khung hoang kinh te
Được, mất trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007 - 2009
Hồ Hải
Tia sáng
07:14' AM - Thứ năm, 17/06/2010
Chuyện khủng hoảng kinh tế toàn cầu cuối cùng là chuyện của thế giới phân cực trở lại thời kỳ chiến tranh lạnh. Một thời mà cuộc đối đầu ý thức hệ đã đi vào quá khứ. Một kỷ nguyên mới xuất hiện. Kỷ nguyên của thông qua chiến tranh tiền tệ để chiếm giữ thị trường thế giới, tranh giành năng lượng và lương thực toàn cầu trong thời kỳ bùng nổ các ngành công nghiệp mới và dân số.
Người Trung Quốc đã biết sử dụng 2 lợi thế quan trọng của mình là đông dân và giá nhân công rẻ. Họ đã bắt tay vào một thời kỳ phát triển mới sau những sai lầm của thời kinh tế bao cấp. Sau 30 năm bắt tay với người Mỹ, chuyển đổi kinh tế thị trường, người Trung Quốc đã chiếm lĩnh hầu hết thị trường tiêu thụ hàng tiêu dùng trên khắp toàn cầu với chiến lược giá rẻ. Họ đã mang lại sự tăng trưởng cho đất nước họ bằng những tỷ lệ nóng 10% GDP trong suốt 13 năm liên tiếp. Khi đạt được dự trữ ngoại tệ có thể đủ sức chống lại những tay đầu cơ tài chính thế giới. Họ đã kềm giá đồng Nhân dân tệ (NDT)ở giá thấp để phục vụ cho chiến lược xuất khẩu hàng giá rẻ, mà bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng không thể cạnh tranh lại.
Người Mỹ đã quá tự kiêu và tự mãn đã dựa vào sự thao túng của phố Wall làm đồng USD là chủ soái cho mọi giao dịch toàn cầu. Họ còn tự mãn khi họ nắm toàn bộ các nền công nghiệp nặng đang dẫn đầu thế giới. Họ mải mê men say của kẻ vô địch sau sự sụp đổ Liên Xô cũ và Đông Âu. Một ngày đẹp trời họ choàng tỉnh giấc mơ, thì cơn nóng hầm hập đang phà ra phía sau gáy là cuộc rượt đuổi của con hổ châu Á Trung Quốc đang cận kề. Khi đảng Cộng hòa đã sử dụng đồng tiền của dân đóng thuế liên tục phục vụ cho những cuộc chiến tranh giành những vùng năng lượng trên toàn cầu. Thâm thủng ngân sách và mất lòng toàn thế giới là điều không thể tránh khỏi, để rồi họ vội vã tìm lại hình ảnh của chính mình trong con mắt của người dân sở tại và của toàn cầu.
Thế giới các nước đã phát triển Âu - Á cũng vì thói thực dụng đã tận dụng nhân công giá rẻ và đông dân của Trung Quốc. Họ đã đầu tư quá sâu vào nền kinh tế Trung Quốc hầu hết các công nghệ sản xuất hàng tiêu dùng. Thậm chí họ chỉ làm đơn đặt hàng rồi đem hàng đó về nước mình đóng lại nhãn mác để kiếm lời, mà không phải làm gì. Họ cũng đã giật mình khi con hổ ngủ bao nhiêu năm bừng tỉnh và là tai họa cho nền kinh tế với nhân công cao ngất trời của họ.
Gậy ông lại đập lưng ông vì thói thực dụng và hám lợi của thế giới tư bản đang huênh hoang tự đắc. Người Trung Quốc quay lại dạy cho họ một bài học thấm thía: Kiến ăn cá rồi có ngày cá lại ăn kiến!
Người Mỹ đã làm gì?
Họ đã thay đổi cách ứng xử bằng đưa lên một vị Tổng thống da màu thuộc Đảng Dân chủ đã từng theo Hồi giáo, để cải thiện cái nhìn thiện cảm hơn của thế giới Hồi giáo. Họ đã cải cách những lỗ hổng chết người trong quản lý tài chính, y tế, v.v… bằng cách tạo ra cuộc khủng hoảng toàn cầu, để dạy người Mỹ biết yêu nước, biết tiết kiệm và biết nhìn lại mình. Họ đã làm cho hàng loạt tổ chức tài chính đang ăn nên làm ra và chiêu dụ cả thế giới đổ tiền vào mua những tờ cổ phiếu với giá rất nóng, đi đến sụp đổ. Họ biết cách giật tiền của thế giới bằng luật phá sản và giảm giá đồng USD thống soái toàn cầu. Đã thế, họ còn buộc người Trung quốc phải mở hầu bao để cho họ mượn cho việc kích cầu lên đến hơn 800 tỷ USD Ngậm đắng nuốt cay sau cú thua giật tiền theo phong cách Mỹ, người Trung Quốc phải cứu vớt anh bạn đối tác Mỹ để hy vọng tiến trình sụp đổ theo thuyết Domino bớt ảnh hưởng đến chiến lược xuất khẩu hàng giá rẻ của mình.
Các nhà chiến lược cho rằng thâm thủng ngân sách thương mại là nguyên nhân khủng hoảng. Các nhà quản lý tài chính thế giới cho rằng yếu kém trong quản lý tài chính là nguyên nhân. Nhưng các nhà theo trường phái thuyết âm mưu cho rằng đây là âm mưu sắp đặt của người Mỹ, mà đứng sau lưng là các nhà tài phiệt phố Wall và FED đã tạo ra để nước Mỹ có dịp tái cơ cấu mọi việc, và cũng là dịp hôi của của họ đối với thế giới còn lại, kể cả những người dân Mỹ đã và đang còng lưng làm ra của cải.
Được – Mất
Không chỉ có Trung quốc thiệt hại, mà còn nhiều nước trên thế giới bị thiệt hại theo sự suy thoái mà người Mỹ tạo ra. Singapore là điển hình rõ nhất, khi đầu năm 2009 họ tính toán lại thì hơn 50 tỷ đô la Singapore đã đi theo những sụp đổ các tổ chức tín dụng Mỹ. Châu Âu cũng không khá hơn gì khi đồng Euro tăng giá từ 1 Euro ăn chỉ 0.9USD thì sau đó chỉ vài tháng 1 Euro ăn đến hơn 1.4USD. Mọi xuất khẩu của châu Âu ngưng trệ, du lịch đi vào thời kỳ đình đốn. Mọi chống đỡ của châu Âu không thể cứu vãn những thành viên nghèo nhất như Iceland và Hy Lạp mới đây, tương lai còn Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đang chờ ngày hấp hối. Cú tung tiền của người Đức cứu Hy Lạp là muốn chứng tỏ đầu tàu châu Âu. Nó đã là miếng mồi ngon cho những cái mũi rất thính ở phố Wall làm mưa làm gió trên giá vàng, trên cuộc chiến tiền tệ đã được lắp kíp nổ chờ ngày khai hỏa.
Dù có thiệt hại do thất nghiệp và một số hủy hoại môi trường làm thức tỉnh cho sự phát triển quá nóng của kinh tế Trung Quốc chạy theo tăng trưởng GDP, mà không quan tâm đến những tai hại khác mang đến. Nhưng người Trung Quốc họ vẫn còn món lợi xuất khẩu hàng giá rẻ. Họ giữ được tăng trưởng kinh tế cao dù có khủng hoảng đi đến đỉnh điểm năm 2009 vẫn 8.7%, năm 2008 vẫn 10.4% và dự kiến năm 2010 này vẫn con số 8.8%. Ngoài ra đây là một bài thuốc cảnh tỉnh họ về vấn nạn môi trường, cơn vỡ bong bóng bất động sản và bao nhiêu di họa về một rối loạn hình thái xã hội do các quyền lợi nhóm sẽ bùng phát, khi làn sóng công nhân bị bóc lột tự vẫn liên tục mấy tháng qua. Họ đã kịp cứu nguy bằng lý thuyết xã hội hài hòa để đưa nền văn minh đến nông thôn, nơi mà lâu nay bị bỏ bê.
Tóm lại, suy thoái kinh tế đã đưa Trung Quốc lưỡng đầu thọ địch khi thế giới cùng nhau tấn công chiến lược hàng giá rẻ của Trung Quốc. Nhưng thế giới lòng tham không cưỡng lại được hàng giá rẻ. Và Trung Quốc vẫn theo đường lối: “chó cứ sủa, đoàn người vẫn cứ đi”. Và suy thoái còn giúp họ quan tâm đến phát triển nội địa, tạo công ăn việc làm trên chính đất nước họ, giúp họ hoàn thiện hơn trước đây là chỉ áp dụng chính sách một nhà nước mạnh và ổn định chính trị để phát triển, mà bỏ quên tầng lớp nhân dân bần cùng ở nông thôn như trước suy thoái kinh tế.
Người Mỹ luôn thực dụng, dù thực dụng đã là gậy ông đập lưng ông trong quan hệ giao thương với Trung Quốc. Người ta cho rằng mối quan hệ Mỹ - Trung đã đến thời kỳ như cặp vợ chồng đồng sàng nhưng dị mộng. Họ không ly dị nhau được, nhưng họ vẫn sẵn sàng tranh đua nhau giành vị thế độc tôn. Mỹ luôn lớn tiếng kêu gọi Trung Quốc phải tăng giá đồng NDT. Trung Quốc vẫn hứa và hứa, vì Trung Quốc biết đây là chiêu tuyệt kỷ để họ lấy làm sức mạnh với "thế giới còn lại". Dù cả thế giới kêu gào hơn 2 năm qua, nhưng chỉ mới cách đây vài hôm – ông Hồ Cẩm Đào – chính thức “hứa” sẽ cải cách tài chính, nhưng theo cách riêng của họ, độc lập với mọi yêu cầu của "thế giới còn lại".
Cuối cùng, chỉ có Mỹ và Trung Quốc có lợi trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007-2009. Họ giúp nhau và cho nhau vay tiền. Dù sau cuộc vay người Mỹ nâng số nợ của mình lớn nhất thế giới – hơn 9.000 tỷ USD, nhưng chỉ chiếm 6.25%GDP của Mỹ thì có thấm vào đâu. Và dù Trung Quốc tăng trưởng nóng suốt 13 năm qua, nhưng GDP của họ (8.789 tỷ USD năm 2009) cũng chỉ bằng 61.6% GDP Mỹ (14.260 tỷ USD năm 2009), trên một đất nước đông dân hơn Mỹ 4 lần. Trong khi đó, Mỹ làm được nhiều điều. Mỹ lấy lại sự tăng trưởng ngoài mong đợi của FED, lên đến hơn 3% trong mấy tháng đầu năm 2010. Số công ăn việc làm tăng thêm 29.000 trong tháng 4/2010. Công nghiệp xây dựng nhà gia tăng 5.8%. Doanh số bán lẻ chung tăng 1.6%. Thâm hụt ngân sách giảm so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đồng Euro bắt đầu xuống dốc khi người Đức tung tiền để cứu giúp nền kinh tế Hy Lạp sắp sụp đổ. Châu Âu đang bấn loạn. Người Trung Quốc bắt đầu lạm phát gia tăng khi 44 trong 77 mặt hàng nông sản thực phẩm tăng giá từ 25% đến 100%. Tình hình tự tử của công nhân và vấn nạn thảm sát cộng đồng do áp lực cuộc sống liên tục xảy ra gần đây. Và cái bong bóng tăng trưởng đã đẩy những đầu tư bất động sản của Trung Quốc đến hồi căng phồng sắp vỡ. Ho đã khôn ngoan “hứa” sẽ cải cách tài chính sau một cuộc đua dài kềm giá đồng NDT ở mức thấp.
Suốt bốn thập kỷ qua, thế giới như một tam quốc phân tranh: Mỹ - Nga và Trung Quốc. Đầu thập kỷ 1970, người Mỹ đã kéo Trung Quốc về phía mình, kết quả là sụp đổ Liên Xô cũ và Đông Âu. Sự trỗi dậy của Trung Quốc gần đây là mối đe dọa ngôi vị số 1 của Mỹ. Họ đã dùng chiêu bài cũ khi kéo người Nga đồng thuận về phía mình. Vài tháng gần đây, người Nga đã bắt đầu thuận thảo với Mỹ về vấn đề Iran và Bắc Hàn. Cuộc chiến tranh tiền tệ kéo dài 4 năm từ 2006 đến nay đã đến hồi kết thúc. Ai được – ai mất thì đã rõ. Có phải chăng vị thế số 1 thế giới của người Mỹ đã được khẳng định lại, khi Trung Quốc tuyên bố ngưng viện trợ Bắc Hàn, và hậu thuẫn bao vây kinh tế Iran. Hai đối tác để Trung Quốc dùng làm đối trọng với "thế giới còn lại". Ngoài ra lạm phát cho thấy hậu quả tăng trưởng nóng suốt 13 năm qua đã bắt đầu gây tác hại, khi sàn chứng khoáng của họ bắt đầu rớt giá sâu nhất trong một năm qua. Nên họ bắt đầu tung cờ trắng để lùi lại, và tuyên bố ẫm ờ là sẽ cải tổ tài chính trong cuộc chiến tiền tệ? Hãy chờ xem đoạn kết vẫn còn dài.
Bất kỳ lãnh tụ quốc gia nào cũng thế, họ chỉ vì quốc gia dân tộc họ. Khi nguy nan, lúc thăng tiến họ đều vì mục tiêu tối hậu này. Các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu thực chất là khủng hoảng thừa do lòng tham con người lợi dụng kẽ hở quản lý. Khủng hoảnh kinh tế toàn cầu là hiểm họa mà cũng là thời cơ. Quốc gia nào biết lợi dụng nó thì sẽ được lợi, và ngược lại. Đó là hai bài học rút ra trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vô tiền khoáng hậu 2007-2009.
Nguồn: Tia sáng
Toàn cầu hoá, kinh tế thị trường và sự nghèo đói
Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group
Sách Cải cách và sự phát triển
09:04' PM - Thứ bảy, 19/03/2011
Trên các phương tiện thông tin đại chúng, không chỉ ở Việt Nam mà hầu như trên toàn thế giới, người ta nói rất nhiều về sự nghèo đói và hiện tượng chênh lệch giàu nghèo. Tuy nhiên, ở đây có một điểm cần làm rõ, đó là phải phân biệt sự nghèo đói với khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, sự nghèo đói và chênh lệch giàu nghèo với nhận thức về chúng.
Cần phải khẳng định rằng, toàn cầu hóa chỉ làm cho sự nghèo đói xuất hiện và được chú ý hơn, chứ không phải làm cho người ta nghèo đói hơn. Trước đây, khi tất cả mọi người đều nghèo đói, nhất là trong một thế giới ít thông tin, sự nghèo đói bị chìm đi. Thế nhưng, toàn cầu hoá, với luồng thông tin thông thoáng, đã khiến người ta cảm nhận rõ ràng hơn sự nghèo đói của mình trong mối tương phản với sự giàu có của những dân tộc khác. Cũng bởi thế mà một số người vội vã đổ lỗi cho toàn cầu hoá, quên mất rằng chính nó đã, đang và sẽ đem đến cho dân tộc mình rất nhiều cơ hội phát triển.
Hãy nhìn lại những diễn biến gần đây của thế giới để thấy rằng, sự luân chuyển mạnh mẽ dòng vốn giữa các quốc gia, quá trình chuyển giao công nghệ sôi động cùng với sự phổ biến các tiêu chuẩn về lao động và môi trường đã giúp và buộc các quốc gia, nhất là những nước thuộc thế giới thứ ba, cải thiện bức tranh kinh tế xã hội của mình như thế nào. Toàn cầu hóa có tác động quan trọng nhất là khai thác việc sử dụng một cách hiệu quả lợi thế so sánh của các quốc gia, và hơn thế nữa, nó giúp các quốc gia phát huy những lợi thế ấy. Dường như, lý thuyết về việc khai thác chi phí nhân công rẻ đã không còn tuyệt đối đúng và giữ nguyên màu sắc nguyên thuỷ của nó nữa. Trước đây, khi toàn cầu hóa còn ở mức thấp, các nước giàu chỉ khai thác lao động về mặt số lượng, hay nói khác đi, họ chỉ tận dụng những lao động cơ học, thay vì tạo điều kiện để tăng cường hàm lượng chất xám của những lao động ấy. Ngày nay, toàn cầu hóa buộc các quốc gia phải tăng cường chất lượng lao động cũng như tiêu chuẩn hóa lao động của mình, phải đặt vấn đề về việc sử dụng lao động tù nhân, lao động trẻ em... thay vì khai thác theo kiểu bóc lột như trước đây.
Toàn cầu hóa cũng đã làm thay đổi tư duy của mọi người về hoạt động đầu tư của các nước giàu có. Trước đây, người ta nhìn nhận nó đơn thuần như một quá trình khai thác tài nguyên, mà kẻ hưởng lợi duy nhất là những nước đi đầu tư. Ngày nay, hoạt động này được công nhận như một quá trình hợp tác "win-win", đôi bên đều có lợi. Các nước đầu tư đã, đang và sẽ tái phân phối sự giàu có của mình và giúp các nước nghèo đói khai thác và chỉ cho họ cách thức để tạo ra sự giàu có cho riêng mình. Bên cạnh đó, các nước đầu tư cũng có thể mở rộng thị trường của mình qua việc làm cho một bộ phận dân cư ở các nước nhận đầu tư trở nên giàu có hơn, và do đó, có điều kiện tiêu dùng sản phẩm của mình. Cũng nhờ thế, quá trình này phần nào giúp các nước đang phát triển giải quyết vấn đề việc làm và gia tăng những điều kiện thuận lợi để thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nên ý thức về những bài toán mà toàn cầu hóa đặt ra. Thứ nhất, toàn cầu hóa buộc các quốc gia phải đối mặt với những nguy cơ tụt hậu, nó cũng buộc các quốc gia phải chấp nhận thay đổi mà đôi khi là những thay đổi đau đớn. Toàn cầu hóa sẽ chỉ ra những hạn chế về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, sẽ khiến các doanh nghiệp phải tham gia vào một cuộc chơi với những luật chơi khắc nghiệt, để hoặc tận hưởng những cơ hội mà nó mang lại, hoặc chấp nhận bị phá sản. Vì thế, nó sẽ kéo theo hệ quả thất nghiệp như là nguyên nhân của sự lan tràn các tệ nạn xã hội. Thứ hai, toàn cầu hóa chỉ ra một cách rõ ràng sự lạc hậu của năng lực một dân tộc, năng lực doanh nghiệp và năng lực cá nhân. Hơn bất kỳ lúc nào, người ta sẽ phải đánh giá một cách sâu sắc về "tính có thể mua bán được" của những giá trị lao động của mình. Thứ ba, toàn cầu hóa cũng sẽ yêu cầu các quốc gia phải giải bài toán đánh đổi tăng trưởng về kinh tế với tính ổn định của chính trị và xã hội bởi nó thổi vào các quốc gia những luồng tư duy mới rất có thể gây ra những xáo trộn tạm thời.
Cũng tương tự như vậy, chúng ta phải nhận thức lại vấn đề chênh lệch giàu nghèo. Xét về mặt xã hội học, chênh lệch giàu nghèo trở thành vấn đề xã hội thực sự và làm nảy sinh những vấn đề mang tính tâm lý tác động không tốt tới nhiều mặt của đời sống xã hội. Điều này thể hiện qua việc xuất hiện và tồn tại tâm lý hằn học với sự giàu có, đố kỵ với những nhà kinh doanh, ác cảm với những người thành đạt không theo quan niệm truyền thống cũ. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, người ta đổ lỗi cho kinh tế thị trường, cho toàn cầu hóa hoặc tự do thương mại, coi đó như là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, buôn lậu, và các hành vi trục lợi hoặc tạo ra ưu thế và lợi ích cho người giàu, hạn chế và làm thiệt hại đến quyền lợi của người nghèo và là nguyên nhân khiến khoảng cách giàu nghèo ngày càng mở rộng. Tâm lý tiêu cực này nảy sinh trên cơ sở nhận thức không đúng đắn về chênh lệch giàu nghèo. Nhận thức lại vấn đề sẽ giúp chúng ta hình thành tâm lý xã hội đúng đắn và chỉ có như vậy mới đưa ra được những biện pháp phù hợp để xoá đói giảm nghèo tiến tới thu hẹp khoảng cách phát triển vốn là hố sâu ngăn cách giữa nhiều quốc gia, nhiều cộng đồng đang cùng sống chung dưới một mái nhà thế giới.
Chúng ta cần nhận thức chênh lệch giàu nghèo là hiện tượng tất yếu của xã hội. Chúng ta không thể xoá bỏ được chênh lệch giàu nghèo bởi nó thể hiện kết quả của chênh lệch năng lực tự nhiên giữa các cá thể. Điều chúng ta có thể làm được là nâng cao mức sống của người nghèo thông qua việc nâng cao năng lực của chính họ. Chỉ có trên cơ sở đổi mới quan điểm như vậy chúng ta mới xây dựng được một tâm lý xã hội tích cực đối với vấn đề chênh lệch giàu nghèo. Đây cũng chính là tiền đề để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
Chúng ta cũng cần đặt lại vấn đề về mối liên quan giữa chênh lệch giàu nghèo với toàn cầu hóa và kinh tế thị trường. Toàn cầu hoá, một lần nữa xin được nhấn mạnh, chưa bao giờ làm người ta nghèo đói hơn, mà chỉ làm cho vấn đề nghèo đói và khoảng cách giàu nghèo được ý thức một cách rõ ràng và đầy đủ hơn mà thôi. Cũng như vậy, kinh tế thị trường không phải là nguyên nhân của chênh lệch giàu nghèo, trái lại, những điều kiện này giúp người ta ý thức đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về sự nghèo đói. Còn hơn thế nữa, người giàu, trong chừng mực nào đó, còn là tấm gương, sự giàu có còn là mục tiêu để những người nghèo phải nỗ lực vươn lên. Sẽ hoàn toàn không quá đáng nếu chúng ta nói rằng toàn cầu hoá, kinh tế thị trường là cơ may để các dân tộc đang phát triển thoát khỏi nghèo đói.
Nguồn: Sách Cải cách và sự phát triển
Bức tranh và viễn cảnh của sự phát triển Kinh tế
Nguyễn Tất Thịnh
06:33' AM - Thứ sáu, 15/04/2011
Hoạt động kinh tế là hoạt động phổ biến và trung tâm nhất của Loài người, đó là gốc của mọi nguyên nhân và thu hút và cuốn vào đó mọi nỗ lực, thành tựu ở những lĩnh vực khác. Từ khi có cuốn sách của ông Tổ của học thuyết kinh tế là Adam Smith (sự giàu có của các Dân tộc), sự phát triển phồn vinh kinh tế cũng là thước đo văn minh của các Quốc gia.
Thật tệ hại thay! Chính sự phát triển kinh tế và những hệ quả của nó như chúng ta đang thấy là cái cách gần như không cứu vãn được chính nền văn minh Nhân loại. Tôi suy nghĩ và vẽ bức tranh đó dưới đây để mô tả toàn bộ cái bản chất và khuynh hướng đó!
Ba giải pháp lớn ( cấp độ Toàn Cầu ) có thể hy vọng là :
- Một Thể chế được tổ chức hóa mang tính toàn cầu tập trung ý chí cao nhất và thực sự quyền lực có thể đủ sức mạnh và năng lực đề xuất cũng như triển khai, giám sát hưu hiệu một chính sách điều tiết kinh tế đối với mỗi Quốc gia thành viên sao cho tối thiểu xung đột tranh chấp, tiết kiệm cao nhất chi phí tài nguyên
- Không chậm trễ, giành những nỗ lực cao nhất và ngân sách cấp độ toàn cầu để ứng dụng Công Nghệ Xanh trong các lĩnh vực kinh tế. Hồi phục những tổn thất về môi trường để không gây ra hiệu ứng dương trong hủy hoại do các quy luật Tự nhiên bị đứt gãy và mất khả năng tự trở về trạng thái cân bằng sinh thái
- Cuộc cách mạng thực sự sẽ không phải là về công nghệ hay là cách mạng xanh nhằm tăng sản lượng…. mà ở chỗ tạo nên sự thay đổi gốc rễ và toàn diện, quy mô toàn cầu, thông qua giáo dục và cam kết chính trị của các Chính phủ nhằm thay đổi thói quen, tập quán sống, cách tiêu dùng … hao tổn tài nguyên và gia tăng các vấn nạn về môi trường sống.
Định hướng phát triển kinh tế Việt Nam 5 năm tới
Kim Thái
09:37' PM - Thứ ba, 25/01/2011
Hỏi: Nhân dịp Đại hội Đảng toàn quốc sắp diễn ra tại Hà Nội vào tháng 1/2011, Thời báo Kinh tế Việt Nam dự định làm một chuyên đề về định hướng phát triển kinh tế ở Việt Nam trong 5 năm tới. Chúng tôi muốn hỏi ý kiến của ông về những vấn đề kinh tế xã hội then chốt ở Việt Nam cho chuyên đề này. Trước hết, ông đánh giá như thế nào về triển vọng của nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm tới?
Nguyễn Trần Bạt: Tôi cho rằng, 5 năm tới sẽ có nhiều bước ngoặt, nhiều thay đổi, do đó để đánh giá cả 5 năm là một việc khó. Tuy nhiên, có thể chia 5 năm ấy làm hai giai đoạn: Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn trước phục hồi kinh tế của Hoa Kỳ và Phương Tây, có lẽ nó ở vào khoảng 2-3 năm đầu tiên của 5 năm tới. Sau đó mới nói đến giai đoạn thứ hai. Nói gì thì nói, tương lai của nền kinh tế Việt Nam, tương lai mà chúng ta kỳ vọng, chúng ta có thể phấn khởi được lệ thuộc rất nhiều vào sự hồi phục của nền kinh tế quốc tế và chủ yếu là nền kinh tế phương Tây và Hoa Kỳ. Tại sao tôi lại nói như vậy? Là vì các khuynh hướng, hay các yếu tố tạo ra sự phát triển đột biến của nền kinh tế Việt Nam không nằm ngoài phương Tây. Còn lâu lắm chúng ta mới cạnh tranh được với nền kinh tế Trung Quốc trong khu vực sản xuất hàng hoá rẻ tiền. Và chúng ta cũng không tận dụng gì được ở thị trường Trung Quốc cả. Cho nên, toàn bộ sản phẩm của nền kinh tế tương lai của Việt Nam trong 2-3 năm tới lệ thuộc vào sự phục hồi của nền kinh tế phương Tây, tức là phương Tây mới là thị trường của các sản phẩm của nền kinh tế Việt Nam. Do đó, trong 2-3 năm tới, nền kinh tế Việt Nam chưa nhìn thấy sự phát triển thoả mãn kỳ vọng của chúng ta về phát triển kinh tế. Như vậy, lý do thứ nhất là lý do thị trường.
Lý do thứ hai là Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ XI sắp tiến hành. Đại hội này buộc phải giải quyết một vấn đề vô cùng quan trọng, có thể giải quyết trong đại hội, có thể giải quyết sau đại hội, có thể giải quyết một cách im lặng hoặc công khai, nhưng buộc phải giải quyết, đó là tìm ra được điểm hợp lý để cân đối giữa cải cách chính trị, cải cách thể chế và tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta cơ cấu nền kinh tế Việt Nam trong những điều kiện không thuận lợi lắm về thế chế, và cái đó làm cho chúng ta không đạt được ý mình muốn, làm cho chúng ta phải trả giá cho một số sự cố về kinh tế, ví dụ như Vinashin. Và nếu cứ để thả dàn, không có tính điều khiển của Bộ chính trị hoặc là Trung ương Đảng thì chắc là sự xuất hiện của các sự cố kinh tế như vậy sẽ nhiều hơn. Cho nên, sự can thiệp kịp thời của Ban lãnh đạo cao cấp nhất của Chính phủ cũng như Ban lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng sẽ làm lặng đi những vụ nổ tiếp theo có thể có về mặt kinh tế, và cái đó tạo ra bộ mặt yên ổn để chúng ta tái cấu trúc. Tuy nhiên, tái cấu trúc kinh tế lần này không thể bằng nhiệt tình cách mạng được, không thể bằng sự hăng hái của Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ như nhiệm kỳ trước được. Có thể nói, Thủ tướng và Chính phủ đã khai thác hết tính năng động của mình trong việc cấu trúc và phát triển nền kinh tế đến 2010. Bây giờ đến một pha khác, pha ấy đòi hỏi tính năng động của toàn bộ hệ thống chính trị chứ không phải tính năng động của riêng Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ nữa. Vì thế, việc cải cách thể chế và tái cấu trúc nền kinh tế phải được tiến hành đồng bộ. Trong những phát biểu đầu tiên của các quan chức của Chính phủ cũng đã xuất hiện những ngôn từ như thế này rồi, và trong Dự thảo các Cương lĩnh hoặc các bình luận về dự thảo đó cũng xuất hiện những yếu tố như thế. Ví dụ, chúng ta thay từ "hội nhập kinh tế" bằng từ "hội nhập". Trong Dự thảo Cương lĩnh cũng nói hội nhập quốc tế chứ không nói hội nhập kinh tế quốc tế nữa. Điều ấy phản ánh rằng, Bộ chính trị, Ban lãnh đạo cao cấp của Đảng, Thủ tướng Chính phủ và Ban lãnh đạo cao cấp của Chính phủ cũng nhận ra rằng, nếu chỉ hội nhập kinh tế thuần tuý thì chúng ta sẽ không gặt hái được những kết quả có chất lượng tích cực đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Cho nên, tôi cho rằng, lý do thứ hai để dự báo về tương lai kinh tế Việt Nam trong thời gian tới lệ thuộc vào việc chúng ta xác nhận một quy mô cải cách thể chế tích cực hơn, nhưng phải phù hợp với năng lực xã hội cũng như năng lực phát triển kinh tế xã hội. Hay nói cách khác là phải nới rộng các ranh giới chính trị để tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế. Có thể làm một cách im lặng vì không muốn khiêu khích người này, người kia, lực lượng này, lực lượng kia hoặc quốc gia này, quốc gia kia. Nhưng chắc chắn phải làm! Tôi chứng minh ý kiến ấy thế này:
Thứ nhất, chúng ta muốn phát triển kinh tế thì chúng ta phải phát triển nguồn nhân lực. Giai đoạn 5 năm vừa rồi là giai đoạn chúng ta sử dụng tiền vốn một cách rất ào ạt, rõ ràng yếu tố hiệu quả không được tính đếm đến, và nếu có tính đếm đến thì trên thực tế cũng không tạo ra được, vì nguồn nhân lực của chúng ta không thoả mãn cho việc phát triển một nền kinh tế có chất lượng được. Chúng ta phê phán Chính phủ phát triển kinh tế theo chiều rộng mà không chú ý theo chiều sâu, nhưng chúng ta quên mất rằng có muốn phát triển theo chiều sâu thì xã hội của chúng ta cũng không đủ năng lực để thực hiện. Bởi vì toàn bộ hệ thống giáo dục, đào tạo của chúng ta quá lạc hậu so với đòi hỏi tự nhiên của sự phát triển kinh tế.
Thứ hai, hệ thống pháp luật của chúng ta hoàn toàn không đủ chất lượng để điều chỉnh một nền kinh tế có chiều sâu. Bất kỳ nền kinh tế có chiều sâu nào cũng phải được bảo trợ bởi một hệ thống pháp luật, mà hệ thống pháp luật ấy ngoài việc thoả mãn độ an toàn cho việc quản lý xã hội của Chính phủ, nó còn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng là bảo vệ một cách nghiêm cẩn toàn bộ sở hữu của các lực lượng xã hội và sở hữu kết quả sản xuất, kinh doanh của các lực lượng xã hội ấy. Hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay chưa có được chất lượng như vậy.
Cho nên, song song với việc cải cách giáo dục và đào tạo để tăng cường nguồn nhân lực, chúng ta phải cải cách thể chế, phải xây dựng hệ thống pháp luật và tính có hiệu lực của hệ thống pháp luật, để bảo vệ cảm hứng của xã hội đối với việc đầu tư và phát triển kinh tế. Còn nhiều yếu tố khác nữa mà trong khuôn khổ buổi thảo luận này tôi không thể nói hết được. Nhưng hai yếu tố như thế là cần thiết. Phải nhanh chóng cải cách giáo dục và đào tạo, và phải nhanh chóng cải cách hệ thống pháp luật, theo khuynh hướng bảo vệ các quyền sở hữu một cách rõ ràng, minh bạch hơn nữa. Xây dựng hệ thống pháp luật cho nó có đầy đủ về mặt văn bản và xây dựng cơ cấu Nhà nước để đảm bảo tính nghiêm cẩn, tính có hiệu lực của hệ thống pháp luật là hai công việc khác nhau, nhưng buộc phải tiến hành một cách song song với nhau. Cả hai việc ấy, trong giai đoạn vừa rồi, xã hội chúng ta không làm đồng bộ. Xã hội chúng ta đầu tư vào phát triển kinh tế một cách rầm rộ, nhưng việc xây dựng hệ thống pháp luật và xây dựng cơ cấu Nhà nước để thực thi hệ thống pháp luật ấy lại không phát triển kịp những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế, đặc biệt là không phát triển kịp với cái gọi là ý muốn chủ quan của Chính phủ. Có thể nói, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế của sự tích cực Cách mạng, nó chưa phải là nền kinh tế phát triển đồng bộ và tự nhiên theo năng lực của cuộc sống. Hay nói cách khác là, nền kinh tế ấy trong chừng mực nào đó có ý nghĩa chủ quan, và chúng ta đã nhận được những bài học, những sự cố khá đau đớn do bệnh chủ quan trong việc hoạch định các chính sách vĩ mô trong phát triển kinh tế.
Hỏi: Ông có nói rằng, cùng với việc cải cách kinh tế, chúng ta cần phải cải cách thể chế, trong đó điểm mấu chốt là phải nới rộng hơn nữa ranh giới chính trị. Ông có thể phân tích sâu hơn là sự nới rộng này ở mức độ nào và nên bắt đầu từ đâu?
Trả lời: Nới rộng đến mức mà sự nới rộng ấy không có hại cho Đảng, không có hại cho việc cầm quyền của Đảng, bởi vì chúng ta không thể đòi hỏi cái ranh giới lớn hơn năng lực cầm quyền của Đảng được. Cho nên, khi nói nới rộng, là tôi muốn nói những người lãnh đạo của Đảng phải phấn đấu có những năng lực quản lý chính trị để có quyền, để có khả năng nới rộng ra ranh giới chính trị. Tôi lấy ví dụ: Phản biện xã hội là phải làm rõ, quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận là phải làm rõ. Tôi hoàn toàn không ủng hộ sự nới rộng một cách vô nguyên tắc. Nhưng nếu không nới rộng thì cũng là một sự vi phạm nguyên tắc. Cuộc sống đòi hỏi phải nới rộng thì người có quyền nới rộng hoặc thắt lại phải có đủ năng lực để nới rộng. Do đó, đây là một sự chạy đua, một sự phấn đấu không được phép mệt mỏi của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự chạy đua ấy tạo ra năng lực tìm kiếm những điểm đồng thuận trong xã hội. Những điểm đồng thuận trong xã hội nối lại với nhau thì thành ra những ranh giới mở rộng của đời sống chính trị.
Hỏi: Như vậy, điều đó đồng nghĩa với việc Đảng phải nâng cao năng lực cầm quyền của mình. Vậy ông có sự tin tưởng vào thiện chí chính trị của Đảng trong việc nâng cao năng lực cầm quyền không?
Trả lời: Tại sao lại không tin tưởng? Tôi có băn khoăn là băn khoăn về năng lực, chứ không băn khoăn về thiện chí. Rất nhiều nhà bình luận cho rằng, các đồng chí lãnh đạo cao cấp chưa thiện chí, tôi thì không nghĩ như thế. Họ rất thiện chí, nhưng chưa đủ năng lực. Tại sao lại chưa đủ năng lực? Phải nói rằng, công việc buộc phải tiến hành để có những nới rộng chính trị, có những khối lượng và phải giải quyết những khối lượng vấn đề khổng lồ. Ví dụ như nâng cao dân trí, nâng cao kỷ luật xã hội, nâng cao kỹ thuật làm báo chí và tuyên truyền. Đôi khi chúng muốn điều này nhưng chúng ta lại nói để người ta hiểu ra một nẻo. Ngay cả trong lực lượng báo chí, có cả sự thiếu hụt năng lực diễn đạt các vấn đề xã hội để tạo ra sự đồng thuận chính trị. Đôi khi mình nói tự do, mình khích lệ những thứ tự do bên ngoài năng lực, bên ngoài hiểu biết của cả xã hội lẫn Đảng cầm quyền. Cho nên, báo chí cũng phải nâng cao năng lực, và báo chí là bộ phận cần phải nâng cao năng lực nhanh nhất để diễn đạt một cách hoà bình, một cách từ tốn các đòi hỏi xã hội và nó không biến thành áp lực chính trị đối với Đảng cầm quyền.
Hỏi: Trong Dự thảo Văn kiện sắp tới có nêu lên mục tiêu phát triển kinh tế nhanh và bền vững trong 5 năm tới. Theo ông, tình hình thực tế của Việt Nam có đủ điều kiện để chúng ta đạt được cả hai mục tiêu này không?
Trả lời: Đôi khi chúng ta ghép những đối tượng có thứ nguyên khác nhau vào trong cùng một cấu trúc ngôn ngữ, thành ra làm cho toàn bộ cái mệnh đề ấy trở nên vô lý. Ở đây là lỗi quan điểm của Đảng và Chính phủ vừa muốn cái này vừa muốn cái kia, hai cái mâu thuẫn với nhau, hay là cách diễn đạt của chúng ta về nguyện vọng ấy vào một mệnh đề và cái mệnh đề ấy tạo ra mâu thuẫn trên giấy tờ, trên ngôn từ?
Hỏi: Chỗ này ý của Đảng là muốn có cả hai mục tiêu.
Trả lời: Tôi hiểu ý của Đảng là muốn có cả hai mục tiêu ấy, nhưng Đảng và Chính phủ không thể sắp xếp hai mục tiêu ấy vào cùng một mệnh đề như thế này. Bởi vì trong đời sống điều hành chính trị có cả hai mục tiêu như vậy: nhu cầu tăng trưởng và nhu cầu bền vững. Nhưng nếu ghép cả hai mục tiêu ấy trong hai khối lượng công việc, nó có những khuynh hướng, những đòi hỏi, những tính chất khác nhau như vậy thì người đọc sẽ hiểu rằng, ở đây ghép hai mục tiêu mâu thuẫn với nhau vào trong một mệnh đề. Nếu nghị quyết có diễn đạt như thế này thì tôi không đồng ý với cách diễn đạt đó. Chúng ta có thể diễn đạt như sau: Song song với việc tổ chức để phát triển kinh tế nhằm đạt được mức độ tăng trưởng nhanh thì buộc phải để ý đến sự phát triển bền vững. Tốc độ tăng trưởng và sự bền vững của đời sống kinh tế luôn luôn là những yếu tố hợp thành một chính sách vĩ mô đúng đắn cho phát triển xã hội. Diễn đạt thành một mệnh đề thì tự nhiên nó không khách quan nữa. Đã có thời kỳ chúng ta có những khẩu hiệu ghép, chẳng hạn: "Nhanh, nhiều, tốt, rẻ". Và những khẩu hiệu ghép ấy là kết quả sự vụng dại về nhận thức, vì chúng ta ghép nhiều thứ không cùng thứ nguyên vào cùng một mệnh đề ngôn ngữ. Cho nên, đây là lỗi diễn đạt chứ không phải là lỗi quan điểm.
Câu hỏi mà bạn vừa đặt ra cho tôi là một vấn đề rất quan trọng. Báo chí có nghĩa vụ hướng dẫn xã hội, để đạt được sự cảm thông chính trị giữa xã hội và Đảng cầm quyền. Nếu chúng ta ghép những khẩu hiệu giống như chúng ta từng ghép một cách cơ học trước đây là "Nhanh, nhiều, tốt, rẻ" thì nhân dân sẽ áp dụng những kinh nghiệm để hiểu "Nhanh, nhiểu, tốt, rẻ" với việc hiểu "vừa nhanh, vừa bền vững". Phải diễn đạt như thế nào để cho mọi người hiểu rằng, nhanh là một đòi hỏi cần thiết của đời sống khách quan, bền vững là một đòi hỏi của đời sống khách quan, vậy thì hai đường thẳng ấy cắt nhau ở đâu thì đấy chính là điểm hợp lý. Hai cái graphic mô tả quá trình phát triển nhanh và mô tả quá trình phát triển bền vững nó giao nhau ở đâu, thì điểm giao nhau đấy chính là điểm đồng thuận giữa đòi hỏi bên A, đòi hỏi bên B của xã hội, xã hội đòi hỏi cả nhanh lẫn bền vững. Nếu diễn đạt như thế thì không ai thấy mâu thuẫn trong ý muốn của những người cầm quyền, của Đảng và của Chính phủ. Tôi nghĩ rằng, vừa phát triển nhanh và vừa phát triển bền vững là những thành tố cấu tạo ra sự đúng đắn của chính sách vĩ mô. Đấy là quan điểm của tôi. Nếu tôi đưa ra sự bình luận về câu đấy thì kết quả của sự bình luận là phê phán, nhưng nếu tôi đưa sự phân tích tính không khách quan hay tính không khoa học của diễn đạt ấy thì tôi có thể nói với các nhà quản lý vĩ mô của Đảng và Nhà nước rằng, đấy là những yếu tố có thật, những đòi hỏi có thật của đời sống, và nhiệm vụ của họ là tìm ra giao điểm của khái niệm nhanh và khái niệm bền vững. Nếu bền vững thì ngủ là bền vững nhất, và nếu nhanh thì chạy thục mạng là nhanh nhất. Đảng ta vừa không có quyền ngủ, vừa không có quyền chạy thục mạng trong việc lập chính sách, vậy thì chạy đến mức nào để kết hợp được hai đòi hỏi này. Và hai đòi hỏi này cũng là hai đòi hỏi có thể điều chỉnh được, điều chỉnh ngay trong dư luận xã hội. Vậy báo chí phải điều chỉnh khát vọng xã hội như thế nào để tạo tiền đề xã hội cho sự thuận lợi của nhà cầm quyền trong việc xác định điểm đồng thuận, là kết quả của cả nhanh lẫn bền vững. Chúng ta phải thấy rằng, hiểu khái niệm một cách cứng nhắc là một trong những dấu hiệu quan trọng nhất thể hiện tình trạng dân trí thấp. Không có khái niệm cứng nhắc, mọi khái niệm xã hội học là khái niệm động cả, cho nên mới sinh ra báo chí. Báo chí sinh ra để làm cho tất cả các khái niệm đều trở nên sống động. Vì thế, xây dựng một nội hàm cho các khái niệm, để đảm bảo cho các nội hàm ấy vẫn phản ánh đúng bản chất của cuộc sống, chính là công việc của báo chí. Xưa nay, chúng ta có những quan điểm sai, chẳng hạn: dân trí càng thấp thì càng dễ lãnh đạo, càng dễ bảo, sự hiểu biết càng đơn giản thì xã hội càng trật tự. Một số nhà lãnh đạo trước đây đã có những quan điểm như thế. Việc phổ biến các kiến thức sai đối với xã hội là cách tự sát chắc chắn nhất của các nhà chính trị, nếu các nhà chính trị được xem là lực lượng tạo ra tiến bộ xã hội.
Hỏi: Nhưng dân trí cao thì trình độ lãnh đạo phải cao hơn rất nhiều.
Trả lời: Đương nhiên. Bởi vì cuối cùng, các nhà lãnh đạo cũng được chọn theo nhân dân. Nay mai họ hết nhiệm kỳ, họ lại về với nhân dân. Tôi đã từng tiếp xúc với nhiều nhà lãnh đạo như vậy, như Thủ tướng Võ Văn Kiệt chẳng hạn. Khi ông quay về với nhân dân, tôi cảm thấy trí tuệ của ông, sự cảm thông của ông đối với đời sống con người trở nên sâu sắc hơn. Bác Trường Chinh cũng là một ví dụ. Không ai có thể nghi ngờ là bác Trường Chinh không trung thành với sự nghiệp của Đảng cả. Vậy thì khi gần với cuộc sống hơn, các nhà chính trị sẽ có sự hiểu biết sống động hơn về các khái niệm mà trước đây chúng ta vẫn xem là bất động. Cho nên, tôi nghĩ là cần phải xây dựng tư duy động trong ý nghĩ của các nhà chính trị, trong ý nghĩ của xã hội, của nhân dân, và cần phải xây dựng các chính sách vĩ mô như một quy hoạch động.
Hỏi: Quy hoạch động thì khó, bởi vì ngay cả quy hoạch cứng còn làm chưa xong.
Trả lời: Không. Quy hoạch cứng khó hơn quy hoạch động. Quy hoạch cứng bị cuộc sống phá vỡ thường xuyên, hàng ngày, nhưng quy hoạch động thì không. Quy hoạch động thể hiện sự tin cậy của các nhà chính trị đối với sự lương thiện tự nhiên của cuộc sống. Quy hoạch động dễ hơn quy hoạch tĩnh, nó chỉ khó ở chỗ anh thức tỉnh về cái sự khó và dễ của động và tĩnh thôi. Khi anh đã nhận ra vai trò của quy hoạch động rồi, thì anh sẽ thấy rằng, khối lượng cần phải quy hoạch sẽ rất thấp, công việc của nhà chính trị sẽ ít đi, những chuyện vặt sẽ ít đi, và do đó họ có thì giờ để xoáy vào, tập trung vào, đầu tư vào chiều sâu suy nghĩ, để làm nền tảng cho tất cả các đầu tư vào chiều sâu của đời sống kinh tế
Hỏi: Ông có thể lấy ví dụ về việc quy hoạch động?
Trả lời: Chúng ta đã quy hoạch động cho một dân tộc 50 - 60 triệu con người tiến hành hai cuộc chiến tranh khổng lồ. "Dĩ bất biến ứng vạn biến" là quy hoạch động. Dân tộc chúng ta là một dân tộc sống bằng tính năng động của quy hoạch, chỉ có điều là chúng ta chưa có kinh nghiệm để ứng dụng quy luật động của quy hoạch vào trong đời sống kinh tế. Còn đời sống thực tiễn chính trị, đời sống thực tiễn chiến tranh, đời sống dựng nước và bảo vệ đất nước của chúng ta là đời sống của quy hoạch động. Nếu bài này mà bạn đưa ra câu của tôi, tôi tin bác Đỗ Mười, bác Lê Đức Anh, bác Lê Khả Phiêu sẽ ủng hộ, bởi các bác ấy là tổ sư của quy hoạch động của đời sống. Mà ông tổ đầu tiên của đảng cộng sản là Hồ Chí Minh. Dĩ bất biến ứng vạn biến là nguyên lý số một của quy hoạch động.
Hỏi: Theo ông, cơ chế tuyển chọn lãnh đạo hiện nay có hợp lý để chọn được những nhà lãnh đạo thực sự là tinh hoa của dân tộc không?
Trả lời: Tôi là một nhà kinh doanh, tôi là một người cung cấp dịch vụ cho đời sống kinh doanh trên tất cả các khía cạnh của nó, tôi hiểu rất rõ tính năng động của các nhà chính trị của chúng ta. Các nhà chính trị của chúng ta chưa huy động tính năng động ấy vào nhiệm vụ chính trị chủ yếu, nhưng đối với các khía cạnh khác ngoài chính trị thì họ mềm dẻo và năng động vô cùng.
Hỏi: Trong một cuốn sách, ông có nói đến vấn đề căn bản nhất của nền kinh tế Việt Nam là sự vênh nhau giữa định hướng xã hội chủ nghĩa và cơ chế kinh tế thị trường. Vấn đề này cũng đã đến điểm giới hạn không thể chung sống giữa ổn định và khủng hoảng. Nhưng trong Dự thảo văn kiện đại hội sắp tới cũng vẫn tiếp tục nhấn mạnh mệnh đề là Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo ông, Việt Nam có được sự ổn định kinh tế vĩ mô cũng như ổn định chính trị xã hội trong 5 năm tới không?
Trả lời: Có một nhận thức khá phổ biến trong các nhà lãnh đạo của chúng ta là quan niệm nhầm lẫn giữa ổn định về phát triển với ổn định chính trị xã hội. Chính trị là một yếu tố không bao giờ được phép ổn định. Trong việc huy động tính năng động của các nhà chính trị có hai yếu tố đóng vai trò rất quan trọng để tạo ra sự năng động. Một là cạnh tranh, tức là đa dạng về chính trị. Hai là phải thừa nhận tính không ổn định của cuộc sống, và anh phải đối phó với sự không ổn định của cuộc sống. Chúng ta muốn có một cuộc sống ổn định, mà lại muốn không cạnh tranh với ai cả thì chúng ta không tồn tại được. Cho nên nếu chúng ta chưa có đa dạng chính trị thì chúng ta phải thừa nhận tính không ổn định của cuộc sống và phải đối phó với tính không ổn định của cuộc sống. Khi tập trung chú ý vào đo đạc và tạo ra các chính sách phù hợp với đòi hỏi rất không ổn định của cuộc sống thì anh sẽ khắc phục được phần nào sự trì trệ chính trị. Các nhà lý luận phải nghiên cứu những yếu tố như vậy, phải chữa căn bệnh xơ cứng, giáo điều, căn bệnh bảo thủ bằng chính tính không bảo thủ của cuộc sống. Còn chúng ta huấn luyện cho cuộc sống cũng bảo thủ và ổn định giống chúng ta muốn tức là chúng ta tự sát.
Còn nói về chuyện định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải nói như thế này. Bản thân từ đấy nó không có tội. Dân tộc nào chẳng có định hướng, nhưng các dân tộc không sống bằng định hướng. Các dân tộc sống bằng tính năng động để ứng phó với các đòi hỏi tự nhiên mà cuộc sống xuất hiện. Chúng ta đang sống ở một thời đại mà không một dân tộc nào nằm ngoài được vòng xoáy, nằm ngoài sự lôi cuốn, sự quyến rũ, hoặc sự lừa đảo của đời sống quốc tế. Vì thế, trên thực tế không thể có đời sống ổn định và đời sống biệt lập của bất kỳ quốc gia nào đối với tiến trình phát triển của thế giới. Dân tộc chúng ta dù muốn hay không cũng bị nhân loại lôi kéo vào vòng xoáy của nó. Các dân tộc chỉ không trở thành con tin, không trở thành nạn nhân của quá trình lôi kéo bằng tính tự giác về sự tất yếu của hiện tượng lôi kéo ấy. Nâng cao năng lực lãnh đạo chính trị của những nhà chính trị, nâng cao năng lực điều hành vĩ mô của các nhà hành pháp, nâng cao năng lực thiết kế bộ khung pháp luật của đất nước của các nhà lập pháp chính là nâng cao năng lực ứng phó với sự lôi cuốn của quá trình hội nhập. Tất cả các nhà chính trị lười biếng đều không đáng hoan nghênh, tất cả các nhà quản trị của nhà nước, của chính phủ lười biếng đều không đáng hoan nghênh. Tôi thích những người năng động, dù sự năng động của người ấy có thể dẫn đến một vài cái sai. Tôi từng bảo với nhân viên của mình rằng, tôi chỉ mong cậu có một cái sai nào đó có kích thước. Ở tuổi 30 mà không có cái sai nào đáng kể thì coi như vứt. Ở tuổi 40 mà không có cái sai nào gây cho thiên hạ sự chú ý cũng vứt. Sai lầm là quyền của con người trong suốt quá trình nhận thức và tác động vào cuộc sống. Cái quan trọng là thái độ đối với sai lầm của mình, mà thái độ đối với sai lầm của mình chính là lương tri. Con người có một thứ duy nhất không thể thiếu được đó là lương tri. Khi có lương tri trong sạch thì sai lầm hay thành công chỉ là những bài học.
Hỏi: Như chúng ta đều biết, thời gian vừa rồi chúng ta có sự co giật về lạm phát, đầu tư không hiệu quả, thâm hụt thương mại cao, thâm hụt nợ công tăng cao, đấy là những yếu tố rất không ổn định về kinh tế vĩ mô. Nếu chúng ta còn tiếp tục giữ phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì chúng ta có giải quyết được những bài toán đấy không?
Trả lời: Nó chẳng liên quan gì đến nhau. Chúng ta ở trên cao chúng ta nói rằng chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng ở tầng cơ sở, tầng kín hơn thì đảng ta cho phép đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân không có giới hạn về quy mô. Cho nên nháy đèn tay phải nhưng rẽ trái, đấy là cái võ của những nhà điều hành đời sống chính trị trong một tình thế chính trị cực kỳ phức tạp mà Việt Nam chúng ta phải chịu đựng. Nếu chúng ta không hiểu được điều ấy, mà ngay cả hiểu điều ấy mà nói ra to như tôi trả lời bạn cũng không phải là thông minh lắm, nhưng vì bạn hỏi thì tôi phải nói. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một câu nói, là một mệnh đề, mệnh đề ấy nó có một số giá trị làm yên một lực lượng đã kiến tạo ra nền chính trị của chúng ta. Biết bao nhiêu cán bộ, biết bao nhiêu đảng viên đã hy sinh để tạo ra nền chính trị này, họ không đủ năng lực để được hưởng thụ sự tích cực của chính sách đổi mới và mở cửa. Nếu không xét đến thực tế ấy thì các nhà chính trị của chúng ta còn thất bại lớn hơn. Cho nên xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một cách để xây dựng nền kinh tế thị trường trong điều kiện chính trị của chúng ta. Giới trí thức của chúng ta để ý đến khẩu hiệu ấy để chỉ trích mà quên mất rằng họ còn cho các đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân không giới hạn, tức là giương cơ ngọn cờ bên trên và tháo quyền tự do kinh tế ở bên dưới. Nhưng bởi vì có một loạt người già rồi, được giáo dục quá lâu để tạo ra thành công của hai cuộc kháng chiến, không đủ năng lực để làm kinh tế tư bản tư nhân vì thế họ không được hưởng cái hiệu quả tổng hợp của việc phất ngọn cờ bên trên và tháo quyền tự do ở bên dưới. Đấy chính là tính không biện chứng của việc hình thành các tiêu chuẩn vĩ mô như vậy.
Hỏi: Nhưng với định hướng xã hội chủ nghĩa tức là khẳng định khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và là nền tảng của nền kinh tế, cũng như là duy trì đến mười mấy tập đoàn với rất nhiều ưu đãi thì liệu có giải quyết được câu chuyện?
Trả lời: Đấy là một cái sai, đấy là tính không chừng mực, đấy chính là chính sách vĩ mô không được xây dựng trên cơ sở tìm các điểm giao nhau giữa chính trị và kinh tế.
Hỏi: Ông có cho rằng việc xây dựng 19 tập đoàn là hoàn toàn thuần chính trị không?
Trả lời: Ý của bạn muốn nói đến những hiện tượng tiêu cực có bên trong và có đằng sau khẩu hiệu như vậy. Tôi nghĩ rằng bên trong và đằng sau mọi khẩu hiệu đều có mặt tiêu cực, bởi vì mọi chính sách đều bị lợi dụng, đều bị tận dụng, đều bị sử dụng, và được sử dụng, tận dụng, lợi dụng bởi những lực lượng xã hội cực kỳ khác nhau. Cho nên, nếu chúng ta chỉ nhìn vào bọn tham nhũng thì chúng ta không hiểu cuộc sống. Cuộc sống có những kẻ tham nhũng và cả những kẻ không tham nhũng, cuộc sống có những kẻ tham nhũng có năng lực và cả những kẻ tham nhũng không có năng lực. Cái nguy hiểm nhất là những kẻ tham nhũng không có năng lực, nó kiếm được một đồng thì phá mười đồng. Còn có những kẻ tham nhũng kiếm được mười đồng thì nó lấy năm đồng. Ngay cả việc phân tích lực lượng tham nhũng của xã hội chúng ta cũng không thỏa đáng. Trong khi có những kẻ tham nhũng phá mười đồng mới lấy được một đồng, thì những kẻ làm ra mười đồng và lấy năm đồng sẽ bảo rằng tôi chân chính. Sự chân chính của từng đối tượng được xác nhận bởi tính hữu ích của đối tượng ấy, hành vi hữu ích của đối tượng ấy, và đấy là một khái niệm hoàn toàn tương đối. Cho nên đấu tranh chống tham nhũng như chúng ta đang làm là sai, bởi vì chúng ta không phân tích hiện tượng tham nhũng như một đối tượng xã hội học, mà chỉ lên án tham nhũng về mặt đạo đức và ghép tội tham nhũng về mặt hình sự. Ghép tội tham nhũng về mặt hình sự thì chỉ ghép cho viên chức cấp dưới. Không có nhà chính trị cầm quyền nào mà tự ghép mình vào tội tham nhũng, đấy là một quy luật, một hiện tượng khách quan. Vì vậy chúng ta chỉ có thể chống tham nhũng thành công trên cơ sở xét tham nhũng là một đối tượng của xã hội học, và phải phân tích nó rất cặn kẽ, rất khoa học chứ không thể nói như hiện nay được. Không thể khẳng định các tập đoàn kinh tế là sai được, bởi với năng lực cầm quyền của đảng ta hiện nay nếu không có các công cụ ấy thì họ trở thành kẻ lãnh đạo vất vưởng trong đời sống chính trị. Do đó buộc phải có các công cụ, các công cụ ấy có thể làm lợi và gây hại. Nếu chúng ta phân tích sự làm lợi và gây hại của chính lực lượng cầm quyền thì hiểu đấy là chống nhà nước là phải rồi. Nhưng chúng ta phải đặt hiện tượng ấy như là một đối tượng của xã hội học thì tự nhiên phát ngôn của chúng ta phải chăng hơn và nó tạo cơ hội cho những người cầm quyền rút kinh nghiệm. Toàn bộ tiến trình phát triển xã hội một cách bền vững là công nghệ rút kinh nghiệm.
Hỏi: Có cả công nghệ rút kinh nghiệm?
Trả lời: Có chứ. Đảng ta là một đảng rất thần tình về toàn bộ quá trình rút kinh nghiệm, rút kinh nghiệm từ năm 30, thậm chí từ trước năm 30 cho đến bây giờ. Sai là không nhận lỗi công khai, nhưng hàng đêm họ nhận lỗi, họ rút kinh nghiệm.
Rút kinh nghiệm là một quá trình nhận lỗi âm thầm của một đảng chính trị một mình chịu trách nhiệm toàn bộ đối với sự thành công và thất bại của đời sống xã hội. Cho nên khi phê phán tính quan liêu, phê phán tính độc quyền thì anh phải phân tích quá trình rút kinh nghiệm của họ chứ không phải là quá trình giương cao ngọn cờ này ngọn cờ kia. Chúng ta đang sống trong một xã hội như thế, chúng ta phải xem Việt Nam là một quốc gia có một nền chính trị một đảng như là một thực tế chính trị.
Phải phân tích nó, góp ý, gợi ý, đôi lúc có thể tạo áp lực nhưng không thể tạo áp lực thường xuyên được, bởi nó làm mất cảm hứng. Nguy cơ lớn nhất của đời sống chính trị Việt Nam không phải là tham quyền cố vị mà nguy cơ lớn nhất là họ không tham quyền nữa, họ không cố vị nữa, và họ bỏ chạy. Bây giờ bố bạn bảo bạn bảo thủ, bướng, mày dứt khoát thế này, mày dứt khoát thế kia, bạn có thể khó chịu hơn nhưng bạn còn yên tâm, bạn vẫn xem bố bạn là chỗ dựa, nhưng bố bạn bảo kệ mày, mày muốn làm gì thì làm, thì thôi còn gì nữa. Tôi sợ rằng sẽ đến thời điểm như thế nếu giới trí thức cũng như xã hội không khéo ứng xử trong chuyện này.
Hỏi: Ông từng nói rằng, con người là nhân tố quan trọng nhất trong sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam và giáo dục là yếu tố quyết định sự phát triển con người. Vậy xin ông cho biết nếu có một sự đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt Nam, điều mà Dự thảo văn kiện đại hội đảng đã đề cập đến, thì sự đổi mới đấy nên theo định hướng như thế nào?
Trả lời: Đặt ra những đòi hỏi chính trị hợp lý đối với đời sống giáo dục, không nên có những mục tiêu quá nặng nề về mặt chính trị đối với đời sống giáo dục. Làm cho giáo dục tự do hơn đối với chính trị thì chúng ta sẽ có những con người cởi mở hơn để đáp ứng với sự đòi hỏi cởi mở của nhân loại đặt ra đối với dân tộc chúng ta. Chương trình giáo dục bây giờ phải là tạo ra một xã hội giáo dục, tạo ra một hệ thống các trường đào tạo nhằm tạo cho con người năng lực ứng phó với mọi biến đổi của đời sống quốc tế, đấy chính là cải cách giáo dục.
Hỏi: Nếu có một chính sách như vậy thì sau bao lâu chúng ta sẽ nhìn thấy kết quả?
Trả lời: Tôi nghĩ rằng sau một năm các bạn sẽ thấy không khí nó khác hẳn. Bây giờ bạn tưởng tượng xem giáo dục vẫn còn là bé, nhưng năm 1986 khi chúng ta tuyên bố đổi mới trong chính sách nông nghiệp, một năm sau Việt Nam ra khỏi đói, hai năm đã bắt đầu xuất khẩu gạo. Sự đúng đắn của chính sách vĩ mô nó thần tình lắm, nhưng nó cũng chứa đầy rủi ro ở bên trong. Vì thế chúng ta phải nghiên cứu kỹ. Cải cách giáo dục là phải nghiêm túc nhất. Trong rất nhiều bài viết của tôi, tôi cho rằng tổng tư lệnh của cải cách giáo dục phải là Tổng bí thư hoặc thủ tướng chính phủ, không phải là bộ trưởng giáo dục. Bộ trưởng giáo dục không đủ quyền lực. Cải cách giáo dục là một việc khổng lồ. Nhưng nó khổng lồ kém so với toàn bộ cải cách chính trị mà chúng ta đã thực hiện ở đại hội VI vào năm 1986.
Hỏi: Có nghĩa là chúng ta hoàn toàn có thể làm được?
Trả lời: Chúng ta làm chứ. Tôi không nhìn thấy rủi ro nào khi chúng ta đưa ra những đòi hỏi chính trị phải chăng đối với cải cách giáo dục, kể cả rủi ro của đảng cầm quyền là đảng cộng sản Việt Nam.
Hỏi: Ông có thể phân tích rõ hơn việc đưa ra những đòi hỏi chính trị phải chăng đối với cải cách giáo dục có nghĩa là chúng ta làm những việc như thế nào?
Trả lời: Có nghĩa là chúng ta không muốn, không đặt ra yêu cầu phải có một con người theo ý muốn của ta.
Hỏi: Thế chúng ta dạy bọn trẻ con cái gì?
Trả lời: Chúng ta dạy bọn trẻ con giống như nhân loại dạy. Có hơn 200 quốc gia trên thế giới này thì có khoảng 150 nền giáo dục không có những đòi hỏi chính trị nặng nề.
Hỏi: Ví dụ những môn tự nhiên như Toán, Lý, Hóa hoàn toàn không có chút chính trị nào, nhưng ví dụ như văn học thì chúng ta sẽ dạy chúng nó như thế nào?
Trả lời: Chúng ta dạy như thiên hạ dạy, cái gì đẹp thì dạy, cái gì hay thì dạy, cái gì làm cho con người thích thì dạy.
Hỏi: Nhưng ngay cả nhận thức cái gì là đẹp, cái gì là hay, cái gì là thích cũng có yếu tố chính trị trong đấy?
Trả lời: Nhưng nó được cân bằng bởi những yếu tố chính trị ngược với nó. Cái thần tình của tự do chính là làm cho các yếu tố nếu chỉ có một mình nó thì tiêu cực, nhưng được cân bằng bởi yếu tố khác thì nó trở lên tích cực. Tất cả các thang thuốc Đông y là kết quả của lý thuyết tự cân bằng của các vị thuốc. Tài ba của tự do là tạo ra sự cân bằng. Chỉ người không hiểu tự do và dát thì mới sắp đặt, còn thiên nhiên là cân bằng, tự nhiên là cân bằng. Và tự cân bằng là công cụ chủ yếu để giúp con người tồn tại từ khi nó xuất hiện trên trái đất cho đến bây giờ. Tại sao chúng ta lại chống lại một phương thức đã tạo ra lịch sử nhân loại?
Hỏi: Trong các nút thắt về cơ sở hạ tầng hiện nay, theo ông nút thắt nào là quan trọng nhất và cần được tháo gỡ ngay?
Trả lời: Người ta thấy một quốc gia hấp dẫn hay không trước hết là cơ sở hạ tầng giao thông và phát triển đô thị. Đây là một quá trình nhân tạo hoàn toàn. Vì là quá trình nhân tạo cho nên nó rất dễ chủ quan, muốn nó cân bằng thì phải tìm ra được sự đồng thuận có tính chất xã hội rộng lớn đối với hệ thống cơ sở hạ tầng là giao thông và đô thị. Không nên cưỡng bức các đô thị và không nên cưỡng bức giao thông. Giao thông và đô thị là hai yếu tố chủ quan tác động mạnh mẽ nhất trên quy mô lớn nhất vào sự ổn định của môi trường tự nhiên. Thứ hai là chúng ta phải xây dựng một nền công nghiệp Việt Nam, nền công nghiệp hoàn toàn Việt Nam chứ không nên tự biến mình thành công xưởng của thế giới. Đấy là việc vô cùng khó, nó là đối tượng của triết học chứ không phải chỉ là đối tượng của kinh tế học vĩ mô.
Nếu ở cương vị thủ tướng chính phủ mà không có phẩm chất của một nhà hiền triết thì rất khó xây dựng được một chính sách vĩ mô liên quan đến cơ sở hạ tầng. Bởi cơ sở hạ tầng có giá trị kinh tế, cơ sở hạ tầng có giá trị xã hội, cơ sở hạ tầng có giá trị triết học là ba loại cơ sở hạ tầng khác nhau. Nếu chúng ta chỉ chú ý đến cơ sở hạ tầng là một yếu tố kinh tế thuần túy thì thủ tướng nào cũng thất bại. Nói với Thời báo kinh tế là tôi buộc phải nói chuyện đấy, vì đấy chính là cái chìa khóa quan trọng nhất để làm chính sách vĩ mô trong thời đại hiện nay. Chúng ta có thể lóa mắt trước sự sang trọng của một số quốc gia hay trước sự hoàn chỉnh đến mức đẹp đẽ của một quốc gia. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng mọi yếu tố cơ sở hạ tầng không chỉ xuất hiện do đòi hỏi của sự phát triển kinh tế, mà còn do đòi hỏi của nguyện vọng sống của con người. Cơ sở hạ tầng tốt nhất là cơ sở hạ tầng phù hợp với khát vọng sống của cư dân. Phải đưa yếu tố xã hội học, phải đưa yếu tố triết học vào trong quá trình tạo ra chính sách vĩ mô liên quan đến việc tạo ra cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng là cái rất khó thay đổi, khi đã làm rồi thì nó trở thành cái chuồng để nhốt con người. Cơ sở hạ tầng sẽ trở thành cái chuồng để nhốt các hành vi con người, nó tạo ra thói quen văn hóa mới của con người, và nó làm hỏng nền văn hóa của chúng ta, nếu yếu tố văn hóa, yếu tố xã hội học, yếu tố triết học không được xem xét đến trong quá trình xây dựng các quy hoạch.
Hỏi: Xin ông phân tích rõ hơn về việc phải có một nền công nghiệp hoàn toàn Việt Nam?
Trả lời: Tức là nó phải phù hợp với đòi hỏi và khả năng của mình, đó là nền công nghiệp tối thiểu để làm cho con người Việt Nam có thể sống trong điều kiện bên ngoài có đảo lộn, có mưa bão. Chiến tranh khu vực là một ví dụ. Sự bao vây cấm vận trong suốt quá trình vận hành nền chính trị này hoàn toàn có thể có, đôi lúc chúng ta mấp mé những sự kiện như vậy. Cho nên chúng ta không xây dựng được một nền công nghiệp tối thiểu để làm nền tảng cho người Việt Nam sống với nhau thì chúng ta sẽ không ổn định được.
Hỏi: Nhưng có vẻ như điều đó khá mâu thuẫn với các chủ thuyết hiện nay, đặc biệt trong môi trường toàn cầu hóa.
Trả lời: Toàn cầu hóa là sự hội nhập của các nền kinh tế chứ không phải là sự biến mất của các nền kinh tế. Cho nên nền kinh tế có những đặc trưng của mình, có những yếu tố của mình, có những yếu tố tối thiểu của mình là tiền đề để hội nhập.
Hỏi: Nghĩa là trước tiên là chúng ta tồn tại, còn để phát triển mạnh thì chúng ta sẽ hội nhập?
Trả lời: Đúng thế. Tôi đã có bài viết gọi là Lý thuyết về hai nền kinh tế, nhiều người không đồng ý với tôi thuật ngữ này, nhưng tôi không có thuật ngữ, tôi buộc phải dùng đó là nền kinh bản thể, tức là nền kinh tế của mình. Chúng ta phải có nền kinh tế của mình để trong điều kiện không ổn định của toàn bộ hệ thống thế giới thì chúng ta vẫn sống được ở mức tối thiểu, đó là điều cực kỳ quan trọng. Trong sự tiến công không thương tiếc vào nền kinh tế nông nghiệp, nền kinh tế lúa, canh tác bằng việc lấy đất để công nghiệp hóa, làm cho chúng ta mất đi tính bản thể. Một chiếc cần cẩu muốn quay được trên cao và cẩu vật nặng lên thì nó phải có một đối trọng ở đâu đó. Chúng ta không dỡ đối trọng của nền kinh tế của mình để hội nhập. Nhưng chúng ta thiếu, chúng ta ít, chúng ta nghèo cho nên toàn bộ nghệ thuật của hoạt động quản lý vĩ mô chính là nhấc các đối trọng từ khu vực này sang khu vực kia như thế nào để tạo ra sự cân bằng tại chỗ của các trạng thái của nền kinh tế. Ví dụ Trung Quốc, Trung Quốc dỡ cái bên trong để làm nặng cái bên ngoài, và do đó nó phải có một cái trụ đỡ, và cái trụ đỡ ấy bị cả thế giới lên án, đó chính là trụ đỡ nhà nước. Khu vực kinh tế nhà nước là chủ đạo ở cả Trung Quốc lẫn Việt Nam chính là cái trụ đỡ ấy, trụ đỡ để mình dỡ cái đối trọng ở đằng sau và chất tải lên đằng trước để nó oai với thiên hạ. Cái đấy là lỗi nhận thức có chất lượng triết học của những người điều hành vĩ mô.
Hỏi: Có một vấn đề về cơ sở hạ tầng mà rất nhiều người phân vân là vấn đề chúng ta thiếu điện. Theo ông, vấn đề thiếu điện nên được giải quyết như thế nào?
Trả lời: Đối với vấn đề thiếu điện, khi chúng ta trở thành nô lệ của việc thiếu điện chính là chúng ta mất cân đối vĩ mô. Chúng ta thiếu điện là vì nhiều người dùng điện, nhiều đối tượng dùng điện, đòi hỏi phải nhiều điện. Nhưng nhiều điện mà không thu lợi thì để làm gì? Cho nên thiếu điện là một biểu hiện cụ thể của hiện tượng dỡ đối trọng ra để chất tải ra bên ngoài. Tôi là một nhà cơ học, vì thế tôi có thể giải thích mọi hiện tượng mất cân đối vĩ mô theo cách thức của những nhà cơ học.
Đổi mới tư duy hay đổi mới cơ chế
TS. Nguyễn Đức Thành, Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách
Sài Gòn tiếp thị.Xuân Tân Mão
09:24' AM - Thứ tư, 02/02/2011
Nhiều người so sánh giai đoạn hiện nay với giai đoạn đổi mới trước đây, và chờ đợi những tư duy mong đợi một “tư duy mong đổi mới”. Dù tư duy ấy có thể gồm một bộ ý tưởng được suy nghĩ, cân nhắc kỹ càng, có vẻ vẫn thuộc về lối tư duy cũ. Điều này có lẽ bắt nguồn từ kinh nghiệm của giai đoạn Đổi mới trước đây.
Trong bối cảnh trước khi có cải cách kinh tế ở Việt Nam, nền kinh tế nước ta tương đối đơn giản, tập trung và tuyến tính. Đến thời điểm này, nền kinh tế đã trở nên phức tạp, phân tán, đa dạng hóa hơn rất nhiều do kết quả của quá trình thị trường hóa và quốc tế hóa liên tục trong hai thập kỷ qua. Vì thế, để tiếp tục cải cách nền kinh tế lúc này, có lẽ cần đặt vấn đề một cách khác.
Vì bản chất của môi trường kinh tế và xã hội hiện nay đã mang khá đậm tính chất của nền kinh tế thị trường, với luồng thông tin cùng sự kiện diễn biến với quy mô lớn, liên tục và phức tạp, nên sự đổi mới cũng cần diễn ra liên tục, chứ không thể diễn ra theo kiểu một lần như trước đây nữa. Do đó, vấn đề không phải đi trả lời câu hỏi “tư duy mới là gì?” mà là làm thế nào để tư duy mới liên tục được sản sinh.
Với cách đặt vấn đề như vậy, có lẽ sẽ phải hình thành một thói quen mới, đó là việc quen dần và chấp nhận sự tiến bộ kinh tế- xã hội sẽ đi theo những hướng không hoàn toàn mà chúng ta tiên liệu hoặc tin tưởng. Vì một đặc điểm quan trọng của sự đổi mới hay sang tạo thực sự, là người ta không dự báo được trước. Người ta chỉ có thể tạo nên cái cơ chế cho sự sán
Từ phân công lao động đến phân hữu tri thức
Với cách tiếp cận như vậy, cần trở lại những nền tảng tạo nên động lực sáng tạo, hay quá trình liên tục đổi mới tư duy, của nhận loại trong giai đoạn kinh tế thị trường phát triển.
Trong thời kỳ đầu của nền kinh tế thị trường, tăng trưởng kinh tế thế giới bắt đầu tăng tốc ở những nước công nghiệp hóa đầu tiên, giải phóng mạnh mẽ các nguồn lực hữu hình, hiệu hữu (vốn, lao động, tài nguyên). Tâm điểm của quá trình này là sự phân công lao động ngày càng tinh vi trong tổ chức xã hội loài người. Đây là đặc điểm xã hội quan trọng được các nhà kinh tế đầu tiên, điển hình là Adam Smith, phát hiện vào nửa sau thế kỷ 18. Nhưng đóng góp quan trong thực sự của các nhà kinh tế học tiền bối không phải chỉ nhận ra sức mạnh ghê gớm của quá trình phân công lao động nhờ đó năng suất của xã hội tăng lên mãnh liệt, mà họ nhận ra kinh tế thị trường là một cơ chế đặc biệt, ưu việt duy nhất mà loài người từng biết, cho phép sự phân công lao động được diễn ra một cách tự động và liên tục. Tiếp đó, họ nhanh chóng nhận ra nền tảng của kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân về nguồn lực (phương tiện sản xuất) và tự do sản xuất và trao đổi.
Trong thế kỷ 20, sau cuộc khủng hoảng 1929 – 1933, nền kinh tế thị trường bị thách thức trên toàn thế giới. Những trào lưu chống thj trường và nền văn minh của kinh tế thị trường trỗi dậy, lan tràn và biến tưởng thành làn sóng chống lại tự do cá nhận. Đặc điểm chung của các trào lưu này là những nỗ lực nhằm xây dựng một xã hội và nền kinh tế dựa trên sựu kiểm soát, kế hoạch hóa đời sống con người và các hoạt động kinh tế từ một nhà nước trung ương. Kết quả là các mô hình xã hội này đều đi từ từ đi vào vòng xoáy sụp đổ, vì xã hội không có khả năng tự đổi mới hoặc tự vệ trước những thách thức mới.
Trước thực tiễn này, giới tư tưởng thế giới dần phát hiện ra một khía cạnh khác cao hơn rất nhiều của nền kinh tế thị trường. Đó là vai trò của tri thức trong đời sống xã hội và sản xuất kinh tế thị trường của Adam Smith đã được phát huy tối đa, điều cần thiết là sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực đó. Cùng là một nhóm các nguồn lực, sản xuất ra tối đa sản phẩm. hoặc ngược lại, cùng là một yêu cầu về sản phẩm, sử dụng ít nguồn lực nhất có thể. Đó chính là bản chất của cái gọi là “công nghệ”. Để có công nghệ, không gì khác luôn phải có cách thức sản xuất mới, hay kết hợp nguồn lực theo cách mới hơn, hiệu quả hơn. Đó được gọi là quá trình “sáng tạo”. Để có sự sáng tạo, cần phải có tri thức.
Bức tranh chung đã rất rõ rang, tương tự như trong giai đoạn ban đầu, vai trò của “sáng tạo” hay tri thức là như một nguồn lực. Việc nghiên cứu tri thức cho thấy tri thức không phải là những vật thể khách quan, có thể tập trung vào một tổ chức ở trung ương, mà thường tồn tại một cách phân tán dưới những dạng đặc thù ở mỗi cá nhân, mỗi tổ chức hay mỗi địa phương. Đó là các khái niệm “tri thức cá nhân”, “tri thức ngầm ẩn”, “tri thức bản địa”, vv… được phát triển trong khoa học xã hội hiện đại.
Với bản chất phân tán tri thức, hay tính hữu hạn của tri thức nơi mỗi cá nhân hay tổ chức trong xã hội rộng lớn và ngày càng phức tạp, người ta nhận thấy vai trò của “phân công lao động” trong giai đọan sơ kỳ của của kinh tế thị trường. Nếu quá trình phân công lao động cho phép những lao động riêng lẻ kết hợp với nhau để tạo ra năng suất lao cao cho toàn xã hội, thì quá trình phân hữu tri thức cho phép những tri thức phân tán kết hợp với nhau tạo ra một quá trình sáng tạo liên tục.
Một lần nữa, thị trường đóng vai trò như một cơchế ưu việt giúp quá trình phân hữu tri thức tồn tại và phát triển. Với những thể chế hỗ trợ phù hợp, như bản quyền về ý tưởng hay sáng kiến, quyền tự do tư duy và nghiên cứu. Cho đến quyền tự do ngôn luận, phát biểu và trao đổi, đã trở thành nền tảng để quá trình phân hữu tri thức diễn ra hệt như quyền về ý tưởng hay sáng kiến, quyền tự do tư duy và nghiên cứu, cho đến quyền tự do ngôn luận, phát biểu và trao đổi, đã trở thành nền tảng để quá trình phân hữu tri thức diễn ra hệt như quyền tư hữu tài sản và tự do hoạt động sản xuất và trao đổi đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển của quá trình phân công lao động.
Cơ chế cho tri thức liên tục sản sinh
Trong điều kiện Việt Nam, sự phát triển kinh tế thị trường chỉ diễn ra trong vài chục năm gần đây, nhưng nó đã chứa đựng và hấp thu cả lịch sử của quá trình phát triển nền kinh tế, hay Sự nghiệp đổi mới (vẫn đang diễn ra), từ Đổi mới một đến Đổi mới hai, v.v… thì đó chính là những giai đoạn khác nhau của nền kinh tế thị trường nói chung. Có thể có nhiều cách diễn giải và diễn đạt về các giai đoạn mới của chúng ta, cũng như những nhu cầu thực sự thúc đẩy các giai đoạn đó. Ở đây, tôi muốn tiếp cận các giai đoạn trên theo quan niệm về phân công lao động và phân hữu tri thức nhưu đã phân tích trên kia.
Với cách tiếp cận như vậy, thì có thể xem quá trình đổi mới ở Việt Nam vào cuối thập niên 1980 là giai đoạn giải phóng các nguồn lực đã được giải phóng ở mức cao trong mối quan hệ của kinh tế thị trường. Sẽ đến giai đoạn Việt Nam cần hội nhập ở mức cao hơn, ở đó cần có sự sáng tạo, tức là những cách thức kết hợp các nguồn lực này theo một cách hiệu quả hơn, theo nghĩa rộng nhất của từ “hiệu quả”. Và đó là giai đoạn Việt Nam cần đến vai trò thực sự của tri thức, trong toàn bộ quá trình vận động của xã hội.
Điều này đòi hỏi tri thức cho sáng tạo phải sản sinh một cách vững chắc và liên tục. Sẽ không đủ nếu chỉ tìm kiếm những giải pháp, những “tư duy mới” theo từng giai đoạn, một cách tập trung. Thay vì theo giai đoạn, tri thức cần sản sinh liên tục. Thay vì tập trung, tri thức cần phân tán.
Nói cách khác, tìm kiếm một tư duy đổi mới hiện nay là không đủ trong bối cảnh xã hội hiện đại, đa dạng và phức tạp. Cái mà xã hội Việt Nam cần là phải tạo lập một cơ chế để trong đó các tư duy mới liên tục được phát sinh, cạnh tranh với nhau và cùng phát triển. Có thể nói, nhu cầu của chúng ta hiện nay là đổi mới cơ chế đổi mới tư duy.
Để làm được điều này, những thể chế và điều kiện cần thiết cho quá trình phân hữu tri thức phải dần được tạo lập và bảo vệ. Ở mức cao nhất, đó là việc tiếp tục xây dựng và kiện toàn một nhà nước pháp quyền. Sự diễn giải luật pháp cần rõ ràng và dễ hiểu, môi trường chính sách cần minh bạch và nhất quán. Chế độ bản quyền cần được tôn trọng và tuân thủ một cách nghiêm túc. Tư tưởng và ngôn luận ngày càng cởi mở hơn và hướng tới sự tự do và công khai trong tranh luận, tự do nghiên cứu và phản biện chính sách. Trong quá trình bồi đắp và phát triển những thể chế thân thiện với thị trường và tạo điều kiện cho tri thức phát triển, các cơ quan truyền thông, các diễn đàn chung, các sự kiện hội họp, và các tổ chức công dân có vai trò to lớn. Đây là con đường mà Việt Nam không thể tránh khỏi trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và tiến trình văn minh của nhân loại.
Nguồn: Sài Gòn tiếp thị.Xuân Tân Mão
Hành trang vươn tới một quốc gia công nghiệp
TS. Phạm Duy Nghĩa
Tia Sáng
09:25' AM - Thứ ba, 01/02/2011
Bước vào năm 2011, nước ta còn đúng một thập kỷ để thực hiện mơ ước trở thành quốc gia công nghiệp. Bên cạnh những văn minh vật chất như cảng biển, khu công nghiệp, tàu cao tốc... có thể dành dụm hoặc dựa vào tiền vay mà dựng lên thì một quốc gia công nghiệp còn cần tới phong cách ứng xử công nghiệp. Năm mới cũng nên là dịp nhìn lại hành trang của nước ta trên lộ trình đó.
Kỷ luật thị trường và tập đoàn
Từ hai chục năm nay chúng ta lại yêu kinh tế thị trường. Ồn ào giữa chợ, rượt đuổi theo lợi nhuận, người thắng kẻ thua, nửa triệu doanh nghiệp đủ loại ganh đua nhau giành lấy trái tim khách hàng. Nhớ lại một thời bao cấp chưa xa, với bộ máy kế hoạch Nhà nước đã nghĩ thay người sản xuất và nghĩ thay cả cho người tiêu dùng. Thật vĩ đại, kỷ luật thị trường đã thay đổi đáng kể nếp nghĩ trên đất nước chúng ta.
Từ chỗ quản lý hàng vạn xí nghiệp quốc doanh nay nhà nước đã thu hẹp phạm vi kinh tế quốc doanh, chỉ còn giữ lại 12 tập đoàn và khoảng 1.500 doanh nghiệp, hết thảy được ép phải chơi cùng một luật chung với dân doanh. Đồng thời bộ máy công vụ đang tách dần ra khỏi khu vực hành chính sự nghiệp, công chức tách dần khỏi viên chức. Một nhà nước ôm đồm đang làm cuộc tự lột xác không hề dễ dàng để trở thành một nhà nước nhỏ hơn, nhưng năng động hơn, hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn.
Chỉ có điều, số lượng tuy giảm, song 12 tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn được ưu ái vốn và nguồn tài nguyên, riêng vốn cho Vinashin đã lên tới 113 nghìn tỷ đồng, tức là gấp trên 100 lần ngân sách của một tỉnh quy mô nhỏ như Đồng Tháp. Năm 2010, người ta không thể quên Vinashin, một tập đoàn thua lỗ, phơi bày ra những lỗ hổng đáng báo động về trách nhiệm quản lý vốn nhà nước đầu tư cho các công ty quốc doanh. Chỉ có được những nguồn tin thứ cấp, một khối tài sản lớn của quốc gia được giao cho những thành viên hội động quản trị công ty mà thiếu vắng những thiết chế giám sát hiệu quả.
Vinashin không chỉ là câu chuyện trả 86 nghìn tỷ đồng nợ khó đòi. Lấy tiền dân đầu tư vào các tập đoàn, tiền ấy không phải của nhà nước, càng không phải của cá nhân các quan chức. Giao tất cả tài nguyên quốc gia cho nhà nước quản lý, ông chủ nhân dân phải làm gì để giám sát chính quyền. Vinashin thua lỗ, Quốc hội, Chính phủ và các bộ đều có phần lỗi, song chưa có cơ sở để quy rõ hơn trách nhiệm thuộc về ai, một nhu cầu sắp xếp lại nền quản trị quốc gia đã trở nên bức bách.
Sở hữu tư nhân và công bằng xã hội
Hai thập kỷ tái khởi động nền kinh tế thị trường đã làm sống lại sở hữu tư nhân. Những ông chủ đang thay khuôn mặt mới. Bùn đỏ từ khai khoáng xuất hiện ở Cao Bằng, rừng biên giới ở Lạng Sơn được cho người nước ngoài thuê, đất Ba Vì lên cơn sốt, bờ sông Sài Gòn tới những bãi biển miền Trung bị khoanh thành của riêng, tránh tư nhân hóa song trớ trêu thay chúng ta lại mở cửa cho tài nguyên quốc gia đôi khi được khai thác thiếu kiểm soát vì lợi ích tư nhân.
Khi kinh tế tư nhân đã chiếm tới 48% GDP, đã tới lúc phải nhìn nhận lại vai trò của sở hữu công cộng và sở hữu tập thể của các hợp tác xã. Nếu tiếp tục đề cao công hữu, do khả năng quản lý kém, của công có nguy cơ ngấm ngầm biến thành tư. Tích lũy tiền bạc lâu ngày sẽ trở thành sức mạnh, tới khi cái võ cũ bị đục rỗng, một trật tự của cường lực và những đặc quyền mới sẽ lộ diện.
Một quốc gia công nghiệp phải là một chế độ có nền công lý đảm bảo tự do của mọi người dân, tức là phải có một chế độ pháp quyền. Luật pháp dày đặc, song nếu chúng chỉ nhằm thay thế danh tước những ông chủ một cách tân thời, thì nguồn lực trong quốc gia vẫn bị kiểm soát bởi những nhóm lợi ích đặc quyền. Khi ấy lợi ích tư nhân thắng thế, hệ thống nhà nước và luật pháp trở thành pháo đài chiến lũy bảo vệ người có quyền và thế lực, ngăn cản quyền tiệm cận nguồn lực và thi thố tài năng của bất kỳ ai. Nếu điều ấy xảy ra, cũng tựa như vô số nước đang phát triển khác, chúng ta có nhà máy lọc dầu và có thể có đường sắt cao tốc, song chưa có nền tảng ứng xử công bằng của một xã hội công nghiệp.
Xã hội công dân
Từ năm 2001 Hiến pháp nước ta được sửa đổi, bổ sung thêm một quy định rằng Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân. Luật pháp đã được ban hành nhiều, song vẫn còn rất nhiều việc phải làm để hướng tới một xã hội thượng tôn pháp luật. Kinh tế thị trường không còn nghi ngờ gì nữa đã cởi trói cho sở hữu tư nhân. Song càng khuyến khích kinh tế tư nhân, càng phải có một nhà nước mạnh để phân bổ phúc lợi và sự thịnh vượng trong quốc gia một cách công bằng.
Nhà nước thường chỉ mạnh khi người dân ý thức được quyền và trách nhiệm công dân, tìm cách kiểm soát, giám sát chính quyền. Năm 2010 đã xuất hiện những vụ kiện Bộ Công thương vì thông tư của Bộ có dấu hiệu trái luật, gây thiệt hại tiền tỷ cho doanh nghiệp hoặc người dân khởi kiện chính quyền địa phương do “lô cốt” cản trở việc kinh doanh của họ. Cứ đà ấy, “quy hoạch treo, hố tử thần” một ngày kia có thể trở thành những vụ kiện khi người dân học được cách chất vấn và truy tìm trách nhiệm của chính quyền.
Từ văn hóa cho đến pháp luật
Dùng văn để giáo hóa, dùng văn để trị, nôm na hành xử văn hóa tức là tập ứng xử như một con người xã hội. So với cách hiểu ấy, hai chữ văn hóa ngày nay đã thay đổi nhiều. Như một ngành thực hiện quản lý nhà nước, năm 2010 diễn ra vô số sự kiện văn hóa và phi văn hóa. Sự kiện lớn 1000 năm Thăng Long đã qua. Tự hào vì thủ đô cũng như vô số các đô thị mới phát triển nhanh, ngày càng mới, song để đô thị đẹp hơn, xanh hơn, sạch hơn, biết nâng niu những giá trị cổ truyền, để mỗi con người sống trên đất đô thị ứng xử với nhau văn hóa hơn, hình như còn ngổn ngang những việc phải làm.
Năm 2010 cũng là năm mà các netizen được cung cấp vô số mẩu phim phản cảm trên Internet, từ cô bảo mẫu dội nước vào mặt, tắm cho trẻ bằng chân, bé Hào Anh bị hành hạ, cho tới nhan nhản bạo lực nơi học đường. Văn hóa tức là cách người ta hành xử, nhân nào quả đấy, có biết bao nhiêu căn cớ để lý giải vì sao con người ta hành xử thì cũng có bấy nhiêu cội nguồn nhào nặn ra văn hóa của con người nước ta. Hãy giải thích vì sao dân tộc chúng ta hầu như chưa quen xếp hàng, chưa quen tuân thủ luật lệ giao thông, chưa tự giác xả rác đúng nơi quy định. Như lá cành thân rễ, từ muôn đời nay đời sống tư tưởng, tâm linh, tôn giáo, thói quen, tục lệ và pháp luật, hết thảy những quy phạm xã hội đa dạng ấy đã tựa như một cái cây vững chãi tạo nên văn hóa của người dân nước ta.
Muốn đạt tới cách ứng xử văn minh trong một quốc gia công nghiệp, không thể thụ động chờ tập quán người dân nước ta tự diễn biến, tự đổi thay. Từ truyền thống văn trị, phải cần tới một trật tự pháp trị rõ ràng, lấy những chuẩn mực pháp luật nghiêm minh làm thước đo thay đổi hành vi con người. Hướng tới một quốc gia công nghiệp, nếu định hướng hành vi ứng xử văn hóa trở nên khó khăn và thiếu cụ thể, phải định hướng hành vi con người theo những chuẩn mực cụ thể của pháp luật, dần dà con người văn hóa sẽ được định hình dần theo.
Hai thập kỷ đổi mới theo kinh tế thị trường cũng là hai thập kỷ văn bản luật trên giấy tăng nhanh theo thời gian. Song từ luật trên giấy cho đến luật ngoài đời còn quá nhiều vênh lệch. Không thể áp dụng những tiêu chuẩn kép, luật pháp phải công bằng, áp dụng công khai cho mọi đối tượng, không phân biệt lý lịch, thành phần xuất thân. Khi pháp trị được thiết lập, qua năm tháng những tín hiệu này sẽ tác động ngược trở lại hành vi ứng xử có văn hóa của người dân.
Một thập kỷ mới đang tới. Trở thành một quốc gia công nghiệp, ngoài những chỉ số kinh tế lớn lao, cũng có nghĩa thật giản dị rằng người dân nước ta phải biết dừng trước đèn đỏ và nhường nhịn khi tham gia giao thông. Để có được một quốc gia như vậy, ngoài kinh tế thị trường, trong hành trang vươn tới văn minh, dân tộc chúng ta rất cần một chế độ thượng tôn pháp luật và nhiều hơn nữa tinh thần công dân.
Nguồn: Tia Sáng
Phát triển dựa trên trí tuệ
Vũ Quốc Tuấn
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
08:51' AM - Thứ hai, 31/01/2011
Mùa xuân là mùa của niềm tin và hy vọng. Doanh nhân nước nhà bước vào mùa xuân Tân Mão 2011 với niềm tin về những bước phát triển vững chắc hơn trong thời gian tới, dựa trên nền tảng trí tuệ của toàn dân tộc Việt Nam ta...
Trí tuệ - nền tảng của sự phát triển
Thời gian qua, nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng khá, song chủ yếu là dựa vào tăng vốn đầu tư, sử dụng lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên khoáng sản, nguyên liệu thô; năng suất lao động và giá trị gia tăng rất thấp. Yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước trong thời kỳ mới đòi hỏi chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng chất lượng và hiệu quả. Muốn vậy, không thể không khai phóng tư duy, phát huy trí tuệ của mỗi con người, của toàn dân tộc Việt Nam ta.
Trí tuệ của toàn dân tộc cần được thu hút vào việc xử lý những vấn đề then chốt của sự nghiệp phát triển đất nước, bảo đảm phát huy sức mạnh tinh thần và vật chất của toàn dân tộc, để nền kinh tế phát triển bền vững, để chất lượng cuộc sống của người dân ngày một nâng cao, để các vùng miền phát triển hài hòa, để chênh lệch giàu nghèo được dần dần thu hẹp, để hội nhập quốc tế thành công, v.v... Doanh nhân và các tầng lớp nhân dân ta cũng đang day dứt và rất tâm huyết muốn được đóng góp nhiều hơn nữa trí tuệ và công sức, vì tuy GDP đã đạt được trên 104 tỉ USD nhưng quy mô ấy vẫn quá nhỏ bé so với một dân tộc có trên 86 triệu dân, mà chất lượng của sự phát triển cũng còn nhiều yếu kém.
Phát huy trí tuệ của ba nhóm người
Trong thời kỳ phát triển mới, việc tiếp tục phát huy trí tuệ toàn dân tộc là hết sức cần thiết, song từ thực tế, có thể thấy quan trọng nhất là cần nâng cao và phát huy tầm trí tuệ của ba nhóm người sau đây.
Những người hoạch định đường lối, chính sách. Đây là nhóm người giữ vai trò quyết định trong việc hình thành đường lối, cương lĩnh, chiến lược phát triển của đất nước. Vì vậy, nâng cao tầm trí tuệ của nhóm người này, nhất là những người giữ vai trò chủ chốt có ý nghĩa hàng đầu. Nâng cao tầm trí tuệ của nhóm người này tức là đòi hỏi ở họ tư duy đổi mới, đầu óc sáng tạo, luôn luôn suy nghĩ, tìm tòi cái mới, có dũng khí từ bỏ những suy nghĩ cũ kỹ, giáo điều, lỗi thời. Những người này cần chân thành tiếp thu những ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân, các doanh nhân, nhà khoa học, công nghệ, bảo đảm cho đường lối, chính sách thực sự là kết tinh trí tuệ của toàn dân tộc, đáp ứng kịp thời yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
Những nhà khoa học, công nghệ. Đây là đội ngũ trí thức có tác động trực tiếp đến năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội của mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trí thức nước ta, trong lĩnh vực khoa học xã hội cũng như khoa học tự nhiên, đang có hoài bão lớn, rất tâm huyết đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Việc nâng cao tầm trí tuệ của họ chính là tạo một không gian tự do với những điều kiện thuận lợi và thái độ trân trọng để họ theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu, sáng tạo. Cần có những chính sách phù hợp để khuyến khích họ, nhất là những trí thức đầu đàn đóng góp ý kiến vào quá trình hoạch định thể chế, chính sách cũng như vào các công đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh.
Các doanh nhân. Đây là những người trực tiếp đầu tư vốn liếng, mở doanh nghiệp, làm ra của cải cho xã hội, góp phần chủ yếu vào sự phát triển đất nước. Họ thực hiện đường lối, chính sách, các cơ chế, chính sách quản lý trong doanh nghiệp, là người ứng dụng kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Chất lượng, quy mô và tốc độ của tăng trưởng dựa vào đội ngũ này. Nâng cao tầm trí tuệ của tầng lớp doanh nhân, nhất là lớp doanh nhân trẻ tuổi, là cập nhật, bổ sung kiến thức mới để họ phát huy tính năng động, sáng tạo trong kinh doanh, chủ động thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó góp phần bảo đảm chất lượng, hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế và bảo đảm hiệu quả trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Xin nhấn mạnh rằng, trong ba nhóm người ấy, nhóm người giữ vị trí quyết định là nhóm người hoạch định chính sách phát triển. Việc nâng cao tầm trí tuệ của nhóm người này có ý nghĩa rất quyết định. Tư duy của họ được khai phóng, trí tuệ của họ được nâng cao cùng với việc phẩm chất, đạo đức của họ được trau dồi, thì đường lối, chính sách do họ hoạch định và quyết định mới có thể đáp ứng được nhiệm vụ chuyển đổi mô hình tăng trưởng; hướng vào năng suất, chất lượng, năng lực cạnh tranh, để đất nước tiếp tục phát triển bền vững.
Phát huy dân chủ, khuyến khích tự do tư tưởng
Để phát huy trí tuệ Việt Nam, trước hết và quan trọng nhất là phát huy dân chủ, tự do tư tưởng, cũng tức là khuyến khích khai phóng tư duy, khuyến khích những cách suy nghĩ mới, những giải pháp có tính đột phá, coi tự mãn, giáo điều, sách vở là nguy cơ lớn, là lực cản chủ yếu trong tư duy. Dân chủ trong tư tưởng phải thể hiện bằng sự lắng nghe, thảo luận và tranh luận một cách công khai, thẳng thắn, bình đẳng.
Cần khuyến khích phản biện xã hội, coi đây là một hoạt động thể hiện quyền làm chủ của dân trong việc giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đồng thời là một kênh chủ yếu để những người có trách nhiệm thu hút được trí tuệ của các tầng lớp nhân dân vào việc hoạch định và thực thi thể chế, chính sách. Phản biện xã hội là nhu cầu cần thiết và là đòi hỏi bắt buộc của quá trình lãnh đạo và điều hành đất nước, là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục tệ quan liêu, xa thực tế.
Mùa xuân mới, chúng ta hãy hy vọng về sự bừng nở, tỏa sáng của trí tuệ Việt Nam, đem lại một tương lai huy hoàng của đất nước.
********************************************888
Cải cách hướng tới một Việt Nam tự do và trí tuệ
TS. Lê Đăng Doanh
Thời báo kinh tế Sài Gòn
06:35' PM - Chủ nhật, 29/01/2006
Ba mươi năm qua, từ năm 1975 cho đến nay, có thể được nhìn nhận là ba mươi năm phấn đấu của toàn thể dân tộc ta trên những chặng đường quanh co, gian khổ để thực hiện các quyền tự do, dân chủ trên đất nước Việt Nam, thực hiện điều mà Bác Hồ đã trịnh trọng tuyên bố ngày 2-9-1945: “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng”. Công cuộc đổi mới từ khoán trong nông nghiệp, xé rào trong doanh nghiệp nhà nước, bỏ “ngăn sông cấm chợ” trong thương nghiệp, bỏ độc quyền ngoại thương cho đến Luật Doanh nghiệp, việc bỏ giấy phép con, doanh nghiệp dân doanh được kinh doanh tất cả những ngành nghề mà pháp luật không cấm, cho phép cả thương nhân được xuất khẩu, sự xuất hiện cạnh tranh... là một quá trình dài, liên tục từng bước mở rộng các quyền tự do kinh doanh của người dân đã được khẳng định long trọng trong Hiến pháp nhưng đã bị Nhà nước “cầm nhầm”, “giữ hộ” quá lâu.
Từ việc cấp giấy phép đánh máy chữ, cấp giấy phép bán báo rong có kỳ hạn đến việc Thủ tướng công nhận người dân có quyền được thông tin, việc chất vấn các thành viên Chính phủ trước Quốc hội được truyền hình trực tiếp và báo điện tử VietnamNet công bố ý kiến của cử tri đánh giá trả lời của các bộ trưởng... là một bước tiến theo một hướng khác, không kém phần quan trọng của đổi mới: đó là thực hiện các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội để góp phần cải cách bộ máy hành chính quan liêu khỏi các căn bệnh tham nhũng, bất lực, tư lợi. Đó là những cải cách đúng hướng cần được đẩy tới trên con đường phát triển.
Kinh tế thị trường, tự do kinh doanh là các hình thức, phương tiện để phát huy sức sáng tạo, tinh thần kinh doanh mạnh mẽ của người dân. Một quyền tự do cơ bản nhất để đi đến phồn vinh là quyền sở hữu tài sản rõ ràng. Chỉ có quyền sở hữu tài sản rõ ràng mới biến tài sản thành tiền vốn và tư bản. Đất đai, rừng, mỏ là ví dụ sinh động nhất chứng minh cho kết luận này: sự không rõ ràng về sở hữu dẫn đến đất đai bị lạm dụng, giá trị bị chiếm đoạt phi pháp và người chủ đích thực là người dân lại trở thành nạn nhân của sự tước đoạt của những người được coi là “đầy tớ” phục vụ mình. Vì vậy, bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp, minh định quyền sở hữu toàn dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất để đi đến một xã hội phồn vinh và công bằng.
Và trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, sự khác biệt và chênh lệch lớn nhất giữa các nền kinh tế là trí tuệ và thông tin. Nếu có trí tuệ, có ý tưởng hấp dẫn, bạn sẽ có tiền vốn từ rất nhiều nhà đầu tư tài chính quốc tế đang sẵn sàng bỏ vốn vào những dự án có lãi và có khả năng thuyết phục. Nếu chậm hay không có thông tin, bạn sẽ không thể có các mặt hàng mới lạ, chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Chỉ cần phân tích cuộc cạnh tranh giữa các nhà cung cấp điện thoại di động, thiết bị điện tử dân dụng... chúng ta có thể thấy phần thắng thuộc về những sản phẩm có trí tuệ, có giải pháp thông minh, hiệu quả hơn và rẻ hơn. Năng lực cạnh tranh được quyết định chủ yếu bởi trí tuệ chứ không phải bởi cơ bắp.
Mặc dù có tăng trưởng cao nhưng nền kinh tế của nước ta vẫn chủ yếu là một nền kinh tế gia công, lắp ráp trong công nghiệp và xuất khẩu các sản phẩm thô với giá trị gia tăng thấp. Ví dụ chua chát điển hình là nước ta xuất than để nhập điện từ Trung Quốc là một trong vô số các trường hợp kém hiệu quả đó. Nếu chỉ dừng ở mức này thì nước ta sẽ tiếp tục ở trong loại hình kinh tế hàm lượng trí tuệ thấp và không thể vươn lên “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” được. Điều mà Nhật, Hàn Quốc đã làm được và Trung Quốc đang thực hiện một cách thành công đang là nhiệm vụ phía trước của nước ta: tiến tới một xã hội phát triển. Nếu không có cải cách mạnh mẽ sẽ rất khó có bước phát triển quan trọng về chất này. Và đừng ngộ nhận rằng có thể đạt được trình độ cao hơn mà không phát huy đầy đủ nhất, mạnh mẽ nhất trí thông minh, sự sáng tạo, lòng quả cảm của người dân.
Cải cách phải tiếp tục với những bước tiến cơ bản trong cải cách bộ máy nhà nước, chuyển từ một bộ máy cai trị, kiểm soát sang một bộ máy phục vụ dân, phục vụ doanh nghiệp, một bộ máy “của dân, do dân và vì dân” thật sự, như Abraham Lincoln đã nói. Phải làm rõ một cách cụ thể từng tiêu chí “của dân” là gì, “do dân” ở đâu và “vì dân” như thế nào, và cách làm duy nhất đúng là thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của người dân, trong đó có quyền được tiếp cận thông tin, quyền được kiểm soát bộ máy nhà nước. Và cũng phải cụ thể hóa công thức “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” gồm nội dung gì, được thực hiện thế nào, do ai và theo lộ trình nào. Chỉ có phát huy dân chủ của người dân và thông qua người dân mới có thể cải cách bộ máy nhà nước. Một người công dân ở Thụy Điển có quyền đòi hỏi được cung cấp thông tin về các chi tiêu của ông thủ tướng từ công quỹ nhà nước, mọi sự chậm trễ hoặc cung cấp không đầy đủ đều bị trừng phạt theo quy định của pháp luật. Một đảng viên của đảng Xã hội Dân chủ Đức có quyền được xem xét mọi hóa đơn chứng từ chi tiêu của ban chấp hành, được tham gia quyết định chương trình nghị sự, đề cử ứng cử viên vào ban chấp hành các cấp, kể cả trung ương. Và người dân, qua trang chủ của từng bộ, có thể biết lịch làm việc đến cấp trưởng phòng để giám sát sự mẫn cán của các viên chức nhà nước, điều đó đã trở thành hiện thực hàng ngày của rất nhiều nước trên thế giới. Pháp luật phải phát huy quyền tự do của người dân và chế định, giám sát quyền hạn và hành vi của quan chức nhà nước chứ hoàn toàn không có cái triết lý “quản đến đâu mở ra đến đấy”. Quyền lực phải được giám sát bằng quyền lực tương xứng một cách thường trực, nếu không quyền lực sẽ dẫn đến tha hóa. Và chân lý đó đã được xác minh qua thực tế ở nước ta.
Rất nhiều công việc ở nước ta hiện do các cơ quan nhà nước đảm nhiệm thực ra đã được các tổ chức nghề nghiệp, tổ chức quần chúng hay các tổ chức tự quản ở các địa phương thực hiện có hiệu quả hơn rất nhiều: chứng chỉ hành nghề của bác sĩ hay luật sư, cai quản nhà tù, giám sát chất lượng giảng dạy ở các trường học... Vai trò giám sát của người dân đối với Nhà nước cũng có hiệu lực hơn, thông qua những kênh khác nhau như cơ quan dân cử, báo chí, sự tham gia trực tiếp của người dân.
Chỉ có dân mới cải cách được bộ máy nhà nước, bộ máy nhà nước không thể tự cải cách được chính mình. Và đó là con đường dài đi đến một xã hội mà Karl Marx đã gọi là xã hội cộng sản chủ nghĩa với đặc trưng quan trọng nhất là “Tự do của mỗi một người là điều kiện cho tự do của tất cả mọi người”.
Khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, đang mở ra những khả năng mới, bao la cho việc thực hiện các quyền tự do dân chủ đó: Internet, truyền hình toàn cầu qua vệ tinh và cáp quang. Giáo dục, đào tạo, dân trí là những tiền đề không thể thiếu cho phát triển và tăng trưởng. Sự khác biệt quan trọng nhất giữa các nền kinh tế trong các giai đoạn phát triển khác nhau không thể hiện chủ yếu qua tiền bạc mà qua trí tuệ. Trung Quốc với thu nhập bình quân đầu người 1.200 đô la Mỹ có thể phóng được tàu vũ trụ Thần Châu trong khi không ít nước khác giàu hơn nhiều chưa làm được là biểu hiện sinh động nhất cho sự khác biệt này. Mở rộng dân trí, chấn hưng giáo dục, phát triển các dịch vụ trí tuệ và công nghệ thông tin là con đường để đi đến phát triển. Tự do, dân chủ không chỉ là mục tiêu mà là phương tiện, là đại lộ dẫn đến phồn vinh và phát triển.
Trong hai mươi năm đổi mới, nước ta đã có tiến bộ và tăng trưởng đáng khích lệ. Song, chúng ta cần đạt được sự chuyển biến về chất, một sự nhảy vọt trong thực hiện quyền tự do, dân chủ của người dân để tiến kịp thời đại, để trở thành một đất nước phát triển trong cộng đồng nhân loại. Đó là mệnh lệnh của đất nước và sứ mạng của thế hệ ngày nay trước lịch sử ngàn năm của dân tộc.
Nguồn: Thời báo kinh tế Sài Gòn
********************************************************8
Hi vọng
Nguyễn Vỹ Du
Tuổi Trẻ
03:03' PM - Thứ năm, 13/01/2011
“Nhìn thẳng vào sự thật” có lẽ là cụm từ đáng nhớ nhất trong diễn văn khai mạc Đại hội Đảng lần thứ XI của ủy viên Bộ Chính trị, chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết mà người dân được nghe khi xem truyền hình trực tiếp.
“Nhìn thẳng vào sự thật” vừa là một ý muốn vừa bao hàm nỗi khao khát của người đứng đầu nhà nước về một quốc gia phát triển trong tương lai: trở thành “nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Theo ý ông, nếu muốn phát triển, không còn cách nào khác là phải nhìn thẳng vào sự thật để rút ra kinh nghiệm cần thiết, cho dù đó là kinh nghiệm về thành tựu hay về sai lầm, để làm hành trang giúp đất nước tiến về phía trước.
Diễn văn của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khiến người dân nhớ lại Đại hội Đảng lần VI năm 1986. Trong bài diễn văn của mình đọc tại đại hội đó, Tổng bí thư Trường Chinh cũng dùng cụm từ “nhìn thẳng vào sự thật”. Và lịch sử sau đó cho thấy rằng cái sự thật mà ông Trường Chinh đề cập đó giúp người dân đủ ăn đủ mặc hơn trước rất nhiều và có thêm rất nhiều cơ hội mở ra trước mắt họ.
Vậy là, “nhìn thẳng vào sự thật” đã được lặp lại ít nhất thông qua hai bài diễn văn của hai đại hội Đảng, mà đại hội nào cũng được khẳng định có “trách nhiệm to lớn trước toàn dân tộc” và kèm theo đó là những tự kiểm không tránh né của những người lãnh đạo cấp cao của Đảng. Một khi sự thật về những thiếu sót, khuyết điểm không bị giấu giếm thì người dân phần nào đã nhìn thấy tính minh bạch, công khai và thẳng thắn từ bộ máy lãnh đạo.
Vì vậy, dù cho có thông tin khẳng định về việc có một ít cán bộ để vợ con vun vén lợi ích cá nhân hay nền kinh tế vĩ mô không ổn định, hoặc tệ quan liêu tham nhũng và tội phạm chưa được đẩy lùi... thì người dân không còn lo lắng lắm đến mức độ ảnh hưởng của nó tới vận mệnh quốc gia vì đã có niềm hi vọng rằng: Đảng đã nhìn thấy, đã công bố thì Đảng sẽ cố công loại trừ vì sự phát triển của đất nước. Và đó cũng chính là sức mạnh của sự thật, như cách đây 25 năm về trước!
Cùng với sự thật, người dân hi vọng được nhìn thấy sự đổi thay trong cách nghĩ, cách làm của những người lãnh đạo mà Đảng sẽ bầu ra trong nay mai để lèo lái đất nước. Dù là ai đi nữa thì cũng mong rằng các vị đủ sức đưa đất nước vượt qua những thử thách cam go trong giai đoạn này.
Là dân, ai cũng muốn mong ước chính đáng của mình được thực hiện; hơn nữa, khi Đảng đã xác định quan điểm phát triển quốc gia trong 10 năm tới là ”phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển” thì người dân năm 2011 chúng ta có quyền hi vọng về một tương lai ấm no và thịnh vượng.
Nguồn: Tuổi Trẻ
Phát triển khu vực kinh tế nhà nước
Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group
Sách Cải cách và sự phát triển
08:32' PM - Thứ tư, 27/10/2010
Kinh tế quốc doanh và vấn đề cải cách doanh nghiệp nhà nước
Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) từ lâu nay vẫn được coi là thành phần chủ đạo trong các nền kinh tế đang chuyển đổi. Ở Việt Nam và cả Trung Quốc, thực ra cái gọi là "vai trò chủ đạo" này chưa bao giờ có thực.
Đánh giá chung của nhiều cấp lãnh đạo, nhà chuyên môn và của chính nhiều người trong cuộc là những người có trách nhiệm điều hành các DNNN đều thừa nhận sự yếu kém của thành phần kinh tế này và chính sự yếu kém đó là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự trì trệ của cả nền kinh tế.
Để khắc phục tình trạng này chủ trương đẩy mạnh đổi mới DNNN với mục tiêu kinh tế nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần đã và đang được triển khai. Có thể kể ra các giải pháp đổi mới như cổ phần hoá, điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh; bổ sung sửa đổi cơ chế, chính sách, đổi mới và hiện đại hóa công nghệ và quản lý của đại bộ phận doanh nghiệp nhà nước; đầu tư phát triển và thành lập mới doanh nghiệp nhà nước ở những lĩnh vực, địa bàn cần thiết...
Từ lâu, một số người nhìn nhận vai trò chủ đạo của khối DNNN một cách phiến diện thông qua những con số thống kê tỷ lệ phần trăm về vốn, nhân lực và GDP. Chúng ta không nên nhầm lẫn giữa số lượng và chất lượng. Với vai trò hạt nhân của nền kinh tế kế hoạch, các DNNN tập trung và phản ánh đầy đủ, sâu sắc nhất những mâu thuẫn, yếu kém, thậm chí là phi kinh tế của nền kinh tế kế hoạch tập trung. Bản chất sự yếu kém của các DNNN là thực thể kinh tế này cho đến nay vẫn chưa được vận hành đầy đủ theo đúng các quy luật của kinh tế thị trường. Vì vậy để đổi mới chúng ta phải nhìn nhận và giải quyết các vấn đề đang cản trở sự phát triển bình thường của lực lượng kinh tế quan trọng này.
Vấn đề quản lý, điều hành
Vấn đề "lỗ lãi" của DNNN từ lâu luôn là vấn đề nhức nhối. Các con số thống kê cho thấy số DNNN làm ăn có lãi không phải là ít và nếu quả đúng như vậy thì với vai trò chủ đạo của nó, nền kinh tế Việt Nam hay Trung Quốc cũng không đến nỗi yếu kém và trì trệ như ngày nay.
Nhưng Việt Nam hay Trung Quốc buộc phải thừa nhận một thực tế là việc quản lý, điều hành các DNNN hiện nay còn thiếu tính minh bạch và chưa đạt các chuẩn mực kinh doanh hiện đại. Cụ thể là các chế độ quản lý, hạch toán thường không phản ánh đúng tình hình kinh doanh, thậm chí ngay đến các cơ quan quản lý cấp trên của DNNN cũng khó nắm bắt kịp thời tình hình sản xuất kinh doanh cũng như hiện trạng tài chính của doanh nghiệp. ở Việt Nam, từ lâu nay, chúng ta đã quen với hiện tượng "nhà nước và doanh nghiệp là một", một phương thức điều hành rất vô lý và phi kinh tế. Theo phương thức này, Nhà nước tức chủ sở hữu quá tin tưởng vào các giám đốc tức người thực hiện dịch vụ điều hành, quản lý đến mức các kết quả kinh doanh không hề cần và phải kiểm toán để kiểm tra, đánh giá lại kết quả kinh doanh thực sự của doanh nghiệp.
Vấn đề chính sách, chế độ bao cấp, ưu tiên, độc quyền và bảo hộ
Có thể nói chính sự bao cấp, ưu tiên, độc quyền và bảo hộ không hợp lý của nhà nước đã gây một kết quả trái với mong đợi, biến các DNNN trở thành những đứa con được quá nuông chiều, luôn nhũng nhiễu và thường tỏ ra kém cỏi khi phải đối mặt với những khó khăn, thách thức của thực tế. Sự bao cấp, ưu tiên, độc quyền của nhà nước là nguyên nhân cơ bản làm cho các DNNN không được điều hành theo đúng cơ chế thị trường và hậu quả là các DNNN mất sức cạnh tranh luôn phải cậy nhờ vào sức mạnh và sự can thiệp vốn rất hạn hẹp của bà mẹ nhà nước. Trong xu thế hội nhập, nếu không nhanh chóng xoá bỏ chế độ bao cấp, ưu tiên, độc quyền thì DNNN khó có thể có được sức mạnh thực sự để cạnh tranh có kết quả với các doanh nghiệp trong ngoài nước trên thị trường trong nước và quốc tế chứ chưa nói đến vai trò chủ đạo của nó, nghĩa là nó phải kinh doanh có hiệu quả nhất, có sức cạnh tranh lớn nhất và gương mẫu đi đầu trước mọi thách thức trong quá trình hội nhập. Ta có thể thấy căn bệnh độc quyền dẫn tới những phi lý về giá cả làm thiệt hại đến lợi ích người tiêu dùng và ảnh hưởng tới sự cạnh tranh và sự phát triển lành mạnh của chính các doanh nghiệp nhà nước. Giá sản phẩm và dịch vụ của các công ty độc quyền bất hợp lý làm biết bao doanh nghiệp khốn đốn và mất sức cạnh tranh một cách oan uổng. Những ưu tiên, độc quyền kiểu này chính là nguyên nhân dẫn đến những nghịch lý đang tồn tại như một căn bệnh di căn làm trở ngại sự phát triển bình thường của cả nền kinh tế. Rõ ràng là việc xoá bỏ những ưu tiên, độc quyền cho các DNNN không chỉ có tác dụng làm cho chính các doanh nghiệp này trở nên vững mạnh và có sức cạnh tranh lớn hơn mà quan trọng hơn, nó còn là một điều kiện tiên quyết để cho cả nền kinh tế phát triển ổn định theo những quy luật thông thường.
Vấn đề đầu tư
Ở Việt Nam, các DNNN hiện sử dụng một tỷ lệ lớn các nguồn lực nhưng lại tạo ra quá ít việc làm và có mức tăng năng suất lao động thấp (nhận hơn một nửa trong toàn bộ vốn cho vay của hệ thống ngân hàng chính thức nhưng chỉ tạo ra chưa đến 10% số việc làm) . Đầu tư, phát triển sản xuất của các DNNN thiếu hiệu quả do không gắn với thị trường và thiếu chiến lược đầu tư hợp lý. Nhiều tác giả phân tích những tác hại của hiện tượng các DNNN đầu tư mua thiết bị, máy móc, công nghệ, lạc hậu hàng chục năm so với các nước phát triển nhưng theo chúng tôi vấn đề còn trầm trọng hơn nếu các DNNN được đầu tư dàn trải và sai định hướng. Bài học nhiều doanh nghiệp quốc doanh đầu tư phát triển xi măng lò đứng để rồi chết đứng là một ví dụ. Theo chúng tôi, sự lộn xộn và thiếu hiệu quả đầu tư của các DNNN thể hiện ngay trong chiến lược đầu tưở tầm vĩ mô. Chúng ta chạy theo sự đầu tư dàn trải vào các ngành, các lĩnh vực trong khi ngân sách nhà nước khá hạn chế. Chúng ta chưa thể quên được bài học đắt giá của cuộc khủng hoảng tài chính châu á năm 1997 mà một trong những nguyên nhân chủ yếu của nó là sự sai lầm của chiến lược đầu tư. Trong thực tế hội nhập và phân công lao động quốc tế hiện nay cho phép chúng ta không phải lặp lại tất cả những gì các quốc gia đi trước đã trải qua. Trong chiến lược đầu tư hiện nay, với vị thế, hoàn cảnh của đất nước, chúng ta nên tập trung đầu tư phát triển dịch vụ, du lịch và công nghệ thông tin, đó là những ngành chúng ta có cơ hội hợp tác và cạnh tranh được với các quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới.
Vấn đề sử dụng nhân lực và chính sách tiền lương
Sự yếu kém của các DNNN một phần là do không thu hút được lực lượng lao động có chuyên môn cao. Một thực tế là ngày nay lực lượng chất xám trong đó có nhiều sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, có xu hướng bị thu hút về khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nơi có tiền lương và thu nhập cao hơn. Về bản chất đây là hiện tượng bình thường của kinh tế thị trường, các DNNN với tiền lương thấp hơn đương nhiên khó lòng thu hút được đội ngũ lao động có chất lượng cao. Kết quả là các DNNN vốn dĩ yếu kém càng ngày càng mất đi sức mạnh cạnh tranh về chất lượng đội ngũ lao động của mình.
Thực tế cũng cho thấy, các DNNN chỉ có thể thực sự có vai trò chủ đạo khi nó là một mô hình kinh doanh năng động, có hiệu quả, có sức cạnh tranh cao và gương mẫu đi đầu trong nhiệm vụ cạnh tranh và hội nhập quốc tế đầy khó khăn ngày nay. Vì vậy, đổi mới DNNN phải là thực hiện những giải pháp khắc phục những thiếu sót cơ bản kể trên chứ không thể chỉ đổi mới thông qua các giải pháp mang tính tổ chức, tình thế. Thành công của công tác đổi mới các DNNN chắc chắn sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước. Chính vì vậy, việc đổi mới các DNNN cần đặt trong bối cảnh chung của sự nghiệp đổi mới nền kinh tế gắn với quá trình hội nhập. Đặt các DNNN bình đẳng trong nền kinh tế nhiều thành phần và vận hành chúng theo những quy luật kinh tế thị trường, đó là giải pháp cơ bản để đổi mới và hướng tới mục tiêu "giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần".
Nguồn: Sách Cải cách và sự phát triển
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top