp. Gần như không có sự thay đổi nào từ 1957 đến 1973 về mức sống vật chất.
Nhìn tổng quát lại, sau hơn 1/4 thế kỷ, nền kinh tế Trung-quốc đã đạt một số thành tựu. Về khối lượng sản xuất công nghiệp Trung-quốc chiếm hàng thứ 7 trên thế giới (sau Mỹ, Liên-xô, Nhật, Tây Đức, Anh, Pháp). Cũng có thể nói đến những thành tựu kỹ thuật của Trung-quốc trong một số ngành sản xuất: đặc biệt những ngành có liên quan với quân sự. Nhưng mặt khác xét về thông số kinh tế Trung-quốc vẫn là một nước kém phát triển: 3/4 dân cư làm nông nghiệp, công nghiệp nặng chưa đủ sức trang bị lại cho công nghiệp và nông nghiệp, chỉ tiêu sản xuất công nghiệp tính theo đầu người vẫn thuộc vào loại thấp nhất thế giới, mức sống nhân dân rất thấp v.v...
Những khó khăn của nền kinh tế Trung-quốc có tính chất thường xuyên. Cuộc đấu tranh nội bộ của ban lãnh đạo Trung-quốc, những mâu thuẫn giữa mục đích sô-vanh nước lớn của ban lãnh dạo Trung-quốc với những nhu cầu hiện thực của sự phát triển đời sống xã hội và kinh tế của Trung-quốc hiện nay - đó là những nhân tố đang và sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng phá hoại đối với nền kinh tế Trung-quốc.
Đó là vài nét về tiềm lực kinh tế của chủ nghĩa bá quyền, bành trướng Trung-quốc.
Còn về tiềm lực quân sự, theo nhận xét của A-bra-nô-vít, phó phụ tá Bộ trưởng quốc phòng Mỹ, phụ trách về các vấn đề Viễn Đông và Thái-bình-dương thì: các lực lượng vũ trang Trung-quốc, mặc dù quy mô lớn song thiếu các loại vũ khí tối tân, hiện đại. Hiện nay Trung-quốc đang nỗ lực để cải tiến khả năng quân sự của họ.
Ngày nay Trung-quốc đang sản xuất các loại vũ khí hạt nhân, các trang bị ra-đa, các máy bay phản lực ném bom, các tên lửa đạn đạo, xe tăng và các loại vũ khí thông thường.
Nhưng hầu hết trang bị của Trung-quốc đều cũ kỹ được sản xuất cách đây khoảng từ 10 đến 20 năm. Và chỉ gần đây, Trung-quốc mới bắt đầu đi vào các hệ thống vũ khí với các kiểu của Liên-xô hiện có ở Trung-quốc. Về quốc phòng Trung-quốc còn lâu mới đuổi kịp các kỹ thuật tiên tiến.
Chính nhân tố này cũng đã được các giới cầm quyền Mỹ xem xét đến, Mỹ đã đánh giá khả năng quân sự của Trung-quốc và ý thức được rõ ràng với khả năng ấy Trung-quốc không phải là mối lo ngại đối với Mỹ. Bởi vì theo nhận xét của Mỹ, tiềm lực vũ khí hạt nhân tên lửa của Mỹ đã lớn mạnh; ban lãnh dạo Trung-quốc chỉ huênh hoang trên lời nói, nhưng trong thực tế lại tìm cách ngăn cản cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc châu Á. Trung-quốc tuy có một "Biển người" song việc sử dụng khả năng ấy trong cuộc chiến tranh hiện đại không thể là yếu tố tuyệt đối để có thể bỏ qua các yếu tố khác của chiến tranh được. Mỹ cân nhắc nhiều đến việc Trung-quốc bắt đầu sản xuất vũ khí hạt nhân và tên lửa và coi đó là một khả năng đe dọa Mỹ. Tuy nhiên Mỹ vẫn cho rằng trong vòng chục năm tới tiềm năng hạt nhân và tên lửa Trung-quốc sẽ vô cùng nguy hiểm cho Trung-quốc hơn là cho Mỹ.
Với một tiềm lực kinh tế và quân sự như thế thì dĩ nhiên nó chưa thể trở thành cơ sở vững chắc cho việc thực hiện tham vọng sô-vanh, bá quyền, đại cường quốc của bè lũ cầm quyền phản động ở Trung-quốc. Chính những vấn đề này làm cho họ lo lắng và là một mâu thuẫn gay gắt trong quá trình thực hiện tham vọng bá chủ của chúng. Mối lo lắng đó đã thúc đẩy họ tìm kiếm con đường ngắn nhất để giải quyết những vấn đề kinh tế và quân sự - trước hết là những vấn đề quân sự, đang đặt ra cho đất nước. Họ đã dùng những phương thức giả tạo chỉ dựa vào sự nỗ lực của ý chí để bỏ qua hoặc bất chấp mọi quy lụât nhằm tạo ra một sự "kỳ diệu", tức là thực hiện một bước nhảy vọt từ tình trạng yếu kém đến hùng mạnh.
Mọi người đều biết rằng, nếu Trung-quốc muốn được thừa nhận như một "siêu cường" thì phải giải quyết mâu thuẫn này. Muốn vậy cần phải có nhiều vốn và nền kỹ thuật cao. Trung-quốc chỉ có một con đường "tiến vào" chủ nghĩa tư bản.
Bọn dân tộc chủ nghĩa sô-vanh, bá quyền nước lớn ở Trung-quốc đã không từ mọi thủ đoạn nào để xích gần với đế quốc Mỹ và các đế quốc khác. Chính sách chống Liên-xô, chống các nước xã hội chủ nghĩa, chống phá phong trào cách mạng thế giới, là một phương tiện để thực hiện những nhiệm vụ chiến lược của họ.
Điều đáng quan tâm nhất đồng thời cũng là một chỗ yếu kém nhất của Trung-quồc chính là niềm hy vọng dựa vào viện trợ kinh tế và kỹ thuật của bọn đế quốc nhanh chóng tiến hành hiện đại hóa Trung-quốc, biến nước này thành một cường quốc hàng đầu trên thế giới, để thực hiện những mưu đồ bá quyền theo chủ nghĩa dân tộc nước lớn của họ.
Không nên nghĩ rằng trong quan hệ với Trung-quốc đế quốc Mỹ không cân nhấc tỉ mỉ, tính toán cái lợi và cái hại có thể xảy ra đối với Mỹ. Và trong mối quan hệ Mỹ - Trung này cũng không thể tránh khỏi điều mỗi bên ra sức tranh thủ phần có lợi về mình không thể tránh khỏi sự xung đột về quyền lợi. Nhưng cũng không thể như các học giả phương Tây nhận định rằng "kết quả đứng về mặt quốc gia mà xét thì quan hệ Trung - Mỹ đã đem lại cho Trung-quốc nhiều điểm cơ bản còn Hoa kỳ thì chẳng được gì ngoài lợi ích cá nhân của Ních-xơn là việc trúng cử tổng thống"(1). Nhận xét như thế tạo ra một ảo tưởng dường như trong mối quan hệ tay đôi này chỉ có Trung-quốc mới lợi dụng được Mỹ và dường như Trung-quốc có thể dùng Mỹ để thực hiện chính sách ngoại giao cổ truyền của họ là "tọa sơn quan hổ đấu".
Đó là một nhận xét phi lo-gích, trái với thực tiễn. Mỗi nước đế quốc, xét về bản chất của nó, không dung hợp với sự tương trợ đối với một nước khác, ngay khi nước đó là một nước đồng loại. Quyền chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chỉ có thề tồn tại và phát triền trên cơ sở đánh gục đối phương của mình. Nguyên tắc thực lực tư bản là nguyên tắc ngự trị trong mối quan hệ giữa chúng với nhau. Chỉ ngây thơ về chính trị mới có ý nghĩ cho rằng đế quốc Mỹ "tận tình giúp đỡ" người bạn Trung-hoa để cho Trung-quốc trở nên hùng mạnh và cho Trung-quốc có thể lợi dụng Mỹ để thực hiện mưu đồ xưng bá của họ. Người ta có thể "nối dáo cho giặc" - như Mỹ đã và đang làm đối với Trung-quốc - nhưng sự "nối dáo" ấy không thể nào vượt quá khuôn khổ để cho tên giặc ấy một ngày nào đó lại trở lại đâm mình. Ngay bản thân ban lãnh đạo Bắc-kinh cũng không phải không ý thức được điều đó.
Tuy nhiên do bản chất phản động của Ban lãnh đạo Bắc-kinh, do không ngừng theo đuổi mục tiêu chính yếu chống Liên-xô - muốn vậy phải phát triển tiềm lực kinh tế, cho nên họ phải ra sức tìm kiếm một lá chắn hạt nhân đáng tin cậy, những tên lửa xuyên lục địa có thể bay tới trước mắt là Mát-xcơ-va, phải tìm kiếm kỹ thuật tiên tiến.
Chính vì vậy mà quan hệ phức tạp của Trung-quốc đối với Mỹ bao gồm một loạt những chính sách cụ thể vừa mang tính chất xung đột, vừa có tính chất thích nghi với Hoa-kỳ. Với mục đích "bá quyền là tất cả", trong những điều kiện chủ quan và khách quan không thuận lợi, cho nên những người theo chủ nghĩa sô-vanh Trung-quốc có thể sử dụng mọi phương tiện, mọi chính sách miễn sao đạt được mục đích ngông cuồng, phản động của họ. Đối với họ "mèo trắng hay mèo đen đều không quan trọng miễn bắt được chuột là được rồi". Trong những điều kiện như hiện nay, thứ triết học thực dụng chủ nghĩa ấy đã đẩy chính sách của Trung-quốc theo chiều hướng thích nghi với Hoa-kỳ. Thái độ thù địch với các nước xã hội chủ nghĩa, đối với Liên-xô và đặc biệt cuộc chiến tranh xâm lược của họ đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt - nam gần đây đã chứng minh cho chiều hướng đó.
Và như vậy là chiến lược quốc tế của Trung-quốc với mưu đồ lợi dụng chủ nghĩa đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ, trong thực tiễn và về khách quan lại trở thành một bộ phận nằm trong chiến lược của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ nhằm chống Liên-xô, chống các nước xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn, đẩy lùi trận địa cách mạng thế giới. Trung-quốc đang trở thành một công cụ của chủ nghĩa đế quốc.
Một quốc gia như Trung-quốc đang phải đương đầu với những vấn đề như của các quốc gia mới trỗi dậy khác và trong một số khía cạnh nhất định những vấn đề này còn bị đào sâu hơn do quy mô và tính chất phức tạp của các quan hệ quốc tế cũng như sự lạc hậu của nền kinh tế, đặc biệt là nhân tố không ổn định trên sân khấu chính trị nội hộ của Trung-quốc, đã tác động đến chiều hướng lệ thuộc của Bắc-kinh hiện nay vào quỹ đạo chiến lược quốc tế của Oa-sinh-tơn.
Một xã hội với ngót 1 tỷ dân còn đang nằm trong những giai đoạn đầu của một cuộc đấu tranh cho một sự ổn định chính trị, cho việc hiện đại hóa nền kinh tế và biến đổi xã hội, một xã hội như vậy mà trong thời đại ngày nay lại nuôi tham vọng bá quyền bành trướng, thì một chiều hướng như vậy là tất yếu.
III - CHỦ NGHĨA BÁ QUYỀN, BÀNH TRƯỚNG TRUNG-QUỐC VÀ NHỮNG LUẬN ĐIỂM GIẢ DANH CÁCH MẠNG CỦA NÓ
Là một hiện tượng "trái mùa" sinh sau đẻ muộn tiềm lực kinh tế và quân sự hiện thực còn có khoảng cách khá xa với ý đồ đầy tham vọng, chủ nghĩa bá quyền, bành trướng Trung-quốc phải "sáng tạo" ra những học thuyết này, những "lý luận" khác hòng luận cứ cho những hoạt động của mình, hòng lừa bịp mọi người, tập hợp lực lượng đông đảo về mình, phải đội lốt cách mạng và khoác áo chủ nghĩa Mác-Lênin để phản bội cách mạng, phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ nghĩa bá quyền, bành trướng Trung-quốc hình thành và phát triển trong thời đại tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản, khi mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã trở thành một hệ tư tưởng có sức hấp dẫn mãnh liệt với những người lao động. Nó ra đời trong khi đã xuất hiện một nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên, trong điều kiện một nhà nước của những người lao động đã tồn tại, trong khi trào lưu cách mạng của thế giới và phong trào cách mạng của nhân dân Trung-quốc phát triển mạnh. Đặc điểm của thời đại này đã tác động tới thủ đoạn thực hiện ý đồ vươn lên làm bá chủ của những người theo chủ nghĩa dân tộc sô-vanh nước lớn của Bắc Kinh: giả danh cách mạng che giấu bằng những khẩu hiệu cách mạng, bằng những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, khoác áo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tính chất của thời đại, tinh thần cách mạng và nguyện vọng chân chính của nhân dân Trung-hoa buộc những kẻ theo chủ nghĩa bá quyền Trung-quốc phải núp dưới những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Từ những tính toán thực dụng phục vụ cho mục tiêu của chủ nghĩa dân tộc sô-vanh, họ đã dựa vào chủ nghĩa Mác-Lênin để rồi giải thích một cách tùy tiện, cắt xén chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp với mọi tính toán của họ, che lấp dưới nhãn hiệu chủ nghĩa Mác - Lênin "Trung-quốc hóa".
Hoàn cảnh khách quan và chủ quan buộc họ phải che giấu mọi tính toán sai trái của họ sau những lời kêu gọi, khẩu hiệu gỉa danh cách mạng và những hành động lừa phỉnh mị dân. Và đến khi những hành động như thế không mang lại cho họ những kết quả mong muốn thì họ lập tức công khai chuyển hướng, đi vào những hành động trắng trợn phản bội.
Chính những đặc điềm này giải thích những mâu thuẫn trong quá trình thực hiện ý đồ của họ. Một mặt họ phải mị dân, đánh lừa nhân dân trong nước và nhân dân thế giới, mặt khác họ không thể nào che giấu được những hành động phản nhân dân, phản cách mạng của họ. Càng lún sâu vào con đường của chủ nghĩa dân tộc, càng bị thất bại thì họ càng hành động trắng trợn và càng bị phơi bày trước nhân dân trong nước và thế giới. Càng bị cô lập và phản đối, mâu thuẫn trong nội bộ họ càng lớn, càng sâu sắc.
Thoạt đầu các nhà lãnh đạo Bắc-kinh đã tung ra cái gọi là thuyết "vùng trung gian". Trước khi cách mạng Trung-quốc thành công, ngay từ năm 1946, trong cuộc nói chuyện với nữ văn sĩ Mỹ A.L.Strong, người đứng đầu Đảng Cộng sản Trung-quốc lúc đó đã nói:
"Giữa Mỹ và Liên-xô có một vùng đất rộng lớn bao gồm rất nhiều nước tư bản chủ nghĩa, các nước thuộc địa và nửa thuộc địa ở châu Âu, châu Á và châu Phi. Chừng nào bọn phản động Mỹ chưa thống trị được các nước này, thì chừng đó chưa thể nói gì đến chuyện Mỹ tấn công vào Liên-xô".
Luận điểm về "vùng trung gian" này lại được nhắc đến năm 1963. Khi nói đến những mâu thuẫn của thời đại những người cầm đầu Đảng Cộng sản Trung-quốc lúc đó đã cho mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc Mỹ và "vùng trung gian" chứ không phải là mâu thuẫn giữa hai hệ thống xã hội đối lập. Họ coi lực lượng chủ yếu đối lập với chủ nghĩa đế quốc Mỹ là lực lượng của "vùng trung gian" chứ không phải là lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa.
Thuyết "vùng trung gian" này không phân biệt các nước trong vùng đó trên cơ sở phân tích giai cấp. Họ nhập cục các nước đế quốc chủ nghĩa như Anh, Tây Đức, Nhật v.v... với các nước mới giành độc lập, đang phát triển. Mặt khác theo thuyết này thì "vùng trung gian" bao gồm "toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, trừ Mỹ" (Tạp chí Hồng-kỳ, 1963, số 3 - 4). Như vậy có nghĩa là những nước đế quốc và thuộc đia, những nước tiến bộ với những nước theo chủ nghĩa chủng tộc vô cùng phản động ở châu Phi, những chính quyền phản nhân dân ở châu Mỹ la-tinh, những nước phát-xít trước đây như Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha v.v.. đều được đặt ngang bằng như nhau, như những đồng minh của nhau.
Năm 1964, thuyết "vùng trung gian" lại được bổ sung, hoàn chỉnh thêm. Nhân cuộc đấu tranh chống Mỹ ở Pa-na-ma, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung-quốc ra tuyên bố và kêu gọi "thành lập mặt trận thống nhất rộng rãi nhất đấu tranh chống chính sách xâm lược và chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc Mỹ" (Nhân dân nhật báo - 13-1-1964) "Mặt trận thống nhất" này tập hợp các nước xã hội chủ nghĩa và các nước thuộc "vùng trung gian". Nhân dân nhật báo ngày 21-1964 viết: "Vùng trung gian rộng lớn này gồm hai bộ phận: bộ phận thứ nhất gồm các nước độc lập và đấu tranh giành độc lập ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ la-tinh, bộ phận này có thề gọi là vùng trung gian thứ nhất. Bộ phận thứ hai gồm toàn bộ Tây Âu, châu Đại Dương, Ca-na-đa và các nước tư bản chủ nghĩa khác. Bộ phận này có thể gọi là vùng trung gian thứ hai". Ở đây các nước xã hội chủ nghĩa được xếp như nhau, cùng dựa trên một cơ sở họ đều là những nước "muốn thoát khỏi ách kiểm soát của nước Mỹ" (Nhân dân nhật báo, ngày 21-1-1964).
Như vậy là theo thuyết này, sự phát triển của thế giới là do cuộc đấu tranh giành bá quyền quyết định, rằng trong cuộc đấu tranh này, người ta còn có thể tập hợp tất cả thế giới tư bản chủ nghĩa còn lại để đánh đổ sự bá quyền của Mỹ.
Thuyết "vùng trung gian" lại được bổ sung, được hoàn chỉnh hơn nữa sau "cách mạng văn hóa vĩ đại" nhằm làm cho thuyết đó phục vụ trực tiếp hơn cho mục đích bá quyền của Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung-quốc, nhằm biện hộ cho sự xích lại gần hơn nữa với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc.
Việc đầu tiên lúc này là phải "luận cứ" cho việc phân tích kẻ thù chủ yếu của họ. Họ bắt đầu dùng thuật ngữ "chủ nghĩa đế quốc - xã hội". Theo họ thứ "chủ nghĩa đế quốc - xã hội" này nguy hiểm hơn chủ nghĩa đế quốc Mỹ bởi vì Mỹ là thứ chủ nghĩa đế quốc đã "già nua" là thứ chủ nghĩa đế quốc "thông thường" "giãy chết"! Như thế là đế quốc Mỹ nghiễm nhiên không phải là kẻ thù nguy hiểm nhất của Bắc-kinh nữa? Nếu Mỹ không phải là kẻ thù chủ yếu nữa thì vấn đề bình thường hóa quan hệ với nó là một vấn đề có thể và hợp với lô-gích.
Đó là bản chất thực dụng của những "thuyết" của họ. Nhờ thuyết này mà Bắc-kinh hoạt động theo một đồ thức sau đây:
- Trên con đường xác lập sự bá quyền của mình, Trung-quốc gặp hai cường quốc đổi thủ: Mỹ và Liên-xô.
- "Vùng trung gian" gồm những nước đối lập với hai cường quốc ấy.
- Cần phải liên minh với bất cứ lực lượng nào nếu như lực lượng đó chống lại hai cường quốc trên.
- Trong cuộc đấu tranh chống hai cường quốc này, cần phải áp dụng phương pháp phân tích để tìm ra kẻ thủ chủ yếu, từ đó mà tập trung lực lượng, liên minh với kẻ thù thứ yếu quật ngã kẻ thù chủ yếu. Cần phải đánh đổ Liên-xô. Cần phải trung lập hóa Mỹ và sau đó gần gũi với nó, liên minh với nó.
Thực chất của cái gọi là thuyết "vùng trung gian" là như thế.
Nhưng chủ nghĩa thực dụng không dừng lại ở thuyết "vùng trung gian". Nó cần phải biến dạng và thực tế nó đã biến dạng để phục vụ cho mục đích bá quyền trong những điều kiện chủ quan và khách quan mới. Thuyết "vùng trung gian" đã trở thành "thuyết nước trung bình và nước nhỏ". Sự phân tích, sắp xếp lực lượng thực dụng chủ nghĩa này cũng là nhằm tập hợp các nước nhỏ và trung bình-không cần biết chế độ xã hội chính trị của nước đó là gì, để đấu tranh chống "hai siêu cường" phục vụ cho chủ nghĩa bá quyền của Trung quốc.
Tiếp đó, vào tháng 2 năm 1974, trong khi nói chuyện với Hu-a-ri Bu-mê-điên, người đứng đầu Nhà nước Trung-hoa nói: "Theo tôi, Mỹ và Liên-xô là thế giới thứ nhất: phái trung gian là Nhật-bản, châu Âu và Ca-na-đa, đó là thế giới thứ hai... Thế giới thứ ba có dân số rất đông, trừ Nhật-bản ra, châu Á thuộc về thế giới thứ ba, toàn bộ châu Phi thuộc về thế giới thứ ba. Châu Mỹ la-tinh cũng là ở trong thế giới thứ ba. (Nhân dân nhật báo, ngày 1-11-1977).
Trong khóa họp thứ IV của [Đại] Hội đồng Liên hợp quốc, tháng 4 năm 1974, Đặng-tiểu-Bình tuyên bố, rằng trong tình hình có những biến động lớn lao "các lực lượng chính trị trên thế giới" đã "trải qua một sự phân hóa sâu sắc và sắp xếp lại". Khi nói đến sự sắp xếp lại lực lượng ấy, Đặng-Tiểu-Bình đã lại viện đến thuyết "các vùng trung gian". Cái khác lần này là từ "thế giới" được thay thế cho từ ~ "vùng".
Sau khi tuyên bồ rằng phe xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại nữa, các "nhà lý luận" Bắc-kinh bèn phác ra một bức tranh mới về thế giới. Liên-xô và Mỹ nằm trong "thế giới thứ nhất". Các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa còn lại thuộc về "thế giới thứ hai".
Đối với những nhà lý luận về "ba thế giới" thì: "Các nước và nhân dân thuộc thế giới thứ ba là quân chủ lực chống đế quốc, thực dân và bá quyền". Đối với họ không còn phe xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân nữa.
Theo lý luận này thì Trung-quốc không còn nằm trong phe xã hội chủ nghĩa nữa mà thuộc về thế giới thứ ba.
Đây lại là một bước mới của các nhà lãnh đạo Trung-quốc trong việc xác định sự phân bố lực lượng trên vũ đài quốc tế. Cứ theo cái sơ đồ của họ thì "mặt trận thống nhất" chống hai siêu cường" chẳng những chỉ bao gồm các nước tư bản chủ nghĩa, các nước đang phát triển mà cả các nước xã hội chủ nghĩa nữa. Đây cũng lại là một mưu toan nữa định phá vỡ sự thống nhất của sự hợp tác xã hội chủ nghĩa.
Lý luận "ba thế giới" phủ nhận chủ nghĩa xã hội với tư cách là một hệ thống xã hội. Thứ lý luận này phản ánh những quan điểm phản động của các nhà "sáng tạo" ra thứ lý luận ấy, phá hoại về tổ chức đội ngũ của phong trào giải phóng dân tộc.
Trước đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Trung-quốc, đường lối quốc tế của ban lãnh đạo Trung-quốc xác định: thế giới thù địch gồm có Mỹ và Liên-xô. Nhưng đến đại hội X của Đảng Cộng sản Trung-quốc, họ lại đi thêm một bước mới: từ cuộc đấu tranh trên hai mặt trận (chống hai siêu cường") họ chuyển sang chống toàn bộ khối cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Nếu trong những năm 1960, Ban lãnh đạo Trung-quốc tiến hành cuộc đấu tranh chống Liên-xô với khẩu hiệu "đấu tranh chống đế quốc Mỹ và đồng lõa" (ám chỉ Liên-xô) thì bây giờ Liên-xô bị coi là "kẻ thù số 1".
Vậy là từ lý luận "ba thế giới" mà đi tới bớt kẻ thù. Trong thực tiễn, kết quả là Liên-xô được coi là kẻ thù chủ yếu, số 1. Thứ "lý luận" này nhằm che đậy cho chính sách xích gần lại với chủ nghĩa đế quốc nhất là đế quốc Mỹ. Năm 1972 là năm đánh dấu bước ngoặt căn bản trong chính sách đối ngoại của Ban lãnh đạo Trung-quốc: Đặt quan hệ ngoại giao với Nhật (9-1972) với Cộng hòa liên bang Đức (2-1972) là chuyến đi thăm Trung-quốc của Ních-xơn. Bắc-kinh câu kết với khối Na-tô, với khối thị trường chung châu Âu, với những lực lượng phục thù và phản động nhất ở các nước Tây Âu.
"Thế giới thứ ba" được Bắc-kinh quan niệm là "quân chủ lực chống đế quốc, thực dân và bá quyền", "Trung-quốc thuộc về thế giới thứ ba".
Dưới chiêu bài đấu tranh chống "bá quyền của hai siêu cường", Trung-quốc mưu toan cầm đầu thế giới thứ ba, tập hợp các lực lượng ở các nước đang phát triển ở các nước "nhỏ và trung bình".
Để đạt mục đích bá quyền trong "thế giới thứ ba", Ban lãnh đạo Bắc-kinh đã ra sức lợi dụng những xu hướng quốc gia trong đó có những xu hướng chủng tộc, những quan niệm lạc hậu tiểu tư sản chưa chín muồi về chủ nghĩa xã hội trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của các nước Á, Phi, Mỹ la-tinh. Đồng thời Ban lãnh đạo Bắc-kinh cũng ra sức lợi dụng những ảo tưởng nhất định nào đó đối với đường lối của họ trong hàng ngũ một số nhà hoạt động của phong trào giải phóng dân tộc. Ảo tưởng này nảy sinh ra do những thành tựu nhất định về kinh tế của Trung-quốc đã đạt được trong khoảng 10 năm đầu tiên nhờ sự giúp đỡ của Liên-xô, lại được những tên phản bội thổi phồng thêm những cái gọi là "mô hình Trung-quốc", "Chủ nghĩa xã hội Trung-quốc" là mẫu mực cao hơn so với "mô hình Liên-xô" về chủ nghĩa xã hội và so với kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu v.v...
Nhưng trong "đạo quân chủ lực" này, Bắc-kinh đã nắm được những ai? Ở châu Á chỉ là bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xa-ri, ở châu Phi là tên tổng thống Nu-mê-ri chống cộng khét tiếng, ở cái gọi là F.L.M.A chống lại cách mạng Ăng-gô-la, ở chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi. Còn ở châu Mỹ la-tinh thì đó là tên đao phủ Pi-nô-chê.
Liên minh với chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động thế giới, chống Liên-xô, chống các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng - nhằm mục đích bá quyền, đó là thực chất của chiến lược quốc tế của ban lãnh đạo Trung-quốc dựa trên cơ sở lý luận "ba thế giới".
Điều đáng chú ý là lý luận ấy giờ đây được vận dụng vào thực tiễn trắng trợn hơn, phản động hơn, theo chiều hướng câu kết với chủ nghĩa đế quốc Mỹ ngày càng chặt chẽ hơn. Brê-din-xki, cố vấn an ninh của tổng thống Mỹ Ca-tơ nói: "Mỹ có nhiều điểm thống nhất với Trung-quốc. Những điểm thống nhất là căn bản, chủ yếu, còn những điểm không thống nhất là những điểm chi tiết".
Sự câu kết với chủ nghĩa đế quốc Mỹ đã chuyển sang trình độ mới.
Ở châu Phi, Trung-quốc đã ủng hộ, giúp đỡ Xô-ma-li chống lại cách mạng Ê-li-ô-pi-a, đáp ứng sự mong mỏi của Mỹ, Bắc-kinh trắng trợn viện trợ cho Mô-bu-tu, tay sai của Mỹ và khối Na-tô.
Ở Trung Cận Đông, Bắc-kinh hoan nghênh sự phản bội của Xa-đát, tổng thống Ai-cập, coi Xa-đát là anh hùng khi Xa-đát tự tách ra khỏi phong trào các nước Ả-rập để đàm phán riêng rẽ với I-xra-en.
Ở châu Á, hành động bỉ ổi nhất là sự chống phá cách mạng Việt-nam, giúp đỡ bọn Pôn Pốt - Iêng Xa-ri xâm phạm lãnh thổ Việt-nam, tạo ra cái gọi là "nạn kiều" để cắt viện trợ đối với Việt-nam v.v... và gần đây nhất là cuộc chiến tranh xâm lược nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt-nam.
Tóm lại, để thực hiện tham vọng bá quyền, bành trướng nước lớn, do thực chất phản động và phi lý của nó, tập đoàn phản động trong giới cầm quyền ở Bắc-kinh đã phải tung ra mọi thứ lý lẽ thực dụng chủ nghĩa, giả danh cách mạng. Dù là thuyết "vùng trung gian", "nước nhỏ, nước trung bình" cho đến "ba thế giới", tất cả chỉ nhằm lừa bịp dư luận, biện minh cho những mưu đồ phản cách mạng, tập hợp mọi lực lượng phản động, liên minh với đế quốc Mỹ, Nhật-bản và Tây Âu để chống Liên-xô, chống phá phong trào cách mạng thế giới, kể cả phong trào cách mạng của nhân dân Trung-quốc. Và cũng vì mưu đồ cực kỳ phản động ấy, thuyết "ba thế giới" còn thay đổi màu sắc, mang những nội dung và từ ngữ mới, nhưng cơ bản vẫn nhằm phục vụ cho mục đích của tập đoàn phản động trong giới cầm quyền ở Bắc-kinh: bá quyền là tất cả!
IV - "BỐN HIỆN ĐẠI HÓA" VÀ ẢO TƯỞNG XÂY DỰNG TIỀM LỰC KINH TẾ, QUÂN SỰ CỦA CHỦ NGHĨA BÁ QUYỀN, BÀNH TRƯỚNG TRUNG-QUỐC
Đại hội XI của Đảng Cộng sản Trung-quốc đã thông qua mục tiêu chiến lược nhằm thực hiện "bốn hiện đại hóa" và biến Trung-quốc đến cuối thế kỷ này, thành một cường quốc có nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng, khoa học kỹ thuật hiện đại. Mục tiêu này hoàn toàn phụ thuộc vào tham vọng bá quyền, tham vọng đại cường quốc của các nhà lãnh đạo Bắc-kinh.
Vấn đề này không có gì là mới mẻ. Ngay từ năm 1956 người ta đã ấn định mục tiêu: "Vượt Hoa-kỳ trên lĩnh vực kinh tế trong khoảng 50 - 60 năm". Tiếp đó năm 1958 tại phiên họp của Hội nghị Nhà nước cấp cao vào tháng 1, người lãnh đạo của Nhà nước Trung-quốc đã phát biểu ý kiến như sau: "Như 7 - 8 năm gần đây cho thấy ở dân tộc ta đã xuất hiện các triển vọng. Năm ngoái là năm đầy hy vọng nhất. Những khẩu hiệu như "trong vòng 15 năm đuổi kịp nước Anh về việc sản xuất thép và các loại sản phẩm công nghiệp tối quan trọng khác... Tinh thần hăng hái của quần chúng rất cao. Cái đó tạo ra lòng tin rằng chúng ta có thể đuổi kịp nước Anh trong vòng 15 năm".
Các nhà lãnh đạo Trung-quốc đã xây dựng thành một thứ "lịch" phát triển kinh tế Trung-quốc mà những giai đoạn chủ yếu là từng thời kỳ "một năm, ba năm và hai mươi ba năm". Năm thứ nhất dành cho "những bước thắng lợi đầu tiên", sau ba năm những thành tích giành được ắt phải "to lớn" và trong thời gian 23 năm còn lại, trước khi thế kỷ này kết thúc, Trung-quốc phải thực hiện cho kỳ được kế hoạch "bốn hiện đại hóa" là kế hoạch có nhiệm vụ "đưa Trung-quốc lên hàng siêu cường".
Người ta đã ấn định những chỉ tiêu cụ thể nhằm biến Trung-quốc thành một cường quốc, nhằm "đuổi kịp và vượt các nước tư bản phát triển nhất" về sản xuất các loại sản phẩm công nghiệp chủ yếu cũng như tiến kịp hoặc vượt trình độ tiên tiến của thế giới về các chỉ tiêu kỹ thuật kinh tế và sản lượng nông nghiệp tính theo một héc-ta.
Người ta dự định trong kế hoạch 10 năm (1976 - 1985) giá trị sản lượng công nghiệp sẽ tăng trung bình hàng năm là 10%, tăng khối lượng sản xuất các loại sản phẩm công nghiệp chủ yếu ngang với khối lượng sản phẩm đã sản xuất ra trong vòng 28 năm về trước, còn khối lượng vốn đầu tư sẽ ngang bằng tổng số vốn đầu tư từ ngày thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung-hoa tới nay. Đến năm 1965, Trung-quốc phải phấn đấu trở thành một trong những nước đứng hàng đầu thế giới về sản lượng thép, gang, than đá, dầu hỏa và điện lực. Phải đạt sản lượng 60 triệu tấn thép.
Trong vòng 10 năm, sản lượng nông nghiệp hàng năm phải tăng lên 4 - 5%, hơn 85% công việc chủ yếu trong nông nghiệp sẽ được cơ giới hóa. Tổng sản lượng ngũ cốc sẽ đạt tới 400 triệu tấn v.v...
Triển vọng của việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế để tiến lên hàng "siêu cường" của các nhà lãnh đạo Bắc-kinh sẽ như thế nào? Nó có phải là một kế hoạch hiện thực? Đâu là thực chất của kế hoạch đầy tham vọng này?
Nền kinh tế Trung-quốc hiện nay vẫn là một nền kinh tế lạc hậu. Nếu xét về tổng thu nhập quốc dân tính theo đầu người thì Trung-quốc còn kém Mỹ khoảng 30 lần, kém Nhật 10 lần, kém Thổ-nhĩ-kỳ 5 lần và kém nước Cộng hòa dân chủ nhân dân An-giê-ri tới 2 lần(1). Trung-quốc không có cơ sở gì để đến cuối thế kỷ này có thể đuổi kịp và vượt được các nước tiên tiến trên thế giới, bởi vì Trung-quốc còn khá lạc hậu trong việc sản xuất nhiều loại sản phẩm chủ yếu của ngành chế tạo máy móc, hóa học v.v... nói chung là những ngành công nghiệp cơ sở. Nhiều nhà kinh tế cho rằng ngày nay khó có thể xác định được trình độ phát triển và mức độ sản xuất có thể đạt tới của các nước tư bản phát triển nhất vào cuối thế kỷ này để làm căn cứ tính toán và nhận định về kế hoạch phát triển kinh tế của ban lãnh đạo Trung-quốc không tưởng đến mức nào. Điều có thể làm cho mọi người dễ dàng đánh giá hơn về kế hoạch đầy tham vọng này là hãy so sánh để xem Trung-quốc phải nỗ lực như thế nào và có thể nỗ lực được không để đến năm 2000 có thể vươn tới trình độ phát triển kinh tế của Liên-xô trong năm 1977.
Tên sản phẩm Đơn vị tính Sản lượng năm 1977 của Liên-xô Sản lượng năm 1977 của Trung-quốc Trung-quốc phải phát triển kinh tế với nhịp độ như thế nào để năm 2.000 đuổi kịp mức của Liên-xô năm 1977 (%)
Điện Tỷ kw giờ 1.150 120 10,3
Than đá Triệu tấn 722 380 2,9
Thép - 147 23 8,4
Dầu hỏa - 546 85 8,4
Xi - măng - 127 39 5,3
Phân hóa học - 97 32 50
Ô-tô Ngh/chiếc 2.088 90 14,7
Máy kéo 15 mã lực ngh/chiếc 3.027 80 Khoảng 30,
Vải Tỷ mét 10.4 8 1,2
Từ những số liệu đó có thể thấy rằng nếu với điều kiện hết sức thuận lợi thì giỏi lắm đến cuối thế kỷ này Trung-quốc cũng mới chỉ đạt mức sản xuất của Liên-xô năm 1977 về các sản phẩm như: than đá, xi-măng, phân hóa học, vải. Còn về các sản phẩm khác thì khó lòng mà có thể đạt tới, bởi vì muốn thế phải tăng nhịp độ sản xuất hàng năm khoảng 10% trong vòng hơn hai chục năm liền. Sản lượng máy kéo và ôtô so với Liên-xô năm 1977 thật khó mà đạt được. Ấy là không nói đến các chỉ tiêu về kinh tế - kỹ thuật mà Trung-quốc cũng định vượt. Đây là một điều hết sức không tưởng.
Trên đây là nói đến khả năng đuổi kịp mức sản xuất của Liên-xô về than đá, xi-măng, phân hóa học, vải năm 1977 nếu như hoạt động kinh tế được tiến hành trong những điều kiện thuận lợi. Đây cũng là một vấn đề khó khăn đối với tình hình nội bộ của Trung-quốc. Mâu thuẫn gay gắt và cuộc đấu tranh trong nội bộ giới cầm quyền Trung-quốc chính là một trong những nguyên nhân gây khó khăn thường xuyên cho nền kinh tế Trung-quốc.
Tình hình này làm cho mọi người phải đặt ra câu hỏi: đâu là thực chất của kế hoạch phát triển kinh tế của ban lãnh đạo Trung-quốc hiện nay?
Trên thực tế, nội dung báo cáo của Hoa-Quốc-Phong cũng như những nội dung tài liệu của Đại hội XI của Đảng Cộng sản Trung-quốc đều cùng chứa đựng những lời tuyên bố chung chung về sự phát triển sản xuất và kêu gọi "chăm lo đến đời sống của người lao động". Tình hình thực tế đời sống của nhân dân Trung-quốc đến nay vẫn không được cải thiện nhiều so với những năm đầu của chính quyền cách mạng, thậm chí còn có những bước thụt lùi. Tuy nhiên, về bản chất kế hoạch "đuổi kịp và vượt các nước tiên tiến" về kinh tế và khoa học kỹ thuật này lại đi ngược với nguyện vọng của nhân dân lao động Trung-quốc.
Lợi dụng lòng tự hào dân tộc của nhân dân và nguyện vọng chính đáng của họ muốn thoát khỏi tình trạng lạc hậu về kinh tế, những nhà lãnh đạo Bắc-kinh đưa ra kế hoạch "bốn hiện đại hóa" chính là nhằm giải quyết mâu thuẫn trong quá trình thực hiện ý đồ bá quyền, bành trướng của họ: mâu thuẫn giữa tham vọng ngông cuồng với thực lực còn yếu kém.
Trong thời đại ngày nay, trước sức mạnh của phong trào cách mạng thế giới, đồng thời cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật, những người theo chủ nghĩa bá quyền Trung-quốc đã nhận ra rằng chỉ với số dân đông, "biển người" không thề thực hiện được chủ nghĩa bá quyền. Cần phải có những tiềm lực kinh tế mạnh mẽ để sử dụng khối người đông đảo ấy vào mục đích bá quyền. Với quan điểm "súng đẻ ra chính quyền", "súng đẻ ra đảng" v.v..., với quan điểm sùng bái bạo lực, thuyết bạo lực, chiến tranh là vạn năng, quá trình thực hiện tham vọng bá quyền của ban lãnh đạo Bắc-kinh tất yếu phải là quá trình không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh bạo lực.
Sự sùng bái đối với sức mạnh quân sự đã làm cho các giới lãnh đạo chóp bu ở Trung-quốc bằng mọi cách đòi phải tiếp tục tăng thêm tiền của để gia tăng tiềm lực quân sự, "hiện đại hóa quốc phòng".
Địa vị ưu thế của các nhà quân sự là nét đặc trưng trong toàn bộ các mặt cơ cấu và chức năng của xã hội và Nhà nước Trung-quốc hiện nay. Quân nhân là người tiêu biểu cho "vô sản cách mạng" trong chính quyền, bởi vì nó có những đặc quyền của người mang "chuyên chính vô sản". Trên đất nước Trung-quốc, dưới ngọn cờ của cái gọi là "cách mạng văn hóa" đã thiết lập nền chuyên chính quân sự - quan liêu. Trong số 279 ủy viên chính thức và dự khuyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung-quốc được bầu tại Đại hội IX thì 145 ủy viên (gần 53%) là quân nhân. Trong Bộ chính trị thì 15 trong số 25 ủy viên là quân nhân.
Với quan điểm có quân đội là có tất cả, với việc thiết lập sự kiểm soát quân sự đối với đời sống chính tri, xã hội và kinh tế của đất nước như trên thì thực chất của những kế hoạch "đuổi kịp và vượt các nước tiên tiến" vào cuối thế kỷ này là nhằm "hiện đại hóa quốc phòng", củng cố công cụ bạo lực để thực hiện tham vọng bá quyền nước lớn.
Sự thật về thực lực quân sự của Trung-quốc và đặc biệt là sự thật về việc thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt-nam vừa qua đã nói lên rằng: để thực hiện tham vọng bá quyền của mình thì công cụ bạo lực còn xa mới có thề đáp ứng được. Georges Tan eng Bok thuộc trung tâm nghiên cứu chính sách đối ngoại đã viết trong tạp chí Defense Nationale tháng 6-1978 những nhận xét về nền quốc phòng Trung-quốc như sau: "Tiềm năng quân sự của Trung-quốc, tuy một số mặt nào đó đáng kể về số lượng, nhưng hiện nay đã lạc hậu...". "...Nền quốc phòng Trung-quốc tỏ ra không thích ứng lắm với các yêu cầu hiện nay của chiến tranh hiện đại. Lực lượng quy ước tuy có lớn về số lượng tuyệt đối, nhưng nếu xét về tổ chức và trang bị thì lại lạc hậu mất một cuộc chiến tranh. Lực lượng ngăn đe hạt nhân có tạm thời làm nhẹ bớt những thiếu sót của lực lượng quy ước. Tuy vậy, sức mạnh công kích của Trung-quốc chưa bao giờ đạt tới mức đáng tin vừa đủ". Còn về hậu cần thì "hậu cần Trung-quốc lại đặc biệt yếu kém... Tuy Trung-quốc có những kho dự trữ phân tán, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn về tiếp tế nếu chiến tranh nổ ra. Hệ thống vận chuyển chủ yếu trông vào mạng đường xá và xe lửa do đó dễ bị không quân tấn công cắt đứt.
Tóm lại cần phải hiện đại hóa quân đội với những nhu cầu rất lớn về trang bị hiện đại. Có những giải pháp gì để thực hiện? Một là có thể mua ở nước ngoài, hai là phải đẩy mạnh sản xuất ở trong nước. Mua của nước ngoài cho phép có thể nhanh chóng có được một số trang bị hiện đại tối thiểu. Nhưng đó chỉ là cùng kế vì sẽ bị lệ thuộc vào bên ngoài. Cho nên cần phải phát triền mạnh mẽ nền công nghiệp ở trong nước.
Nhưng dù giải pháp nào cũng cần phải có tiền. Dù có gạt bỏ được các trở ngại chính trị và thương mại đối với việc mua trang bị của phương Tây đi nữa thì Trung-quốc cũng gặp nhiều khó khăn về tài chính. Sự phát triển công nghiệp sản xuất vũ khí trong nước, dù có gạt bỏ được những khó khăn hiện nay, cũng đòi hỏi phải có thiết bị, nguyên liệu v.v... nghĩa là cũng cần phải có tiền.
Tất cả những điều đó nói lên rằng, cái gọi là kế hoạch "bốn hiện đại hóa trước hết chỉ là một kế hoạch kinh tế đầy ảo tưởng, không xuất phát từ điều kiện thực tế và quy luật phát triển kinh tế mà lại xuất phát từ nguyện vọng chủ quan muốn tạo ra trong một sớm một chiều những thủ đoạn để thực hiện tham vọng bá quyền, bành trướng nước lớn.
Nhưng dù cho trong nội bộ tập đoàn phản động cầm quyền ở Bắc-kinh có ít nhiều nhận ra được tính chất không tưởng của kế hoạch này và có những điều chỉnh những bước đi này nọ, trong khi vẫn giữ mục đích cơ bản là phục vụ cho chủ nghĩa bá quyền, bành trướng, nó không thể nào che lấp được bản chất chính trị phản động của cái gọi là "bốn hiện đại hóa" này. Bởi vì kế hoạch đó đi ngược lại quyền lợi nguyện vọng của những người dân Trung-quốc trung thực. Kế hoạch đó chẳng qua cũng chỉ là cuộc "đại nhảy vọt" lần thứ hai nhằm cưỡng bức lao động bòn rút sản phẩm thặng dư (và thậm chí cả một phần sản phẩm tất yếu nữa) của nhân dân lao động Trung-quốc để phát triền tổ hợp quân sự - công nghiệp, mau chóng hiện đại hóa quân đội làm công cụ phục vụ cho mục đích bá quyền, bành trướng của bộ máy cầm quyền quan liêu quân phiệt.
Đó là một kế hoạch chủ yếu nhằm quân sự hóa nền kinh tế quốc dân mà hậu quả nặng nề của nó - cũng như cuộc "đại nhảy vọt" những năm xưa, sẽ trút lên vai người dân lao động Trung-quốc.
*
* *
Dù được che đậy như thế não, chủ nghĩa bá quyền bành trướng Trung-quốc ngày càng bộc lộ trắng trợn tính chất phản nhân dân, phản bội chủ nghĩa xã hội của nó nhằm ra sức thực hiện tham vọng bá chủ của Trung-quốc trên thế giới. Cốt lõi của chiến lược quốc tế của thế lực phản động ở Trung-quốc là chủ nghĩa dân tộc, sô-vanh nước lớn. Nó được xây dựng trên cơ sở nước Trung-hoa là "trung tâm của thế giới".
Dựa vào truyền thống tâm lý xã hội lạc hậu đó, cánh theo chủ nghĩa dân tộc trong Đảng Cộng sản Trung-quốc đã từng bước gạt bỏ những phần tử quốc tế chủ nghĩa trong Đảng, dần dần nắm được thực quyền trong Đảng và thi hành đường lối quốc tế dân tộc chủ nghĩa, bá quyền nước lớn.
Đường lối chiến lược đầy tham vọng dân tộc chủ nghĩa, sô-vanh nước lớn bá chủ thế giới của bọn theo chủ nghĩa dân tộc ở Bắc-kinh đã công khai biểu hiện trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại.
Trong chính sách đối nội, họ bắt đầu từ việc thổi phồng vai trò những đặc điểm dân tộc và lớn tiếng tuyên truyền về "con đường Trung-quốc" "mô hình Trung-quốc", áp dụng những chính sách phiêu lưu, duy ý chí đầy tham vọng bá quyền để rồi cuối cùng xác lập chế độ độc tài của nhóm quan liêu quân phiệt, phá hoại những thành quả xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động.
Sự phản hội những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội ở trong nước đã đề ra đường lối điên cuồng chống Liên-xô, chống phá các nước xã hội chủ nghĩa. Hai nhân tố này liên hệ mật thiết với nhau, quy định, ràng buộc lẫn nhau. Đường lối quốc tế phản bội chủ nghĩa xã hội khi được đem ra thực hiện lại liên tục giáng hết đòn này đến đòn khác vào vị trí của chủ nghĩa xã hội ở ngay trên đất Trung-quốc.
Trong quan hệ quốc tế đường lối quốc tế dân tộc sô-vanh, bá quyền bắt đầu từ chỗ tuyên bố "kim chỉ nam tư tưởng" của Đảng Cộng sản Trung-quốc là nguyên tắc "kết hợp chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-lê-nin với thực tiễn cụ thể của cách mạng Trung-quốc". Nhưng về thực chất họ gạt bỏ học thuyết Mác-Lê-nin và tuyên bố "tư tưởng Mao-trạch-Đông" là "giai đoạn mới", "giai đoạn cao nhất của sự phát triển tư duy con người" và kêu gọi "cắm ngọn cờ tư tưởng Mao-trạch-đông trên trái đất".
Tham vọng bá quyền được bộc lộ công khai ở những hoạt động chống Liên-xô, chống phá, chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa; câu kết với các lực lượng đế quốc chủ nghĩa, phản bội lại quyền lợi của giai cấp công nhân; hoạt động chia rẽ trong phong trào cộng sản quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc; công khai câu kết với những lực lượng phản động nhất.
Cuộc chiến tranh xâm lược của bọn bành trướng Bắc-kinh đối với nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt-nam gần đây đánh dấu một giai đoạn mới trên con đường phản bội nhằm thực hiện chủ nghĩa dân tộc, bá quyền nước lớn của tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc-kinh.
Nhưng trên bước đường thực hiện đường lối dân tộc chủ nghĩa bá quyền ấy, bọn theo chủ nghĩa dân tộc ở Bắc-kinh không phải không có những khó khăn và những thất bại. Chính trong những thất bại ấy những phần tử sô-vanh nước lớn ở Bắc-kinh đang ra sức tìm kiếm mọi thủ đoạn, mọi phương tiện hiện nay là việc "bốn hiện đại hóa" mà chủ yếu là nhằm hiện đại hóa quân đội, quân sự hóa nền kinh tế quốc dân, để thực hiện khát vọng bá quyền của chúng.
Chiến lược quốc tế đầy tham vọng dân tộc chủ nghĩa, sô-vanh nước lớn, bá chủ thế giới là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt động, chủ trương đối nội cũng như đối ngoại của giới cầm quyền Bắc-kinh từ trước đến nay.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top