phap o
Tôi giảng về đơn bàn một chút. Đơn bàn là phương pháp xếp bằng vạn bất đắc dĩ có
thể dùng tạm thời khi mà chư vị còn chưa thể [ngồi] song bàn. Đơn bàn tức là một chân ở
dưới một chân ở trên. Có nhiều người trong chúng ta khi đơn bàn, thì xương mắt cá ở cổ
chân rất đau, một lúc là không thể chịu được nữa. [Bắp] chân chưa hề đau gì cả, mà mắt cá
chân đã không thể chịu được nữa rồi. Nếu như bàn chân của chư vị có thể xoay qua, [sao
cho] lòng bàn chân hướng lên trên thì xương [mắt cá] ấy sẽ thụt vào phía trong. Nếu ngay
từ đầu tôi bảo chư vị làm như vậy, thì chư vị cũng không chắc đã có thể thực hiện được;
có thể luyện một cách từ từ.
Xếp chân đơn bàn này có rất nhiều thuyết. Luyện công bên Đạo gia giảng 'nội thu nhi
bất ngoại phóng'; do đó năng lượng cứ thu vào, mà không phóng xuất ra. Họ tránh tản
xuất năng lượng ra. Làm cách nào? Họ giảng rằng đóng chặt huyệt vị lại, do đó thông
thường khi họ ngồi xếp bằng, thì lấy huyệt dũng tuyền này áp vào bắp đùi chân kia, còn
huyệt dũng tuyền kia áp vào [mé trong] đùi chân này. Kết ấn cũng thế. Họ lấy ngón cái áp
vào huyệt lao cung [tay kia], sau đó đặt huyệt lao cung [tay đó] tiếp vào tay [này], rồi [áp]
tiếp vào chỗ bụng dưới.
Xếp bằng trong Đại Pháp chúng ta không hề giảng như thế. Bởi vì tu luyện Phật gia,
bất kể là môn nào cũng vậy, đều giảng 'phổ độ chúng sinh'; do đó, họ không sợ tiết năng
lượng ra ngoài. Bởi vì năng lượng tiết ra ngoài thật sự tiêu hao rồi, thì cũng sẽ được bồi bổ
lại trong khi luyện công mà không cần phó xuất; vì tiêu chuẩn tâm tính ở đó, nó không có
mất. Chư vị muốn đề cao tầng hơn nữa, chư vị phải chịu khổ, do đó năng lượng nó cũng
không mất. Về đơn bàn này chúng tôi không yêu cầu chư vị gì nhiều, [mà] chúng tôi cũng
không yêu cầu [ngồi] đơn bàn. Công pháp này của chúng ta là yêu cầu song bàn; vì có
[người] không thể [ngồi] song bàn, nên tôi nhân đây giảng một chút về đơn bàn cho chư
vị. Hiện nay [nếu] chư vị chưa song bàn được, thì có thể dùng hình thức đơn bàn, dần dần
chư vị cũng phải đặt nốt chân kia lên. Về đơn bàn mà chúng tôi yêu cầu là nam chân phải
ở dưới chân trái ở trên, nữ chân trái ở dưới chân phải ở trên. [Tư thế] đơn bàn chân chính
trên thực tế cũng rất khó: yêu cầu xếp bằng hình chữ 'nhất'. Xếp bằng hình chữ 'nhất' ấy,
tôi nghĩ rằng, cũng không kém [khó khăn hơn] song bàn; về cơ bản hai chân để song song;
nếu làm được như thế, thì giữa chân và bụng có chỗ trống, thực hiện được cũng rất khó
khăn. Ấy là yêu cầu đơn bàn thông thường; tuy nhiên chúng tôi không có yêu cầu như thế;
vì sao? Là vì công pháp này của chúng ta yêu cầu song bàn.
Tôi giảng tiếp đến song bàn. Chúng tôi yêu cầu song bàn; song bàn ấy, chính là [từ
thế đơn bàn,] đưa chân ở dưới xếp tiếp lên trên. Đưa qua mé ngoài, chứ không phải rút ở
mé trong; đó chính là song bàn. Xếp bằng song bàn cũng có xếp bằng 'tiểu'9
. Xếp loại
'tiểu' thì có thể đạt được "ngũ tâm triều thiên"; như vậy lòng bàn chân đều hướng lên trên;
luyện ngũ tâm triều thiên một cách đúng đắn là như vậy, đỉnh đầu, hai lòng bàn tay, [hai]
lòng bàn chân [đều hướng lên trên]; công pháp Phật gia thông thường là vậy. Nếu xếp
bằng 'đại', thì cũng căn cứ theo thế nào thuận tiện cho chư vị; có người thích xếp bằng
'đại'; tuy nhiên chúng ta là [yêu cầu] song bàn; xếp 'đại' cũng được, 'tiểu' cũng khả dĩ.
Tu luyện tĩnh công yêu cầu thời gian đả toạ rất lâu. Khi đả toạ không có ý niệm nào
hết, không suy nghĩ đến điều gì cả. Chúng tôi giảng rằng chủ nguyên thần của chư vị nhất
định phải tỉnh táo, bởi vì công pháp này là luyện bản thân chư vị, chư vị phải đề cao một
cách [tỉnh táo] minh bạch. Bài công pháp này chúng ta luyện như thế nào? Chúng tôi yêu
cầu mọi người: chư vị 'định' thâm sâu đến đâu cũng phải biết được bản thân mình đang
luyện công ở đó, tuyệt đối không cho phép tiến nhập vào trạng thái không biết gì cả. Như
vậy cụ thể sẽ xuất hiện trạng thái nào? Khi định xuống rồi thì sẽ xuất hiện cảm giác rất
tuyệt diệu hệt như ngồi trong vỏ trứng gà, cảm giác thoải mái phi thường, biết rằng bản thân đang luyện công, tuy nhiên cảm thấy thân toàn thân không động được. Điều này trong
công pháp chúng ta ắt sẽ xuất hiện. Còn có một trạng thái, ngồi tới ngồi lui sẽ phát hiện
thấy không có chân nữa, [cảm] tưởng không rõ chân đã đi đâu, thân thể cũng không có,
cánh tay cũng không có, [bàn] tay cũng không có, chỉ còn mỗi cái đầu. Luyện tiếp sẽ phát
hiện cái đầu cũng không còn, chỉ còn tư duy của bản thân mình, một chút ý niệm biết rằng
bản thân mình đang luyện công tại đó; phải trụ được một niệm ấy. Chúng ta nếu đạt đến
trình độ ấy là rất đủ rồi. Vì sao? Tại trạng thái như vậy thì người ta luyện công thân thể đạt
đến trạng thái diễn hoá đầy đủ nhất, [là] trạng thái tốt đẹp nhất; do đó chúng tôi yêu cầu
chư vị nhập tĩnh vào trạng thái như vậy. Tuy nhiên chư vị không được ngủ đi mất, mê mờ
đi mất, [nếu] không trụ được một niệm ấy, [thì] tu vô ích, tương đương với ngủ mà không
luyện. Luyện công xong, thì song thủ hợp thập xuất định, vậy là luyện công xong.Phụ lục I: Yêu cầu đối với trạm phụ đạo Pháp Luân Đại Pháp
1. Trạm phụ đạo Pháp Luân Đại Pháp tại đâu cũng là các tổ chức có tính quần chúng
chuyên nhất tổ chức thực tu phụ đạo tu luyện; kiên quyết không thành tổ chức kinh tế
cũng như [không dùng] phương pháp quản lý cơ cấu hành chính. Không giữ tiền, vật,
không có hoạt động trị bệnh. [Áp dụng phương pháp] quản lý lơi lỏng.
2. Trạm trưởng tổng trạm của Pháp Luân Đại Pháp cũng như các nhân viên công tác cần
phải là những người thực tu chuyên nhất chỉ tu luyện Pháp Luân Đại Pháp.
3. Khi hoằng dương Pháp Luân Đại Pháp cần phải chiểu theo tư tưởng và hàm nghĩa
trong Đại Pháp mà truyền; không được lấy quan điểm cá nhân hay phương pháp của
công pháp khác mà truyền như là điều của Pháp Luân Đại Pháp, [nếu không sẽ] làm
người tu luyện dẫn đến những suy nghĩ không đúng đắn.
4. Tổng trạm các nơi đều tuân thủ pháp luật quốc gia, không can thiệp đến chính trị; đề
cao tâm tính người tu luyện là thực chất của tu luyện.
5. Trạm phụ đạo các nơi [nếu] có điều kiện cần phải liên hệ giao lưu tương hỗ, thúc đẩy
những người tu luyện Đại Pháp đề cao toàn thể. Không cho phép có tư tưởng cục bộ
bài ngoại; độ nhân không phân biệt địa phương, nhân chủng; đâu đâu cũng thể hiện
tâm tính của đệ tử chân tu; [hễ] tu Đại Pháp thì đều là đệ tử đồng môn.
6. Kiên quyết phản đối các hành vi phá hoại nội dung của Đại Pháp; bất kể đệ tử nào
cũng không được lấy điều mà ở tầng thấp của mình, chỗ [mình] thấy được, nghe
được, cảm thụ ngộ được mà giảng nói như là nội dung của Pháp Luân Đại Pháp, và
[thực hiện] cái gọi là 'truyền Pháp'. Ngay cả giảng 'hành thiện' cũng không được; bởi
vì chúng không phải là Pháp, [mà chỉ] là lời khuyến thiện của người thường, không
mang theo Pháp lực [có thể] độ nhân. Hết thảy những ai lấy những điều bản thân
mình cảm thụ được mà 'giảng Đạo' đều là hành vi loạn Pháp nghiêm trọng; khi giảng
lời mà tôi nói thì nhất định phải [nói] thêm rằng 'Sư phụ Lý Hồng Chí đã nói ...' v.v.
7. Nghiêm cấm các đệ tử Đại Pháp luyện tạp lẫn công pháp khác (bị xuất thiên [sai] đều
thuộc loại người này); [ai] không nghe theo cảnh cáo này thì khi xuất hiện vấn đề
phải tự chịu trách nhiệm. Hãy chuyển lời này cho các đệ tử: trong khi luyện công mà
mang theo ý niệm hay hoạt động tư tưởng của công pháp khác là không được. Hễ
động niệm thì chính là bản thân đang cầu thứ của môn ấy; hễ luyện tạp lẫn là Pháp
Luân sẽ biến hình, mất hiệu quả.
8. Người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp phải đồng tu cả tâm tính và động tác. Ai chỉ
luyện động tác không coi trọng tâm tính, thì không thể nào được thừa nhận là đệ tử
Pháp Luân Đại Pháp; do vậy phải coi việc học Pháp đọc sách là khoá tu cần làm hàng
ngày.1. Hết thảy các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp khi truyền Pháp, chỉ có thể dùng "Sư phụ Lý
Hồng Chí đã giảng..." hoặc "Sư phụ Lý Hồng Chí đã nói...". Tuyệt đối không dùng
những điều bản thân mình cảm giác, thấy được, biết được hoặc những điều trong môn
phái khác mà [giảng nói] như là Đại Pháp của Lý Hồng Chí, nếu không điều truyền ra
ấy không phải là Pháp Luân Đại Pháp, mà chính là phá hoại Pháp Luân Đại Pháp.
2. Hết thảy các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp khi truyền Pháp, có thể [mở] nhóm đọc sách,
nhóm toạ đàm, hoặc tại nơi luyện công mà [đọc] Pháp Sư phụ Lý Hồng Chí đã giảng;
không được [bắt chước] theo hình thức của tôi là dùng hội trường giảng Pháp làm
hình thức truyền Pháp. Người khác không giảng được Đại Pháp này, cũng sẽ không
biết được những gì tôi suy nghĩ tại tầng của tôi, Pháp mà tôi giảng cũng như hàm
nghĩa chân chính trong ấy.
3. Tại nhóm đọc sách, nhóm toạ đàm, hoặc tại nơi luyện công mà nói chuyện về những
điều lý giải hoặc nhận thức về Đại Pháp, cần phải nói rõ rằng đó là "thể hội cá nhân".
Không cho phép trộn lẫn giữa Đại Pháp được truyền với "thể hội cá nhân"; lại càng
không được phép lấy "thể hội cá nhân" mà nói thành như là điều Sư phụ Lý Hồng Chí
giảng.
4. Hết thảy các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp khi truyền Pháp dạy công, tuyệt đối cấm chỉ
thu phí nhận quà; ai vi phạm đã không còn là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp.
5. Hết thảy các đệ tử Đại Pháp đều không được lấy cớ truyền công, hay bất kể cớ gì để
điều trị bệnh cho người học công; nếu không thì chính là phá hoại Đại Pháp.
Lý Hồng Chí
25 tháng Tư, 1994 Phụ lục III: Tiêu chuẩn phụ đạo viên Pháp Luân Đại Pháp
1. Biết quý trọng công pháp này, có nhiệt tình công tác, mong muốn nghĩa vụ phục vụ;
tích cực tổ chức hoạt động luyện công cho học viên.
2. Phụ dạo viên phải là người chuyên nhất tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Nếu học công
pháp khác, thì được coi là tự động từ bỏ tư cách học viên và phụ đạo viên Pháp Luân
Đại Pháp.
3. Tại điểm luyện công cần tuân thủ nghiêm khắc kỷ luật; khoan dung với người; giữ
vững tâm tính; hỗ trợ bạn bè thân ái.
4. Hoằng dương Đại Pháp, thành tâm dạy công {động tác}; tích cực phối hợp và ủng hộ
tổng trạm trong các công tác khác nhau.
5. Có nghĩa vụ dạy công {động tác}; nghiêm cấm thu phí nhận quà; người luyện công
không cầu danh cầu lợi, chỉ cầu công đức.
1. Pháp Luân Đại Pháp là công pháp của tu luyện Phật gia; không ai được phép mượn
danh nghĩa tu luyện Pháp Luân Đại Pháp để tiến hành tuyên truyền tôn giáo khác.
2. Hễ là người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thì phải nghiêm khắc tuân thủ pháp luật
quốc gia của mình; hễ ai có hành vi vi phạm chính sách pháp luật quốc gia, thì đều là
điều không được dung nạp trong công đức của Pháp Luân Đại Pháp. [Hành vi] vi
phạm cũng như hết thảy những hậu quả đều là do đương sự tự chịu trách nhiệm.
3. Hễ là người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thì đều cần tích cực duy hộ đoàn kết
[trong] giới tu luyện, cộng đồng gắng sức vì sự nghiệp phát triển truyền thống văn
hoá của nhân loại.
4. Các học viên, phụ trách viên, cùng các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp, trừ phi được phê
chuẩn của người khai sáng, chưởng môn, hoặc bộ phận hữu quan, thì không được coi
bệnh cho người; càng không được tự [đi] coi bệnh thu phí nhận quà.
5. Các học viên Pháp Luân Đại Pháp, [hãy] lấy tu luyện tâm tính làm [cơ] bản, tuyệt đối
không được can thiệp đến chính trị quốc gia, càng không được tham dự vào hoạt động
đấu tranh có tính chính trị; ai vi phạm thì đã không còn là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp,
hết thảy những hậu quả đều do đương sự tự chịu trách nhiệm. Hãy lấy: 'sớm đến ngày
viên mãn', 'tinh tấn thực tu' làm bản nguyện.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top