HONG LAU MONG-BAN DAY DU NHAT(GOM 2 PHAN-PHAN 1)

Hong lau mong

en-us22B4E0B763

Tào Tuyết Cần

Lời nói đầu

Trong lịch sử văn học Trung Quốc. Hồng Lâu Mộng có một vị trí đặc biệt. Người Trung Hoa say mê đọc nó, bình luận về nó(1), sáng tác về nó đến nỗi nói: "Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, Độc tận thi thư diệc uổng nhiên!" (Mở miệng mà không nói Hồng Lâu Mộng thì đọc hết cả thi thư cũng vô ích!). Có một ngành học chuyên nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng, gọi là Hồng học; gần đây nhất vẫn thấy Trung Quốc in chuyên san "Hồng Lâu Mộng nghiên cứu". - Có lẽ trên thế giới chỉ có Shakespeare là có một vinh dự lớn lao như thế, vì có "Shakespeare học". Cái gì làm người Trung Quốc say Hồng lâu mộng "như điếu đổ" vậy? Trước hết, đó là do tác phẩm đáp ứng những nhu cầu sâu xa của thời đại. Thời nhà Thanh, dưới thời các hoàng đế Ung Chính, Càn Long (1723 - 1795) là thời kinh tế phồn vinh, chẳng những công nghiệp, thủ công nghiệp, mà cả khai thác mỏ, thương nghiệp...cũng phát triển mạnh mẽ. Các thành thị lớn như Nam Kinh, Dương Châu, Võ Xương, Nhạc Châu... buôn bán, sản xuất sầm uất là những đô thị lớn. Chỉ kể một thị trấn như Thanh Giang bên bờ Vận Hà thôi mà thời đó đã có hơn nửa triệu dân! Nền kinh tế tự phát tư bản chủ nghĩa đó trong lòng xã hội phong kiến chuyên chế mọt ruỗng và đang trên đà tan rã, đã đẻ ra một tầng lớp người thành thị, những người này có những nhu cầu thẩm mỹ mới. Tây Sương Ký, Mẫu đơn đình, Cổ kim tiểu thuyết, Liêu Trai... là những tác phẩm tả tình yêu, những số phận, những buồn vui cá nhân..., chính là sự "thăng hoa" của cuộc sống đã bắt đầu khác trước về chất của người thành thị. Hồng lâu mộng là sự thể hiện những tư tưởng của thời đại: tinh thần dân chủ, tinh thần phê phán đời sống xã hội phong kiến mục nát, phê phán những giáo điều truyền thống đã ăn sâu bén rễ hàng ngàn năm, đòi tự do yêu đương, giải phóng cá tính, đòi tự do bình đẳng, khát khao một lý tưởng cho cuộc sống...Tất cả những cái đó có những mặt kế thừa tư tưởng dân chủ thời Minh và đầu Thanh, nhưng nó chính là sản phẩm của ý thức tư tưởng thị dân đương thời. Giữa những khát vọng sâu xa ấy của con người thời đại và sự biểu hiện nó ra một cách nghệ thuật, đã có một cuộc hẹn hò tuyệt diệu qua Hồng Lâu Mộng.

o0o

Tác giả chính của Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần 1716(?) - 1763(?) giống như phần lớn các nhà văn lớn Trung Hoa trong lịch sử, viết văn là để giải tỏa nỗi niềm "cô phẫn", là để ký thác những suy tư về con người và thời đại. Ông vốn sinh ra trong một gia đình đại quý tộc. Từ đời tằng tổ đến đời cha, thay nhau tập chức "Giang ninh chức tạo" là một chức quan to thu thuế. Năm lần vua Khang Hy tuần du phương Nam thì bốn lần ở lại nhà họ Tào, đủ biết sự sủng ái của nhà vua với gia đình ông ra sao ! Và cũng có thể đoán biết cuộc sống trong phú Giang hồi đó xa hoa, vương giá như thế nào ! Trong Hồng Lâu Mộng, Nguyên phi về thăm nhà có một buổi mà nhái xây cất bao nhiêu đình tạ trong vườn Đại quan, nữa là hoàng đế tuần du ngự đến nhà.Nhà ông chăng những là hào môn vọng tộc hiển hách như thế, lại còn có truyền thống văn chương. Ông nội ông, Tào Dần, đứng in bộ "Toàn Đường Thi trứ danh, và là một nhà thơ, tác giả "Luyện đình thi sao". Nhưng cuộc sống vàng son đó của gia đình ông đã trôi qua, đã tan vỡ. Lúc Tào Tuyết Cần lớn lên thì tất cả đã ở đằng sau rồi: cha bị khép tội, bị cách chức, bị tịch biên gia sán, nhà họ Tào suy sụp và ông phải về sống ờ vùng ngoại ô phía tây thành Bắc Kinh trong cảnh: "cả nhà rau cháo, ruợu thường mua chịu". Hồng Lâu Mộng do đó có thể xem là phản quang những hồi ức của Tào Tuyết Cần về cuộc sống quý tộc đã tan vỡ đó. Một mặt, đó là sự nhớ tiếc khôn nguôi những huy hoàng của vàng son lộng lẫy, cảm thấy tất cả nhuốm màu thê lương, hư vô, tất cả đều xê dịch về phía bế tắc, hủy diệt, tất cả đều đáng ân hận, và chỉ có thể cứu chuộc bằng Hư Vô, bằng siêu hình, bằng tôn giáo! Nhưng mặt khác, từ trong cuộc sống nghèo khó hôm nay, quay đầu nhìn lại thì cái khoảng cách lớn lao đó làm cho ông thấy được rõ hơn, khách quan hơn, bình tĩnh hơn những gì ông đã thấy, đã nếm trái về cuộc sống thối nát của giai cấp quý tộc và sự miêu tả khách quan "những quan hệ hiện thực" này làm ông trở thành một nhà hiện thực. Chí ít thì về mặt đó, ông đã lay chuyến được "niềm lạc quan về cái trật tự hiện tồn", và như thế, ông là sản phẩm của một thời đại, đồng thời đã nhìn xa hơn thời đại. Tào Tuyết Cần đề 10 năng dế viết 80 hồi đầu, Hồng Lâu Mộng: "Xem ra chữ toàn bằng huyết, cay đắng mười năm khéo lạ lùng"; năm lần sửa chửa, trong cảnh cùng khốn, ốm đau không tiền chạy thuốc, trong cánh đứa con yếu của ông chết. Và ông đã lìa đời trong cảnh đau khố dồn dập đó. Bình sinh, ông vẽ giỏi, hay thơ, thích rượu, cuồng phong. Người ta chỉ biết được về ông có thế thôi! Hai mươi tám năm sau khi ông mất, Cao Ngạc viết tiếp 40 hồi, đến khoáng 1792 - 1793 thì Hồng Lâu Mộng được in và lưu truyền khắp trung Quốc. Những hồi Cao Ngạc viết tiếp thì không thể hay bằng những hồi Tào Tuyết Cần viết, nhưng cũng phải nói là Cao Ngạc đã sống với tác phẩm và tri âm tác giả, nên đã hoàn thành dự định của Tào Tuyết Cần và nối tiếp bút lực của người đi trước, hoàn thành và bộc lộ trọn vẹn tư tưởng của tác phẩm, khiến cho tác phẩm vẫn giữ được vẻ hấp dẫn mãnh liệt.(2)

BI KỊCH TÌNH YÊU VÀ Ý NGHĨA TÌNH YÊU TRONG HỒNG LÂU MỘNG

Câu chuyện tình giữa Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc xuyên suốt qua toàn bộ tác phẩm, làm nên chủ đề chính của cuốn tiểu thuyết vĩ đại này. Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, hai anh em cô cậu ruột, cùng ở chung một nhà từ bé; lớn lên, vì Bảo Ngọc được bà nội nuông chiều, riêng cho ở trong vườn Đại quan cùng với đám "quần thoa", nên anh ta và Đại Ngọc gần gũi nhau. Nhưng đây không phải là câu chuyện "lửa gần rơm...". Đây cũng không phải chỉ là câu chuyện "tài tử giai nhân là nợ sẵn". Tình yêu của họ còn có nguyên cớ sâu xa hơn nhiều; họ nói như Saint Exupéry: "Yêu nhau không phải là nhìn nhau mà là cùng nhìn về một hướng", nghĩa là họ "đồng điệu", "tri âm" lẫn nhau trên những vấn đề có ý nghĩa cuộc sống. Nói cho đúng, lúc đầu Bảo Ngọc cũng còn có chút phân vân. Anh ta sống giữa đám a hoàn nhan sắc, những Tập nhân, Tình văn... những người này là những phụ nữ xuất thân từ tầng lớp dưới, được họ Giả mua về hầu hạ, nhưng đó là những người có tình, có phẩm chất tốt đẹp. Họ chính là mót bức màn ngăn bụi trần của phủ Vinh quốc đầy dẫy những hạng đàn ông ô trọc. Bảo Ngọc cảm nhận được thực chất vị tha, quên mình đầy dịu dàng của họ, anh ta như một người được vây bọc bởi sự tận tụy, thương yêu... của những nữ tỳ - đồng thời cũng là "nữ thần" này. Do đó không lạ gì mà Bảo Ngọc đã nêu lên cái "nguyên lý nữ tính" rất xa lạ với tư tưởng "trọng nam khinh nữ" của xã hội phong kiến: "Xương thịt con gái là nước kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bấn". Trong phủ Giả lúc đó còn có cô em họ Tiết Bảo Thoa ở nhờ. Bảo Thoa đẹp, đức hạnh, nết na theo đúng nếp nhà phong kiến. Bảo Ngọc cũng mến Bảo Thoa, gần nàng, anh chàng đôi lúc cũng thấy xiêu xiêu, quả có như lời Lâm Đại Ngọc "gần cô chị thì quên khuấy cô em"! Nhưng rồi dần dần, Bảo Ngọc chỉ yêu có Đại Ngọc thôi. Đại Ngọc kiều diễm, yếu đuối, là một tâm hồn dễ cám xúc, một tâm hồn nhạy cảm và phong phú - đó là một tâm hồn thơ đích thực; và đó là điều mà họ gặp nhau. Quan trọng hơn, là trong khi cả nhà chờ mong Bảo Ngọc học giỏi thi đỗ, làm quan giữ nếp nhà..., thì Bảo Ngọc lại chán ngấy cái con đường mòn nhàm chán đó, và người hiểu anh duy nhất là Đại Ngọc. Bảo Ngọc, chàng trai được nhốt trong cái lồng kính quý tộc đầy cao lương gấm vóc, anh ta được người ta dùng gia giáo, thi giáo, lễ pháp... để ràng buộc theo con đuờng vạch sẵn. Giả Bảo Ngọc bị mất tự do, và anh ta cảm thấy sâu sắc điều đó, nên lúc nào anh ta cũng vùng vẫy tìm lối thoát, tìm cách phán kháng lại. Như một con chim khao khát trời xanh rộng lớn bị nhốt vào cái lồng vàng chật hẹp, Giả Bảo Ngọc sống không yên ổn. Anh lục lọi sách vở, đi vào triết học cổ, đi vào "tham thiền ngộ đạo" ...nhưng những cái đó không cung cấp được cho anh một vũ khí tư tưởng nào để tự giải phóng! Mà thực ra, thì anh cũng lẩn quẩn, loanh quanh; anh ta là một sản phẩm đầy mâu thuẫn của một xã hội cũng đang chứa đầy mâu thuẫn, một xã hội đang tìm lối ra nhưng không có lối ra. Rốt cuộc, anh ta tỏ thái độ hoài nghi những gì "thánh hiền" đã viết, đã soạn, cho đó là "soạn bậy", là "bịa", là "nói tầm bậy". Đối với đạo đức phong kiến mà cái cao nhất là "tôi trung con hiếu", "sát thân thành nhân", anh ta dám nói những lời "cách mệnh": "Nhũng bọn mày râu dơ bẩn, chỉ biết "quan văn chết vì lời can gián, quan võ chết vì đánh giặc", là hai cái chết của kẻ đại trượng phu, thành ra chỉ làm rối lên, nào có biết đâu có vua ngu mới có bầy tôi chết vì lời can gián; chỉ lo ra công đánh giặc, liều mình hy sinh, tương lai sẽ bỏ nước cho ai. Thật là lời lẽ của ké "đại nghịch vô đạo". Tất nhiên, nói cho công bằng, đó là một đôi ý nghĩ đột xuất của anh chàng này, còn như bình thường, anh ta vẫn phải nép mình trong lồng cũi tuân phục "di huấn thánh nhân". Trong hoàn cánh đó, Lâm Đại Ngọc đã đến. Họ đã đến với nhau không dễ dàng. Đại Ngọc vì gia cảnh đến ở nhờ trong phủ họ Giả, tuy là cháu ngoại đấy, nhưng vẫn bị Giá mẫu xem là "người ngoài": "nữ nhân ngoại tộc". Cái mặc cảm "ăn bám ở nhờ" luôn luôn làm nàng đau khổ - nàng vốn là người nhiều tự ái là người nhạy cảm, khó hòa hợp với chung quanh và do đó cô đơn. Tình cảnh của nàng còn bi đát hơn Bảo Ngọc nhiều, vì nàng là con gái, là phận ở nhờ, mà trong cái xã hội ghê khiếp ấy, thì nàng chẳng là cái gì cả, nàng chỉ là một cánh bèo dạt, một cánh hoa rơi! Cho nên nàng thương hoa, khóc hoa, chôn hoa, cho nên nàng luôn buồn thương vô hạn. Tâm hồn nàng như một sợi tơ đàn mảnh mai, bất kể một giọt mưa thu hay tơ liễu bay đều âm vang một điệu buồn đứt ruột! Cái yếu đuối, cái "đa sầu đa cảm" của nàng cũng là một nét tính cách riêng nhưng xuất phát từ những điều kiện của thời đại. Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc đã đến với nhau như thế và đã đến với nhau rồi, hiểu lòng nhau rồi, họ vẫn sống những ngày tháng không yên. Trong tình yêu này, họ chưa được hưởng bao nhiêu hạnh phúc; chưa nếm mật ngọt tình yêu, họ đã linh cảm thấy mật đắng của đời! Họ luôn luôn bị bủa vây trong trùng điệp của mạng lưới phong kiến. Họ không phải là người quyết định được tình yêu của mình. Cuối cùng, Giả mẫu và bọn phu nhân trong phu họ Giả đã quyết định! Họ đã chọn Tiết Bảo Thoa cho Bảo Ngọc. Và một khi đã chọn, họ đã nhẫn tâm theo kế "đánh tráo" của Phượng Thư. Bảo Ngọc cứ yên trí là "cưới em Lâm", hóa ra lúc giở khăn che mặt, lại là Bảo Thoa; Bảo Ngọc lúc bấy giờ mới bật ngửa, mà Lâm Đại Ngọc thì sau cơn ốm nặng, đã chết trong niềm đau đớn, oán hận bằng đốt thơ, đốt khăn tặng trong lúc cả nhà mừng đám cuởí của người mình yêu! Kết thúc tấn bi kịch này, Bảo Ngọc trốn nhà đi tu; và Bảo Thoa làm một người góa phụ trẻ đau khổ.

THI PHÁP NHÂN VẬT HỒNG LÂU MỘNG

Hồng Lâu Mộng không những đã đưa lại một nội dung mới mang ý nghĩa thời đại; nó còn làm được một việc vĩ đại nữa là đổi mới thi pháp tiểu thuyết Trung Quốc. Lỗ Tấn nói: "Từ khi Hồng Lâu Mộng ra đời, tư tưởng và cách viết truyền thống đã bị phá vỡ". Tiểu thuyết Trung Quốc trước đây, chủ yếu là tiểu thuyết chương hồi như Tam quốc, Thủy hử, Tây du. .. thiên về mô tả hành động, miêu tả hoạt động bên ngoài và lời nói của nhân vật. Con người trong những tiểu thuyết đó, sản phẩm của một nền kinh tế nông nghiệp mang tính chất phương thức sản xuất châu á, có bề giản đơn, nhất quán trong một tính cách, rạch ròi trung, nịnh đôi đường. Những truyện ngắn "truyền kỳ", những truyện ngắn trong Liêu Trai đã bắt đầu thấm đẫm màu sắc con người thị dân với những khát vọng nồng nhiệt hơn, phức tạp hơn nhưng vẫn chứa có một thi pháp tiểu thuyết thực sự phản ánh một cách nhìn mới về con người. Hồng Lâu Mộng đã làm được việc đó. Dĩ nhiên là trong những hạn chế gay gắt của thời đại. Dù cho có những nhân tố tư bản chủ nghĩa, nhân tố kinh tề hàng hóa, thị trường, thành phố, thị dân... xã hội Trung Quốc vẫn là xã hội phong kiến, và cái con người "mới" mà người ta chờ đợi đó đã xuất hiện chưa hoàn chỉnh; thi pháp tiểu thuyết trong Hồng Lâu Mộng đã mang một số nhân tố mới của tiểu thuyết cận đại phương Tây, nhưng nó không thể đi xa hơn nũa. Nó vẫn còn bị giam mình trong cái khung tiểu thuyết chương hồi truyền thống, lấy "kể việc" làm phương tiện chủ yếu khám phá của con người. Nhưng, xét cho kỹ thì phải ghi nhận những yếu tố mới ở Hồng Lâu Mộng là rất có ý nghĩa. Trước hết, đó là cách nhìn con người trong sự phát triển đầy mâu thuẫn, sự phát triển biện chứng, có chiều sâu đầy kịch tính. Số phận và tính cách của Bảo Ngọc đã được tác giả miêu tả không đơn giản. Đó là mâu thuẫn gĩưa khát vọng tự do và sự ràng buộc nặng nề của gia đình và xã hội phong kiến. Đó là tình yêu chân thành và quý báu như chính sinh mệnh của anh ta và lạ thay, anh ta hầu như chẳng làm được gì, chẳng chiến đấu dũng manh gì để đoạt lấy hạnh phúc! Mọi việc gần như đã phó mặc! Trước khi chết, Lâm Đại Ngọc oán giận, đau buồn đốt khăn tặng, đốt tập thơ..., không phải là không có lý! Anh ta chưa bao giờ xứng đáng là một trang "tu mi nam tử" có lý tưởng, kiên định! Vấp phải những mâu thuẫn nghiệt ngã của thời đại, anh ta sinh ra đau thần kinh, mắc chứng "ngây", cứ cười hì hì suốt ngày. Điều đó càng đẩy sâu anh ta vào bi kịch. Cuối cùng giải pháp "đi tu" - phản ánh sự từ chối, sự phản kháng dầu yếu ớt - đã được anh ta chọn lựa. Đi thi và thi đỗ cao để an ủi gia dình, rồi bó trốn đi tu, Bảo Ngọc đã đi hết sự phát triển tính cách một cách hợp lý và quả là qua số phận anh ta, như một số nhà nghiên cứu nhận định, có sự gởi gắm, có sự thể hiện một phần nào bản thân tác giả. Đó đúng là một số phận tiểu thuyết theo ý nghĩa hiện đại của từ này. Lâm Đại Ngọc là một tính cách thú vị khác. Nàng yêu Bảo Ngọc, nhưng do thân phận của nàng, mỗi khi Bảo Ngọc ngỏ lời là nàng lại giận hờn, buồn tủi, làm ra vẻ cự tuyệt... "Bảo Ngọc cười nói: - Tôi là người nhiều sầu, nhiều bệnh, cô là trang nghiêng nước nghiêng thành.(3) Đại Ngọc nghe thấy câu ấy, mặt và tai đỏ bừng lên, lập tức dựng ngược lông mày, như cau lại mà không phải là cau, trố hai con mắt, như trợn mà không phải trợn. Má đào nổi giận, mặt phấn ngậm hờn, trỏ vào mặt Bảo Ngọc: - Anh nói bậy, muốn chết đấy! Dám đem nhũng lời lẳng lơ suồng sã lăng nhăng để khinh nhờn tôi! Tôi về mách cậu mợ đấy". (tập I) Điều đó làm cho nàng trở nên đáng yêu và tội nghiệp, làm cho nàng trở nên nhiều nữ tính hơn. Không một nét giả dối, nàng là một nhân vật đã hiện ra với chiều sâu tâm lý đa dạng, được bộc lộ qua tình yêu, qua những quan hệ khác. Phút cuối cùng nàng nghe nói Bảo Ngọc sắp lấy vợ, và người được chọn sẽ là người trong phủ, nàng chắc mẫm người đó sẽ là mình, chứa chan hy vọng, và từ đau buồn tuyệt vọng, trong ốm đau, nàng trở lại sống linh hoạt, tươi đẹp... Ai hay đó là phút nàng ở gần sự kết thúc nhất. Những cảnh như vậy làm cho nhân vật thực, gần gũi, phong phú, hấp dẫn.... và về mặt soi rọi tâm lý nhân vật, đã đạt đến trình độ của nhân vật tiểu thuyết hiện đại. Hồng Lâu Mộng có tất cá 235 nhân vật đàn ông, 213 nhân vật dàn bà (một khối lượng nhân vật khổng lồ! - trong Chiến tranh và hòa bình có chừng 500 nhân vật). Làm chủ chừng ấy nhân vật, miêu tả, cá tính hóa họ một cách có hiệu quả là một sáng tạo phi thường. Trong số đó, nổi bật lên sự mô tả và xây dựng nhân vật Tiết Bảo Thoa. Tiết Bảo Thoa là một tính cách gần như đối nghịch với Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc; chính những nhân vật trong Hồng Lâu Mộng đã phát triển trong sự đối nghịch như vậy, làm cho cuốn tiểu thuyết có nhiều gương mặt, nhiều hợp âm. Tiết Bảo Thoa là một nhân vật phụ nữ lý tính. Nàng còn ít tuổi mà đầy bản lĩnh, ở nàng tất cả đều đúng mực, hợp lý, lô-gích, nàng là hiện thân của nguyên lý đạo đức phong kiến. Bao giờ nàng cũng là một người con gái sống cho gia đình, sống cho ý định người khác - và ý định đó luôn được nàng chấp nhận vì đó cũng chính là của nàng. Sự hòa hợp giữa nàng và gia pháp phong kiến là điều hoàn toàn tự nguyện. Nàng là người có học, xem nhiều sách, biết làm thơ, nhưng hãy nghe nàng tâm sự (cũng là răn đe Đại Ngọc): "Bọn con gái chúng ta không biết chữ càng tốt... Ngay đến cả việc làm thơ, viết chữ đã không phải là phận sự chị em mình, mà cũng không phải phận sự của bọn con trai nữa. Người con trai đọc sách nhiều phải hiểu nghĩa lý để ra giúp dân trị nước mới đúng..."(tập III). Với Bảo Ngọc, một người không yêu nàng, nhưng nàng theo sự sắp đặt của bề trên, lấy Bảo Ngọc không một chút tự ái; nàng làm bổn phận của người vợ, khuyên giải chồng, "lý sự" với chồng: "... chứ bây giờ gặp đến vua thánh, nhà ta mấy đời đội ơn triều đình, cha ông được hưởng biết bao sung sướng..."(tập IV). Nếu nói "bản chất" và "bản lĩnh" giai cấp thì quả nàng là hiện thân của giai cấp. Nàng có ác không? Có. Khi con hầu Kim Xuyến nhảy xuống giếng tự tử, Vương phu nhân cảm thấy lương tâm cắn rứt, nhưng nàng thì không, nàng tươi cười, an ủi đổ lỗi cho Kim Xuyến và nói: "Dì cũng chẳng nên lo lắng buồn bã làm gì, chỉ cần cho vài lạng bạc làm ma cho nó là trọn tình chủ tớ rồi". Nàng có giả dối không? Có. Nàng đã bày kế "ve sầu lột xác" để đánh lừa bọn con hầu, tránh điều bất lợi cho mình. Bảo Thoa lúc nào cũng tỉnh táo, cũng lắm mẹo! Nhưng nàng có đáng thương không? Nàng ít nhiều cũng yêu Giả Bảo Ngọc mà tự kiềm chế, và cuối cùng, với tất cả sức lực và nghị lực, với tất cả sự chân tình, nàng muốn có hạnh phúc trong cuộc sống phong kiến với Bảo Ngọc, nhưng rốt cuộc nàng cũng trở thành một nhân vật bi kịch. Bi kịch của nàng là bi kịch của một người trung thành với đạo đức phong kiến. Gần với tính cách của Tiết Bảo Thoa là Vương Hy Phượng. Đó cũng là một nhân vật nữ hết sức đặc sắc nữa. Những nhân vật như thế làm chúng ta nhớ nhiều đến Hoạn Thư của Nguyễn Du. Đó là sự miêu tả trung thành với bản chất củaa hiện thực, bản chất của những mối quan hệ phong kiến, đồng thời nó là một sự cá tính hóa hết sức sâu sắc. Ngoài ra con biết bao nhiêu nhân vật đáng lưu ý nữa trong cái thế giới bao la của Hồng Lâu Mộng. Dường như đó là cả một nhân loại: trong đó có hàng trăm số phận, và mỗi số phận đưa đến cho chúng ta một mảnh đời, một suy nghĩ về nhân thế. Nhà lý luận tiểu thuyết nổi tiếng Bakhtin có nói rằng nhân vật tiểu thuyết phải có phần "dư thừa nhân tính". Có nghĩa là nhân vật, ngoài vai trò xã hội (đẳng cấp, nghề nghiệp) phải có cái phần dư thừa nhân tính, cái phần nhu cầu nhân tính, cái phần cá tính tự do mà tấm áo xã hội không chứa đựng hết. Nhân vật của Hồng Lâu Mộng vừa là giai cấp xã hội vừa là những nhân vật mang tính người, tính toàn nhân loại, ở trong họ có cái phần "người" và những nhân vật như vậy bao giờ cũng là một phát hiện, có sức hấp dẫn rất mạnh. * Hồng Lâu Mộng là cả một thế giới. Thông qua cuộc sống từ thịnh đến suy của một gia đình quý tộc, tác giả đã làm hiển hiện sự băng hoại của xã hội phong kiến, của nhân tính phong kiến, đã cho ta thấy một xã hội như thế là không phương cứu chữa! Không phải chỉ vì bọn người ấy sống trên áp bức và bóc lột địa tô, mà cái chính là cuộc sống trống rỗng của bọn họ; ngày và đêm trong cái phủ họ Giả ấy chỉ toàn là những chuyện giành giật, lừa gạt, dâm dật, tự tử, tội ác... Một vài khuôn mặt lương thiện - trong đó khá nhiều là thuộc tầng lớp dưới, như già Lưu, như Tập Nhân . . . không cứu nỗi sự sụp đỗ tất yếu của nó. Hồng Lâu Mộng đã đưa đến cho người đọc những hiểu biết sâu xa về xã hội và về con người với một cách viết chân thực, giản dị mà bao gồm nhiều bút pháp lớn kim cổ. Nó là một cuốn bách khoa sinh động về xã hội Trung Quốc thời xưa. Về mặt thi pháp nghệ thuật, thì đó là một bước tiến mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của thế giới. Hồng Lâu Mộng xứng đáng đứng ngang với các kiệt tác của nhân loại.

25- 10 - 1988

Mai Quốc Liên.

------------------------------------------------------

(1). Theo thống kê có đến 900 loại.

(2). Cao Ngạc (? - ?) tự Lan Thự, tác giả 40 hồi sau Hồng Lâu Mộng và Lan Thu thi sao, Lan Thự văn tồn, Nghiễn hương từ... tự Vân Sĩ, biệt hiệu Hồng Lâu ngoại sĩ (Hồng Lâu Mộng vốn tên Thạch đầu ký. Có lẽ Cao Ngạc là người đặt tên nó là Hồng Lâu Mộng). Làm quan dưới triều Kiền Long, Gia Khánh, trải các chức Nội các thị tộc, Hình khoa cấp sự trung, Nhập tịch Mãn Thanh (Kỳ quán "nhương hoàng" - màu vàng pha).

(3). Dùng chữ trong Tây sương ký.

Tài liệu tham khảo chính:

- Lịch Sử Văn học Trung Quốc (Nguyên - Minh - Thanh). Sở nghiên cứu Văn học thuộc Viện Khoa Học Trung Quốc, Bắc Kinh, 1962. Bản dịch Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964.

- Bùi Kỷ; Lời giới thiệu, Hồng lâu mộng tập 1. Nhà xuất bản Văn hóa. Hà Nội, 1962.

- Tào Tuyết Cần dữ Hồng lâu mộng. Hồng lâu mộng, quyển thượng. Thế giới thư cục, Singapore, 1973.

Hồi thứ nhất

Chân Sĩ Ẩn trong mộng ảo biết đá thiêng;

Giả Vũ Thôn lúc phong trần mơ người đẹp.

Hồi thứ nhất này lả hồi mở đầu của cuốn sách(1).

Người làm sách xin nói: "Trải qua quãng đời mộng ảo, nên có ý giấu những việc thực, mượn chuyện "Hòn đá thiêng" mà viết ra bộ Thạch đầu ký này; vì vậy tôi đặt nhân vật của tôi là Chân Sĩ Ẩn...(2). Trong sách chép việc gì? Người nào? Người làm sách lại xin nói: "Nay tôi đã sống cuộc đời gió bụi, không làm nên trò trống gì. Chợt nghĩ đến những người con gái ngày trước cùng sống với tôi, so sánh kỹ lưỡng, thấy sự hiểu biết và việc làm của họ đều hơn tôi. Tôi đường đường là bậc tu mi, lại chịu kém bạn quần thoa, thực rất đáng thẹn! Bây giờ hối cũng vô ích, biết làm thế nào! Tôi nghĩ trước kia được ơntrời, nhờ tổ, mặc đẹp, ăn ngon, mà phụ công nuôi dạy của cha mẹ, trái lời răn bảo của thầy bạn, đến nỗi ngày nay một nghề không thành, nửa đời long đong, nên muốn đem những chuyện đó chép thành một bộ sách bày tỏ với mọi người. Tôi biết rằng mang tội rất nhiều. Nhưng trong khuê các còn biết bao người tài giỏi, tôi không thể nhất thiết mượn cớ ngu dại muốn che giấu lỗi mình, để cho họ bị mai một. Cho nên, đám cỏ lều tranh, giường tre bếp đất, cùng cảnh gió sớm trăng chiều, sân hoa thềm liễu, đều thúc giục tôi thực hiện lòng mong ước dúng bút mực viết ra lời. Dù tôi học ít, hạ bút không viết nên văn, tôi cũng chẳng ngại gì mượn lời nôm na thêu dệt bày tỏ ra đây câu chuyện để mua vui cho mọi người. Vì vậy tôi lại đặt nhân vật là Giả Vũ Thôn(3)...". Đó là đầu đề và ý chính của hồi này. Mở đầu cuốn truyện, thấy câu phong trần mơ người đẹp, chắc ai cũng biết người viết sách vốn chỉ ghi chép những chuyện bạn bè, tình tứ trong khuê các, chứ không có ý chửi đời. Tuy có một vài chỗ nói đến nhân tình thế thái, nhưng đó là bất đắc dĩ, mong độc giả nhớ cho.

Lẵng dẵng trên đời khéo khổ công,

Tiệc tùng rốt cuộc chỉ là không.

Muôn trò mừng tủi đều hư ảo,

Một giấc xưa nay rõ viển vông.

Vạt thắm nào riêng người đẫm lệ,

Tình ngây còn vướng hận ôm lòng.

Xem ra chữ chữ toàn bằng huyết,

Cay đắng mười năm khéo lạ lùng.

Độc giả! Các bạn bảo sách này do đâu mà ra? Nói nguồn gốc nó thì dáng như hoang đường; nhưng xem kỹ rất thú vị. Tôi xin kể rõ lai lịch để độc giả khỏi lầm:

Khi xưa Nữ Oa luyện đá vá trời(4) ở đỉnh Vô Kê trên núi Đại Hoang, luyện được ba vạn sáu nghìn năm trăm linh một viên, mỗi viên cao mười hai trượng, vuông hai mươi bốn trượng. Nhưng bà chỉ dùng ba vạn sáu nghìn năm trăm viên, còn thừa một viên bỏ lại ở chân núi Thanh Ngạnh. Ngờ đâu viên đá này từ khi được luyện, đã có linh tính. Nhân thấy những viên đá khác được đem vá trời, còn mình vô tài, bị loại, nó rất tủi hận, ngày đêm kêu khóc buồn rầu.

Một hôm, nó đương than phiền chợt thấy một nhà sư, một đạo sĩ, cốt cách phong độ khác thường, cười cười nói nói, từ đàng xa đi đến bên núi Thanh Ngạnh, rồi ngồi bên hòn đá nói chuyên. Lúc đầu hai người còn nói những chuyện núi mây, bể mù, thần tiên, huyền ảo, sau nói đến vinh hoa phú quý dưới cõi hồng trần. Hòn đá nghe thấy, bất giác động lòng phàm tục, cũng muốn xuống đó hưởng mùi vinh hoa phú quý, nhưng thấy mình thô kệch càng thêm tủi phận. Sau bất đắc dĩ nó mượn tiếng người, cất giọng hỏi:

- Thưa hai sư phụ! Đệ tử là vật ngu xuẩn xin thất lễ! Vừa qua nghe hai vị sư phụ nói chuyện về cảnh phồn hoa dưới trần gian, trong lòng đệ tử rất thầm mến, đệ tử tuy ngu xuẩn, nhưng cũng có chút linh tính. Vả lại thấy hai vị sư phụ có vẻ tiên phong đạo cốt, chắc chắn không phải hạng người tầm thường, nhất định có tài vá trời, cứu thế, có đực xót vật, thương người! Nếu được hai vị sư phụ mở lòng từ bi, mang đệ tử xuống cõi trần cho đệ tử hưởng ít năm giàu sang êm ấm, thì đệ tử xin đời đời kiếp kiếp ghi nhớ ơn sâu.

Nghe xong, hai vị sư, đạo cả cười:

- Khéo thật! Khéo thật! Trong cõi hồng trần đành rằng có nhiều thú vị, nhưng không phải là nơi nương náu lâu dài. Huống chi "Ngọc lành có vết, việc đời đa đoan" tám chữ này thường đi liền với nhau. Rồi trong chớp mắt, vui hết đến buồn, người thay cảnh đổi, rút cuộc chỉ là giấc mộng, muôn cõi đều trở thành không! Như thế chẳng thà đừng xuống là hơn.

Nhưng lửa trần rực cháy trong lòng, thì dù có nới thế nào cũng khó mà lọt vào tai hòn đá được. Nó cứ kêu nài mãi. Hai vị sư biết không thể ngăn cản nổi, liền thở dài mà rằng:

- Đây cũng là cái số kiếp tinh lắm muốn động, có là từ không mà ra đó thôi! Đã vậy, ta sẽ mang ngươi đi, cho ngươi hưởng thụ, nhưng khi bất như ý thì ngươi đừng hối.

Hòn đá nói:

- Tất nhiên! Tất nhiên!

Nhà sư nói:

- Ngươi bảo ngươi có linh tính nhưng sao lại dại dột ngu ngốc thế? Thật là ngươi chẳng có quý báu, chẳng kỳ lạ ở chỗ nào cả, chỉ đáng dẫm chân lên thôi. Nhưng thôi, ta sẽ giở hết phép phật, giúp ngươi một tay. Khi nào mãn kiếp, ngươi trở lại bản chất của mình, thế là kết liễu số phận. Ngươi thấy thế nào?

Hòn đá nghe xong, cảm ơn không ngớt. Nhà sư liền niệm chú viết bùa, dở hết phép thuật, làm cho hòn đá kếch sù ấy phút chốc hóa ra viên ngọc báu trong sáng long lanh, thu hình lại nhỏ bằng viên ngọc đeo dưới dây quạt, có thể cầm hoặc đeo vào người được. Nhà sư nâng lên trên tay, cười nói:

- Coi hình dáng ngươi thì cũng là vật báu đây, chỉ hiềm một nỗi không có giá trị thực; bây giờ ta khắc mấy chữ, để mọi người trông thấy, biết ngay ngươi là vật lạ. Ta sẽ mang ngươi đến một nơi thịnh vượng, một họ dòng dõi, một chốn phồn hoa, giàu sang êm ấm, cho ngươi được an thân lạc nghiệp.

Hòn đá mừng rỡ hỏi:

- Không biết sư phụ viết vào những chữ gì? Và mang đi đâu? Dám xin sư phụ nói rõ để đệ tử khỏi áy náy.

Nhà sư cười nói:

- Ngươi chớ hỏi vội, sau này sẽ biết.

Nói đoạn, nhà sư để hòn đá vào trong tay áo, cùng đạo sĩ phơi phới ra đi, không biết về hướng nào.

Trải qua không biết mấy đời mấy kiếp, có vị Không Không đạo nhân đi cầu tiên học đạo, qua đỉnh Vô Kê núi Đại Hoang, đến chân núi Thanh Ngạnh, chợt trông thấy một hòn đá lớn, trên mặt có khắc chữ kể rõ lai lịch. Không Không đạo nhân xem từ đầu đến cuối, biết rằng nó là một hòn đá không đủ tài vá trời, muốn biến làm người, đã được hai vị Mang Mang đạo sĩ Diều Diều chân nhân đưa nó xuống trần nếm đủ mùi đời lạnh nhạt, tan hợp bi hoan. Mặt sau lại có một bài kệ:

Tài đâu toan những vá trời,

Uổng công đày xuống cõi đời bấy lâu.

Từ kiếp trước đến kiếp sau.

Biết nhờ ai chép mấy câu truyền kỳ?

Sau đó, ghi rõ hòn đá này xuống đâu, đầu thai vào đâu, trải qua đoạn đường thế nào, cả đến những việc vụn vặt trong gia đình, tình từ, thơ tứ trong khuê các, đều chép đủ cả, xem ra cũng có thú vị đỡ buồn, nhưng không biết từ thời đại nào, ở địa phương nào và nước nào?

Không Không đạo nhân liền hỏi:

- Này Thạch huynh, cứ như lời anh nói thì câu chuyện này của anh rất thú vị, nên mới viết rõ vào đây, muốn để lưu truyền việc lạ ấy cho đời. Nhưng ta xem, một là không biết vào thời đại nào, hai là đây không phải việc thiện chính của bậc đại hiền đại trung để sửa sang triều đình, chỉnh đốn phong tục, chẳng qua toàn là chuyện một vài người con gái kỳ quặc, hoặc là người đa tình, hoặc là người si tình, hoặc là người tài năng tầm thường, chứ không có cái tài cái đức của ả Thái, nàng Ban. Giả sử ta có sao lại, sợ người đời không xem thôi.

Hòn đá cười mà rằng:

- Thưa sư phụ, sao người nghĩ lẩn thẩn thế Nếu bảo không có thời đại tra cứu, thì sư phụ cứ việc mượn niên hiệu đời Hán, đời Đường mà viết vào, có khó gì đâu. Nhưng tôi thiết tưởng những chuyện trong dã sử xưa nay đều theo một lối như nhau; sao bằng chuyện của tôi không theo khuôn sáo cũ, chỉ ghi chép những sự việc và tình cảm tôi đã trải qua, mới là mới mẻ ít có! Việc gì phải đòi hỏi cho có triều đại mới được kia chứ! Vả chăng những người tục ở nơi kẻ chợ rất ít đọc sách nói về đạo lý sửa sang triều đình, chỉnh đốn phong tục, phần đông chỉ thích xem những chuyện vụn vặt, lại có thu vị. Gẫm trong dã sử xưa nay, biết bao chuyện dân chê vua quan, hoặc là nói xấu vợ con người ta, đầy rẫy những gian dâm hung ác, kể sao cho xiết; lại còn những ngòi bút chỉ viết về chuyện gió trăng dâm dục xấu xa, di hại trong văn mặc, làm hư hỏng cả con em người ta. Đến những sách nói về giai nhân tài tử, thì nghìn bộ đều tìl~o một khuôn sáo, đầy rẫy nhưng Phan An, Tử Kiến, Tây Tử, Vân Quân, đã thế rút cục vẫn không khỏi sa vào phù phiếm. Người làm sách chẳng qua muốn viết vài bài thơ tình của mình, nên đã cố ý đặt ra một đôi trai gái, rồi xen một thằng tiểu nhân vào quấy rối, ví như vai hề trong tấn tuồng. Lại có những bọn tòi đòi, mở miệng là chi hồ giả dã, hết đạo lý đến văn chương, cho nên nếu xem từ đầu đến cuối thì toàn là những việc mâu thuẫn nhau chẳng có gì là hợp tình hợp lý hết. Sao bằng mấy người con gái này mà nữa quảng đời tôi đã trông thấy, nghe thấy, tuy không dám ví với những người trong các sách thuở xưa, nhưng xem đầu đuôi câu chuyện, cũng có thể đỡ buồn. Lại có mấy bài thơ nhảm nhí, cũng có thể làm cho người đọc cười bật cơm ra và nhân vui uống thêm mấy chén rượu. Còn như những cảnh hợp tan vui buồn, thịnh suy và những cảnh ngộ thay đổi, từ đầu đến cuối đều theo sát sự thực không thêm bớt tô vẽ chút nào, không vì chiều lòng người đọc mà xuyên tạc sự thực. Hiện giờ người nghèo thì ngày lo cơm áo; kẻ giàu lại nảy lòng tham khôn cùng, rỗi mụt chút là họ nghĩ ngay đến dâm dục, sắc đẹp, giàu sang, sầu não, còn hơi nào đọc sách nữa. Vì vậy cuốn truyện của tôi cũng không muốn được đời khen ngợi và mọi người thích đọc. Chỉ mong khi tỉnh rượn, lúc tàn canh, hoặc khi họ muốn trốn đời, tìm đường tiêu khiển, họ đem truyện tôi ra xem, có lẽ tôi sẽ giúp họ đừng đeo đuổi những việc hão huyền cho tốn tuổi thọ, như thế tức là tránh được miệng thế khen chê, khỏi phải chạy vạy đây đó. Hơn nữa nó cũng khiến người đời đổi tầm con mắt, chứ không như những quyển sách này những lời sáo ngữ cũ rích gán ghép bừa bãi, nói toàn chuyện vụt gặp vụt tan, đầy rẫy nào là những tài nhân, thục nữ, nào là Tử Kiến, Văn Quân, Hồng Nương, Tiểu Ngọc..., ý sư phụ nghĩ thế nào?

Không Không đạo nhân nghe vậy, ngẫm nghĩ một lúc, rồi xem lại truyện Thạch Đầu Ký" một lần nữa. Nhận thấy ở đây tuy cũng có những lời vạch kẻ gian, chê người nịnh, mắng người ác, diệt kẻ tà nhưng không có ý mỉa mai thời thế. Đến như những việc vua nhân, tôi trung, cha hiền, con hiếu, tức là tất cả nhưng chỗ quan hệ đến luân thường, thì đều một mực ca ngợi công đức, thực không có sách nào sánh kịp. Trong đó, chủ ý tuy nói về tình, nhưng chẳng qua là chép việc thực, chứ không một chút bịa đặt như những sách thiên về dâm tình hò hẹn, thề thốt riêng tây. Đạo nhân thấy nó không dính dáng đến thời thế, mới chép từ đầu đến cuối để truyền câu chuyện kỳ lạ này cho mọi người. Vì đạo nhân thấy "sắc" là do "không" mà ra, rồi "tình" lại do "sắc" mà có, "tình" biểu hiện qua "sắc" rồi lại từ "sắc" trở về "không"(5) cho nên đổi tên mình là Tình Tăng, đổi tên Thạch đầu ký là Tình Tăng lục. Khổng Mai Khê ở Đông Lỗ đề là Phong nguyệt báo giám(6).

Sau Tào Tuyết Cần mười năm đọc bộ sách này ở trong hiện Điệu hồng, thêm bớt năm lần, xếp thành mục lục, chia ra từng chương từng hồi, lại đề là Kim lăng thập nhị hoa, và đề một bài thơ:

Đầy trang những chuyện hoang đường,

Tràn tít nước mắt bao nhượng chua cay.

Đừng cho chỉ giả là ngây,

Ai hay ý vị chỉ đầy ở trong ?

Nguồn gốc truyện Thạch đầu ký đã nói rõ rồi, bây giờ xem trên mặt hòn đá, chép những việc gì?

Trên mặt hòn đá chép: khi ấy đất thủng về phía đông nam(7), phía ấy là đất Cô Tô, có thành Xương Môn là chỗ ở của các nhà phú quý phong lưu vào bực bậc nhất nhì trên đời. Ngoài cửa Xương Môn có đất Thập Lý, trong phố có ngõ Nhân Thanh, trong ngõ có tòa miếu cổ, vì địa thế chật hẹp, người ta đều gọi là "miếu Hồ Lô". Cạnh miếu có một nhà hương hoạn(8) họ Chân tên Phí, tên chữ là Sĩ Ẩn, vợ họ Phong tính tình hiền hậu, hiểu biết lễ nghĩa. Nhà này không giàu sang lắm, nhưng người ở trong vùng vẫn cho là một họ có danh vọng, Chân Sĩ Ẩn tính tình điềm đạm, không thích công danh, hàng ngày chỉ lấy ngắm hoa, trồng cúc, uống rượu ngâm thơ làm vui; nhưng hiềm một nỗi là tuổi đã năm mươi mà chưa có con trai, chỉ cớ mỗi một mụn gái tên là Anh Liên mới lên ba tuổi.

Một hôm giữa lúc mùa hạ ngày dài, Sĩ Ẩn ngôi rỗi trong thư phòng, mỏi tay buông sách, ngủ gục xuống ghế. Trong khi mơ màng, thấy mình đi đến một chỗ không biết địa phương nào. Chợt gặp một nhà sư, một đạo sĩ, vừa đi vừa nói chuyện.

Đạo sĩ hỏi:

- Ông mang vật xuẩn ngốc ấy đi đâu?

Nhà sư cười:

- Ông cứ yên tâm. Hiện giờ có một cái án phong lưu cần phải chấm dứt. Nhân dịp có một bọn oan gia phong lưu sắp sửa đầu thai xuống trần, tôi bỏ nó vào đây để nó hóa kiếp làm người.

- Thế ra sẽ có bọn oan gia phong lưu đổi kiếp xuống trần. Nhưng không biết xuống đâu?

- Việc này nói ra thì buồn cười lắm. Thật là câu chuyện nghìn xưa ít thấy. Chỉ vì bên bờ sông Linh Bà ở Tây phương, bên cạnh hòn đá Tam Sinh(9) có một cây Giáng Châu được Thần Anh(10) làm chức chầu chực ở cung Xích Hà ngày ngày lấy nước cam lộ tưới bón cho nó mới tươi tốt sống lâu. Đã hấp thụ tinh hoa của trời đất, lại được nước cam lộ chăm bón, cây Giáng Châu thoát được hình cây, hóa thành hình người, tu luyện thành người con gái, suốt ngày rong chơi ngoài cõi trời Ly Hận(11) đói thì ăn quả "Mật Thanh"(12) khát thì uống nước bể "quán sầu"(13).

Chỉ vì chưa trả được ơn bón tưới, cho nên trong lòng nó vẫn mắc míu, khi nào cũng cảm thấy như còn vương một mối tình gì đây. Gần đây, Thần Anh bị lửa trần rực cháy trong lòng, nhân gặp trời đất thái bình thịnh vượng muốn xuống cõi trần để qua kiếp "ảo duyên", nên đã đến trước mặt vị tiên Cảnh ảo ghi sổ. Cảnh ảo liền hỏi đến mối tình bón tưới, biết chưa trả xong, muốn nhân đó để kết liễu câu chuyện. Nàng Giáng Châu nói: "Chàng ra ơn mưa móc mà ta không có nước để trả lại. Chàng đã xuống trần làm người, ta cũng phải đi theo. Ta lấy hết nước mắt của đời ta để trả lại chàng, như thế mới trang trải xong!". Vì thế dẫn ra bao nhiêu oan gia phong lưu đều phải xuống trần, để kết liễu án đó.

- Việc này lạ thật! Xưa nay chưa từng nghe thấy chuyện trả nợ bằng nước mắt bao giờ. Nghĩ lại chuyện này thật phiền phức, tế nhị hơn các chuyện trăng gió trước kia nhiều.

- Xưa nay những nhân vật phong lưu chẳng qua chỉ để lại một chút gì rất ít với một số thơ từ mà thôi. Còn những chuyện ăn uống trong gia đình, trong khuê các thì không bao giờ ghi chép đầy đủ; hơn nữa, những chuyện gió trăng, phần nhiều chỉ là "trộm hương cắp ngọc, hò hẹn riêng tây" mà thôi, chưa hề nói đến chân tình của người con gái. Tưởng lũ người này xuống trần, thì những bọn si tình, hám sắc, hiền ngu bất tiếu ở đây, khác hẳn các truyện trước để lại.

- Gặp dịp này, sao chúng ta không xuống trần siêu độ cho mấy kẻ ấy, chẳng phải là một việc công đức hay sao?

- Điều ông nói chính hợp ý tôi, chúng ta hãy đem vật xuẩn ngốc này đến cung vị tiên Cảnh ảo để giao dứt khoát. Chờ cho bọn quỷ nghiệt phong lưu xuống trần hết đã, tôi với ông hãy xuống. Bây giờ chúng mới xuống có một nửa thôi, và tất cả vẫn chưa nhóm họp lại.

- Đã thế tôi sẽ cúng đi theo ông.

Chân Sĩ Ẩn nghe rõ ràng câu chuyện không biết "vật xuẩn ngốc" là gì, bèn đến chào hỏi:

- Xin kính chào hai vị.

Hai vị tăng, đạo đáp lễ lại.

Sĩ ân lại nói:

- Vừa rồi đệ tử được hai vị nói chuyện nhân quả, một chuyện mà người trần ít khi được nghe. Đệ tử ngu dốt, không hiểu thấu mấy; nếu được hai vị dạy bảo, mở lòng ngu muội, đệ tử xin lắng nghe, được cảnh tỉnh đôi chút, họa may có thể thoát khỏi nỗi khổ trầm luân chăng.

Hai vị cười :

- Đó là cơ trời, không thể tiết lộ được. Cứ đến lúc đó mà không quên hai chúng ta, thì người có thể thoát khỏi hố lửa(14).

Sĩ Ẩn nghe thế, không tiện hỏi lại, nhân cười nói:

- Tuy cơ trời không thể tiết lộ, nhưng vừa rồi các vị nói "cái vật xuẩn ngốc" ấy, đệ tử không biết là cái gì, có thể xem được không?

Nhà sư nói:

- Nhà ngươi nhắc đến vật ấy, thế là có duyên gặp nó đấy!

Nói đoạn, đem hòn đá ra cho Sĩ An xem.

Sĩ Ẩn cầm xem, một hòn ngọc sáng đẹp, mặt trên khắc rõ bốn chữ: Thông linh bảo ngọc. Mặt sau có mấy hàng chữ nhỏ. Sĩ Ẩn đương muốn xem kỹ, thì nhà sư bảo ngay: "Đã đến ảo Cảnh rồi" và giật ngay lấy hòn đá, cùng đạo sĩ đến một tòa nhà bia lớn, trước mặt có đề bốn chữ: Thái hư ảo cảnh; hai bên lại có đôi câu đối:

Giả bảo là chân, chân cũng giả,

Không làm ra có, có rồi không.

Sĩ Ẩn đang muốn cất bước đi theo, chợt một tiếng sét dữ dội như núi lở đất sụp. Sĩ Ẩn kêu lên một tiếng, mở choàng mắt ra, chỉ thấy trời nắng chang chang, rặng chuối phơ phất, những việc trong mộng đã quên mất một nửa. Lại thấy vú già ẵm Anh Liên đến. Nhìn đứa con gái mặt mày tươi đẹp, ngoan ngoãn đáng mừng. Sĩ Ẩn giơ tay bế vào lòng, đùa với nó một lúc rồi ẵm ra ngoài phố xem người qua lại nhộn nhịp. Khi sắp đi về thấy một nhà sư, một đạo sĩ đi lại. Nhà sư đầu chốc, đi đất, đạo sĩ chân khiễng, tóc bù đang cười cười nói nói, như dại như điên. Đến trước cửa, trông thấy Sĩ Ẩn ẵm Anh Liên, nhà sư khóc to lên:

- Thí chủ! Con bé này có mệnh không có vận, làm lụy đến cha mẹ, thí chủ ẵm nó làm gì?

Sĩ Ẩn nghe nói, cho là rồ dại không thêm chấp. Nhà sư thấy thế lại nói:

- Thí chủ cho tôi cho! Thí chủ cho tôi cho! .

Sĩ Ẩn khó chịu, ẵm ngay con toan quay vào nhà. Nhà sư trỏ vào Sĩ Ẩn cười ồ lên, rồi đọc ngay bốn câu:

Chú ngốc nuông con khéo nực cười,

Gương lăng(15) luống để tuyết pha phôi,

Nguyên tiêu(16) đêm ấy coi chừng đấy,

Lửa khói tan tành sắp tới nơi.

Sĩ Ẩn nghe nói, trong lòng do dự, muốn đến hỏi lai lịch, thì đạo sĩ đã bảo vị sư:

- Chúng ta không cần cùng đi một đường, hãy tạm chia tay, mỗi người mỗi việc. Ba kiếp sau, tôi chờ ông ở núi Bắc Mang, chúng ta sẽ lại họp mặt, rồi đến Thái Hư Cảnh Ao xóa sổ để kết thúc chuyện này.

Nhà sư nói:

- Hay lắm! Hay lắm!

Nói xong, thoáng một cái, hai ngươi mất hút, không thấy đâu nữa. Sĩ Ẩn nghĩ bụng: "Hai người này tất có lai lịch, đáng lẽ ta nên hỏi rõ mới phải, bây giờ ăn năn cũng muộn rồi".

Sĩ Ẩn đương lúc vẩn vơ suy nghĩ, chợt trông thấy một nhà nho nghèo, ở trọ trong miếu Hồ Lô, bên cạnh nhà mình, họ Giả tên Hóa, tên chữ là Thời Phi, biệt hiệu Vũ Thôn, đi đến. Giả Vũ Thôn người Hồ Châu, vốn dòng thi thư thế hoạn, nhưng vì sinh vào lúc cảnh nhà sa sút, của hết người hiếm, chỉ còn trơ trọi một mình. Ở nhà cũng vô ích, Vũ Thôn lên kinh mong lập công danh, dựng lại cơ nghiệp. Hắn đến đây tự năm ngoái, nhưng vì túng thiếu nên đành ở tạm trong miếu, hàng ngày bán chữ viết văn để sống, bởi thế Sĩ Ẩn thường cùng hắn đi lại chơi bời.

Vũ Thôn trông thấy Sĩ Ẩn, vội vàng chào hỏi:

- Tiên sinh đứng ngóng gì đấy, chắc ngoài phố có cái gì mới lạ?

Si ẩn cười đáp:

- Chẳng có gì, chỉ vì cháu khóc, tôi mang nó ra đây. Đúng lúc buồn, lại gặp tôn huynh đến, xin mời vào chơi, chúng ta nói chuyện tiêu khiển cho hết quãng ngày dài dằng dặc này.

Sĩ Ẩn sai người ẵm con đi, rồi dắt tay Vũ Thôn vào thư phòng, gọi tiểu đồng pha trả.

Hai người vừa mới nói chuyện được dăm ba câu thì có người nhà vào báo:

- Có cụ Nghiêm tới chơi.

Sĩ Ẩn vội vàng đứng dậy cáo lỗi:

- Xin tôn huynh thứ lỗi, hãy tạm ngồi chơi, tôi đi ra rồi sẽ trở lại ngay.

Vũ Thôn cũng đứng dậy, khiêm tốn nói:

- Xin tiên sinh cứ tự tiện, tôi đến chơi luôn, có chờ một phút cũng chẳng sao.

Nói xong Sĩ An đi ra.

Vũ Thôn ngồi buồn, giở sách ra xem, chợt nghe ngoài cửa sổ có tiếng người con gái ho. Vũ Thôn đứng dậy nhìn ra, thấy một a hoàn đương hái hoa, dáng điệu thanh nhã, mặt mày tươi tắn, tuy không đẹp lắm, nhưng có một vài nét làm người ta xiêu lòng. Vũ Thôn bất giác đứng ngây người ra. A hoàn hái hoa xong, sắp đi, bỗng ngẩng đầu lên trông thấy có người đứng trong cửa sổ, áo cũ khăn rách, tuy có vẻ nghèo, nhưng lưng tròn, vai rộng, mặt to, miệng vuông, lông mày sắc; đôi mắt sáng, mũi thẳng, má nở. Nó vội quay mình lánh đi, nghĩ bụng: "Ngươi này dáng điệu oai vệ sao lại ăn mặc lam lũ như vậy? Có lẽ là ông Giả Vũ Thôn mà chủ ta thường nhắc đến chăng? Chủ ta vẫn có ý muốn giúp đỡ ông ta, nhưng chưa có dịp. Những khách quen nhà ta không có ai nghèo túng cả. Nhất định là hắn, chứ chẳng còn ai. Thảo nào chủ ta thường nói ông này không phải là người chịu khổ mãi". Nghĩ thế, tự nhiên nó lại quay đầu lại nhìn. Vũ Thôn thấy a hoàn ngoảnh lại, cho là nàng có ý với mình, vui mừng khôn xiết, nghĩ bụng: "Người con gái này có mắt tinh đời, quả là người tri kỷ trong lúc phong trần".

Một lúc tiểu đồng đi vào, Vũ Thôn mới biết ngoài nhà giữ khách lại ăn cơm. Hắn không chờ được, bèn theo đường bên cạnh đi ra. Sĩ Ẩn thết khách xong, biết Vũ Thôn đã về rồi, cũng không tiện cho đi mời nữa.

Một hôm vào tiết Trung Thu, ăn tiệc xong, Sĩ Ẩn sai dọn một tiệc nữa ở thư phòng, rồi tự mình dưới bóng trăng đến miếu mời Vũ Thôn.

Từ ngày Vũ Thôn thấy a hoàn nhà họ Chân nhìn mình mấy lần, cho lâ tri kỷ, nên lúc nào cũng mơ tưởng đến. Nhân gặp tiết Trung thu, ngắm trăng nhớ đến người, Vũ Thôn ngâm một bài thơ ngũ ngôn:

Ba sinh chưa thỏa nguyện,

Tấc dạ những thêm sầu.

Buồn quá hay ủ mặt,

Đi qua thường ngoái đầu.

Trước gió riêng nhìn bóng,

Dưới trăng ai bạn bầu ?

Chị Nguyệt hay chăng tá ?

Mời lên chốn ngọc lâu.

Vũ Thôn ngâm xong, nghĩ mình bình sinh có chí khí lớn, nhưng chưa gặp thời, liền ngửa mặt lên trời, gãi đầu than thở, ngâm to một câu:

Ngọc giấu đáy hòm chờ giá bán

Thoa nằm trong hộp đợi thời bay.

Sĩ Ẩn đi đến, nghe thấy, cười nói:

- Tôn huynh thực có chí khí hơn người?

Vũ Thôn vội cười đáp:

- Không dám! Chợt ngâm câu thơ cổ, cớ đâu dám ngông cuồng đến thế! Và hỏi lại:

- Tiên sinh cao hứng gì mà đến đây?

Sĩ Ẩn cười nói:

- Đêm nay tiết Trung thu, tục thường gọi tiết đoan viên. Nghĩ đến tôn huynh trọ ở chốn tăng phòng, có lẽ cũng hiu quạnh, cho nên tôi có bày riêng một tiệc mời tôn huynh sang bên nhà thưởng trăng, không biết tôn huynh có chiếu cố cho không

Vũ Thôn nhận lời ngay, cười nói:

- Được, tiên sinh quá yêu, tiểu đệ đâu dám trái ý.

Vũ Thôn liền theo Sĩ Ẩn về thư phòng.

Hai người uống nước trà xong. Một chốc, tiệc bày ra, rượu ngon, thức nhắm tốt, không cần phải nói. Hai người lúc đầu còn uống thong thả, sau dần trò chuyện cao hứng, thi nhau chuốc chén. Bấy giờ ngoài phố nhà nào nhà nấy đàn sáo ca hát. Vừng trăng vằng vặc, sáng tỏ giữa trời. Hai người càng hào hứng, rót đến đâu cạn đến đấy. Vũ Thôn lúc này đã ngà ngà say, không giữ nổi cuồng hứng, trông trăng ngụ ý ngâm một bài:

Đêm rằm gặp buổi đoàn loan,

Sáng trong, dõi khắp lan can phía ngoài.

Vừng trăng vừa ló trên trời.

Duới trần ngửa mặt muôn người ngắm trông.

Sĩ Ẩn nghe rồi nói to:

- Hay lắm ! Tôi thường nói tôn huynh không phải là người tầm thường. Nay ngâm câu này, tất phải có triệu chứng bay nhảy, chả mấy ngày nữa sẽ nhẹ bước thang mây. Đáng mừng! Đáng mừng!

Rồi tự tay rót một chân rượu chúc mừng. Vũ Thôn uống cạn, than rằng:

- Không phải vãn sinh say rượu nói ngông đâu. Về lối học khoa cử, vãn sinh cũng có thể dự tên trên bảng. Chỉ vì hiện nay thiếu tiền lộ phi, không xoay vào đâu được. Đường vào kinh thì xa, nếu chỉ nhờ vào tiền bán chữ, viết văn, không thể đủ được?

Sĩ Ẩn không đợi nói hết, ngắt lời ngay:

- Sao tôn huynh không nói trước? Tôi vẫn có ý ấy, không thấy tôn huynh nói đến, nên tôi không dám đường đột. Tôi tuy bất tài cũng có thể hiểu được hai chữ nghĩa và lợi. Sang năm có khoa thi, tôn huynh nên lên kinh thi ngay. Một khi bảng xuân cao chiếm, mới khỏi phụ tài học của mình. Còn tiền lộ phí, tôi xin thu xếp hộ, không dám làm phụ lòng tin yêu của huynh đối với tôi

Liền sai tiểu đồng vào lấy năm mươi lạng bạc và hai bộ quần áo rét ra, đưa cho Vũ Thôn. Sĩ Ẩn lại nói:

- Ngày 19 là ngày hoàng đạo, tôn huynh nên đáp thuyền đi ngay. Chờ khi cánh hồng bay bổng, mùa đông năm sau chúng ta sẽ lại gặp nhau, há không phải là một việc rất vui sướng hay sao?

Vũ Thôn liền nhận tiền và áo, chỉ cám ơn một lời, rồi cứ uống rượu, cười nói tự nhiên, đến canh ba mới tan tiệc.

Sĩ Ẩn tiễn Vũ Thôn về rồi vào buồng ngủ một mạch, khi mặt trời lên ba con sào mới dậy. Nhân nghĩ việc đêm qua, Sĩ Ẩn muốn viết hai bức thư, gởi cho người quen làm ở Kinh, tiến cử Vũ Thôn, để Vũ Thôn có chỗ nương thân. Liền cho người đến nhà mời Vũ Thôn, người nhà vừa đi đã về ngay nói:

- Hòa thượng ở đó bảo ông Giả đã đi kinh từ canh năm và có lời thưa với cụ rằng: người đọc sách không cần ngày "hoàng đạo" hay "hắc đạo" chỉ cần được việc thôi, nên đi không kịp từ biệt.

Sĩ Ẩn nghe nói, cũng thôi không nghĩ đến nữa.

Tháng ngày thấm thoắt, đã đến tiết nguyên tiêu. Sĩ Ẩn sai người nhà là Hoắc Khải ẵm Anh Liên đi xem hội hoa đăng. Đến nửa đêm, Hoắc Khải đặt Anh Liên ngồi ở ngoài cứa một mình rồi đi tiểu. Khi quay lại, không thấy Anh Liên đâu, Hoắc Khải hốt hoảng đi tìm suốt đêm, sợ không dám về báo cho chủ biết liền trốn đi nơi khác.

Sáng hôm sau, vợ chồng Sĩ Ẩn không thấy con về, biết rằng có chuyện không hay xảy ra, liền sai người đi tìm các ngả, tuyệt nhiên không thấy tung tích. Vợ chồng Sĩ Ẩn nửa đời người mới có mụn con gái, bây giờ lạc mất, buồn rầu biết là chừng nào! Vì thế ngày đêm than khóc, dở chết dở sống. Một tháng sau vì thương nhớ con Sĩ Ẩn bị ốm, vợ là họ Phong cũng ốm, ngày ngày thuốc thang bói toán.

Đến rằm tháng ba, trong miếu Hồ Lô bày cỗ cúng Phật, hòa thượng không cẩn thận để chảo dầu bốc cháy lan ra giấy dán cửa sổ. Các nhà ở vùng ấy đều giậu tre vách ván, dường như đó cũng là số kiếp phải chịu, nên cứ nhà nọ cháy sang nhà kia, cả phố bốc lên như núi lửa. Bấy giờ tuy có quân dân đến chửa, nhưng lửa đã cháy to, không sao cứu được! Cháy suốt một đêm mới tắt, bao nhiêu nhà đều hóa ra tro. Đáng thương nhất lả nhà họ Chân ở ngay liền miếu, chỉ còn trơ lại một đống ngói gạch vụn. May sao hai vợ chồng và người nhà không ai việc gì. Sĩ Ẩn dậm chân thở dài, bàn với vợ về trại ở. Nhưng lại gặp mất năm mất múa, trộm cướp như ong, tranh ruộng cướp đất, dân khổ trăm chiều. Vì vậy quan quân đến nã bắt luôn, khó bề yên thân được. Sĩ Ẩn phải bán trang trại, đem vợ và hai người đầy tớ gái về ở với bố vợ là Phong Túc, một người làm ruộng, nhưng là hạng giàu có ở châu Đại Như. Thấy con rể bối rối đến ở nhờ, Phong Túc trong bụng khó chịu. Sĩ Ẩn may còn có số tiền, liền bỏ ra nhờ bố vợ mua hộ nhà đất để làm kế sinh nhai. Phong Túc vừa mua vừa ăn bớt, chỉ còn được một ít nhà nát ruộng xấu. Sĩ Ẩn lại là nhà nho, không quen việc cày cấy, gượng gạo qua một vài năm, vốn liếng hết sạch. Phong Túc trước mặt rể thì nói năm ba câu sáo, nhưng khi gặp người khác thì lại nói xấu rể chỉ quen ăn biếng làm. Sĩ Ẩn biết thế, trong lòng rất hối hận, nghĩ đến tai biến năm trước, vừa tức vừa giận, lại thêm ấp ủ mối thương tâm. Một người gần đến tuổi già như Sĩ Ẩn, chịu sao nổi cảnh đau ốm vã nghèo khổ giày vò, dần dần càng ngày càng cảm thấy quang cảnh tiêu điều. Một hôm , Sĩ Ẩn chống gậy ra phố chơi cho đỡ buồn, chợt thấy một vị đạo sĩ khiễng chân, giầy gai áo rách, ngông cuồng phóng túng, tập tễnh đi đến, miệng đọc mấy câu:

Người đời đều cho thần tiên hay,

Mà chuyện công danh lại vẫn say!

Xưa nay tướng soái nơi nào đây,

Một dãy mồ hoang cỏ mọc đầy!

Người đời đều cho thần tiên hay.

Những hám vàng bạc lòng không khuây!

Suốt ngày những mong chứa cho đầy,

Đến lúc dầy rồi nhắm mắt ngay!

Người đời đều cho thần tiên hay!

Nhưng thích vợ đẹp lòng không khuây!

Lúc sống ái ân kể suốt ngày,

Lúc chết liền bỏ theo người ngay!

Người đời đều cho thần tiên hay!

Muốn đông con cháu lòng không khuây!

Xưa nay cha mẹ thực khờ thay,

Con hiền cháu thảo ai thấy đây!!

Sĩ Ẩn nghe thấy, lại ngay trước mặt hỏi:

- Người đọc những câu gì mà chỉ nghe thấy "hảo liễu" "hảo liễu" thôi.

Đạo sĩ cười đáp:

- Nếu đã nghe thấy hai chữ "hảo" và "liễu" thì cũng đáng khen cho ngươi là sáng suốt. Phải biết muôn việc ở đời "hảo" tức là "liễu", "liễu" tức là "hảo" nếu không "liễu" thì không "hảo", mà muốn "hảo" thì phải "liễư". Vì thế bài hát này ta gọi là bài "hảo liễu ca"(17).

Sĩ Ẩn vốn người thông minh, nghe nói thế, trong bụng tỉnh ngộ ngay, liền cười nói:

- Hãy thong thả! Để tôi giải nghĩa bài "háo liễu ca", người nghĩ thế nào?

Đạo sĩ cười bảo:

- Nhà ngươi cứ giải nghĩa đi.

Sĩ Ẩn đọc luôn:

Giờ đây lều cỏ vắng tanh,

Trước kia trâm hốt sắp quanh đầy giường!

Giờ đây cây cỏ ngổn ngang,

Trước kia vũ tạ ca trường là đây,

Xà chạm kia nhện giăng đầy.

Màn the nay rũ cạnh ngay cửa bồng.

Xưa sao phấn đượm hương nồng.

Mà nay sương nhuộm như bông trên đầu ?

Bãi tha ma có xa đâu,

Là nơi màn thắm là lầu uyên ương.

Hôm kia đầy những bạc vàng.

Phút đâu hành khất bên đường là ai ?

Những tham số phận của người,

Biết đâu mình đã sa nơi vũng lầy ?

Trai thời dạy những điều hay,

Ngờ đâu trộm cướp sau này xấu xa.

Gái thời kén cửa chọn nhà,

Ngờ đâu nhắm chỗ yên hoa rơi vào!

Mũ the chê nhỏ hay sao,

Để gông cùm phải vương vào đáng lo.

Trước manh áo rách co ro,

Mảnh bào giờ khoác lại cho là dài.

Ầm ầm trên chốn vũ đài,

Người kia vừa xuống thì người này lên.

Thực là dại dại điên điên,

Quê ai mà nhận là miền làng ta.

Quay đầu giờ mới tỉnh ra,

May quần áo cưới đều là vì ai!

Đạo sĩ khiễng chân nghe xong, vỗ tay cười nói:

- Giải nghĩa rất đúng! Giải nghĩa rất đúng!

Sĩ Ẩn nói:

- Chúng ta đi thôi.

Rồi đỡ ngay cái nải trên vai đạo sĩ, đeo lên lưng, cùng với đạo sĩ ra đi vùn vụt, không về nhà nữa.

Tin ấy đồn ầm ngoài phố, người nọ nói với người kia cho là chuyện lạ. Họ Phong nghe vậy, khóc ngất đi nhiều lần, rồi bàn với bố cho người đi tìm các nơi, nhưng nào thấy tung tích! Không làm thế nào được, họ Phong đành ở nương nhờ bố mẹ cho qua ngày. May sao có hai a hoàn theo hầu bên mình, ba thầy trò ngày đêm khâu vá lấy tiền giúp thêm bố mẹ. Phong Túc hàng ngày cứ nói ra nói vào, nhưng không làm thế nào được

Một hôm, a hoàn nhà họ Chân ra ngoài cửa mua chỉ, nghe thấy đường phố có tiếng quát tháo. Mọi người đều nói: "Quan mới đã đến!" A hoàn nấp trong cửa, thấy quân lính hàng đôi đi trước, một cỗ kiệu lớn rước một vị mặc áo mũ đại trào theo sau. A hoàn giật mình nghĩ bụng: "Ông quan này trông quen quen, hình như mình đã gặp ở đâu rồi?" Rồi nó vào nhà, cũng không nghĩ đến nữa. Đến tối, lúc sắp đi nghỉ, chợt có tiếng gò cửa, nhiều người nói ồn ào: "Người nhà của quan huyện đến hỏi có việc!" Phong Túc nghe thấy sợ tái người, không biết cớ tai vạ gì.

.......................................

(1). Hồi này có thể chia làm 2 phần. Phần thứ nhất bắt đầu từ câu: "Người làm sách xin nói" đến câu "Ai hay thú vị chứa đầy ở trong", nói tóm tắt nguyên uỷ nội dung của cuốn truyện và dụng ý của tác giả. Thí dụ Chân Sĩ Ẩn, Giả Vũ Thôn ... đều là báo trước những điều sẽ nói ở hồi hai. Đây là một lối văn ký thác, ẩn ẩn hiện hiện, thực thực hư hư, một nghệ thuật đặc biệt, khác với các tiểu thuyết diễn nghĩa; còn phần thứ hai mới bắt đầu vào chính truyện.

(2). Chân Sĩ Ẩn và Chân Sự Ấn (dịch nghĩa là "giấu những sự thực") theo âm Trung Quốc đọc giống nhau. Tác giả có ý dùng ba chữ Chân Sĩ Ẩn đặt tên cho nhân vật đầu tiên trong truyện để nói nội dung toàn bộ cuốn truyện là giấu sự thật đi mà nói như là một chuyện chiêm bao.

(3). Nguyên văn chữ Trung Quốc "Giả ngữ thôn ngôn". Chữ "giả ngữ thôn" đọc cũng giống như "Giã Vũ Thôn".

(4). Truyện thần thoại: Trước kia trời chưa kín hẳn, họ Nữ Oa luyện đá năm sắc lên vá trời.

(5). Theo thuyết nhà Phật, phàm cái gì giác quan không cảm thấy được thì gọi là "không", cái gì giác quan cảm được thì gọi là "sắc".

(6). Gương báu để coi việc gió trăng, tức là việc tình duyên, gương soi để khuyên răn người đời.

(7). Theo Thần thoại Trung Quốc từ lúc mới có trời đất, trời nghiêng về phía tây bắc, đất trũng về phía đông nam.

(8). Thân hào trong làng.

(9). Đường thư chép: nhà sư Viên Quan gặp Lý Nguyên, trỏ viên đá ở Tam Giáo: "Đây là chỗ thác sinh của ta, 12 năm sau, chúng ta sẽ gặp lại nhau ở đây". Đến đêm, Viên Quan chết, 12 năm sau, Lý Nguyên lại đến chỗ cũ, gặp một mục đồng, tức là Viên Quan. Về sau người ta dùng điển này để chỉ cuộc tình duyên của một đôi trai gái, phải trải qua kiếp khác, có khi phải trải qua ba kiếp, vì thế gọi là tam sinh.

(10). Hòn đá thiêng.

(11). Cõi đời đáng oán giận vì phải chia lìa nhau.

(12). Quả chứa những tình riêng bí mật.

(13). Nước để tưới sự buồn.

(14). Theo thuyết nhà Phật, ba ác đạo: địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ gọi là hố lửa.

(15). Lăng hoa kính. một thứ gương quý ớ lẩu trang, cũng dùng để ví người đàn bà đep. Chữ lăng ở đây còn ẩn giấu một sấm ngữ, vi Anh Liên về sau bị Bàn Tiết cướp lấy làm tiểu thiếp, đổi tên là Hương Lăng.

(16). Ngày rằm tháng giêng, còn gọi là tiết hoa đăng.

(17). Bài hát này trong nguyên văn, chữ cuối trong câu thứ nhất đều là chữ "hảo" là tốt, chữ cuối cùng của các câu thứ hai và thứ tư đều là "liễư" là hết, cho nên gọi là "hảo liễu ca".

Hồi thứ hai

Giả phu nhân tạ thế ở thành Dương Châu

Lãnh Tử Hưng kể chuyện trong phủ Vinh Quốc

Phong Túc nghe thấy tên công sai gọi, vội vàng chạy ra cười. Tên kia nói to:

"Mời ngay ông Chân ra đây!".

Phong Túc cười nói

- Tôi họ Phong chứ không phải họ Chân; chỉ có rể tôi là họ Chân, nhưng đã đi tu vài năm nay rồi. Có phải ông hỏi nó không?

Tên công sai nói:

- Chẳng biết anh là chân hay giả gì hết. Tôi đã vâng lệnh quan đến đây hỏi anh, tôi cứ dẫn anh về hầu quan, khỏi phải đi lại lôi thôi.

Chúng không cho Phong Túc nói, cứ dẫn đi, cả nhà họ Phong sợ hãi không biết việc gì. Đến canh hai Phong Túc mới về vui mừng hớn hở. Mọi người xúm lại hỏi. Phong Túc nói:

- Quan mới này họ Giả tên Hóa, người Hồ Châu, là bạn cũ của rể ta. Vừa đây đi qua cửa nhà ta, trông thấy con Kiều Hạnh mua chỉ, quan đoán con rể ta dời đến ở đây, nên gọi lại hỏi. Ta kể rõ đầu đuôi, quan thương cảm thở dài một lúc lâu, lại hỏi đến cháu ngoại ta, ta nói cháu đi xem hội bị lạc mất. Quan nói: "Việc ấy không ngại, ta sẽ sai người đi dò xét cho". Nói chuyện một lúc, khi sắp về, quan lại cho hai lạng bạc.

Vợ Chân Sĩ Ẩn nghe vậy, càng động lòng thương xót.

Sáng sớm hôm sau, Vũ Thôn sai người mang hai gói bạc, bốn tấm gấm đến tạ Ơn vợ họ Chân. Lại đưa một phong thư kín cho Phong Túc, nhờ nói với vợ họ Chân xin cưới Kiều Hạnh làm vợ hai. Phong Túc cười mừng hớn hở, chỉ sợ không được vừa lòng quan, nên trước mặt con gái hết sức nói hùn vào. Rồi ngay đêm ấy Phong Túc thuê một chiếc kiệu nhỏ đưa Kiều Hạnh vào dinh quan huyện. Vũ Thôn vui mừng lắm, đưa trăm lạng bạc tặng Phong Túc, lại biếu vợ họ Chân nhiều lễ vật, khuyên cứ yên tâm, chờ sau này sẽ tìm con gái giúp.

Nói đến Kiều Hạnh là người năm trước đã ngoảnh lại nhìn Giả Vũ Thôn, chỉ vì một cái nhìn ngẫu nhiên mà thành ra một đoạn kỳ duyên, đó là một việc không ngờ. May sao vận và mệnh đều tốt, về với Vũ Thôn mới có một năm, Kiều Hạnh đã sinh được một con trai. Lại nữa năm sau, vợ cả Vũ Thôn ốm chết, Vũ Thôn đưa nàng lên làm chính thất, đó là:

Ngẫu nhiên nhìn một cái,

Mà được ở trên người.

Nguyên năm trước Vũ Thôn được Sĩ Ẩn giúp tiền, ngày mười sáu vào kinh. Đến ngày thi không ngờ đỗ tiến sĩ, được bổ làm tri phủ. Vũ Thôn tuy tài giỏi, nhưng tính tham tàn, lại cậy tài khinh nhờn người trên, bọn đồng liêu đều ghét. Nhận chức chưa đầy hai năm, Vũ Thôn bị quan trên lừa chỗ hớ, dâng sớ hặc hắn: "Vốn tính gian giảo, giả dạng lễ nghi, mượn tiếng liêm chính, ngấm ngầm giao kết với lũ hồ lang, gây ra nhiều chuyệnrắc rối cho nhân dân không sao chịu nổi". Vua giận cách chức. Vũ Thôn tuy trong lòng hổ thẹn, nhưng ngoài mặt vẫn không có tí gì tỏ ra oán giận, vẫn vui vẻ như thường. Sau khi bàn giao xong, Vũ Thôn nhặt nhạnh của cải, đưa gia quyến về quê rồi một mình đi ngao du những nơi danh thắng. Một hôm ngẫu nhiên đến đất Duy Dương, Vũ Thôn được biết quan Diêm Chính mới bổ đến năm nay là Lâm Như Hải.

Lâm Như Hải, họ Lâm, tên Hải, tên chữ Như Hải, là người Cô Tô, đỗ Thám hoa khoa trước, được thăng chức Lan đài tự đại phu, nay bổ đến đây làm Tuần diêm ngự sử mới hơn tháng nay. Ông tổ nhà Lâm Như Hải từng tập tước hầu, đến Như Hải là năm đời. Theo lệ tập tước thì chỉ có ba đời, nhưng bố Như Hải được vua đặc cách ra ơn, cho tập tước thêm một đời nữa. Như Hải thì do khoa cử xuất thân, Họ Lâm tuy là nhà chung đỉnh, nhưng cũng dòng dõi thi thư. Chỉ tiếc họ hàng không thịnh vượng, con cháu hiếm hoi, tuy có mấy ngành nhưng đều là họ xa, không phải anh em ruột thịt. Như Hải đã bốn mươi tuổi, có một con trai lên ba, mới chết năm ngoái. Dẫu có nhiều vợ lẽ nàng hầu, nhưng số hiếm hoi cũng chẳng làm thế nào được. Chỉ có vợ cả là họ Giả sinh được một con gái tên gọi Đại Ngọc, mới lên năm. Vợ chồng nưng niu con như hòn ngọc trên tay. Thấy con thông minh tuấn tú. Như Hải cho đi học như con trai, sớm tối đỡ hiu quạnh.

Nói về Giả Vũ Thôn ở nhà trọ bị cảm gần một tháng trời mới khỏi. Vừa mệt vừa hết tiền, hắn định tìm một chỗ ở tạm nào hợp với sức khỏe. Nhân gặp hai người bạn cũng ở nhà trọ, biết quan Diêm Chính muốn đón thầy dạy con gái học, Vũ Thôn liền nhờ bạn tiến cử, tìm kế yên thân. May sao ở đó chỉ có một cô học trò và hai a hoàn làm bạn học. Cô học trò này vừa bé lại vừa yếu, thời giờ không hạn định nhiều ít, vì thế Vũ Thôn rỗi lắm.

Thấm thoát đã hơn một tháng, không ngờ mẹ cô học trò là Giả phu nhân ốm chết. Khi mẹ Ốm thì cô hầu hạ thuốc thang, khi mẹ mất thì cô giữ đủ mọi tang lễ. Vũ Thôn định thôi dạy đi tìm việt khác, nhưng Như Hải muốn con cư tang vẫn đi học, nên cố giữ lại. Gần đây vì quá thương xót, lại vốn người yếu sẵn, nên bệnh của cô lại phát, phải nghỉ học luôn, Vũ Thôn ngồi rỗi, gặp những lúc trời chiều êm ả, ăn xong lại ra ngoài chơi.

Một hôm, Vũ Thôn ra ngoài thành thưởng ngoạn phong cảnh thôn quê, vui chân đi đến một chỗ non nước quanh co, rừng trúc xanh tốt, lờ mờ thấy đằng xa có một tòa cổ miếu. Vũ Thôn đến đó thì thấy cửa ngõ xiêu vẹo, tường vách đổ nát, có biển đề Trí Thông Tụ. Cạnh cửa lại có đôi câu đối đã cũ nát:

Sau mình còn chỗ, không lùi bước,

Trước mắt cùng đường, muốn ngoảnh đầu.

Vũ Thôn xem xong, nghĩ rằng: "Hai câu này văn thì thường thôi, như ý sâu sắc. Xưa nay ta đi chơi nhiều núi nhiều chùa có tiếng, chưa từng thấy câu đối nào thế này. Chưa biết chừng trong đó có vị tu hành đắc đạo cũng nên. Sao ta không vào hỏi xem?" Khi vào, thấy một vị sư già lọm khọm đang nấu cháo, Vũ Thôn cũng không để ý đến. Lúc nói chuyện thấy vị sư vừa lòa vừa điếc, răng rụng, lưỡi cứng, hỏi một đằng, trả lời một nẻo.

Vũ Thôn chán ngán, trở ra, muốn tìm một hàng rượu uống mấy ché cho đỡ buồn. Hắn vừa bước vào cửa, thấy trong đám khách có một người chạy ra cười và mời vào:

- Lạ thật! Lạ thật! Sao lại gặp tiên sinh ở đây?

Vũ Thôn vội nhìn, thì ra người này buôn đồ cổ ở Kinh đô, họ Lãnh, tên Tử Hưng, đã quen nhau từ khi ở kinh đô. Vũ Thôn thì phục Tử Hưng là tay có tài tháo vát, Tử Hưng thì muốn mượn tiếng Vũ Thôn là người văn nho, vì thế hai người chơi thân với nhau.

Vũ Thôn vội hỏi:

- Ông đến đây bao giờ? Tôi không biết, ngẫu nhiên lại gặp thực là kỳ duyên!

Tử Hưng đáp:

- Tôi về nhà năm ngoái, nhân có việc vào kinh, tiện đường đến đây thăm một người bạn. Ông ta có lòng tốt, lưu tôi lại ở chơi, tôi không có việc gì gấp, nên cũng ở lại ít ngày, độ nửa tháng nữa sẽ lên đường. Hôm nay vì nhà ông bạn có việc, nên tôi ra đây chơi, định vào nghỉ chân, không ngờ lại gặp tiên sinh!

Nói xong mời Giả Vũ Thôn ngồi. Tử Hưng bảo dọn rượn, hai người uống rượu nói chuyện, kể lại những việc từ ngày xa nhau. Vũ Thôn nhân hỏi:

- Gần đây kinh đô có gì lại không

- Cũng không có gì lạ, chỉ có nhà dòng họ với tiên sinh có một chuyện hơi lạ.

Vũ Thôn cười:

- Họ tôi không có ai ở kinh đô cả, sao lại nói thế?

Tử Hưng cười:

- Cùng họ thôi, không phải cùng ngành.

- Nhà nào?

- Như phủ Giả Vinh Quốc có lẽ cũng không làm mất thanh danh nhà tiên sinh!

- Phủ Vinh Quốc công à? Cứ kể ra, họ nhà tôi cũng không ít người, từ Giả Phục đời Đông Hán đến giờ, chi phái rất đông, tỉnh nào cũng có, không ai tra khảo hết được. Kể ra phủ Vinh thì có cùng họ với tôi đấy, nhưng nhà ấy vinh hiển như thế, tôi không tiện nhận họ, nên ngày càng xa.

Tử Hưng thở dài:

- Tiên sinh đừng nói thế. Hiện nay hai nhà Vinh, Ninh đều suy sút cả, không còn thịnh vượng như trước nữa.

- Hiện giờ hai nhà Ninh, Vinh người rất nhiều, sao bảo là suy sút?

- Chính thế, nói ra thì rất dài.

- Năm ngoái tôi đến Kim Lăng, vì muốn thăm di tích Lục Triều(#1). Khi tôi đến thành Thạch Đầu, có đi qua hai nhà ấy. Con đường bắc lộ bên đông là phủ Ninh Quốc, bên tây là phủ Vinh Quốc, hai nhà liền nhau, chiếm quá nửa phố. Ngoài cửa chính tuy vắng vẻ không có người, nhưng nhìn qua tường, thấy trong đó điện đài lầu gác rất là nguy nga; ngay cái vườn hoa đằng sau, cây cối núi non vẫn sầm uất tươi tết, đâu phải là nhà suy sút?

Tử Hưng cười nói:

- Không ngờ tiên sinh đỗ tiến sĩ, mà lại chẳng thông tí nào! Cổ nhân đã nói: "con sâu trăm nhân, chết vẫn không ngã". Hai nhà này tuy không phồn thịnh bằng lúc trước, nhưng so với những nhà sĩ hoạn bình thường vẫn còn khác xa. Hiện giờ người nhiều, công việc bề bộn. Thế mà từ thầy đến tớ, chỉ biết hưởng thụ phú quý, không người nào lo tính công việc. Đến nỗi hàng ngày phung phí cũng không biết tinh giảm; bề ngoài xem ra không thấy có gì thay đổi, nhưng bề trong thực trống rỗng cả rồi. Đó là việc nhỏ, còn có việc lớn nữa: một nhà phú quý dòng dõi thi thư như thế mà ai ngờ con cháu lại càng ngày càng suy sút!

Vũ Thôn nói:

- Những nhà thi lễ như thế, có lẽ nào lại không biết dạy bảo con cháu? Nhà khác thì tôi không biết, chứ hai phủ Ninh, phủ Vinh, xưa nay dạy con vẫn có khuôn phép lắm kia mà?

Tử Hưng thở dài:

- Tôi sẽ nói cho tiên sinh biết. Trước đây Ninh quốc công và Vinh quốc công là hai anh em ruột. Ninh công là trưởng, đẻ hai con trai; khi Ninh công chết, con trai lớn là Giả Đại Hóa tập tước Đại Hóa đẻ được hai con: con lớn là Giả Phu, lên tám, chín tuổi thì chết; con thứ là Giả Kính tập tước. Giả Kính một niềm mộ đạo, chỉ thích luyện đan, không để ý đến một việc gì. May sớm đẻ được con trai là Giả Trân, vì bố thích đi tu tiên nên nhường cho con tập tước. Ông ta không ở nhà, mà ra ở ngoài thành, sống chung lộn với bọn đạo sĩ. Giả Trân đẻ được một con trai là Giả Dung, nay mới mười sáu tuổi. Bây giờ Giả Kính thì không nhìn gì đến việc nhà, Giả Trân thì chẳng chịu học hành, chỉ chơi bời cho thỏa thích, làm đảo lộn cả cơ nghiệp phủ Ninh, không ai dám ngăn cản cả. Còn như phủ Vinh, vừa rồi tôi nói có việc lạ, tức là từ khi Vinh công chết, con trưởng là Giả Đại Thiện tập tước, vợ Đại Thiện là họ Sử, con một tước hầu ở Kim Lăng, đẻ được hai con trai : trưởng là Giả Xá, thứ là Giả Chính. Giả Đại Thiện chết sớm, còn vợ, con trưởng là Giả Xá được tập tước. Con thứ là Giả Chính, tứ bé ham học, được ông yêu, muốn cháu thi đỗ làm quan. Không ngờ lúc Đại Thiện sắp chết, di biểu dâng lên, Hoàng thượng thương nhớ người bầy tôi cũ, liền cho con trưởng tập tước. Hoàng thượng lại hỏi còn mấy con cho vào chầu ngay, rồi đặc cách cho Giả Chính hàm chủ sự vào bộ tập sự. Nay Giả Chính đã được thăng Viên ngoại lang. Vợ Giả Chính là Vương thị, đẻ con đầu lòng là Giả Châu, mười bốn tuổi đỗ tú tài, lấy vợ sinh con, nhưng chưa đến hai mươi tuổi thì ốm chết. Con thứ hai là gái, đẻ đúng ngày mồng một tháng giêng, cũng là một sự lạ. Mấy năm sau lại đẻ một vị công tử. Chuyện này lại càng lạ nữa: khi lọt lòng, trong miệng cậu ta ngậm một hòn ngọc ngũ sắc, trên hòn ngọc có ghi nhiều chữ, nên mới đặt tên là Bảo Ngọc. Tiên sinh bảo chuyện ấy có lạ không?

Vũ Thôn cười:

- Như thế thì lạ thực! Người này chắc có một lai lịch khác thường!

Tử Hưng cười nhạt:

- Hàng vạn người đều nói như thế, vì vậy bà nội nó yêu quý nó như hòn ngọc báu. Khi đầy năm, Giả Chính muốn thử chí hướng con về sau thế nào, mới đem những đồ chơi bày ra trước mặt để xem nó quờ lấy cái gì. Ngờ đâu nó chẳng lấy cái gì, mà chỉ quờ lấy phấn sáp, trâm vòng. Giả Chính không vui, bảo sau này chỉ là đồ tửu sắc, vì thế không yêu quý lắm. Duy có bà Sử Thái quân thì coi nó như là bản mệnh mình. Nói lại càng lạ: Ngày nay nó đã lên bảy, lên tám, tính khí ngang ngược lạ thường, nhưng lại thông minh gấp trăm người khác. Nhắc lại câu nói hồi nhỏ của nó thật là kỳ quặc! Nó nói: "Xương thịt của con gái là nước kết thành, xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, trông thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bẩn vậy". Tiên sinh bảo có buồn cười không? Chắc sau này cậu ta sẽ là con quỷ hiếu sắc.

Vũ Thôn nghiêm nét mặt ngắt lời:

- Không phải thế đâu! Đáng tiếc là các vị không biết lai lịch cậu bé ấy. Cũng như ông Giả Chính đã coi nhầm cậu ta là quỷ hiếu sắc! Nếu không phải là những bậc đọc sách hiểu biết nhiều dày công cách vật trí tri, đủ sức tham huyền ngộ đạo(#2), thì không thể biết được.

Tử Hưng thấy Vũ Thôn nói một cách trịnh trọng, vội xin cho biết vì lẽ gì.

Vũ Thôn nói:

- Trời đất sinh ra người, trừ những người đại nhân, đại ác không kể, còn thì sàn sàn như nhau. Những bực đại nhân thì theo vận mà sinh, những kẻ đại ác theo kiếp(#3) mà sinh. Theo vận mà sinh thì đời trị, theo kiếp mà sinh thì đời loạn. Như các vị Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ, Chu, Thiệu, Khổng, Mạnh, Đổng, Hàn, Chu, Trình, Trương, Chu(#4) đều theo vận mà sinh, Bọn Xuy Vưu, Cung Công, Kiệt, Trụ, Thủy Hoàng, Vương Mãng, Tào Tháo, Hoàn Ôn, An Lộc Sơn, Tần Cối(#5) đều đúng kiếp mà sinh. Đại nhân thì làm sao cho thiên hạ bình trị. Đại ác thì làm cho thiên hạ nhiễu loạn. Người nhân thì bẩm thụ chính khí trong sáng thiêng liêng; người ác thì bẩm thụ những tà khí tàn nhẫn ngang ngược. Bây giờ đang lúc hưng thịnh thái bình, trên từ triều đình, dưới đến đồng nội, hết thảy đều chịu cái chính khí trong sáng thiêng liêng. Những khí còn thừa lại tản mát không biết về đâu, mới biến ra thành cam lộ, hòa phong, tràn khắp trong bốn bể. Còn những tà khí kia không thể lan tràn dưới ánh sáng mặt trời được, liền tụ kết lại ở trong ngòi sâu, hang rộng, ngẫu nhiên gặp gió lay, mây cuốn, thì cũng dao động, cảm phát ra ít nhiều, một dây nửa sợi tung ra, lại gặp ngay linh khí đi qua, thành ra chính không dung được tà, tà lại ghen với chính, không bên nào chịu bên nào, như gió nước sấm sét gặp nhau trên mặt đất. Đã không tiêu diệt được nhau, lại không chịu nhường nhau, tất phải xung đột mãnh liệt. Khi đã phát tiết ra, các tà khí ấy tất phải bám vào người. Nếu ai bẩm thụ khí ấy mà sinh ra, dù trai hay gái, trên không làm được bậc chân nhân quân tử, mà dưới cũng không làm nổi hạng đại hung đại ác. Đem hạng người đó đặt vào trong ngàn vạn người, thì khí thông minh tuấn tú sẽ ở trên ngàn vạn người, mà cái lối bướng bỉnh càn rỡ cũng lại ở dưới ngàn vạn người. Nếu sinh vào nhà công hầu phú quý, thì là hạng người tình si tình chủng; sinh vào nhà thi thư thanh bạch thì là dật sĩ cao nhân; dù có sinh vào những nhà hèn hạ thì cũng là đào kép danh tiếng, chứ không đến nỗi làm tôi đòi cam chịu sai khiến. Trước kia như Hứa Do, Đào Tiềm, Nguyễn Tịch, Kê Khang, Lưu Linh, họ Vương, họ Tạ, Cố Hổ Đầu, Trần Hậu Chủ, Đường Minh Hoàng, Tống Huy Tông, Lưu Đình Chi, Ôn Phi Khanh, Thạch Mạn Khanh, Mễ Nam Cung, Liễu Kỳ lanh, Tần Thiếu Du; gần đây như: Nghê Vân Lâm, Đường Bá Hổ, Chúc Chi Sơn; lại như: Lý Qúy Niên, Hoàng Phiên Xước, Kính Tân Ma, Trác Văn Quân, Hồng Phất, Tiết Đào, Thôi Oanh Oanh, Triều Vân(#6). Tuy địa vị họ khác nhau nhưng cũng giống nhau cả.

- Cứ như tiên sinh nói thì chả hóa ra được làm vua, thua làm giặc hay sao?

- Đúng thế. Tôi từ khi bị cách chức đến giờ, hai năm đi chơi các tỉnh, đã từng gặp hai đứa trẻ dị dạng. Vì thế ông vừa nói đến câu chuyện Bảo Ngọc, tôi liền đoán chắc cậu bé này cũng là hạng người kể vừa trên. Không cần nói xa, chỉ cần nói ngay nhà họ Chân, làm chức Tổng tài viện Thể nhân ở Kim Lăng thôi. Ông có biết không?

- Ai mà chả biết! Nhà họ Chân và nhà họ Giả là họ hàng với nhau, đời đời đi lại rất thân mật, ngay tôi cũng thường ra vào nhà ấy.

- Năm ngoái tôi ở Kim Lăng, có người đánh mối cho tôi đến dạy học ở nhà họ Chân. Tôi đến đó xem quang cảnh ra sao, không ngờ nhà ấy là nhà phú quý mà lại biết giữ lễ nghĩa, ít có một chỗ dạy học nào được như thế. Tên học trò ấy tuy mới vỡ lòng, nhưng khó hơn là dạy người lớn để đi thi. Nói ra thật đáng buồn cười, tên học trò bé con ấy thế nói này: "Phải có hai bạn gái bé cùng học với tôi, tôi mới nhận được chữ, hiểu được nghĩa; nếu không thì bụng tôi cứ mờ đặc đi". Nó lại thường nói với bọn người nhà: "Hai chữ "nữ nhi" đối với tôi rất tôn quý, rất trong sạch, không gì sánh kịp, hơn cả phật Di Đà và Ngọc Đế. Các người là hạng thối mồm thối miệng, chớ có nông nổi coi thường hai chữ ấy. Khi nào cần nói đến phải lấy nước chế thơm súc miệng kỹ đã rồi mới được nói; nếu mà nói bậy, sẽ bị bẻ răng khoét mắt". Lúc thường thì nó ngỗ nghịch trâng tráo, bướng bỉnh, ngốc nghếch là thường; nhưng khi gặp mấy bạn gái, nó lại ôn hòa văn nhã, láu lỉnh thành một con người khác hẳn. Bố nó nhiều lần đánh rất đau mà nó vẫn không chữa. Mỗi lần bị đánh đau không chịu được, nó gọi ầm lên "chị em ơi". Bọn con gái nghe thấy thế, cười hỏi: "Tại làm sao khi bị đòn cứ gọi "chị em" ra làm gì? Hay là muốn gọi chị em ra xin hộ? Như thế có đáng xấu hổ không?" Nó trả lời một câu rất kỳ: "Lúc đau quá, tôi nghĩ bụng thử kêu "chị em", họa may đỡ chăng, quả nhiên khi kêu lên thì thấy đỡ. Vì thế, tôi tìm ra được phép mầu nhiệm: Mỗi khi bị đánh là tôi cứ thế kêu lên. Tôn huynh nghe chuyện này có đáng buồn cười không? Vì bà quá nuông cháu, thường lam rầy rà mà quở mắng người con, nên tôi không ở đấy nữa mà đến dạy học ở nhà họ Lâm, làm Tuần diêm ngự sử tại đây. Những hạng con em ấy tất không giữ được cơ nghiệp ông cha. Không theo được lời dạy dỗ của thầy bạn. Chỉ đáng tiếc là nhà ấy có mấy chị em gái thì lại khôn ngoan ít có!

Tử Hưng nói:

- Thôi đúng như mấy chị em nhà họ Giả rồi. Tiểu thư lớn nhất của Giả Hình là Nguyên Xuân, có tài đức hiền hiếu, được tuyển vào cung làm nữ Sử, tiểu thư thứ hai là Nghênh Xuân, con vợ lẽ Giả Xá. Tiểu thư thứ ba là Thám Xuân, con vợ lẽ Giả Chính. Tiểu thư thứ tư là Tích Xuân, em ruột Giả Trân ở bên phủ Ninh. Vì Giả mẫu rất yêu cháu gái, nên đều cho ở chung với bà và cùng học chung với nhau. Nghe ra đều là hạng khá cả.

Vũ Thôn nói:

- Nhà họ Chân thì lại hay nữa, tên con gái cũng đặt như con trai, chứ không như các nhà khác thường dùng những chữ đẹp như "Xuân" "Hồng" "Hương" "Ngọc". Sao nhà họ Giả lại còn theo cái lối cũ ấy?

Tử Hưng nói:

- Không phải thế. Chỉ vì cô lớn sinh ngày mồng một tháng iêng nên đặt là Nguyên Xuân, nên các cô sau cũng đặt theo chữ "Xuân". Còn hàng trên thì con gái cũng đặt tên theo như con trai. Này nhé(#7): vợ Ông chủ nhà họ Lâm mà tiên sinh ngồi dạy học là em ruột Giả Xá và Giả Chính bên phủ Vinh, khi chưa lấy chồng đặt tên là Giả Mẫn. Nếu tiên sinh không tin, cứ về hỏi kỹ lại xem.

Vũ Thôn vỗ tay cười:

- Phải rồi! Cô học trò của tôi, khi đọc sách đến chữ Mẫn thì nó đọc là Mật, mà viết chữ Mẫn thì bớt vài nét, bấy lâu tôi vẫn ngờ ngợ. Nay nghe ông nói mới vỡ lẽ. Thảo nào cô học trò này ngôn ngữ, cử chỉ khác hẳn những con gái nhà khác. Chắc người mẹ không phải tầm thường mới sinh được con như thế. Nay biết là cháu ngoại phủ Vinh thì chẳng có gì làm lạ. Tiếc rằng tháng trước người mẹ mất rối!

Tử Hưng thở dài:

- Trong mấy chị em nhà ấy: Giả Mẫn là út cũng lại chết mất! Chị em hàng trên thế là không còn ai, chỉ trông vào lớp con cháu, sau này may có lấy được chồng khá không?

- Phải đấy. Vừa rồi ông nói, Giả Chính có một người con trai khi đẻ ngậm ngọc, lại có một người cháu bé của con trưởng để lại; thế thì Giả Xá không có con hay sao?

- Giả Chính đã có người con trai ngậm ngọc, nàng hầu lại sinh thêm một người con trai nữa, nhưng chưa biết hay dở thế nào. Chỉ biết hiện giờ có hai con một cháu, không biết sao này ra sao. Giả Xá thì cũng có hai con. Con cả là Giả Liễn quyên được chức Đồng tri, nhưng không ham học hành, chỉ thích mưu toan xoay sở, ăn nói lại thạo, nên sang trông nom đỡ việc cho nhà chú là Giả Chính. Từ khi hắn lấy vợ, trên dưới ai cũng khen ngợi chị vợ. Chị ta vẻ người rất phong nhã, ăn nói rất linh lợi, tâm cơ lại rất kín đáo, sâu sắc, bọn đàn ông không mấy người bì kịp.

Vũ Thôn nghe xong cười:

- Thế mới biết tôi nói không nhầm. Mấy người mà chúng ta nói đây có lẽ là bẩm thụ cả hai thứ chính khí và tà khí hỗn hợp nhau mà sinh ra chăng? Họ là những người một hội một thuyền cũng chưa biết chừng.

- Chính cũng kệ! Tà cũng kệ! Chỉ nói chuyện người mãi, tiên sinh hãy uống rượu đã cho vui.

- Có nói chuyện mới uống được nhiều rượu.

Tử Hưng cười:

- Nói chuyện phiếm của người càng thêm hào hứng, thì uống mấy chén nữa cũng chẳng sao!

Vũ Thôn trông ra ngoài cửa sổ nói:

- Trời muộn rồi, sắp đóng cửa thành, chúng ta vào thành rồi nói chuyện cũng được.

Hai người đứng dậy trả tiền rượu. Lúc sắp về, chợt nghe đằng sau có người gọi:

- Anh Vũ Thôn! Tôi đem tin mừng lại đây. Anh lại nơi thôn quê này làm gì?

Chú thích:

(1-). Lục Triều: Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề. Lương, Trần. Sáu triều đều đóng đô ở Kiến Khang, tức là Nam Kinh cửa Trung Quốc.

(2-). Chữ trong sách Đại học: "trí tri tại cách vật": muốn đưa trình độ hiểu biết đến bực cao siêu phải suy xét đến nơi đến chốn mọi lý lẽ của sự vật. Tham huyền: dò sâu vào chỗ huyền bí. Ngộ đạo: hiểu thấu đạo mẩu nhiệm.

(3-). Vận và kiếp theo thuyết thuật số có nghĩa khác nhau. Vận chỉ thời vận tốt, kiếp chỉ kiếp hạn xấu.

(4-). Vua Nghiêu nhà Đường, Vua Thuấn nhà Ngụ Vua Vũ nhà Hạ, Vua Thang nhà Thương, Vua Văn vua Vũ nhà Chu, Chu Công Đán, Thiệu Công Thích đều là con Văn Vương, có công lớn với nhà Chụ Khổng Tử, Mạnh Tử là bậc thánh hiền của nho học.

Đổng Trọng Thư đỗ bác sĩ đời Hán Vũ Đế, có tài chính trị, suốt ba năm buông màn đọc sách, không nhin ra ngoài.

Hàn Dũ là một nhà văn nổi tiếng đời Đường, tính thẳng,có làm bộ Hắn Xương lê toàn tập.

Chu Đôn Di: Tên chữ là Liêm Khê, là Mậu Thúc. Ông là thủy tổ nền lý học nhà Tống, có làm quyển Thái cực đồ thuyết và Thông thư, thầy học của hai ông Trình Di, Trình Hạo.

Trình Hạo: Tên chữ Bá Thuần, đỗ tiến sĩ đời Thần Tông nhà Tống, học rộng, có làm bộ sách Định tính, người ta gọi là Minh Đạo tiên sinh.

Trình Di: Em ruột Trình Hao, tính thành thực, thấu hiểu mọi sự vật. Có làm truyện giải thích Kinh Dịch và kinh Xuân Thụ Người ta gọi là Y Xuyên tiên sinh.

Trương Tái: Tên chữ là Tử Hậu, bạn học của hai ông Trình Di và Trình Hao. Có làm ra Trương sử toàn thư mười bốn quyển như Đông Tây Minh, Chính Mông, Kinh Học, Lý Quật...

Chu Hy: Tên chữ là Nguyên Hối, đỗ tiến sĩ đời nhà Tống. Học hiểu thấu mọi sự vật rồi sau quay vào thực tiễn. Nền lý học đời nhà Tống đến ông này mới thực hoàn toàn. Người ta tôn là Khảo đình học phái.

(5-). Xuy Vưu là chư hầu của vua Hoàng Đế, chế ra đao nỏ, đi quấy rối thiên hạ, Vua Hoàng Đế đánh hắn ớ Trác Lộc, hắn thua, hóa ra đám mù, vua Hoàng Đế chế ra xe chỉ nam. Xuy Vưu bị giết chết.

Cung Công là quan tri thủy đời vua Nghiêu, trễ biếng công việc, bị đày ra U Châu.

Cùng thời với hắn có: Hoan Đâu, Tam Miêu, Cổn, người ta gọi là Tứ hung.

Hoàn Ôn: Người đời Tấn, khi mới đẻ, người ra nghe thấy tiếng khóc, cho là vật lạ. Sau lấy Nam Khang công chúa, đánh giặc được nhiều trận, phong là Nam quán công, uy thế lừng lẫy, lấn cả quyền vua, có ý phản dân phản nước. Hắn thường nói: "Con trai không để được tiếng thơm cho đời, cũng nên để tiếng xấu cho đời sau".

An Lộc Sơn được vua Đường Minh Hoàng tin dùng làm đến chức Tiết độ sứ. Thường đi lại với Dương Qúy phi, xin làm con nuôi, sau làm phản, tự xưng là Hùng Võ hoàng đế nhà Yên, rồi bị con là Khánh Tự giết chết.

Tần Cối tính tàn nhẫn, hiểm ác, nhờ thế lực nước Kim làm đến chức tể tướng, giết hại nhiều trung thần võ tướng như Nhạc Phi.

(6-). Hứa Do: Một vi cao ẩn ở đất Bái Trạch. được vua Nghiêu nhường cho thiên hạ không nhận, ra sông Đinh Thủy rửa tai.

Đào Tiềm: Tên chữ Uyên Minh, người đời Tấn, tính cao thượng giản dị. Khi làm quan lệnh ở Bành Trạch, trên quận sai quan đến, người ta bảo phải mũ áo ra tiếp, Đào Tiềm nói: "Ta không thể vì năm đấu gạo mà uốn lưng được." rồi bỏ quan về.

Nguyễn Tịch: tên chữ là Tự Tôn, người đời Tấn, học rộng, thơ hay, đàn giỏi, thích uống nrợu, biết phân biệt kẻ hay người dở, người hay thì tiếp bằng mắt xanh, người dở thì tiếp bằng mắt trắng. Có làm một tập thơ Vịnh hoài hơn tám mươi bài, bài Đạt sinh luận và truyện Đạt nhân tiên sinh.

Kê Khang: Người đời Tấn. Học rộng, tính lười biếng, làm quan trung tán đại phu, là một trong bọn bảy người ờ Trúc lâm thất hiền.

Lưu Linh: Làm chức Kiến uy tham quân đời Tấn. Là một người trong Trúc lâm thất hiền, tính nghiện rượu, đi đâu cũng uống sai người mang đi theo, dặn hễ chết thì chôn ngaỵ Có làm bài Tửu đức tụng.

Vương, Tạ: Vương Thản Chi và Tạ An, hai họ này có tiếng nhất đời Tống. vì thế con trai nhà quý phái đều muốn lấy con gái họ Vương, họ Tạ.

Cố Hổ Đầu: Người đời Tấn. Học rộng, tài giỏi, vẽ khéo.

Trần Hậu Chủ: Hay chữ, sau khi lên ngôi vua, ham mê tửu sắc, suốt ngày chỉ chơi đùa với phi tần và hiệp khách, ăn yến làm thơ, chẳng nghĩ gì đến công việc. Khi quân Tùy đến đánh vẫn còn say rượu, hát xướng. Sau bị tướng nhà Tùy là Hàn Cầm Hổ bắt được ờ trong giếng Cảnh Dương đem về. Vua Tùy phong cho làm Trường Thành công.

Ôn Phi Khanh: Người đời Đường. Tư chất thông minh, làm từ phú rất hay, nhưng không biết giữ gìn tính nết, thích nói những lời dâm đãng, bị sĩ phu thời bấy giờ khinh bỉ.

Thạch Mạn Khanh: Người đời Tống, tính lỗi lạc, có khí tiết, biết phân biệt điều phải điều trái. Thơ hay chữ tốt. thường làm những bài nói về sách lược quốc phòng.

Mễ Nam Cung: Người đời Tống, thơ hay, vẽ khéo, thường dắt bạn đi thưởng ngoạn sơn thủy. Trong thuyền lúc nào cũng đầy thơ và tranh vẽ. Vì đã làm chức Nam Cung Xá Nhân, nên người ta thường gọi là Mễ Nam Cung.

Liễu Kỳ Hình: Tên là Vinh. Đỗ Tiến sĩ đời Tống, làm chức đồn điền viên ngoại lang, nên người ta thường gọi là Liễu đồn điền. Tính lãng mạn. làm nhiều bài ca từ lẳng lơ như bài Nhạc thường tập. Hễ có vở hát nào mới ra, tất phải nhờ ông làm từ giới thiệu, thì bán mới đắt. Sau vì túng thiếu, đi lưu lạc khắp nơi. Khi chết, các chị em ca kỹ phải góp tiền làm ma cho.

Tần Thiếu Du: Người đời Tống. Học rộng nhưng tính kiêu ngạo, vi có tài nên được cử làm chức Hán lâm học sĩ, giữ việc chép sứ với Tô Triệt, Tô Thức. Sau lấy em hai ông này.

Nghê Văn Lâm: Người đời Nguyên. Nhà giàu, danh sĩ các nơi thường đến chơi, thơ hay, vẽ sơn thủy khéo. Lúc già thích thanh đạm và tĩnh mịch. Chỗ ở có Thanh bật các, Văn lãm đường, trong chứa rất nhiều thơ họa, đồ cổ, sách lạ, thường đi thuyền thưởng ngoạn các nơi sơn thủy. Mặc bộ quan áo nhà quê, ở lẫn lộn vào chốn hương thôn. Có làm bộ Thanh bật các tập.

Đường Bá Hổ: Người đời Minh, nhà nghèo nhưng thích bạn, văn hay, vẽ khéo, cùng bọn Từ Trinh Khang, Chúc Chi Sơn, Văn Trung Minh. Người ta gọi là bốn tài tử ở đất Ngô Trung.

Chùc Chi Sơn: Người đời Minh, vì lúc mới đẻ có ngón tay thừa, tự hiệu là Chi Sơn. Chúc Chi Sơn xem sách rộng. thơ hay chữ tốt.

Lý Quy Niên: Người đời Đường, giỏi âm luật, cùng với Tôn đại nương lúc bấy giờ giỏi về múa hát.

Kính Tân Ma: Trùm phường chèo đời Ngũ Đại. Bấy giờ vua Trang Tông đi săn, giẫm phải vào ruộng lúa. Viên huyện ở đấy can, vua giận định đem giết. Kính Tân Ma trách viên huyện: "Ông làm quan ở đây lại dám cho dân cày cấy nộp thuế. Sao không để trừ chỗ này để cho vua đi săn. Thây kệ dân đói có được không? Tội ông thế đáng chết là phải". Vua nghe nói cười lên rồi tha viên huyện.

Hồng Phật: Tên là Xuất Trần, người đời Tùy, gái hầu của Dương Tố. Lý Tĩnh mặc áo vải vào chầu Dương Tố, Xuất Trần có sắc đẹp, tay cầm phất trần, mắt vẫn liếc Lý T ĩnh. Đêm hôm ấy, lẻn sang nhà Lý Tĩnh nói: "Thiếp là thị tỳ nhà họ Dương đây, dây leo này giờ ai uốn nhờ bóng cây cao". Rồi hai người cùng trốn sang đất Thái Nguyên. Sau Trương Minh Phương đời Minh có làm bài Hồng Phật Ký.

Tiệt Đào: Danh sĩ đời Đường, hiểu biết âm luật, làm thi từ hay, thường xướng họa với bọn danh sĩ lúc bấy giờ như Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị, Đỗ Mục. . . lại biết chê giấy hoa tiên. Hiện giờ còn có cái giếng tên Tiệt Đào Tĩnh. Có độ năm trăm bài nho truyền ở đời.

Thôi Oanh Oanh: Con gái đời Đường. văn từ giỏi. Nguyên Chẩn làm bộ Hội Chân ký nói: "Cha Oanh Oanh chết sớm. Oanh Oanh theo mẹ về Trường An ở chùa Bồ đông phổ cứu, gặp Trương sinh thơ từ đi lại, tình yêu rất nồng nàn. Sau Vương Thực Phủ đời nhà Nguyên có làm ra vở hát Tây Sương ký truyền kỳ.

Triều Vân: Người đời Tống, là kỹ nữ ở Tiền Đường. Khi Tô Thức làm quan ở đấy, lấy làm nàng hầu, lúc trước thì chưa biết chữ nghĩa gì, sau nhờ có Tô Thức dạy bảo, biết làm thi từ, lại hiểu đạo Phật. Sau Tô Thức bị biếm ra Huệ Châu, đám tỳ thiếp bỏ cả, chỉ có một mình Triều Vân đi theo.

(7-). Chỗ này Tử Hưng muốn dẫn chứng lối đặt tên con gái của họ Giả không phải là theo lối cũ như Vũ Thôn vừa hỏi ở trên.

Hồi thứ ba

Nhờ anh vợ, Như Hải đền được ơn dạy bảo

Đón cháu ngoại, Giả mẫu xót thương trẻ mồ côi.

Vũ Thôn quay lại, thấy Trương Như Khuê, người vùng này, là bạn đồng liêu và cũng bị cách chức như mình. Từ ngày bị cách, y về ở nhà. Khi được tin tòa Trung Thư xin cho những người ấy được phục chức, y liền chạy vạy các nơi. Gặp Vũ Thôn, y vội lại chào và báo tin. Vũ Thôn mừng lắm, nói chuyện mấy câu rồi hai người từ giã chia taỵ Lãnh Tử Hưng biết chuyện, vội hiến một kế, bảo Vũ Thôn nhờ Lâm Như Hải nói giúp với Giả Chính ở trong kinh. Vũ Thôn lĩnh ý, từ biệt về nhà, tìm tờ quan báo xem thì quả có thực. Hôm sau hắn đem chuyện đó bàn với Lâm Như Hải. Như Hải nói:

- May quá! Từ khi nhà tôi mất, nhạc mẫu tôi ở Kinh thường lo cháu gái không ai trông nom, có lần đã cho người nhà mang thuyền đến đón. Nhưng vì cháu hãy còn mệt chưa đi được ơn ông dạy cháu bấy lâu, chưa biết lấy gì cảm tạ. Gặp dịp này lẽ nào tôi lại không hết lòng báo đáp. Xin ông cứ yên tâm. Tôi định viết thư nhờ ông anh vợ giúp đỡ, gọi là tỏ chút lòng thành. Trong thư tôi đã nói rõ cả rồi, có phí tổn gì ông cũng đừng nghĩ đến.

Vũ Thôn vái dài tạ Ơn luôn mồm, lại hỏi:

- Không biết lệnh thân hiện làm chức gì? Chỉ sợ tôi lỗ mãng không dám đến hầu.

Như Hải cười nói:

- Ông anh vợ tôi là cháu cụ Vinh công, kể ra cũng là một họ với ông đấy. Ông anh cả tên là Xá, tên chữ là An Hầu, hiện tập tước nhất đẳng tướng quân. Ông anh thứ hai tên là Chính, tên chữ là Tồn Chu, hiện làm viên ngoại lang bộ Công, là người khiêm cung phúc hậu, phong độ giống các cụ tôi trước, chứ không phải hạng phù hoa khinh bạc, nên tôi mới dám viết thư tiến cử ông. Nếu không, thì không những làm tổn thanh danh của ông, mà tôi cũng không thèm làm.

Vũ Thôn nghe xong, trong bụng tin ngày lời của Lãnh Tử Hưng, lại tạ Ơn Lâm Như Hải. Như Hải nói:

- Ngày mồng hai tháng sau, tôi sẽ cho cháu vào Kinh. Mời ông cùng đi, thật là lưỡng tiện.

Vũ Thôn vâng dạ, trong bụng rất mừng. Như Hải sửa soạn lễ vật tiễn hành.

Đại Ngọc, một cô học trò vừa yếu khỏi, không muốn xa cha, nhưng vì bà ngoại bắt phải vào. Lâm Như Hải dặn:

- Cha năm nay tuổi gần năm mươi, không muốn lấy vợ kế nữa. Vả tuổi con còn bé, ốm yếu luôn; trên không có mẹ dạy bảo, dưới không có chị em giúp đỡ. Bây giờ con vào nương nhờ bà ngoại, có các cậu mợ và các chị em, như thế cho cha đỡ phải lo, sao con lại không muốn đi?

Đại Ngọc nghe xong, gạt nước mắt từ biệt cha xuống thuyền, theo vú nuôi và các người ở Giả phủ đến đón. Vũ Thôn mang theo hai tiểu đồng ngồi ở một chiếc thuyền khác. Khi đến kinh đô, Vũ Thôn chỉnh tề áo mũ, mang theo tiểu đồng đưa danh thiếp vào trong phủ, xưng là cháu họ. Giả Chính xem thư của em rể xong, vội vàng mời vào. Giả Chính vốn quý mến người học thức, kính trọng hiền sĩ, cứu giúp người cùng túng, có phong độ hào phóng của tổ tiên ngày trước, nay thấy Vũ Thôn mặt mũi khôi ngô, ăn nói phong nhã nên ông ta càng biệt đãi và hết sức giúp đỡ hắn. Trong khi có bản đề cử, Giả Chinh cố chạy vạy cho Vũ Thôn được phục chức. Chưa đầy hai tháng, Vũ Thôn được bổ tri phủ Ứng Thiên ở Kim Băng. Vũ Thôn từ biệt Giả Chính chọn ngày đi nhận chức.

Đại Ngọc ở thuyền lên, đã có kiệu và xe chở hành lý của Vinh phủ ra đón. Đại Ngọc thường nghe mẹ kể nhà bà ngoại khác hẳn mọi nơi, nay thấy mấy người đến đón, tuy mới chỉ là người hạng ba, nhưng đều ăn mặc khác thường. Đại Ngọc nghĩ bụng: Ta đã đến đây, càng phải cẩn thận để ý luôn, nếu lơ một lời, sai một bước sẽ bị chê cười. Đại Ngọc lên kiệu vào thành, vén màn rừng ra, thấy phố đẹp, người đông, phồn thịnh rất mực. Đi một lúc lâu, trông thấy đường phía bắc có hai con sư tử đá quỳ, ba gian cổng chính có chạm đầu thú, trước cửa chừng mười người mũ áo chỉnh tề đứng xếp hàng. Cửa giữa không mở. Người ra vào đều đi hai cửa phía đông và tây. Trên cửa chính có một cái biển đề năm chữ to "Sắc tạo(#1) Ninh quốc phủ".

Đại Ngọc liền đoán: "Hẳn là nhà chi trưởng của bà ngoại ta đây". Lại đi sang phía tây một quãng không xa, cũng có ba gian cửa lớn, đây là phủ Vinh quốc. Mọi người cũng không đi cửa giữa mà đi vào phía tây. Đi một lát, đến chỗ rẽ thì hạ kiệu, và lùi ra. Những bà gìa theo hầu đều xuống kiệu, còn Đại Ngọc thì đổi người khác khiêng. Những người khiêng toàn là mũ áo chỉnh tề, trạc độ mười bảy, mười tám tuổi. Các bà hầu già đi bộ theo sau. Đến trước cửa có giàn hoa, kiệu đỗ xuống, bọn con trai đều lui ra, những bà hầu già mở rèm đỡ Đại Ngọc xuống.

Đại Ngọc vịn tay người hầu bước vào cửa hoa, hai bên có hai dãy hành lang, giữa là xuyên đường(#2). Ngay lối vào có một bức bình phong bằng đá Đại Lý(#3) đặt trên giá gỗ đàn hương. Qua bức bình phong, có ba gian nhỏ, sau là một tòa nhà lớn năm gian, xà cột chạm vẽ. Hai bên hành lang treo nhiều lồng chim anh vũ, họa mị Trên thềm, mấy a hoàn quần áo xanh đỏ ngồi chực. Thấy Đại Ngọc đến, bọn a hoàn liền đứng dậy niềm nở tiếp đón:

- Cô đến rất đúng, cụ(#4) vừa nhắc xong.

Rồi ba bốn người tranh nhau vén rèm. Nghe có người nói to: "Cô Lâm đã đến".

Đại Ngọc vừa bước vào nhà, thấy hai người đỡ một cụ già đầu bạc như tuyết, ra đón. Đại Ngọc biết ngay là bà ngoại, toan sụp xuống lạy, thì bà đã ôm ngay vào lòng kêu lên: "Ruột thịt của ta đây". Rồi khóc nức nở. Những người đứng hầu ai cũng sa nước mắt. Đại Ngọc cũng khóc, mọi người dần dần khuyên giải mới thôi. Đại Ngọc làm lễ chào bà ngoại, tức là bà mẹ Giả Chính mà Tử Hưng vẫn gọi là Sử thái quân. Giả mẫu trỏ từng người và bảo Đại Ngọc:

- Đây là mợ Cả(#5). Đây là mợ hai(#6). Đây là vợ anh Châu, chị dâu góa của cháu.

Đại Ngọc chào từng người một. Giả mẫu lại bảo:

- Đi mời các cộ Hôm nay có khách xa đến, nghỉ học cũng được

Mọi người vâng lời rồi đi.

Một chốc, thấy ba người vú, năm sáu a hoàn dẫn ba cô đến. Cô thứ nhất, người nở nang, tầm thước, nước da nõn nà, má đỏ hồng hào như quả vải tươi, mũi loáng như xoa mỡ, tính nết ôn hòa kín đáo, thoạt nhìn đã thấy mến. Cô thứ hai, vóc dáng tròn trặn, người dong dỏng cao, mặt trái xoan, mắt sắc, lông mày dài, nhìn ngắm tình tứ, thanh tú khác thường, trông như thoát hẳn trần tục. Cô thứ ba, ít tuổi, vóc người còn nhỏ. Ba cô quần áo trang sức đều như nhau. Đại Ngọc vội vàng đứng dậy chào hỏi. Chị em nhận nhau rồi đều về chỗ ngồi. A hoàn bưng nước trà lên. Mọi người thăm hỏi: Mẹ Đại Ngọc ốm đau làm sao, thuốc thang thế nào? Khi mất, tang lễ ra sao? Giã mẫu nghe vậy lại càng thương xót, nói:

- Trong mấy đứa con gái, ta thương nhất là mẹ cháu. Nay nó chết trước, không được gặp mặt, thấy cháu nhẽ nào ta không thương tâm!

Nói xong, lại bế Đại Ngọc vào lòng khóc nức nở. Mọi người vội vàng khuyên giải mới thôi.

Đại Ngọc tuy còn bé, nhưng ngôn ngữ cử chỉ đứng đắn. Người yếu như không mang nổi cái áo, nhưng có một vẻ yêu kiều yểu điệu riêng. Mọi người thấy thế, biết ngay là khi sinh ra khí huyết không đủ. Có người hỏi:

- Thường uống thuốc gì? Vì sao không kíp chữa đi?

Đại Ngọc nói:

- Cháu xưa nay vẫn thế. Từ khi mới biết ăn cơm, đã phải uống thuốc rồi. Qua nhiều thầy giỏi, kê đơn bốc thuốc, nhưng đều chưa thấy công hiệu. Nhớ năm cháu lên ba, có một nhà sư chốc đầu bảo cháu nên đi tụ Cha cháu không nghe. Nhà sư ấy lại nói: Đã không chịu rời nó ra thì nó sẽ ốm đau cả đời! Muốn cho nó khỏe, thì từ giờ trở đi, chớ để nó nghe tiếng khóc; trừ bố mẹ ra, những người thân thích bên ngoại đừng cho gặp ai. Như vậy may ra mới bình yên được". Những câu điên dại như thế chẳng ai buồn nghe cả. Hiện nay cháu đang uống thuốc nhân sâm dưỡng vinh".

Giả mẫu nói:

- Tốt đấy, ở đây bà cũng đang làm thứ thuốc ấy, bảo làm thêm một tễ cho cháu.

Nói chưa dứt lời đã nghe phía sau nhà có tiếng cười:

- Tôi đến chậm, không được ra đón khách.

Đại Ngọc lấy làm lạ, nghĩ bụng: "Ở đây ai cũng im hơi lặng tiếng, khép nép nghiêm trang, không biết người nào mà lại dám vô lễ, ăn nói bô bô như thế". Chợt thấy bọn hầu đỡ một người từ phòng sau lại. Người này trang sức không giống các cô kia, gấm thêu lộng lẫy, trông như một vị thần tiên! Trên đầu, đỡ tóc bằng kim tuyến xâu hạt châu, cài trâm ngũ phượng Triệu Dương(#7) đính hạt châu, cổ đeo vòng vàng chạm con ly, mình mặc áo vóc đại hồng chẽn thêu trăm bướm lượn hoa bằng chỉ kim tuyến, ngoài khoác áo màu xanh lót bằng lông chuột bạch viền chỉ ngũ sắc, mặc quần lụa hoa màu cánh trả; mắt phượng, mày cong lá liễu, khổ người óng ả, dáng điệu phong lưu, thật là: Mặt phấn đầy xuân trông vẻ dịu. Làn son chưa hé miệng như cười.

Đại Ngọc đứng lên chào. Giả mẫu cười nói:

- Cháu không nhận được chị này đâu. Nó là một con đanh đá trong nhà này đấy, tiếng Nam kinh gọi là "Lạt tử(#8), cháu cứ gọi "Phượng lạt tử" là được.

Đại Ngọc không biết xưng hô thế nào, các chị em bảo: "Vợ anh Liễn đấy".

Đại Ngọc chưa từng gặp mặt, nhưng đã nghe mẹ kể, anh Giả Liễn là con cậu Giả Xá, lấy cháu gái mợ Vương, từ bé thường giả làm trai, đi học, tên là Vương Hy Phượng. Đại Ngọc vội cười và chào bằng chị.

Hy Phượng cầm tay Đại Ngọc, nhìn kỹ một lúc rồi dắt đến cạnh Giả mẫu, cười nói:

- Trong thiên hạ lại có người đẹp như thế này! Bây giờ cháu mới được thấy! Trông hình dáng con người, ai cũng cho là cháu nội của bà, chứ không phải là cháu ngoại. Chả trách ngày nào bà cũng nhắc đến, chỉ đáng thương là em tôi vất vả, sao cô tôi lại mất sớm thế!

Nói xong lấy khăn mặt lau nước mắt. Giả mẫu cười nói:

- Ta vừa mới khuây đi, mày lại còn gợi ra. Em nó ở xa mới đến, người lại yếu, nên an ủi nó, đừng nói chuyện buồn nữa.

Vương Hy Phượng nghe xong, đổi buồn làm vui, nói:

- Phải đấy! Cháu vừa trông thấy, bụng để cả vào cô em, vừa vui vừa buồn, quên hẳn là. Đáng đánh đòn!

Rồi nắm tay Đại Ngọc nói:

- Em bao nhiêu tuổi? Đã đi học chưa? Hiện đang uống thuốc gì? Ở đây đừng nhớ nhà nhé! Muốn ăn gì, chơi gì em cứ bảo chị. Bọn người nhà có hổn láo thì mách chị.

Hy Phượng lại hỏi người nhà:

- Những hành lý của cô Lâm đã mang vào chưa? Cô Lâm mang mấy người theo hầu? Các người hãy dọn hai gian buồng cho họ vào nghỉ.

Đương nói chuyện thì mâm nước trà, hoa quả đã bưng lên. Hy Phượng tự tay bưng lên mời. Lại thấy Vương phu nhân hỏi:

- Tiền tháng đã phát xong chưa?

Hy Phương đáp:

- Xong rồi. Vừa rồi con mang người lên lầu tìm mấy tấm đoạn, mãi không thấy. Hôm qua con thấy mẹ(#9) nhắc đến, chỉ sợ mẹ nhớ nhầm.

Vương phu nhân nói:

- Có thấy hay không cũng chẳng can chi, nhân tiện lấy ra vài tấm đưa may quần áo cho cháu Lâm. Chiều nay để ta nhớ lại xem rồi sẽ cho người đi lấy.

Hy Phượng nói:

- Con đã nghĩ trước rồi, biết em Lâm trong vài ngày sẽ đến, nên sửa soạn sẵn cả, đợi mẹ xem rồi đưa đi may.

Vương phu nhân cười gật đầu.

Trà nước xong, Giả mẫu sai hai bà già đưa Đại Ngọc đi chào hai cậu. Bấy giờ vợ Giả Xá là Hình phu nhân đứng ngay dậy, cười nói:

- Để con đưa cháu về cho tiện.

Giả mẫu cười:

- Phải đấy! Con đưa cháu đi, không phải trở lại nữa.

Hình phu nhân vâng lời, chào Vương phu nhân rồi dẫn Đại Ngọc đi. Mọi người tiễn đến xuyên đường. Ra tới cửa hoa, ở đấy đã có mấy người kéo một cỗ xe màu xanh cánh trả chờ sắn. Hình phu nhân dắt Đại Ngọc lên ngồi, mấy bà hầu già buông rèm xuống rồi người hầu đẩy xe đi. Đến chỗ rộng mới đóng ngựa vào. Xe ra cửa tây, rẽ sang đông, qua cửa chính Vinh phủ, vào trong cửa lớn sơn đen, đến trước nghi môn thứ hai thì đỗ lại. Mọi người lùi ra, rèm xe vén lên. Hình phu nhân dắt Đại Ngọc bước vào trong dinh. Đại Ngọc đoán những nhà vừa đi qua tất là vườn hoa trong Vinh phủ. Vào nghi môn thứ ba, quả nhiên thấy phòng chính, phòng bên, hành lang, đều chạm vẽ tinh vi khác với vẻ cao rộng hùng vĩ ở mé ngoài. Trong dinh, chỗ nào cũng có cây cảnh núi non rất đẹp. Khi vào đến nhà chính đã thấy nhiều a hoàn và người hầu ăn mặc lịch sự ra đón.

Hình phu nhân bảo Đại Ngọc ngồi rồi cho người ra thư phòng mời Giả Xá. Một lát, người đi mời trở lại thưa:

- Ông truyền: Mấy hôm nay trong người không được khỏe, nếu gặp cô Lâm thì hai cậu cháu đều thương tâm, nên để sau sẽ gặp. Ông khuyên cô khôn nên nhớ nhà, ở với bà và cái mợ cũng như ở nhà. Các chị em ở đây tuy vụng dại, nhưng làm bầu làm bạn với nhau cũng có thể giải buồn. Nếu có điều gì không vừa ý thì cứ nói, đừng làm như người lạ.

Đại Ngọc vội đứng dậy xin vâng. Ngồi một lúc rồi cáo từ. Hình phu nhân cố giữ lại ăn cơm. Đại Ngọc cười thưa:

- Mợ có lòng yêu cho ăn, cháu không dám tử chối. Nhưng cháu còn phải đi chào cậu Hai, đến chậm sợ thất lễ. Ngày khác cháu sẽ đến hầu cơm, xin mợ lượng thứ cho.

Hình phu nhân nói:

- Thôi được.

Rồi bảo hai bà già đẩy cái xe lúc nãy đưa về. Đại Ngọc chào rồi đi ra. Hình phu nhân đưa đến trước nghi môn, dặn bảo mọi người mấy câu, nhìn xe đi khỏi mới quay vào.

Đi một lúc đến Vinh phủ, Đại Ngọc xuống xe. Người hầu dẫn Đại Ngọc đi quay về phía đông, qua xuyên đường, sau nhà lớn hướng nam, trong cửa nghi môn, có một dinh tọ Đằng trước là nhà chính, có năm gian rộng, hai bên là hai dãy buồng, cửa nách hành lang, từ nhà nọ sang nhà kia thông suốt bốn mặt ngang dọc rộng rãi, tráng lệ nguy nga, khác hẳn chỗ ở của Giả mẫu. Đại Ngọc biết ngay chỗ này là nhà trong. Một con đường rộng rãi, đi thẳng đến cửa lớn. Bước lên thềm, ngẩng trông thấy ngay một cái biển lớn sơn xanh chạm chín con rồng thiếp vàng, trên khắc ba chữ to "Vinh hy đường"(#10) bên cạnh có một hàng chữ nhỏ đề ngày tháng vua viết ban cho Vinh quốc công là Giả Nguyên, có cả ấn "Vạn cơ thần hàn"(#11). Trên cái án thư gỗ đàn hương chạm con li, đặt một cái đỉnh đồng cổ, cao gần ba thước, trên treo một bức vẽ long ám lớn có đề bốn chữ "đãi lậu tùy triều"(#12). Một bên bày cái chậu pha lê, một bên bày cái bình vàng chạm. Dưới đất đặt hai hàng mười sáu cái ghế gỗ nam, có một đôi câu đối khắc chữ vàng:

Chậu ngọc trên lầu trông chói lọi;

Ái xiêm ngoài của bóng huy hoàng.

Dưới có lạc khoản. "Em thế nghị là Mục Thời, tập tước Đông An Quận Vương, tự tay viết".

Ngày thường Vương phu nhân không hay ở phòng giữa, chỉ ở ba gian phía đông bên cạnh. Vì thế người hầu già dẫn Đại Ngọc vào cửa buồng bên đông. Trên bục lớn, trông ra cửa sổ, rải một tấm thảm nhung đỏ, giữa đặt gối tựa bằng vóc đại hồng, gối đầu bằng vóc màu thạch thanh và đệm vóc màu vàng đều thêu kim tuyến; hai bên đặt một đôi kỷ nhỏ sơn đen kiểu hoa mai; kỷ bên trái bày một cái đỉnh "Văn chương" hộp đựng hương và thìa đũa; kỷ bên phải bảy một cái bình "Mỹ nhân" bằng sứ Như Châu, cắm hoa tươi. Dưới đất phía tây bày bốn ghế tựa to, có đệm vóc hoa, dưới ghế có cái kê chân; hai bên ghế có một đôi kỷ cao , trên có đủ đồ chê, lọ hoa. Còn nhiều đồ trần thiết không kể xiết.

Một bà hầu già mời Đại Ngọc ngồi trên bục, có hai đệm gấm rải đối nhau. Đại Ngọc đoán chừng, ngồi đây không tiện, nên sang ngồi ghế mé đông. A hoàn mời nước trà. Đại Ngọc vừa uống, vừa ngắm bọn a hoàn, thấy trang sức, cử chỉ khác hẳn mọi người.

Uống nước trà xong, có một a hoàn mặc áo lụa đỏ sau vai viền chỉ xanh, chạy lại cười nói:

- Bà Hai(#13) mời cô vào trong này.

Bà hầu già dẫn Đại Ngọc vào ba gian phòng phía đông. Trên giường đặt một cái kỷ; trên mặt kỷ để cỗ đồ chè, mấy bộ sách; ở sát tường phía đông có đặt một cái gối tựa bằng đoạn, xanh hơi cũ.

Vương phu nhân ngồi cuối mé bên tây, nệm ngồi và gối tựa lưng đều bọc đoạn xanh, hơi cũ. Thấy Đại Ngọc đến, Vương phu nhân mời ngồi lên nệm bên đông. Đại Ngọc đoán đó là chỗ ngồi của Giả Chính. Nhân thấy cạnh bục có một hàng ba cái ghế phủ vóc hoa hơi cũ bèn ngồi ngay xuống. Vương phu nhân hai ba lần kéo lên ngồi trên bục, Đại Ngọc mới chịu lên ngồi cạnh Vương phu nhân. Vương phu nhân nói:

- Cậu cháu hôm nay bận trai giới. Hôm sau sẽ gặp. Mợ có một điều dặn cháu: ba chị em cháu ở đây đều tốt cả. Từ nay về sau, các cháu ở một chỗ với nhau, đọc sách, tập viết, học khâu, học thêu, hoặc lúc chơi đùa, chúng nó điều biết điều cả. Chỉ có một việc là mợ không được yên lòng: mợ có một đứa con ngỗ nghịch, nó là ma vương nhà này. Hôm nay nó ra miếu lễ chưa về, chiều cháu gặp nó sẽ biết. Có điều gì cháu cứ mặc kệ nó. Các chị em ở đây không ai dám dây với nó cả.

Đại Ngọc vẫn thường nghe mẹ nói: có một anh ngoại con mợ Hai, khi mới đẻ ra ngậm hòn ngọc, ngỗ nghịch lạ thường, rất ghét đọc sách, chỉ hay quấy rối đám đàn bà con gái; bà lại quá nuông, nên không ai dám động đến. Nay thấy Vương phu nhân dặn thế, Đại Ngọc hiểu ngay, liền cười nói:

- Mợ vừa nói đây, có phải là anh mới sinh ra đã ngậm ngọc không? Ở nhà mẹ cháu thường nhắc đến, anh ấy lớn hơn cháu một tuổi, tên là Bảo Ngọc, tính bướng bỉnh, nhưng đối với chị em lại rất tốt. Vả cháu đến đây, tất nhiên là cùng các chị em ở chung một chỗ, còn các anh thì ở phòng khác, chắc không thể xảy ra chuyện gì.

Vương phu nhân cười nói:

- Cháu chưa biết rõ, nó khác hẳn mọi người. Từ bé nó được bà yêu, cho ở chung với các chị em, được nuông chiều quen rồi. Các chị em cứ để mặc nó, thì nó mới chịu ngồi yên. Dù nó có buồn, chẳng qua chỉ ra đến cửa ngoài, ngấm ngầm bực dọc với mấy đứa trẻ, lủng bủng một lúc là xong. Nếu các chị em bắt lời, nó vui lên thì sinh nhiều chuyện lắm. Vì thế mợ dặn cháu trước cứ mặc kệ nó. Nó lúc thì nói ngon nói ngọt, lúc thì coi trời bằng vung, lúc thì điên điên dại dại, cháu đừng tin nó.

Đại Ngọc nhất nhất xin vâng. Chợt một a hoàn đến nói:

- Bên cụ đã gọi ăn cơm chiều.

Vương phu nhân vội dắt Đại Ngọc ra cửa buồng sau. Qua hành lang rẽ sang mé tây ra khỏi cửa bên là con đường rộng. Mé nam có ba gian nhà nhỏ vòng quanh nhà lớn mé bắc có một bức tường quét vôi trắng; phía sau là một cái cửa khá to và một ngôi nhà nhỏ xinh xắn. Vương phu nhân cười bảo Đại Ngọc:

- Đây là nhà chị Phượng. Lúc trở về, cháu vào chơi có cần cái gì, cứ bảo chị ấy.

Đến ngoài cửa dinh, có mấy tiểu đồng tóc để trái đào, chắp tay đứng hầu. Vương phu nhân dắt Đại Ngọc đi qua xuyên đường, từ đông sang tây, thì đến nhà trong của Giả mẫu, rồi vào cửa buồng sau. Ở đây đã có nhiều người chờ. Thấy Vương phu nhân đến, họ mới dọn bàn ghế. Vợ Giả Châu là họ Lý rót rượu, Hy Phượng so đũa, Vương phu nhân dâng đồ ăn. Giả mẫu ngồi một mình trên sập, hai bên có bốn ghế bỏ không, Hy Phượng vội dắt Đại Ngọc ngồi ghế thứ nhất bên trái, Đại Ngọc nhất định từ chối, Giả mẫu cười bảo:

- Các mợ và các chị dâu cháu đều không ăn cơm ở đây. Cháu là khách, nên ngồi chỗ ấy.

Đại Ngọc mới xin phép ngồi. Giả mẫu bảo Vương phu nhân ngồi. Ba chị em Nghênh Xuân xin phép ngồi. Nghênh Xuân ngồi ghế thứ nhất bên phải; Thám Xuân ngôi ghế thứ hai bên trái; Tích Xuân ngồi ghế thứ ba, bên phải, A hoàn đứng bên cầm phất trần, ống nhồi khăn taỵ Lý Hoàn, Phượng Thư đứng cạnh bàn tiếp thức ăn; bên ngoài tuy nhiều người hầu, nhưng đều im lặng không có một tiếng họ Ăn xong mỗi người có một a hoàn dâng trà. Ngày thường nhà họ Lâm dạy con giữ gìn sức khỏe, ăn cơm xong một lúc mới uống nước, để khỏi hại tỳ vị. Bây giờ Đại Ngọc thấy cách ăn uống ở đây khác với nhà mình, nhưng cũng phải theo, vừa cầm chén trà, đã có người bưng ống nhổ đến. Đại Ngọc súc miệng, rửa tay xong, lại có ngươi bưng trà lên, lần này mới là nước uống.

Giả mẫu nói:

- Ai ở đâu về đấy, để bả cháu ta trò chuyện.

Vương phu nhân đứng dậy nói mấy câu rồi dẫn Lý Hoàn, Hy Phượng đi ra. Giả mẫu hỏi Đại Ngọc học sách gì? Đại Ngọc thưa: "Mới học tứ thư". Đại Ngọc hỏi các chị em ở đây học sách gì: Giả mẫu nói: "Đã học được gì đâu, chẳng qua mới biết mặt mấy chữ".

Nói chưa dứt lời, thấy bên ngoài có tiếng người đi. A hoàn vào báo: "Cậu Bảo Ngọc đã về". Đại Ngọc nghĩ bụng: "Chả biết cái anh Bảo Ngọc này là người bướng bỉnh hồ đồ thế nào, thà chẳng gặp của ngốc ấy còn hơn". Khi vào, thoạt nhìn thì thấy một thanh niên công tử: đầu đội mũ kim quan dát ngọc, khăn bịt trán có đính hai con rồng bằng vàng vờn hạt châu, mặc áo chẽn màu đại hồng thêu trăm con bươn vờn hoa, thắt lưng dây tơ ngũ sắc tết hoa, áo khoác ngoài bằng đoạn hoa màu thạch thanh, đi đôi hài bằng đoạn xanh, đế trắng, mặt như trăng rằm mùa thu, sắc như hoa xuân buổi sớm, mái tóc bằng như dao xén, lông mày rõ như mực kẻ, má như cánh hoa đào, mắt như làn sóng gợn. Lúc giận cũng như cười, dù trừng mắt vẫn có tình tứ. Cổ đeo khánh vàng chạm con ly và một dây ngũ sắc buộc viên ngọc.

Đại Ngọc trông thấy, choáng người lên, nghĩ bụng: "Lạ thật! Hình như ta đã gặp ở đâu rồi, sao quen mặt thế!".

Bảo Ngọc vào chào, Giả mẫu liền bảo:

- Hãy về chào mẹ cháu đã.

Bảo Ngọc quay ra ngaỵ Một lúc trở lại, đã thay cả mũ áo. Xung quanh đầu, tóc ngắn tết thành búi nhỏ buộc dây tơ đỏ, tất cả vấn lên đỉnh đầu trở xuống cài bốn hạt châu lớn, phía dưới lại đeo bát bảo bằng vàng dát ngọc, mình mặc áo hoa màu ngân hồng hơi cũ, cổ đeo vòng vàng, ngọc quý, khóa ký danh(#14) và bùa hộ thân, mặc quần lụa hoa màu lá thông, đi bí tất gấm viền đen, hài đỏ đế dày; lại rõ ra mặt phấn môi son, nhìn liếc có duyên, nói năng tươi tỉnh, đầu mày cuối mặt, có một vẻ thiên nhiên, trông rất tình tứ. Bề ngoài nhìn rất đẹp, nhưng không biết bên trong thế nào. Người sau có hai bài từ Tây giang nguyệt(#15). Bình luận Bảo Ngọc rất xác đáng.

Bỗng chốc mua sầu chuốc não.

Lắm khi như dại như ngây.

Ngoài mặt mặc dù thanh tú,

Trong lòng rác rưởi chứa đầy.

Đần độn học hành lười biếng,

Việc đời chẳng biết dở hay.

Việc làm ngang trái, tính ương gàn,

Quản chi miệng người chê trách !

Nghèo khó không quen vất vả,

Giàu sang chỉ thích ăn chơi.

Đối với người nhà, vô ích,

Tiếc thay bỏ phí một đời.

Thiên hạ vô tài bậc nhất,

Xưa nay bất tiếu không hai.

Nhắn cùng con cháu bọn giàu sang.

Nhìn đấy chớ nên bắt chước!

Giả mẫu thấy Bảo Ngọc đến, cười bảo:

- Chưa chào khách đã thay quần áo, sao cháu không ra

chào cô em đi?

Bảo Ngọc trông thấy một cô gái, đoán ngay là con cô mình, vội vàng đến chào. Ngồi xuống nhìn kỹ, khác hẳn các cô gái. Chỉ thấy:

Đôi lông mày điểm màu khói lạt, dường như cau mà lại không cau; đôi con mắt chứa chan tình tứ, dáng như vui mà lại không vui. Má hơi lúm, có vẻ âu sầu; Người hơi mệt trông càng tha thướt. Lệ rớm rưng rưng, hơi ra nhè nhẹ. Vẻ thư nhàn, hoa rọi mặt hồ; dáng đi đứng, liễu nghiêng trước gió. Tim đọ Tỉ Can(#16) hơn một trăm khiếu, bệnh so Tây Tứ(#17) trội vài phân.

Bảo Ngọc nhìn rồi cười nói:

- Hình như tôi đã được gập cô em lần nào rồi.

Giả mẫu cười:

- Lại nói nhảm, đã gặp lần nào đâu?

Bảo Ngọc cười nói:

- Tuy chưa gặp, nhưng trông mặt quen lắm, cũng coi như đã gặp nhau rồi.

Giả mẫu cười nói:

- Tốt lắm! Thế thì lại càng tử tế với nhau.

Bảo Ngọc chạy đến ngồi cạnh Đại Ngọc, ngắm nghía lần nữa, rồi hỏi:

- Cô em đã học sách chưa?

- Em chưa đọc sách, mới học một năm, biết mấy chữ thôi.

- Tên cô em là gì?

- Tên là Đại Ngọc.

- Tên chữ là gì?

- Em không có tên chữ.

Bảo Ngọc cười nói:

- Anh đặt tên cho em là Tần Tần nhé, hai chữ đó rất hay.

Thám Xuân hỏi:

- Hai chữ ấy xuất xứ ở đâu?

Bảo Ngọc nói:

- Cổ kim nhân vật khảo có câu: Phương tây có thứ đá tên là đại, có thể dùng để kẻ lông mày. Huống chi cô em đầu lông mày nhìn như cau lại, đặt cho cái tên ấy chẳng đẹp lắm sao.

- Chỉ sợ lại bịa ra thôi.

- Trừ Tứ Thư ra, còn phần nhiều là bịa cả, chẳng phải một mình tôi.

Lại quay hỏi Đại Ngọc:

- Em có ngọc không?

Mọi người không ai hiểu tại sao Bảo Ngọc lại hỏi thế, Đại Ngọc trong bụng đoán ngày: "Chắc anh ấy có ngọc, nên mới hỏi mình", liền trả lời:

- Em không có ngọc. Thứ ngọc của anh là vật rất hiếm, phải đâu người nào cũng có.

Bảo Ngọc nghe vậy, nổi ngay cơn điên, dứt viên ngọc vứt phăng đi, la ầm lên:

- Vật này hiếm gì mà hiếm! Không phân biệt được người hơn kém, thế thì bảo nó thiêng hay không thiêng! Tôi không cần cái thứ vô dụng này

Mọi người sợ hãi, xô nhau lại nhặt viên ngọc. Giả mẫu vội vàng lôi Bảo Ngoé lại mắng:

- Của nợ này! Mày có nổi hung lên, muốn đánh ai, mắng ai thì cứ việc đánh, cứ việc mắng, làm gì phải vứt cái bản mệnh của mày đi!

Bảo Ngọc nước mắt giàn giụa nói:

- Các chị em trong nhà không ai có; chỉ một mình cháu có cũng chẳng thú gì. Ngay cô em mới đến đây, người đẹp như tiên mà cũng không có, càng biết cái này chẳng quý hóa gì.

Giả mẫu nói dối:

- Em cháu ngày trước cũng có. Vì lúc cô cháu sắp mất, thương em cháu quá, không biết làm thế nào, mới lấy viên ngọc mang đi, một là chôn viên ngọc theo để hết cái lòng hiếu của em cháu, hai là nhờ có viên ngọc mà âm linh cô cháu cũng xem như được thấy em cháu luôn. Vì thế em cháu nói không có ngọc là có ý không tiện khoe khoang đấy thôi. Cháu bì sao được với em cháu. Nếu cháu không đeo tử tế vào, mẹ cháu biết thì coi chừng đấy.

Giả mẫu nói xong, cầm lấy viên ngọc ở trong tay a hoàn đeo cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc ngẫm nghĩ một lúc thấy cũng có lý nên không nói gì nữa.

Ngay lúc ấy, người vú lại hỏi dọn buồng nào cho Đại Ngọc ở Giả mẫu nói:

- Dọn cho Bảo Ngọc đến ở Noãn Các(#18) với ta; để cháu Lâm tạm ở buồng Bích Sa, chờ hết đông sang xuân sẽ thu xếp lại.

Bảo Ngọc nói:

- Thưa bà, để cháu ngủ cái giường ở bên ngoài buồng Bích Sa thì hơn, việc gì phải đến ngủ gần bà, làm bà không được yên tĩnh.

Giả mẫu nghĩ một lúc, nói:

- Thôi cũng được.

Mỗi người có một vú già và một a hoàn phục dịch, còn thì ở cả bên ngoài trực đêm. Hy Phượng đã sai người mang cỗ màn màu cánh sen, nhăn gấm và đệm đoạn đến.

Đại Ngọc chỉ mang có hai người theo hầu: vú nuôi họ Vương và con bé mười tuổi tên là Tuyết Nhạn. Giả mẫu thấy Tuyết Nhạn bé quá, vú Vương già quá, sợ Đại Ngọc không vừa ý mới cho thêm một a hoàn hạng nhì của mình tên là Anh Ca, cũng như chị em Nghênh Xuân, trừ vú nuôi ra, mỗi người có bốn bà già giúp việc. Ngoài hai a hoàn theo hầu bên cạnh để trông nom trâm, vòng, tắm rửa, còn bốn, năm người quét dọn và sai vặt. Vú Vương cùng Anh Ca hầu Đại Ngọc phía trong buồng Bích Sạ Vú Lý nuôi Bảo Ngọc cùng a hoàn lớn là Tập Nhân hầu Bảo Ngọc ở bên ngoài.

Nguyên Tập Nhân là người hầu của Giả mẫu, tên là Trân Châu. Giả mẫu vì quá yêu Bảo Ngọc, sợ những người hầu khác không được vừa ý, thấy Tập Nhân hiền lành, làm việc chăm chỉ, mới cho sang hầu Bảo Ngọc. Bảo Ngọc biết Tập Nhân họ Hoa, lại từng nghe cổ nhân có câu thơ: "Hoa khí tập nhân"(#19), mới trình Giả mẫu cho đổi tên là Tập Nhân.

Tập Nhân xưa nay vốn có tính ngây thợ Khi hầu Giả mẫu, thì trong bụng chỉ biết Giả mẫu; đến nay sang hầu Bảo Ngọc, lại chỉ biết có Bảo Ngọc. Vì tính tình Bảo Ngọc ngang trái, mỗi khi Tập Nhân can gián, thấy Bảo Ngọc không nghe, trong bụng rất lo lắng. Tối hôm ấy, Bảo Ngọc và vú Lý đã ngủ rồi, Đại Ngọc và Anh Ca ở tròng buồng hãy còn thức, Tập Nhân cỡi trang sức ra, khe khẽ đi vào, cười hỏi:

- Cô sao chưa đi ngủ?

Đại Ngọc vội cười nói:

- Mời chị ngồi.

Tập Nhân ngồi ghé bên giường. Anh Ca cười nói:

- Cô tôi đang buồn rầu, gạt nước mắt nói: "Hôm nay mới đến đã làm anh ấy phát cáu lên. Nếu đập vỡ viên ngọc, há chẳng phải là lỗi ở ta sao?" Tôi khuyên giải mãi mới thôi.

Tập Nhân nói:

- Cô đừng vội như thế, sau này còn nhiều việc kỳ quặc đáng buồn cười hơn nữa kia. Nếu vì việc này mà cô để tâm thì có lẽ sau không bao giờ hết buồn đâu. Thôi xin cô đừng nghĩ nhiều quá!

Đại Ngọc nói:

- Chị nói tôi xin nhớ. Nhưng không biết viên ngọc đó lai lịch như thế nào mà có cả chữ nữa.

Tập Nhân nói:

- Cả nhà chẳng ai biết rõ lai lịch cả. Nghe đâu khi mới đẻ, trong mồm cậu ấy đã ngậm viên ngọc và bên trên có lỗ đeo. Để tôi lấy ra cho cô xem.

Đại Ngọc vội ngăn lại:

- Thôi! Đêm khuya rời, mai lấy xem cũng chưa muộn.

Hai người nói chuyện một lúc mới đi ngủ.

Sáng sớm hôm sau Đại Ngọc thức dậy, vào thăm Giả mẫu rồi sang nhà Vương phu nhân. Gặp lúc Vương phu nhân cùng Hy Phương đang bóc thư ở Kim Lăng gởi sang, lại có hai bà già của anh và chị dâu Vương phu nhân sai đến. Đại Ngọc tuy không biết đầu đuôi câu chuyện, nhưng bọn Thám Xuân thì đều biết là con nhà dì tên gọi Tiết Bàn ở Kim Lăng, cậy giàu cậy thế đánh chết người, việc này đã đưa lên phủ Ứng Thiên, đến nay em Vương phu nhân là Vương Tử Đằng mới biết tin, sai người sang báo, ý muốn gọi Tiết Bàn vào Kinh.

Chú thích:

(1-). Theo chiếu chỉ của nhà vua cho xây nên.

(2-). Nhà để đi qua bốn mặt không có cửa.

(3-). Tên một huyện thuộc tỉnh Vân Nam có thứ đá hoa rất đẹp.

(4-). Tức Giả mẫu.

(5-). Tức Hình phu nhân.

(6-). Tức Vương phu nhân.

(7-). Năm chim phượng đậu núi Triệu Dương.

(8-). Tay sắc sảo, đanh đá.

(9-). Vương phu nhân là cô Phượng Thư, về họ nhà chồng, bà ta là thím Phượng Thư nhưng Phượng Thư lại sang ớ trông coi bên nhà Vương phu nhân, nên thườn gọi bà ta là thái thái. Chúng tôi tạm dịch là mẹ.

(10-). Hưởng phúc sung sướng.

(11-). Vạn cơ là muôn việc. Thần hàn là chữ của vua viết.

(12-). Chờ đợi giờ để theo các quan vào chầu.

(13-). Tức Vương phu nhân.

(14-). Theo tục ngữ ngày xưa, muốn cho trẻ con khôi chết non, người ta thường đem cúng vào đền chùa xin làm con nuôi thần phật và đeo cái khóa ở cổ để Bản mệnh trường sinh.

(15-). Tên một từ chức đặt ra từ đời Đường.

(16-). Ti Can là chú vua Trụ đời Ân, đời đồn tim ông có chín khiếu.

(17-). Tích Tây Thi, một cô gái nước Việt. Vua Việt Câu Tiễn dâng lên làm vợ vua Ngô.

(18-). Nhà gác xây kín có lò sưởi ấm.

(19-). Mùi hoa thơm trùm phủ cả người.

Hồi thứ tư

Gái bạc mệnh gặp trai bạc mệnh;

Sư Hồ lô xử án Hồ lô.

Đại Ngọc cùng các chị em đến chỗ Vương phu nhân, thấy Vương phu nhân đang nói chuyện với người nhà của anh sai đến, lại nghe nói bên nhà dì bị kiện về vụ án mạng. Thấy Vương phu nhân đương bận việc, các chị em đều đi ra, đến buồng chị dâu góa họ Lý.

Nguyên họ Lý là vợ Giả Châu. Giả Châu chết sớm, có đứa con trai tên là Giả Lan, lên năm tuổi, đã đi học. Họ Lý cũng là con nhà danh hoạn đất Kim Lăng, bố là Lý Thủ Trung là Quốc tử Tế tửu. Trong họ, con trai, con gái đều được đi học. Đến đời Lý Thủ Trung thì cho "con gái bất tài, ấy là đức". Vì thế, ông ta không cho con gái đi học đến nơi đến chốn, chỉ cho đọc "Nữ tứ thư" , "Liệt nữ truyện" để biết một số chữ, nhớ một số truyện hiền nữ đời trước là đủ, cốt sao chú trọng về thêu thùa canh cửi và việc vặt mà thôi. Nhân vậy đặt tên con là Lý Hoàn, tên chữ là Cung Tài. Lý Hoàn trẻ tuổi, góa chồng, mặc dầu ở chỗ cao lương gấm vóc, nhưng lòng lạnh như tro tàn, cây cỗi, hết thảy không buồn hỏi, không buồn nghe việc gì ; chỉ biết hầu bố mẹ chồng, nuôi con, lúc rỗi thì khâu vá, đọc sách với các cô em. Nay biết Đại Ngọc đến đây, nhưng chắc đã có mấy chị em hầu bạn, nên ngoài việc thờ phụng cha già ra, chị ta không còn nghĩ đến việc gì nữa.

Nay nói đến Giả Vũ Thôn vừa mới đến nhận chức tri phủ Ứng Thiên đã phải xử ngay một vụ án mạng. Nguyên do là hai nhà mua tranh nhau một nữ tỳ, rồi không bên nào nhường bên nào, đến nỗi xảy ra đánh nhau chết người. Vũ Thôn đòi nguyên cáo đến hỏi. Nguyên cáo nói:

- Người bị đánh chết là chủ tôi. Chủ tôi mua một nữ tỳ, không ngờ có kẻ lừa đảo lại đem người đi bán. Nó đã lấy tiền của nhà tôi. Chủ tôi hẹn ba ngày nữa là ngày tốt, sẽ đón về. Nó lại ngấm ngầm đem người bán cho nhà họ Tiết. Chúng tôi biết chuyện đi tìm nó và bắt nữ tỳ về. Ngờ đâu nhà họ Tiết là ác bá ở đất Kim Lăng, cậy tiền cậy thế, xui người nhà đánh chết chủ tôi rồi thầy trò trốn biệt, không biết đi đâu, chỉ còn lại có mấy người ngoài cuộc thôi. Việc này tôi đã thưa lên quan một năm rồi, nhưng không ai bênh vực cho; nay trông ơn cụ lớn nã bắt hung phạm, cứu vớt mẹ góa con côi thì người mất cũng được đội ơn trời đất mãi mãi

Vũ Thôn nghe xong, cả giận nói:

- Sao lại có việc chó má như thế? Đánh chết người rồi chạy trốn, lẽ nào lại không bắt được hay sao!

Y định phát thê bài, sai người lập tức đi bắt gia thuộc hung phạm đến tra xét phạm nhân trốn ở đâu. Một mặt, y gửi công văn truy nã khắp các nơi. Chợt thấy một người lính hầu đứng cạnh bàn đưa mắt ngăn y đừng phát thẻ bải. Vũ Thôn trong bụng nghi hoặc, dừng ngay tay lại, truyền lệnh tan hầu. Y vào nhà trong, bảo mọi người lui ra, chỉ để anh lính ở lại. Anh lính vội tiến lên chào hỏi:

- Cụ lớn bấy lâu thăng quan tiến chức, tám chín năm nay, hẳn đã quên tôi rồi?

Vũ Thôn nói:

- Ta trông anh quen lắm, nhưng không nghĩ ra được là ai?

Anh lính cười nói:

- Cụ lớn thật là người sang quên mọi việc. Quên cả nơi xuất thân khi xưa. Cụ còn nhớ việc ở miếu Hồ lô năm trước không?

Vũ Thôn nghe xong, như sét đánh bên tai, mới nghĩ đến việc trước. Người lính này nguyên là một chú tiểu ở miếu Hồ lô. Sau khi miếu bị cháy, không chỗ nương thân, anh ta định tìm đến tu ở miếu khác. Nhân nghĩ tuổi còn trẻ, làm nghề này lại nhẹ nhàng thoải mái hơn, anh ta liền để tóc ra làm lính hầu. Vũ Thôn nhận ra, vội cầm lấy tay anh lính cười nói: "À thế ra anh là người cũ". Nhân bảo anh ta ngồi nói chuyện. Anh lính không dám ngồi. Vũ Thôn cười nói:

- Anh là bạn cũ, người bạn thủa nghèo hèn của ta, vả lại đây là nhà tư, anh định nói chuyện lâu thì có ngồi cũng chẳng sao.

Anh lính rụt rè ngồi ghé một bên.

Vũ Thôn hỏi:

- Vì cớ gì vừa rời anh ngăn ta đừng phát thẻ bài?

Anh lính nói:

- Cụ đến nhận chức ở đây, có nhẽ nào lại không có một bản "hộ quan phù" của tỉnh này.

Vũ Thôn vội hỏi:

- Tôi chưa biết thế nào là "hộ quan phù"

Anh lính nói:

- Việc này cụ không biết thì làm quan lâu dài ở đây sao được. Hiện nay các quan địa phương ai cũng có một cái sổ riêng, chép rõ họ tên những nhà thân hào lớn, có tiền, có thế trong tỉnh. Ở đâu cũng thế, nếu không biết, nhỡ xúc phạm đến người nhà những bọn này, thì không những quan tước, mà cả đến tính mệnh cũng khó giữ được! Vì thế gọi là "hộ quan phù". Vừa rồi nói đến nhà họ Tiết, cụ gây chuyện thế nào được với họ? Cái án này thực ra chẳng có gì là khó xử. Các quan phủ trước chỉ vì nể mặt họ mà không xử đấy thôi.

Nói xong, anh ta móc túi lấy ra một tờ "hộ quan phù", đưa cho Vũ Thôn. Khi xem thấy có mấy câu tục ngữ cửa miệng về những nhà quyền quí ở địa phương. Câu nào câu nấy viết rất rõ ràng, bên dưới lại có ghi cả từ ông thủy tổ, quan tước và chi nhánh nữa. Ở hòn đá cũng sao lại một bản như sau:

Giả không phải là giả dối, ngọc làm nhà ở, vàng làm ngựa cưỡi (Con cháu Ninh công Vinh công cộng hai mươi chi. Tám chi họ gần ở kinh đô, mười hai chi ở nguyên quán).

Cung A phòng(1) xây lên ba trăm dặm đã đủ chưa? Họ Sử đất Kim Lăng vẫn ở không vừa. (Con cháu Bảo linh hầu Thượng lệnh sử công cộng mười tám chi. Mười chi ở kinh đô, tám chi ở nguyên quán).

Vua Đông Hải thiếu ngọc trắng làm giường, phải đến vay Kim Lăng vương. (Con cháu Đô thái úy, Thống chế huyện bá vương công cộng hai mươi chi. Hai chi ở kinh, còn ở nguyên quán)

Được mùa tuyết lã chã rơi, ngọc châu như đất, vàng thời sắt thoi. (Con cháu Tử vi xá nhân Tiết công, hiện lĩnh tiền khi đi mua hàng, có tám chi).

Vũ Thôn đang xem, chợt trống báo: "Có cụ Vương lại thăm". Vũ Thôn vội mặc áo mũ ra đón. Một lúc lâu, hắn trở vào, hỏi lại. Anh lính thưa:

- Bốn nhà này đều đi lại thân mật với nhau, khổ cùng khổ sướng cùng sướng, đều đùm bọc che chở lẫn cho nhau. Họ Tiết đánh chết người tức là họ Tiết mà tục ngữ gọi là "được mùa tuyết rơi" đấy. Nhà này không những thân với ba nhà kia, lại còn nhiều bạn thân ở kinh đô và các tỉnh nữa. Thế thì cụ định bắt ai bây giờ?

Vũ Thôn cười hỏi:

- Cứ như anh nói, thì làm thế nào chấm dứt cái án này? Chắc anh cũng biết hung thủ trốn ở đâu chứ?

Anh lính cười thưa:

- Không dám giấu cụ, không những tôi biết chỗ hung thủ trốn, ngay đến đứa bán người và người bị đánh chết tôi cũng biết cả. Tôi xin thưa tỉ mỉ để cụ rõ: người bị đánh chết ấy là con một nhà hương hoạn nhỏ, tên gọi Phùng Uyên, bố mẹ chết sớm, không có anh em, sống nhờ một cái gia tài nhỏ, tuổi độ mười tám, mười chín, tính thích chơi bời với đàn ông, không gần gũi con gái. Nhưng đây cũng là oan nghiệp kiếp trước để lại. Một hôm, anh ta ngẫu nhiên gặp nữ tỳ này, nhất định mua về làm thiếp, thề không chơi bời với đàn ông và cũng không lấy người thứ hai nào nữa. Vì thế, việc mua này, đối với anh ta, coi là trịnh trọng lắm, hẹn ba hôm sau, tốt ngày, mới đón về. Ngờ đâu đứa bán người lại ngấm ngầm đem con nữ tỳ bán cho nhà họ Tiết. Nó muốn cuỗm tiền của cả đôi bên rồi trốn đi. Ai hay nó chạy không thoát, cả hai đều bắt được, đánh nó gần chết. Nhưng sau đó không nhà nào muốn lấy lại tiền, chỉ đòi lấy người. Công tử họ Tiết sai đầy tớ đánh công tử họ Phùng một trận nhừ tử, khiêng về nhà, ba ngày sau thì chết. Tiết công tử đã chọn ngày vào kinh. Trước đó hai ngày, ngẫu nhiên gặp con nữ tỳ này, Tiết công tử định mua rồi đem nó lên kinh một thể, ngờ đâu chuyện xảy ra, hắn đánh Phùng công tử cướp lấy nữ tỳ, rồi thản nhiên coi như không có việc gì. Mang ngay gia quyến lên đường, để anh em đầy tớ ở nhà lo liệu, chứ không phải vì việc nhỏ ấy mà chạy trốn đâu. Việc này hãy tạm gác lại, xin hỏi cụ có biết nữ tỳ bị mang đi bán ấy là ai không?

- Ta biết thế nào được?

- Nữ tỳ ấy là Anh Liên, con gái Chân Ẩn Sĩ ở cạnh miếu Hồ lô trước đây tức là ân nhân của cụ đấy.

Vũ Thôn giật mình nói:

- Thế à! Nghe nói khi nó lên năm tuổi, bị người ta dỗ đi, sao bây giờ lại đem bán nó ở đây?

- Tên dỗ người này chuyên đi dỗ con gái bé năm sáu tuổi mang về nơi hẻo lánh nuôi đến mười một mười hai tuổi, rồi lại đem đi chỗ khác bán. Khi trước, tôi với Anh Liên ngày nào cũng chơi đùa với nhau. Tuy xa nhau bảy tám năm, bây giờ nó đã lớn và xinh hơn trước, nhưng dáng người không thay đổi mấy. Vả lại, từ khi mới đẻ nó có một nốt ruồi đỏ bằng hạt gạo ở lông mày nên vẫn nhận được. Tên dỗ người tình cờ lại thuê buồng của nhà tôi. Một hôm tên này đi vắng, tôi đến hỏi nó, nó sợ phải đòn, không dám nói. Nó nhận tên kia là bố đẻ, và nói rằng vì không có tiền trả nợ, mới phải đem nó bán đi. Tôi dỗ bốn năm lần, nó chỉ khóc: "Tôi không nhớ được việc lúc bé!" Như thế thì không còn gì đáng ngờ nữa. Hôm Phùng công tử đến trả tiền, gặp lúc tên dỗ người say rượu, Anh Liên than thở một mình: "Từ giờ trở đi ta sẽ hết nợ!" Sau lại nghe nói ba ngày nữa Phùng công tử mới đến đón, Anh Liên tỏ vẻ âu sầu. Tôi thấy vậy động lòng thương, chờ tên dỗ người đi vắng, bảo vợ tôi đến khuyên giải: "Phùng công tử chọn ngày tốt đến đón, như thế tất không coi chị như bọn a hoàn đâu. Phùng công tử là người phong nhã, nhà cũng đủ tiêu. Xưa nay không ham nữ sắc bây giờ mua chị với một giá rất đắt, như thế chả nói chị cũng sẽ rõ. Chị hãy cố chờ hai ba ngày nữa, việc gì phải lo buồn?" Anh Liên nghe nói cũng nguôi lòng, cho rằng từ nay có chỗ yên thân. Ai ngờ trong thiên hạ thường xảy ra những việc không như ý, ngày hôm sau tên dỗ người lại đem nó bán cho nhà họ Tiết. Nếu bán cho nhà nào thì cũng không lôi thôi lắm, chứ công tử họ Tiết này nổi tiếng là "vua ngốc", liều lĩnh, nóng nảy nhất hạng, quẳng tiền như đất. Hôm ấy nó đánh Phùng Uyên một trận tơi bời , bán sống bán chết rồi mang Anh Liên đi, không biết sống chết thế nào. Còn Phùng công tử thì một phen mừng hão, đã không thỏa nguyện, lại mất tiễn, hại đến tính mệnh, như thế thật đáng thương!"

Vũ Thôn nghe rồi than thở:

- Oan nghiệt gặp nhau không phải là chuyện ngẫu nhiên. Nếu không thì sao Phùng Uyên lại chỉ thích có Anh Liên? Anh Liên bị tên dỗ người hành hạ mấy năm mới thoát thân, gặp được người đa tình, nếu sum họp với nhau cũng là một việc rất tốt; ngờ đâu lại xảy ra việc ấy! Nhà họ Tiết giàu sang hơn họ Phùng, xem ra hạng ấy thế nào cũng nhiều vợ lẽ nàng hầu, dâm dục không chừng mực, chưa chắc đã bằng Phùng Uyên chỉ chung tình với một người. Cũng là một cuộc tình duyên mộng ảo nên mới có một đôi trai gái bạc mệnh này. Thôi, việc của họ mặc họ, nay ta hãy bàn xem cái án này nên xét thế nào cho phải.

Anh lính cười nói:

- Trước cụ minh mẫn cương quyết thế nào, sao bây giờ lại trở thành không có chủ kiến như thế! Tôi nghe nói cụ được bổ đến đây là nhờ thế lực họ Giả, họ Vương. Mà Tiết Bàn lại là cháu họ Giả, sao cụ không dùng cách "đẩy thuyền xuôi nước" gọi là có chút tình vì nể để kết liễu cái án này. Khi gặp các ông họ Vương, họ Giả cũng sẽ có nhiều thiện cảm.

- Anh nói cũng phải, nhưng việc này quan hệ đến mạng người. Ta nhờ ơn vua được phục chức về đây, chính là lúc phải hết lòng báo đáp, có nhẽ nào vì việc tư mà trái phép công? Ta không nỡ làm thế?

- Cụ nói rất là đúng lý. Nhưng đời này làm thế không trôi! Cổ nhân nói: "tìm lành tránh dữ là người quân tử" nếu cứ làm như cụ thì không những không đền được ơn triều đình mà bản thân mình cũng chưa chắc giữ được trọn vẹn. Vậy xin cụ nghĩ cho thật kỹ.

Vũ Thôn cúi đầu một chốc, nói:

- Theo ý anh nên làm thế nào?

- Tôi đã nghĩ được một kế rất hay. Sáng mai cụ ra công đường ra oai quát tháo, làm văn thư, phát thẻ bài cho đi bắt hung phạm. Tất nhiên là không bắt được. Nguyên cáo thể nào chẳng yêu cầu xét xử, cụ bắt mấy người trong họ Tiết và bọn đầy tớ đến tra xét, tôi sẽ ở ngoài thu xếp, ngầm bảo họ khai "Tiết Bàn bị bệnh nặng chết rồi". Người trong họ và người địa phương đều trình giấy chứng thực. Cụ lại nói là biết cầu tiên, trên công đường đặt đàn lễ, cho quân dân vào xem. Rồi cụ giải thích lời tiên: "Tiên phán rằng người chết là Phùng Uyên và Tiết Bàn nguyên kiếp trước có nợ nhau, đã gặp nhau thì oan oan tương báo, thế là xong xuôi. Nay Tiết Bàn tự nhiên bị bệnh chết là do hồn Phùng Uyên bắt đi. Gây ra tai họa này là tội ở đứa bán người, ngoài việc đem nó ra làm tội, không liên lụy gì đến ai cả. Tôi sẽ ngầm bảo đứa bán người cứ nhận tội đi. Mọi người thấy lời tiên phán giống lời khai của đứa bán người, chắc không nghi ngờ gì nữa. Nhà họ Tiết có tiền, cụ bảo nó bỏ ra một nghìn hay năm trăm cho nhà họ Phùng làm lễ chôn cất. Nhà họ Phùng chẳng có người nào ra trò, chẳng qua chỉ đòi tiền thôi, Tiền vào là êm chuyện, cụ thử nghĩ kỹ xem kế ấy thế nào?

- Không xong đâu! Không xong đâu! Để ta suy nghĩ xem, liệu có bịt nổi miệng người không.

Hôm sau, Vũ Thôn ra công đường, bắt một bọn can phạm tra hỏi cặn kẽ, quả thấy nhà họ Phùng ít người, chẳng qua đi kiện để đòi tiền mai táng. Nhà họ Tiết thì cậy thế cậy thần, cũng không chịu kém, vì thế việc này cứ để lẵng nhẵng mãi. Vũ Thôn vì tư tình, cứ trái phép xử bừa, nhuế nhóa cho xong chuyện. Nhà họ Phùng được ít tiền mai táng, cũng thôi không khiếu nại nữa. Xử án xong, Vũ Thôn vội vàng viết hai bức thư gửi cho Giả Chính và Vương Tử Đằng hiện làm Tiết đô sứ kinh doanh: "Việc cậu cháu cụ đã dàn xếp xong, xin đừng nghĩ đến nữa". Cậu chuyện thế là xong. Mọi mưu đồ đều do anh lính là chú tiểu ở miếu Hồ lô ngày trước bày ra cả. Vũ Thôn sợ nó kể với ngườikhác những chuyện hàn vi của mình, trong bụng không thích, liền kiếm cớ bới ra một việc gì đấy, đẩy nó đi xa cho rảnh.

Chuyện Vũ Thôn hãy gác lại. Nay nói đến việc Tiết công tử mua Anh Liên và đánh chết Phùng Uyên. Tiết công tử là người Kim Lăng, con nhà dòng dõi thi thư, chỉ vì lúc bé bố chết, mẹ góa, thương hắn là con một, quá nuông, nên lúc lớn lên chẳng chịu làm việc gì. Gia tài họ Tiết có hàng trăm vạn, hiện giữ việc lĩnh tiền trong kho mua hàng cho nhà vua(2).

Tiết công tử lúc đi học đặt tên là Tiết Bàn, tên chữ là Văn Khởi, từ khi lên năm, lên sáu, tính tình đã xa xỉ, nói năng kiêu ngạo. Hắn cũng có đi học, nhưng chỉ biết qua loa mấy chữ rồi suốt ngày ham gà chọi chó săn, trèo non ngắm cảnh. Tuy làm việc mua hàng cho nhà vua, nhưng hắn chẳng biết gì hết, chẳng qua nhờ thế lực ông cha ngày trước, mang một chức hão ở Hộ bộ để lĩnh tiền lương còn công việc đều do người nhà lo liệu cả. Mẹ hắn là họ Vương, em ruột Vương Tử Đằng và là chị em cùng mẹ với Vương phu nhân, vợ Giả Chính bên phủ Vinh . Tiết phu nhân năm nay độ bốn mươi tuổi, chỉ có một nình Tiết Bàn là con trai và Bảo Thoa là con gái, kém Tiết Bàn hai tuổi. Bảo Thoa da dẻ nõn nà, đi đứng đoan trang, khi cha còn sống rất yêu cho đi học, sức học so với anh hơn gấp mười lần. Từ khi cha chết, Bảo Thoa thấy anh hư hỏng, không làm cho mẹ vui lòng, nên không để tâm vào sách vở mà chỉ chăm chú thêu thùa và lo liệu công việc trong nhà, đỡ đần mẹ. Gần đây nhà vua ham chuộc thi lễ, cất nhắc những người tài năng, ngoài số người được tuyển vào làm phi tần, lại còn ban ơn đặc biệt cho những con gái các nhà danh gia thế hoạn đều được ghi tên ở Bộ, để sắp sẵn lựa chọn làm tài nhân, tán thiện, theo hầu công chúa, quận chúa đi học. Hơn nữa, khi bố Tiết Bàn chết, những người tổng quản, tài phú ở các cửa hàng thấy Tiết Bàn trẻ tuổi, không hiểu việc đời bèn thừa dịp lừa dối, vì thế mấy chỗ buôn bán với Tiết Bàn ở kinh đô, đều bị hao hụt dần. Tiết Bàn nghe nói kinh đô là chỗ phồn hoa thứ nhất, đang muốn đi chơi, một là đưa em vào đội tuyển(3), hai là thăm họ hàng, ba là vào Bộ thanh toán sổ cũ tính sổ mới. Nhưng thực ra hắn chỉ muốn vào kinh đô du lãm cho thích. Nay được dịp, hắn liền sắm sửa các đồ hành trang và những quà thổ sản để biếu các nơi. Đương lúc chọn ngày khởi hành, tình cờ gặp đứa dỗ người mang Anh Liên đến bán. Tiết Bàn trông thấy Anh Liên có nhan sắc, liền mua ngay, ngờ đâu lại bị họ Phùng đến đòi về. Cậy có thế lực, hắn thét người nhà đánh chết Phùng Uyên, rồi giao phó công việc, cho mấy người trong họ và bọn đầy tớ lo liệu. Còn mình thì đưa mẹ và em đi luôn. Hắn coi án mạng và việc quan cũng như chuyện đùa, cho rằng chỉ quẳng ra một ít tiền là xong hết.

Đi đường không biết bao nhiêu ngày. Khi sắp đến kinh đô nghe tin cậu là Vương Tử Đằng được thăng làm thống chế chín tỉnh, vâng chỉ vua đi tuần tra các vùng biên cương, Tiết Bàn mừng thầm: Ta đương lo vào kinh sẽ bị cậu kiềm chế, không được phóng túng tự do, bây giờ cậu thăng chức đi rồi, thế mới biết trời cũng chiều người. Hắn bàn với mẹ:

- Nhà ta có mấy ngôi nhà ở kinh đô bỏ không đã mười năm nay, có lẽ bọn quản gia đã vụng trộm cho thuê lấy tiền cũng nên. Vậy ta nên sai người đến đó xếp đặt, quét dọn trước.

Tiết phu nhân nói:

- Làm gì phải lôi thôi thế! Chuyến này ta vào Kinh, cốt là thăm thân thích bạn bè. Hoặc ở nhà cậu, hoặc ở nhà dì, chỗ nào cũng rộng rãi lắm. Mẹ con ta hãy đến ở đấy, thong thả sẽ sai người đi thu dọn nhà riêng, thế chẳng đỡ việc hay sao?

- Bây giờ cậu đã thăng ra tỉnh ngoài, lúc đi chắc trong nhà bận rộn, ta lại kéo cả nhà đến thì coi sao tiện?

- Cậu thăng chức ra đi thì đã có nhà dì. Huống chi mấy năm nay cậu và dì cứ luôn luôn viết thư mời ta vào chơi. Nay cậu tuy đi nhận chức vắng, nhưng thế nào bên nhà dì cũng giữ ta lại. Nếu vội vàng thu xếp chỗ ở riêng, người ta chẳng trách móc hay sao? Tao biết bụng mày rồi. Mày ở nhà cậu, nhà dì thì sợ câu thúc chứ gì? Ở riêng ra, tha hồ muốn làm gì thì làm. Mày có muốn về thì dọn về nhà ở một mình. Tao với bên nhà dì cách biệt đã mấy năm nay, cũng muốn mang em mày đến ở bên ấy. Mày nghĩ thế nào, có được không?

Tiết Bàn nghe vậy, biết rằng không trái được ý mẹ, đành bảo người nhà mang hành lý đi thẳng vào phủ Vinh. Lúc bấy giờ Vương phu nhân biết vụ kiện của Tiết Bàn nhờ có Giả Vũ Thôn thu xếp nên đã yên lòng. Nhưng lại đang buồn vì thấy anh ra làm quan ở ngoài, không có ai là người thân thích bên họ ngoại qua lại, cảm thấy có chiều hiu quạnh. Cách vài ngày, có người nhà báo: "Tiết phu nhân dẫn các cô cậu đã đến, đương xuống xe ngoài cửa". Vương phu nhân mừng lắm, mang người ra đón vào nhà khách, rồi mời Tiết phu nhân vào nhà trong. Chị em lâu ngày mới gặp , vừa thương vừa mừng, nói sao cho xiết. Một lúc hàn huyên trò chuyện xong, Vương phu nhân đưa Tiết phu nhân đến chào Giả mẫu, biếu các món quà thố sản. Cả nhà đều chào hỏi rồi mở tiệc mừng.

Tiết Bàn đi chào Giả Chính, Giả Liễn, lại đến chào Giả Xá, Giả Trân. Giả Chính sai người nói với Vương phu nhân: "Dì Tiết đã có tuổi, cháu Bàn còn trẻ dại, chưa từng trải việc đời, nếu cho ở ngoài sẽ xảy ra việc gì chăng. Ở phía đông bắc nhà ta có viện Lê Hương, mười gian để không đã quét tước sạch sẽ, mời dì Tiết và các cháu đến ở đấy rất tốt".

Vương phu nhân chưa kịp giữ lại thì Giả mẫu đã sai người đến nói: "Mời dì Tiết ở lại đây để gần gũi nhau cho thêm phần thân mật". Tiết phu nhân cũng muốn ở chung một chỗ để tiện kiềm chế con, nếu ở ngoài sợ nó làm càn gây vạ, nên vâng lời ngay. Tiết phu nhân nói riêng với Vương phu nhân: "Những chi phí hàng ngày xin cứ mặc tôi, thế mới phải lẽ". Vương phu nhân biết việc chi tiêu hàng ngày cũng không khó khăn gì đối với nhà họ Tiết, nên cũng để tùy tiện. Từ đấy mẹ con họ Tiết ở hẳn trong viện Lê Hương.

Nguyên viện Lê Hương trước kia là chỗ tĩnh dưỡng tuổi già của Vinh quốc công. Viện nhỏ nhắn, xinh xắn; ước hơn mười gian. Nhà khách, nhà trong có đủ. Lại có cửa thông ra phố. Người nhà Tiết Bàn ra vào cửa này. Góc tây nam Viện có một cửa nách, thông ra con đường nhỏ. Đi hết con đường này thì đến phòng chính của Vương phu nhân. Mỗi ngày ăn cơm xong, hay buổi chiều, Tiết phu nhân thường sang chơi, nói chuyện với Giả mẫu hoặc tâm sự với Vương phu nhân. Bảo Thoa hàng ngày cùng với chị em Đại Ngọc, Nghênh Xuân xem sách, đánh cờ, thêu thùa, rất là vui vẻ. Chỉ có Tiết Bàn lúc đầu không muốn ở trong Giả phủ, sợ bác dượng câu thúc, không được tự do. Không ngờ bà mẹ nhất định ở đấy, vả lại nhà họ Giả ân cần cố mời, nên hắn đành phải chịu; một mặt hắn vẫn sai người về quét dọn nhà mình, để rồi sẽ về đó ở. Nhưng chưa đầy một tháng, hắn đã quen biết một nửa bọn con cháu nhà họ Giả. Bọn này đều là con nhà phú quý, ai cũng thích chơi với hắn, nay uống rượu, mai thưởng hoa, thậm chí đánh bạc, chơi gái, cái gì họ cũng đến rủ rê, làm cho Tiết Bân hư hỏng gấp mười khi trước. Giả Chính tuy rằng dạy con có phép, trị nhà rất nghiêm, nhưng một là họ to, người nhiều, trông nom không xuể, hai là Giả Trân là cháu trưởng phủ Ninh, hiện đương tập chúc, bao nhiêu việc đều thuộc chi trưởng trông nom hết, ba là việc công, việc tư bề bộn, mà tính Giả Chính lại khoáng đãng, không thích chăm lo việc đời, lúc nhàn rỗi, thư thái chỉ đánh cờ, xem sách, ngoài ra không để ý đến việc gì. Huống chi viện Lê Hương cách xa hàng hai ba lớp nhà, có cửa riêng, thông ra phố, ra vào tuỳ ý, bọn con em có thể tự do chơi bời. Vì thế, Tiết Bàn dần dần không nghĩ đến chuyện dọn về ở riêng ngoài phố nữa.

--------------------------

(1). Một cung xây dựng từ đời Tần.

(2). Đời Thanh, các đồ dùng trong cung nhà vua đều có đặt những hiệu nhận sắm. Phải trình tên tuổi người đứng cửa hiệu để ghi vào sổ nhà vua.

(3). Chờ dịp tuyển vào cung.

Hồi thứ năm(1)

Chơi cõi ảo, mười hai thoa chỉ đường mê;

Uống rượu tiên, mộng lầu hồng diễn thành khúc.

Ngày xuân uể oải lịm trong chăn,

Như dắt nàng tiên lánh cõi trần.

Vào hào hoa tư ai đấy nhỉ,

Phong lưu gây lấy nợ vào thân.

Việc mẹ con họ Tiết đến ở phủ Vinh hãy tạm ngưng. Nay nói Lâm Đại Ngọc từ khi đến phủ Vinh, được Giả mẫu thương yêu muôn phần, ăn ở đi đứng, nhất nhất đều như Bảo Ngọc, ngay Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân cũng không bằng.

Bảo Ngọc và Đại Ngọc thì thân nhau hơn hẳn mọi người; ngày cùng chơi chung, tối cùng ngủ chung, rất là hòa thuận, thân mật như keo sơn, không hề xích mích nhau điều gì. Nay bất thình lình có Tiết Bảo Thoa đến, tuy không lớn tuổi hơn mấy, nhưng phẩm cách đứng đắn, phong tư lộng lẫy, ai cũng cho là hơn Đại Ngọc. Bảo Thoa lại cư xử khoát đạt, tùy phận theo thời; không giống như Đại Ngọc có tính kiêu kỳ tự phụ, chẳng chịu kém ai, cho nên rất được lòng người dưới. Ngay bọn a hoàn cũng thích gần Bảo Thoa. Vì thế Đại Ngọc cũng hơi ấm ức khó chịu, nhưng Bảo Thoa thì thản nhiên như không.

Bảo Ngọc còn trẻ con, tính lại vụng về, ngang trái, coi anh chị em ai cũng như ai, không hề phân biệt thân sơ xa gần. Bấy nay Bảo Ngọc, Đại Ngọc ở trong buồng Giả mẫu, quen biết hơn và tất nhiên cũng thân mật hơn. Đã thân mật hơn thì dễ xảy ra những chuyện hiểu lầm nhau không thể tránh được. Có một hôm, không biết vì việc gì, hai người trò chuyện không hợp nhau, Đại Ngọc bực bội vào buồng khóc một mình. Bảo Ngọc hối hận đã nói sỗ sàng, liền lại làm thân, Đại Ngọc mới dần dần nguôi giận.

Nhân dịp vườn bên phủ Vinh hoa mai nở rộ, vợ Giả Trân là vưu thị bày tiệc, rồi sai vợ chồng Giả Dung sang tận nơi mời Giả mẫu, Hình phu nhân, Vương phu nhân sang thưởng hoa.

Giả mẫu và mọi người ăn cơm sáng xong, sang vườn Hội phương ngắm cảnh. Trước còn uống trà, sau mới uống rượu. Đây chỉ là tiệc rượu riêng trong hai phủ Ninh và phủ Vinh thôi, không có sự gì lạ đáng chép cả.

Một lúc sau, Bảo Ngọc mệt, muốn về nghỉ trưa. Giả mẫu định sai người đưa về nghỉ một chốc rồi sẽ đến. Vợ Giả Dung là họ Tần, vội cười nói:

- Ở đây đã dọn một gian buồng để chú Bảo nghỉ rồi, xin cụ yên lòng, cứ giao chú ấy cho cháu là được.

Rồi bảo vú già và a hoàn của Bảo Ngọc: "Các bà các chị mời chú Bảo đi theo tôi".

Giả mẫu biết Tần thị rất chu tất, vì chị ta là người mềm mại, dịu dàng, cư xử lại hòa nhã khéo léo rất được vừa ý trong đám chắt dâu. Thấy Tần thị dẫn Bảo Ngọc đi nghỉ, Giả mẫu mới yên tâm.

Khi Tần thị dẫn mọi người đến buồng trong; Bảo Ngọc ngửng đầu trông, thấy trên treo bức vẽ "Nhiên lê đồ"(2). Bức vẽ rất đẹp, nhưng không biết của ai, trong bụng Bảo Ngọc không thích. Lại có một câu đôi câu đối:

Thế sự tinh thông đều là học vấn,

Nhân tình lịch duyệt mới gọi văn chương.

Đọc xong xuôi câu đối, Bảo Ngọc nhìn nhà cửa rất đẹp, đồ bài trí rất trang hoàng, nhưng nhất định không chịu ở, liền nói:

- Mau ra ngay, mau ra ngay!

Tần thị cười nói:

- Chỗ này không vừa ý thì chú đi đâu bây giờ. Nếu không, chú đến nghỉ ở buồng tôi vậy.

Bảo Ngọc gật đầu mỉm cười, một bà già nói:

- Có lẽ nào chú lại đến ngủ ở buồng cháu dâu?

Tần thị cười nói:

- Ôi dào! Không sợ chú ấy phật ý. Chú ấy đã lớn đâu mà phải e dè? Chị không thấy tháng trước em tôi đến đây chơi à? Tuy nó bằng tuổi chú Bảo, nhưng để hai người đứng với nhau có lẽ nó còn cao hơn kia.

Bảo Ngọc hỏi:

- Tại làm sao tôi chưa được gặp? Đi gọi lại đây tôi xem.

Mọi người cười nói:

- Ờ xa hai ba mươi dặm, gọi ngay thế nào được. Sau này cũng có ngày gặp nhau.

Đến buồng Tần thị, Bảo Ngọc vừa mới bước chân vào, đã thoảng có mùi thơm say sưa. Khi ấy mắt Bảo Ngọc dính lại, người nhủn ra, nói ngay:

- Mùi thơm thích nhỉ.

Trong buồng, trên tường treo bức họa "Hải đường xuân thụy"(3) của Đường Bá Hổ vẽ, hai bên có đôi câu đối của học sĩ Tần Thái Hư đời Tống:

Lờ mờ giấc mộng hơi xuân lạnh,

Ngào ngạt mùi hương rượu khá nồng.

Trên án bày một cái gương quý của Vũ Tắc Thiên(4) đời Đường. Một bên bày cái mâm vàng mà Triệu Phi Yến(5) đã đứng lên múa, trên mâm để quả dưa mà An Lộc Sơn(6) đã ném vào vú Dương Quý Phi. Đằng trước kê một cái giường báu của công chúa Thọ Xương(7) nằm ở điện Hàm Chương, mắc cái màn liên châu của Công chúa Đồng Xương(8) dệt ra.

Bảo Ngọc thấy vậy cười nói:

- Ở đây tốt! Ở đây tốt!

Tần thị cười:

- Cái buồng của tôi dù thần tiên cũng có thể ở được.

Nói xong, Tần Thị tự tay mở cái khăn lụa mà chính tay Tây Thi đã giặt, và đặt sẵn cái gối Uyên Ương của Hồng Nương đã ôm khi xưa. Thấy Bảo Ngọc ngủ yên, bọn bà già rủ nhau đi ra ngoài, chỉ để Tập Nhân, Mỹ Nhân, Tình Văn, Xạ Nguyệt, bốn người ở lại túc trực. Tần thị gọi mấy a hoàn nhỏ ra ngồi ngoài thềm, đừng cho mèo chó đến cắn nhau.

Bảo Ngọc vừa nhắm mắt đã bàng hoàng ngủ say. Tưởng như Tần thị còn đứng trước mặt mình. Bảo Ngọc lững thững theo Tần Thị đi đến một chỗ lan can sơn đỏ, thềm xây bằng ngọc, cây xanh ngắt, suối trong veo, không có một tí dấu vết bụi trần. Bảo Ngọc ở trong giấc mộng rất vui sướng, nghĩ bụng: "Chỗ này thú lắm, ước gì ta được ở đây suốt đời, dù mất cả nhà cũng vui lòng hơn là bị cha mẹ và thầy học kèm thúc!" Đương lúc nghĩ vơ vẩn, nghe thấy sau núi có người hát:

Mộng đẹp, mây tan mộng,

Hoa bay, nước cuốn hoa.

Nhắn bảo bạn nhi nữ,

Buồn hão chuốc chi mà ?

Bảo Ngọc nghe rõ đó là tiếng hát của người con gái. Tiếng hát chưa dứt đã thấy một mỹ nhân ở đằng xa đi lại, thướt tha lững thững, không giống người trần tí nào. Có bài phú tả chân sau này:

Vừa qua rừng liễu, đã tới buồng hoa,

Chỗ đang đi, chim trên cành, tiếng kêu xào xạc,

Khi sắp đến, bước quanh thềm, bóng lượn thướt tha.

Ve vẩy tay tiên, xạ lan ngào ngạt,

Phất phơ tà áo, hoàn bội gần xa.

Mặt hoa đào, làn tóc mây xanh ngắt,

Môi anh đào, răng hạt lựu hương pha.

Tuyết múa, gió quay, lưng ong mềm mại,

Mặt tươi, da bóng, châu thúy chói lòa.

Thấp thoáng trong hoa, như mừng như giận.

Nhởn nhơ mặt nước, khi bổng, khi là.

Mày liễu cau cau, muốn nói mà còn e lệ,

Gót sen chầm chậm, muốn dừng mà vẫn dạo qua.

Phẩm chất đáng khen, giá trong ngọc sáng.

Áo quần rất đẹp, lộng lẫy văn hoa,

Kể dung mạo, hương lồng ngọc giát,

Ví phong tư, rồng cuốn, phượng sa.

Trắng như hoa mai tuyết phủ,

Sạch như bông huệ sương pha.

Nhàn tĩnh như cỗi thông mọc trong không cốc,

Diễm lệ như mây ráng soi dưới trùng ba.

Văn vẻ như rồng bơi trong đầm uốn khúc,

Quang thái như trăng dọi trên sông Ngân hà.

Tây Thi đáng thẹn, Vuông Tường kém xa.

Lạ thay đến tự phương nào? Sinh ở đâu ta?

Thật vậy, chốn Dao trì khó bề sánh kịp, nơi tử phủ dễ kiếm đâu ra.

Hỏi người nào đấy? quả bậc tiên nga.

Bảo Ngọc trông thấy đây là một tiên cô, mừng rơ vội lại chào, cười nói:

- Tiên cô ở đâu đến đây, bây giờ định đi đâu? Tôi không biết chỗ này là chỗ nào, nhờ tiên cô dẫn tôi đi.

Tiên cô cười nói:

- Ta là vị tiên ở Thái hư ảo cảnh(9), động Khiển Hương, núi Phóng Xuân(10), thuộc trời Ly hận, bể Quán sầu, phàm những việc nợ trăng, tình gió, gái giận, trai si ở cõi trần đều thuộc ta cai quản. Nhân gần đây có bọn phong lưu oan nghiệt tụ tập ở nơi này nên ta đến thăm dò cơ hội gieo rắc mọi nỗi tương tư. Nay gặp anh cũng không phải là ngẫu nhiên. Chỗ ta ở c ũng gần, không có vật gì, chỉ có chén trà tiên, tự tay hái lấy, h ũ rượu ngon, tự tay nấu lấy, vài cô múa hát, tập rèn đã lâu, và mười hai khúc Hồng lâu mộng mới phổ vào cung đàn. Anh có muốn theo ta đi chơi không?

Bảo Ngọc nghe xong, sung sướng nhảy lên, quên bẵng Tần thị không biết ở đâu, liền theo ngay tiên cô đến một nơi. Chợt trông thấy một tòa nhà phía trước, trên biển đề bốn chữ to: "Thái hư ảo cảnh", hai bên có đôi câu đối:

Giả bảo là chân, chân cũng giả,

Không làm ra có, có rồi không.

Đi qua tòa nhà đến một cửa cung, trên treo biển có bốn chữ lớn: "Nghiệt hải tình thiên"(11) và đôi câu đối:

Đất rộng, trời cao, khôn gỡ nổi mối tình kim cổ,

Trai si, gái oán, khó đền xong món nợ gió trăng.

Bảo Ngọc xem xong nghĩ bụng: "À ra thế đấy. Nhưng thế nào là "tình kim cổ" và "nợ gió trăng"? Ta phải hiểu rõ câu này mới được". Bảo Ngọc vừa mới nghĩ thế, ngờ đâu con ma tình đã lấn sâu vào tận cao hoang(12). Cậu ta theo tiên cô vào đến cửa thứ hai, thấy hai tòa bên cạnh đều có hoành phi câu đối, không tài nào xem hết được, chỉ thấy mấy chỗ đề những chữ: "Si tình ti", "kết oán ti", "Triêu đề ti", "Dạ oán ti", "Xuân cảm ti", "Thu bi ti". Bảo Ngọc hỏi tiên cô:

- Xin phiền tiên cô dẫn tôi vào xem trong các ti có được không?

Tiên cô nói :

- Trong các ti chứa toàn sổ sách của tất cả con gái trong thiên hạ từ trước và sau này, anh người trần mắt thịt không thể biết được.

Bảo Ngọc khi nào chịu thôi, cứ khẩn khoản nài xin mấy lần. Tiên cô mới bảo:

- Thôi được, vào đây mà xem.

Bảo Ngọc thích lắm, vừa ngẩng đầu nhìn, thấy một ti có biển đề ba chữ: "Bạc mệnh ti" hai bên có câu đối:

Xuân hận, thu sầu mình chuốc lấy,

Mặt hoa da phấn đẹp vì ai?

Bảo Ngọc xem xong, trong lòng than thở. Đi vào trong cửa thấy mười mấy cái tủ lớn đều niêm phong cẩn thận, trên tờ niêm phong đều có đề tên các tỉnh. Bảo Ngọc chỉ chăm chú nhìn xem có tờ niêm phong nào đề tên tỉnh mình, chứ không để ý đến các tỉnh khác, chợt thấy Có một cái tủ đề: "Kim Lăng thập nhị thoa chính sách". Bảo Ngọc hỏi:

- Sao lại gọi là "Kim Lăng thập nhị thoa chính sách"?

Tiên cô nói:

- Tức là quyển sổ ghi mười hai người con gái đứng đầu trong tỉnh anh, cho nên gọi là chính sách.

Bảo Ngọc nói:

- Người ta thường nói Kim Lăng rộng lắm, làm sao chỉ có mười hai người? Ngay trong nhà chúng tôi, trên dưới cũng đã có hàng mấy trăm người rồi!

Tiên cô mỉm cười nói:

- Con gái trong tỉnh anh rất nhiều, nhưng đây chỉ biên những người nào cần biên thôi. Hai tủ để hai bên là hạng thứ nhì. Những hạng tầm thường thì không cần biên vào.

Bảo Ngọc lại xem đến cái tủ đề: "Kim Lăng thập nhị thoa chính sách", rồi lại có một tủ nữa đề: "Kim Lăng thạp nhị thoa hựu phó sách". Bảo Ngọc giơ tay mở tủ, rút một quyển trong "hựu phó sách" ra xem. Vừa mở ra, thấy một bức vẽ, trên bìa không phải là nhân vật, cũng không phải là sơn thủy, chẳng qua màu mực lờ mờ. Trên giấy đầy những mây đen mù đục mà thôi. Sau có mấy hàng chữ:

Trăng trong khó gặp, mây đẹp dễ tan,

Lòng sao cao quý, phận lại đê hèn.

Tinh khôn, đài các tổ người ghen,

Chịu tiếng ong ve thành tổn thọ,

Đa tình công tử Luống than phiền.

Bảo Ngọc xem xong, không hiểu, lại thấy mặt sau vẽ một khóm hoa tươi, một cái giường trải chiếu rách, có đề mấy câu:

Nhũn nhặn thuận hòa uổng cả,

Lan thơm, quế ngát, thừa thôi.

Khen cho ưu linh(13) phúc tốt,

Ngờ đâu công tử duyên ôi!

Bảo Ngọc xem xong lại càng không hiểu, cất quyển sổ ấy vào tủ và mở tủ đựng "phó sách", lấy một quyển ra xem, thấy trang đầu có vẽ một cành hoa quế, mé dưới có cái ao, nước cạn, bùn khô, cây sen héo, ngó sen tàn. Mặt sau có đề thơ:

Sen thơm liền gốc nở chùm hoa,

Gặp gỡ đường đời thật xót xa.

Từ lúc cây trong hai chỗ đất(14).

Hương hồn trở lại chốn quê nhà.

Bảo Ngọc xem xong cũng không hiểu. Lại lấy một quyển ở trong tủ "chính sách" ra xem, thấy trang đầu vẽ hai cây khô, trên cây treo một cái đai ngọc; dưới đất có một đống tuyết, trong tuyết có cái trâm vàng. Có bốn câu thơ:

Than ôi có đức dừng thoi,

Thương ôi cô gái có tài vịnh bông.

Ai treo đai ngọc giữa rừng(15),

Trâm vàng ai đã vùi trong tuyết dày?

Bảo Ngọc vẫn không hiểu, muốn hỏi cho ra, nhưng biết rằng tiên cô chẳng chịu tiết lộ cơ trời, muốn cất sổ đi, nhưng lại tiếc, liền giở xem những trang sau, thì thấy vẽ một cái cung, trên cung treo một quả phật thủ. Có đề bài thơ:

Sau tuổi hai mươi đã trải đời,

Kìa hoa lựu nở cửa cung soi.

Ba xuân nào được bằng xuân mới,

Thỏ gặp hùm kia giấc mộng xuôi(16).

Mặt sau lại vẽ hai người thả diều, một vùng bể lớn, một cái thuyền lớn, trong thuyền có một cô gái bưng mặt khóc. Sau bức họa có bốn câu:

Chí cao tài giỏi có ai bì,

Gặp lúc nhà suy, vận cũng suy,

Nhớ tiếc thanh xuân ra bến khóc.

Gió đông nghìn dặm mộng xa đi.

Mặt sau vẽ mấy đám mây bay, một dòng nước chảy, có đề mấy câu:

Giàu sang cũng thế thôi.

Từ bé mẹ cha bỏ đi rồi.

Nhìn bóng chiều ngậm ngùi,

Sông Tương nước chảy mây Sở trôi.

Mặt sau thấy vẽ một viên ngọc quý, vất ở đống bùn. Có mấy câu đoán:

Muốn sạch mà không sạch.

Rằng không chửa hẳn không.

Thương thay mình vàng ngọc,

Bùn lầy sa vào trong.

Mặt sau lại vẽ một con lang dữ, đuổi bắt một mỹ nữ, định ăn thịt. Dưới có câu: .

Rõ ràng giống sói Trung Sơn,

Gặp khi đắc ý ngông cuồng lắm thay.

Làm cho hoa liễu thân này,

Hoàng lương giấc mộng mới đầy một năm.

Mặt sau lại vẽ một tòa miếu cổ, trong có một mỹ nhân ngồi xem kinh, có mấy câu phán:

Biết rõ ba xuân cảnh chóng già,

Thời trang đổi lấy áo cà sa.

Thương thay con gái nhà khuê các,

Một ngọn đèn xanh cạnh phật bà.

Mặt sau vẽ một núi băng, trên có một con phượng mái. Có mấy câu phán:

Chim phượng kìa sao đến lỗi thời,

Người đều yêu mến bực cao tài,

Một theo hai lệnh, ba thôi cả,(17)

Nhìn lại Kim Lăng luống ngậm ngùi.

Mặt sau vẽ một cái nhà trong vùng thôn quê vắng vẻ, có một mỹ nhân dệt cửi. Có mấy câu phán:

Vận suy đừng kể rằng sang,

Nhà suy chớ kể họ hàng gần xa.

Tình cờ cứu giúp người ta,

Khéo sao Lưu thị lại là ân nhân.

Sau bài thơ vẽ một chậu lan, bên cạnh có một mỹ nhân đội mũ phượng, đeo cái khoác vai màu ráng trời, và có mấy câu phán:

Gặp xuân đào lý quả muôn vàn,

Rốt cuộc sao bằng một chậu lan.

Nước sạch, băng trong ghen ghét hão,

Tiếng tăm còn để lại nhân gian.

Lại có một tòa lầu cao, trên có một mỹ nhân treo cổ tự tử. Có mấy câu phán:

Trời tình, bể tình là mộng ảo,

Mà tội dâm kia cũng bởi tình.

Đầu têu nào phải "Vinh" hư hỏng,

Mở lối khơi nguồn, thực tại "Ninh".

Bảo Ngọc còn muốn xem nữa. Tiên cô biết Bảo Ngọc tư chất thông minh, tính tình mẫn tuệ, sợ lộ thiên cơ, bèn gấp sổ lại, cười bảo:

- Hãy đi theo ta vào xem phong cảnh, sao lại ở đây đoán vơ vẩn làm gì?

Bảo Ngọc mơ màng, bất giác buông quyển sổ ra, theo tiên cô đi về đằng sau. Thấy cột vẽ, xà chạm, rèm châu, màn thêu hoa tiên, cỏ lạ, hoa thơm ngào ngạt, thực là cảnh tuyệt đẹp, đúng như câu:

Cửa sổ sáng lay, vàng giải đất,

Sóng quỳnh tuyết chiếu, ngọc làm nhà.

Bảo Ngọc đương mải miết xem, chợt tiên cô gọi:

- Chị em đâu, đi ra đón quý khách!

Tiếng gọi chưa dứt, đã thấy mấy cô tiên ở trong buồng, tà sen phất phới, áo lông thướt tha, tươi như hoa xuân, đẹp như trăng thu, chạy ra. Trông thấy Bảo Ngọc, các nàng tiên đều trách Cảnh ảo tiên cô:

- Chúng em không biết là "quý khách" nào, vội vàng ra đón. Chị đã bảo ngày này, giờ này sẽ có linh hồn em Giáng Châu đến ngoạn cảnh, chúng em chờ mãi, sao bây giờ lại dẫn cái của ô trọc đến đây làm bẩn cả nơi nữ nhi thanh tịnh này?

Bảo Ngọc nghe nói, giật mình, cảm thấy mình dơ bẩn đáng thẹn, muốn lùi ra. Tiên cô vội nắm lại và quay về các nàng tiên nói:

- Các em không biết đầu đuôi việc này. Nguyên hôm nay ta định đến phủ Vinh đón Giáng Châu. Khi đi qua phủ Ninh, gặp linh hồn hai ông Ninh công, Vinh công nói với ta rằng: "Nhà chúng tôi từ đầu quốc triều, đời đời công danh phú quý đã trăm năm nay. Bây giờ số vận đã hết, không thể kéo lại được nữa. Con cháu chúng tôi tuy nhiều, nhưng chẳng có đứa nào nối nghiệp. Chỉ có cháu đích tôn là Bảo Ngọc, có chút thông minh đĩnh ngộ, may ra có thể thành đạt được, nhưng vì tính nó ngang trái kỳ quặc, sợ không ai dìu dắt vào đường chính. May gặp tiên cô đến đây, xin nhờ lấy những việc tình dục thanh sắc răn bảo bệnh si ngoan của nó, họa chăng nó có thể thoát vòng mê muội, đi vào đường chính, thì rất may cho anh em chúng tôi". Vì hai ông ký thác như thế nên ta có lòng từ bi dắt nó đến đây. Trước hết cho nó xem thật kỹ những quyển sổ ghi số mệnh chung thân của ba hạng con gái nhà nó, nhưng nó vẫn chưa tỉnh ngộ, nên ta lại dẫn đến đây để trải hết những cái ảo cảnh ăn ngon, hát hay, sắc đẹp, họa may nó có tỉnh ngộ chăng.

Nói đoạn, tiên cô dắt Bảo Ngọc vào trong nhà. Một mùi thơm mê hồn không biết là thứ gì. Bảo Ngọc không nhịn được, phải hỏi. Tiên cô cười nhạt:

- Mùi hương này dưới trần không có, anh làm sao biết được. Đây là tinh hoa của cỏ lạ mới mọc ở những nơi danh sơn thắng cảnh, lại hợp chế với dầu các cây quý gọi là "Quần hương tủy"(18).

Bảo Ngọc nghe rất ham thích. Bấy giờ mọi người vào chỗ ngồi, tiểu hoàn dâng trà, Bảo Ngọc thấy hương thanh vị thơm, không phải là trà thường, liền hỏi trà gì, tiên cô nói:

- Trà này lấy ở Động Khiển Hương núi Phóng Xuân, pha bằng nước móc đọng ở trên hoa lá cõi tiên, gọi là "Thiên hồng nhất quật"(19).

Nghe xong, Bảo Ngọc gật đầu khen. Nhìn vào trong buồng thì thấy đàn ngọc, đỉnh báu, tranh cổ, thơ mới, không thiếu thứ gì. Dưới cửa sổ lại có mấy bản đàn, có hộp nữ trang hoen phấn. Trên vách có treo câu đối:

Đất u vi lính tú.

Trời "vô khả nài hạ"(20).

Bảo Ngọc xem xong lại hỏi tên các nàng tiên, thì một là Si Mộng tiên cô, một là Chung Tình đại sĩ, một là Dẫn Sầu kim nữ, một là Độ hận bồ đề, mỗi người một đạo hiệu, không ai giống ai. Một chốc tiểu hoàn đến dọn bản đặt ghế bày tiệc. Chính là:

Chén hổ phách, cốc pha lê,

Bên này rượu ngọc, bên kia rượu quỳnh.

Bảo Ngọc thấy rượu thơm ngọt khác thường, lại hỏi. Tiên cô nói:

- Rượu này cất bằng nhụy trăm thứ hoa, nước muôn thứ cây thêm vào tủy con lân, sữa con phượng, vì thế gọi là rượu "Vạn diễm đồng bôi"(21).

Bảo Ngọc tấm tắc khen mãi. Khi uống rượu, có mười hai vũ nữ lên hỏi diễn khúc gì. Tiên cô nói:

- Diễn mười hai khúc Hồng Lâu Mộng mới đặt ra.

Vũ nữ vâng lời, liền lần gầy phím đàn, nhẹ gõ dịp phách. Vừa mới hát câu "Mịt mùng khi mới mở toang", tiên cô bảo Bảo Ngọc:

- Khúc này không phải như khúc dưới trần thường hát, phải có vai học trò, vai nữ, vai hề, vai lão, lại có chín cung giọng nam và giọng bắc. Ở đây thì hoặc đề vịnh một người, hoặc cảm hoài một việc, ngẫu nhiên thành một khúc, phổ vào âm nhạc ngay. Nếu không phải là người trong cuộc thì không hiểu được cái hay của nó. Khúc hát này chắc anh chưa hiểu rõ lắm. Nếu không xem vở trước, thì khi nghe cũng là vô vị thôi.

Nói xong, lại bảo tiểu hoàn đưa vở "Hồng lâu mộng" cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cầm lấy, mắt xem vở, tai nghe hát, có những bài sau này:

Khúc một: GIÁO ĐẦU HỒNG LÂU MỘNG.

Mịt mùng khi mới mở toang,

Giống tình ai đã chịu mang vào mình.

Chỉ vì tình lại gặp tình,

Gió trăng nồng đượm không đành xa nhau.

Khi vắng vẻ, lúc buồn rầu,

Thua trời nên dãi nỗi sầu thơ ngây.

Mộng hồng lâu diễn khúc này.

Thương vàng tiếc ngọc tỏ bày nỗi riêng.

Khúc hai: CHUNG THÂN NGỘ (lỡ nhau suốt đời).

Ai rằng vàng ngọc duyên ưa,

Ta quên cây, đá, thề xưa được nào.

Trơ trơ người tuyết trên cao,

Ngoài đời, đường vắng khuây sao được nàng.

Cuộc đời ngán nỗi tang thương,

Đẹp không toàn đẹp, lời càng đúng thay.

Dù cho án đặt ngang mày,

Cuối cùng vẫn thấy lòng này băn khoăn.

Khúc ba: UỔNG NGƯNG MI (Hoài công biết nhau).

Một bên hoa nở vườn tiên,

Một bên ngọc đẹp không hoen ố màu.

Bảo rằng chả có duyên đâu,

Thì sao lại được gặp nhau kiếp này?

Bảo rằng sẵn có duyên may,

Thì sao lại đổi thay lời nguyền?

Một bên ngầm ngấm than phiền,

Một bên đeo đẳng hão huyền uổng công.

Một bên trăng dọi trên sông,

Một bên hoa nở bóng lồng trong gương,

Mắt này có mấy giọt sương,

Mà dòng chảy suốt năm trường, được chăng?

Bảo Ngọc nghe xong, thấy liên miên, viển vông, chưa có gì hay, nhưng âm điệu réo rắt làm cho hồn phách say mê. Vì vậy chẳng hỏi đầu đuôi, chẳng cần lai lịch, chỉ nghe để giải buồn thôi. Lại có những khúc hát tiếp:

Khúc bốn: HẬN VÔ THƯỜNG (Bực tức cuộc thay đổi)

Đương vui chợt đã buồn ngay,

Trố nhìn mọi việc thôi rày bỏ qua.

Hồn thơm dằng dặc bay xa,

Non cao trời rộng đây là quê hương.

Tìm nơi báo mộng gia nương,

Suối vàng con đã lỡ đường thần hôn.

Mau mau lùi bước là hơn.

Khúc năm: PHÂN CỐT NHỤC (Cốt nhục phân ly)

Đường xa mưa gió một chèo,

Cửa nhà, ruột thịt thôi đều bỏ qua.

Con đành lỗi với mẹ cha,

Khóc thương chỉ thiệt thân già đấy thôi.

Cùng thông số đã định rồi,

Hợp tan âu cũng duyên trời chi đây,

Phân chia hai ngả từ nay,

Dám mong giữ được ngày ngày bình yên,

Con đi xin chớ lo phiền.

Khúc sáu: LẠC TRUNG BI (Buồn trong cảnh vui)

Mồ côi từ lúc lọt lòng,

Dù nơi khuê các, chớ hòng ai thương,

Anh hào được tính hiên ngang

Tình riêng nhi nữ chưa vương vít lòng.

Thân này trăng sáng gió trong,

Chàng tiên mong được sánh cùng lứa đôi.

Những mong trời đất lâu dài.

Bõ khi trẻ dại gặp thời gian nan.

Ngờ đâu nước cạn mây tan,

Tương giang(22) lạnh ngắt, Cao đường vắng tanh.

Trần hoàn may rủi đã đành,

Việc gì khóc quẩn lo quanh bận lòng.

Khúc bảy: THẾ NAN DUNG (Đời không ưa)

Lan ví chất, tiên ví tài,

Chỉ hiềm cô tịch, tình trời bẩm sinh.

Cho là ăn thịt(23) hôi tanh,

Lụa the, là lượt, coi khinh không thèm.

Biết đâu cao quá. đời ghen,

Biết đâu sạch quá, đời khen da mà.

Đàn xanh, đền cổ, nguờí già,

Uổng công trang điểm, xuân đà kém xuân.

Ngán cho cái kiếp phong trần,

Sau này cũng lại xấu dần mãi đi.

Ngọc kia bùn trát đen sì,

Vương tôn công tử còn gì là duyên.

Khúc tám: HỈ OAN GIA (Gặp oan gia không đáng mừng lại mừng)

Người đâu hung ác lạ lùng,

Khác nào giống sói ở vùng Trung San.

Bấy lâu tình ái quên tràn,

Kiêu dâm chỉ việc mê man tháng ngày,

Cửa hầu bồ liễu thơ ngây,

Thân ngàn vàng nỡ đọa đày cho đang,

Một năm duyên đã bẽ bàng,

Hồn thơm phách đẹp, suối vàng xa chơi.

Khúc chín: HƯ HOA NGỘ (Biết tuổi hoa là không thật)

Cảnh xuân nhìn đã rõ rồi,

Liễu xanh, đào thắm hãy ngồi xem sao.

Thiều hoa đuổi sạch đi nào,

Tìm nơi nhã đạm thanh cao khác đời.

Kể chi đào nở trên trời,

Kể chi nhị hạnh lựng mùi trong mây.

Rốt cùng nào có ai hay,

Tiết thu đâu đã kéo ngay đến rồi.

Xóm Dương than khóc tiếng người,

Rừng phong văng tiếng ma ngồi ngâm nga.

Lại còn cảnh khác bày ra,

Ngút trời cỏ héo che qua nấm mồ.

Đó là biến đổi lắm trò,

Trước nghèo, sau có, chăm lo suốt đời.

Dày vò hoa cũng thế thôi,

Xuân mời hoa đến, thu mời hoa đi.

Tử sinh lẽ ấy đem suy,

Dù ai muốn trốn, trốn chi được mà.

Phương tây có cõi Bà Sa,

Nghe đồn có quả tên là Trường sinh.

Khúc mười: THÔNG MINH LỤY (Mắc lụy thông minh)

Việc đời tính rất thông minh,

Còn mình, mình tính phận mình vẫn sai,

Sống lần ruột đã nát rồi,

Chết mang tiếng hão là người tinh ranh,

Trước kia giàu có khang ninh,

Đến sau cơ nghiệp tan tành khắp nơi.

Uổng công áy náy nửa đời,

Khác gì một giấc mộng dài thâu canh.

Ầm ầm như sắp đổ đình,

Chập chờn như ngọn đèn xanh cạn dầu,

Vừa vui vẻ đã âu sầu,

Đời người biến đổi biết đâu mà lường.

Khúc mười một: LƯU DƯ KHÁNH (Phúc thừa sót lại)

May sao gặp được ân nhân,

Là nhờ dư phúc nương thân đó mà.

Âm công vun lấy phúc nhà.

Hết lòng cứu giúp người ta khi nghèo.

Anh gian, cậu ác chớ theo,

Nhãng tình máu mủ, chỉ yêu bạc tiền.

Có trời báo ứng ở trên.

Khúc mười hai: VÃN THIỀU HOA (Cảnh xuân về cuối)

Còn gì ân ái trong gương,

Còn gì giấc mộng trên đường công danh.

Cảnh thiều hoa đi sao nhanh,

Chăn uyên màn gấm thôi đành bỏ qua.

Mũ châu, áo phượng thướt tha,

Chống làm sao nổi vận nhà bấp bênh.

Già, nghèo khó chịu đã đành,

Cũng nên tích đức để dành về sau.

Ngông nghênh trâm ngọc trên đầu,

Ấn vàng trước ngực muôn màu sáng trưng.

Uy quyền lộc vị lẫy lừng,

Suối vàng buồn thảm đường chừng gần thôi.

Xưa nay khanh tướng còn ai,

Họa còn tiếng hão cho đời ngợi khen.

Khúc mười ba: HẢO SỰ CHUNG (Việc hay đến lúc hết)

Xuân đi hương vẫn còn rơi,

Nguyệt hoa gây vạ suy đồi vì ai ?

Nhà suy bởi tại Kính rồi,

Nhà tan trước hết tội thời tại Ninh.

Gây nên oan trái vì tình.

Khúc mười bốn: PHI ĐIỂU CÁC ĐẦU LÂM (Chim bay về rừng)

Quan thì cơ nghiệp suy tàn,

Giàu thì vàng bạc cũng tan hết rồi.

Có ơn chết để trốn đời,

Rành rành báo ứng những ai phụ lòng.

Mạng đền mạng, đã trả xong,

Lệ đền lệ, đã ròng rong tuôn rơi.

Oan oan đừng lấy làm chơi.

Hợp tan đã trốn được trời hay chưa ?

Gian nan là bởi kiếp xưa,

Giá mà phú quý là nhờ vận may,

Khôn thì vào cửa "Không" này,

Dại thì tính mệnh có ngày mất toi.

Như chim khi đã hết mồi,

Bay về rừng, thẳm đậu nơi yên lành.

Hát xong, tiên nữ lại hát những bài phụ, Thấy Bảo Ngọc không lấy làm thích lắm, tiên cô thở dài:

- Anh ngốc này vẫn chưa tỉnh ngộ.

Bảo Ngọc thấy mình bàng hoàng hoảng hốt, vội bảo ca nữ đừng hát nữa, và kêu say, xin đi nằm. Tiên cô truyền bảo dọn bàn tiệc đi, đưa Bảo Ngọc vào một buồng thêu thơm tho. Trong đó trang hoàng nhiều đồ xưa nay chưa từng thấy. Đáng sợ nhất là có một nàng tiên ngồi đấy, tươi đẹp nhu mì, giống hệt Bảo Thoa, dịu dàng phong lưu lại như Đại Ngọc. Bảo Ngọc chưa biết thế nào, chợt nghe tiên cô nói:

- Dưới trần bao nhiêu nhà phú quý, những nơi gió trăng trước cửa sổ, khói mây trong buồng thêu, đều bị bọn trai hư gái hỏng làm nhơ bẩn. Đáng giận hơn nữa là xưa nay những bọn con nhà khinh bạc hay biện bạch rằng "hiếu sắc mà không dâm" lại bảo "tình mà không dâm", đó chỉ là những lời để che lấp thói xấu mà thôi. Biết đâu "hiếu sắc tức là dâm". "Biết tình lại càng dâm". Vì thế, cuộc gặp gỡ ở Vu Sơn, chuyện vui thú về mây mưa, đều do chuộng sắc ham tình mà gây nên. Ta ưa anh, vì anh là một người dâm nhất thiên hạ xưa nay.

Bảo Ngọc nghe xong, sợ hãi, vội vàng nói:

- Tiên cô lầm rồi. Tôi vì lười học, cha mẹ thường mắng luôn, đâu còn dám phạm đến chữ "dâm". Vả tôi còn bé, chẳng biết "dâm" là thế nào?

Tiên cô nói:

- Không phải thế đâu. Dâm dù một lẽ, nhưng ý thì khác nhau. Những kẻ hiếu dâm trên đời chẳng qua là ưa sắc đẹp, thích múa hát, đùa bỡn không chán, "mây mưa" bừa bãi không chừng, chỉ sợ thiên hạ không đủ mỹ nữ để cung thú vui chốc lát cho mình, đó là những hạng ngu xuẩn, chỉ biết thú vui bề ngoài thôi. Như anh, khi mới sinh ra đã mang một mối si tình, chúng ta gọi thế là "ý dâm". Hai chữ "ý dâm" chỉ có thể hiểu ngầm trong lòng, chứ không thể nói ra miệng được. Riêng anh thì xứng với hai chữ này. Ở trong khuê các, anh có thể là bạn tốt đấy, nhưng khi ra đời thì vẫn mang tiếng là người vớ vẩn, quái gở sẽ bị trăm miệng cười giễu, muôn mắt lườm nguýt. Nay ta đã gặp hai cụ Vinh công, Ninh công nhà anh tha thiết ký thác, ta không nỡ để cho anh là người làm vẻ vang cho bọn khuê các mà lại bị đời ruồng bỏ. Vì thế, ta dắt anh đến đây, cho uống rượu ngon, thưởng trà tiên, nghe hát hay, lại gả cho anh một cô gái tên là Kiêm Mỹ, tên chữ là Khả Khanh. Đêm nay được giờ tốt, nên thành thân ngay. Chẳng qua để cho anh nhận biết ảo cảnh cõi tiên còn thế, huống chi là dưới trần. Từ giờ trở đi, chú ý vào đạo Khổng, Mạnh, dấn mình vào con đường giúp đời, giúp nước mới được.

Nói xong tiên cô tham dạy cách "mây mưa", rồi đẩy Bảo Ngọc vào buồng, khép cửa lại.

Bảo Ngọc mơ mơ màng màng, theo lời tiên cô dạy, làm những việc như vợ chồng ân ái với nhau. Đến hôm sau thì ân tình đằm thắm, trò chuyện nỉ non, cùng Khả Khanh bịn rịn không rời nhau một bước. Nhân lúc hai người dắt tay đi chơi, đến một chỗ gai góc đầy đường, hùm sói hàng đản, trước mặt lại có một cái suối nước đen, không có cầu sang. Đương lúc dùng dằng, chợt thấy Cảnh ảo tiên cô từ phía sau gọi:

- Đừng đi nữa, quay về ngay.

Bảo Ngọc vội đứng dừng lại hỏi:

- Đây là chỗ nào? .

Tiên cô nói:

- Đây là bến mê, sâu hàng vạn trượng, rộng hàng muôn dặm, không có thuyền đi qua, chỉ có một cái mảng gỗ, Mộc Cư Sĩ bẻ lái, Hôi Thị Giả đẩy sào, chở không lấy tiền, ai có đạo duyên mới sang được. Nay anh ngẫu nghiên đến đây, nếu không may ngã xuống đó thì thực phụ những lời dặn bảo ân cần của ta!

Nói chưa dứt lời thì nghe thấy ở trong bến Mê có tiếng ầm ầm như sấm, có nhiều quỷ dạ xoa dưới bể nhô lên định lôi Bảo Ngọc, làm Bảo Ngọc sợ hãi, mồ hôi toát ra như mưa, kêu thất thanh: "Khả Khanh, cứu tôi với!" Bọn Tập Nhân và a hoàn vội vàng chạy đến ôm Bảo Ngọc và nói:

- Cậu Bảo đừng sợ, chúng tôi ở đây cả.

Tần thị đương ở ngoài buồng dặn dò đám a hoàn nhỏ coi giữ đừng cho mèo chó cắn nhau; chợt nghe Bảo Ngọc nằm mê gọi tên tục mình, trong bụng đâm buồn bực: "Ở đây chẳng ai biết tên mình cả, sao trong chiêm bao, Bảo Ngọc lại biết mà gọi ra. Thực là:

Một hồi mộng kín chờ ai đấy?

Nghìn thuở tình ngây một tớ thôi.

--------------------------------

(1). Hồi này có hai điểm nên chú ý.

a) Tổng quát tất cả những nhân vật và những sự việc quan hệ mật thiết tới Bảo Ngọc và gia đình họ Giả. Kim lăng thập nhị thoa chính sách phó sách, hựu phó sách và mười hai bài ca Hồng lâu mộng, có thể gọi là những câu sấ m, hoặc là lá số tiền định. Theo những việc ở các hồi sau chúng ta có thể đoán: thí dụ bài một: Tinh Văn bị đuổi về nhà rồi chết, bài hai: Tập Nhân về sau lấy Tưởng Ngọc Hàm là một chàng hát tuồng bài ba, Hương Lăng tức Anh Liên con Chân Sĩ ẩn lấy Tiết Bàn đẻ con rồi chết, bài tư: Bảo Ngọc yêu Đại Ngọc. Bảo Thoa lại lay Bảo Ngọc, rồi Bảo Ngọc bỏ Bảo Thoa đi tu. Bài năm: Nguyên Xuân lấy vua, không được lâu rồi chết. Còn những bài khác hoặc nói về Đại Ngọc chết non hoặc nói về Diệu Ngọc bị kẻ cướp bắt đi, hoặc nói về Nghênh Xuân lấy phải chồng bất lương, hoặc nói về Tích Xuân chán đời đi tu... Đọc các hồi sau sẽ đoán ra được, kể ra cũng hoang đường thật. Tác giả cố ý bài trí dàn ra một cảnh mộng để xây dựng nội dung cuốn truyện đó mà thôi.

b) Nói nhiều về tinh như Triệu đề, Mộ khốc, Xuân cảm, Thu bi...Lại nói đến cả chữ "dâm" có thể ngờ là "dâm thư", nhưng suy nghĩ hai chữ "cảnh ảo". (cảnh là cảnh tỉnh, ảo là mộng ảo) tác giả có ngụ ý khuyên răn, không nên lấy từ hại ý mà chê là tục.

(2). Bức tranh vẽ người đốt gậy cỏ lê. Lưu Hướng đời Tây Hán đến đọc sách ở gác Thạch Cừ, có một vị tiên chống gậy cỏ lê đến đốt đầu gậy làm đèn cho Lưu Hướng đọc. Về sau dùng điển nãy chỉ người chăm học, đọc sách cả đêm.

(3). Hải đường ngủ đêm xuân.

(4). Vợ Đường Cao Tông. Khi Cao Tông chết, bà ta tự xưng là Tắc Thiên hoàng đế.

(5). Vợ Hán Thánh Đế, người rất nhẹ, có thể đứng trên cái mâm mà múa.

(6). An Lộc Sun, người đời Đường, tư thông với Dương Quý Phi.

(7). Cũng gọi là Thọ Dương Công chúa, con gái vua Tống Vũ Đế.

(8). Chưa tường.

(9). Thái hư: hư không, không có thật, ảo cảnh: cõi huyền ảo.

(10). Phóng xuân: thả cho mùa xuân được tự do.

(11). Nghiệt hải: bể oan nghiệt, tình thiên: trời ái tình.

(12). Cao hoang: hai cái nguyệt ở trong người, châm cứu không hết, thường dùng để chỉ cái bệnh không chữa được.

(13). Con hát.

(14). Đây là kiểu đố chữ. Cây tức là mộc, đất tức là thổ. Mộc ở bên hai chữ thổ là chữ quê.

(15). Ngọc tức là Bảo Ngọc. Rừng tức Lâm Đại Ngọc.

(16). Thỏ tức là Mão, hùm tức là Dần. Theo chuyện, Nguyên Xuân chết vào cuối năm Dần, đầu năm Mão.

(17). Đây là một câu sấm ngữ theo tức chữ tòng. "lệnh" tức chữ lệnh. "Thôi" tức chữ hưu. Ý nói: Lúc đầu nói gì cũng nghe, sau sai khiến được người, cuối cùng bị người bỏ.

(18). Tinh tủy của các thứ hoa thơm.

(19). Một cái hang, chứa hàng nghìn màu hoa đỏ.

(20). Một thành ngữ có ý nói: đành chịu với định mệnh.

(21). Muôn sắc đẹp cùng chuốc chén.

(22). Tên một con sông ở Hồ Nam, chỗ Nga Hoàng và Nữ Anh ngồi khóc vua Thuấn. Về sau dùng điều này tả nỗi trai gái tương tư.

(23). Chỉ những người làm quan ăn lương.

Hồi thứ sáu

Giả Bảo Ngọc mới thử cuộc mây mưa

Lưu lão lão đến thăm phủ Vinh quốc

Sớm gõ cửa nhà giàu,

Nhà giàu cũng chưa đủ.

Tuy không tặng nghìn vàng,

Tình còn hơn máu mủ.

Tần thị nghe thấy Bảo Ngọc nằm mê gọi tên tục mình, bụng lấy làm buồn, nhưng không tiện hỏi kỹ.

Lúc này Bảo Ngọc vẫn còn mê man, bâng khuâng như mất cái gì. Mọi người bưng bát nước hoa quế đến, Bảo Ngọc uống hai ngụm mới đứng dậy sửa lại quần áo. Tập Nhân đến buộc hộ thắt lưng, vừa thò tay vào đùi Bảo Ngọc, thấy một đám dính như hồ lành lạnh, Tập Nhân giật mình co tay lại hỏi:

- Cái gì thế này?

Bảo Ngọc đỏ bừng mặt, bấm mạnh tay Tập Nhân một cái. Tập Nhân là gái thông minh, hơn Bảo Ngọc hai tuổi. Gần đây cô ta cũng hơi biết mùi đời, thấy thế trong bụng hiểu ngay một phần nào, tự nhiên má đỏ bừng lên, không hỏi nữa, cứ thế sửa lại quần áo cho Bảo Ngọc rồi đưa đến chỗ Giả mẫu. Bảo Ngọc ăn qua loa bữa cơm chiều, trở ngay về nhà. Gặp lúc vắng người hầu, Tập Nhân lấy ngay quần lót cho Bảo Ngọc thaỵ Bảo Ngọc ngượng nghịu:

- Chị đừng cho ai biết nhé!

Tập Nhân cũng ngượng nghịu cười khẽ:

- Cậu mơ gì thế? Cái này ở đâu chảy ra thế?

- Không sao nói hết được.

Bảo Ngọc liền đem việc trong mộng kể lại tỉ mỉ cho Tập Nhân nghe. Khi nói đến cuộc mây mưa mà tiên cô truyền cho, làm Tập Nhân xấu hổ, bưng mặt gục đầu xuống cười. Bảo Ngọc xưa nay vẫn thích Tập Nhân có vẻ nhu mì, xinh xắn, bèn nài Tập Nhân cùng mình diễn lại những việc nàng tiên Cảnh ảo đã chỉ dẫn trong mộng. Tập Nhân biết Giả mẫu đã giao mình cho Bảo Ngọc, dù sao cũng không vượt qua khuôn phép, nên bằng lòng, may không ai trông thấy cả.

Từ đấy, Bảo Ngọc biệt đãi Tập Nhân hơn hẳn mọi người. Tập Nhân cũng hết lòng hầu hạ Bảo Ngọc hơn trước.

Nay nói đến phủ Vinh, người không đông lắm, tính trên dưới có tới ba bốn trăm, việc không nhiều lắm, một ngày xử độ vài mươi vụ, rối beng như mối tơ vò, không biết lần từ đâu. Vậy thì nên lấy việc gì, người nào làm đầu mối mà viết truyện được.

Bỗng có một nhà tầm thường, nhỏ nhặt ở xa ngàn dặm, có bà con họ hàng với phủ Vinh, hôm nay đến phủ thăm hỏi, nên nhân tiện xin bắt đầu câu chuyện từ nhà ấy. Các vị ngẫm xem nhà ấy là ai, có bà con gì với phủ Vinh?

Nguyên cái nhà tầm thường ấy là họ Vương, người địa phương này, đời ông làm chức quan nhỏ, trước có quen biết ông của Phượng Thư là bố Vương phu nhân. Vì ham thế lợi nhà họ Vương nên ông ta đến nhận họ và xưng là cháu.

Bấy giờ chỉ có bố Phượng Thư là anh cả Vương phu nhân và Vương phu nhân ở Kinh mới biết có người họ xa này, còn không ai biết cả. Sau đó, người ông mất sớm, chỉ có một con tên là Vương Thành. Vì nhà sa sút phải dọn ra một cái xóm ngoại thành. Vương Thành cũng chết, có con là Cẩu Nhi, lấy vợ họ Lưu, đẻ được một trai đặt tên là Bản, một gái là Thanh. Cả nhà bốn miệng ăn, chuyên nghề làm ruộng. Cẩu Nhi phải đi làm ở ngoài, họ Lưu thì gánh nước, giã gạo, bận rộn suốt ngày. Hai chị em con Thanh, thằng Bản không có người trông nom, nên Cẩu Nhi mời mẹ vợ là già Lưu đến giúp hộ.

Già Lưu góa chồng từ lâu, không có con trai, sống nhờ vào hai mẫu ruộng xấu. Nay con rể mời đến ở, lẽ nào lại không bằng lòng, vì thế già tận tình giúp đỡ rể và con gái. Năm ấy cuối thu sang đông, trời sắp rét, trong nhà chưa có đồ mặc ấm, Cẩu Nhi không khỏi buồn bực, uống vài chén rượu, đâm ra bẳn gắt. Vợ không dám nói động đến. Già Lưu thấy vậy khó chịu mới khuyên:

- Này anh rể ơi! Anh đừng giận tôi lắm điều nhé! Chúng ta là người nhà quê thực thà, hay ăn to nói lớn. Anh còn trẻ tuổi, nhờ bố mẹ ăn mặc đầy đủ quen rồi, nên mới thấy thế đã khó chịu. Khi có tiền thì anh ăn tiêu bừa bãi, lúc hết tiền đâm ra cáu kỉnh, như thế sao gọi là tài trai, là đại trượng phu được? Chúng ta tuy xa thành thị, nhưng vẫn ở trong Kinh độ Thành Trường An này chỗ nào chẳng kiếm ra tiền, chỉ tại mình không biết đấy thôi. Anh cứ ở nhà cáu kỉnh thì được cái gì?

Cẩu Nhi nghe thấy thế vội nói:

- Bà chỉ ngồi xó bếp nói bừa! Bà bảo tôi đi ăn cướp à?

Già Lưu nói:

- Ai bảo anh đi ăn cướp. Chúng ta phải tìm cách gì để sinh sống, nếu không, khi nào tiền nó chạy vào túi mình.

Cẩu Nhi cười nhạt:

- Nếu có cách kiếm tiền thì tôi chẳng đến nỗi này. Tôi không có họ hàng với người thu thuế, bạn bè với người làm quan, thì lần đâu cho rả Họ có đấy, nhưng ai thèm nghĩ đến chúng ta?

Già Lưu nói:

- Không phải thế, người ta chỉ biết lo việc, còn được hay không là nhờ trời. Chúng ta cứ lo đi, may nhờ Phật phù hộ sẽ gặp dịp tốt cũng chưa biết chừng. Tôi sẽ tìm cho anh một cách. Ngày trước nhà anh nhận họ với họ Vương ở Kim Lăng. Hai mươi năm trước đây, họ đối với nhà anh cũng từ tế. Bây giờ anh lại làm bộ không chịu đến thăm họ, thành ra xa hẳn đi. Nhớ lúc trước, mẹ con tôi đã có lần đến đó. Cô thứ hai nhà ấy tính tình nhũn nhặn, không hay kênh kiệu, rất rộng rãi đối với mọi người, giờ là phu nhân họ Giả ở phủ Vinh. Nghe đâu bà ấy đã có tuổi, biết thương người già, kẻ khó, hay bố thí cho sư sãi. Hiện giờ họ Vương được thăng quan ra ngoài biên rồi, nhưng chắc thế nào bà ấy cũng còn nhớ chúng tạ Tại sao anh không chịu đến thăm? May ra bà ấy nghĩ đến người cũ, giúp đỡ ít nhiều cũng chưa biết chừng. Chỉ cốt họ có lòng tốt, nhổ ra một sợi lông măng còn to hơn cái lưng chúng ta.

Vợ Cẩu Nhi nói theo:

- Bà nói phải đấy. Nhưng anh ấy với tôi người ngợm thế này thì làm sao đến nhà người ta được. Chỉ sợ người gác cửa không cho vào thôi.

Cẩu Nhi vốn nặng lòng danh lợi, vừa nghe mẹ vợ nói, trong lòng đã ngứa ngáy. sau lại nghe vợ nói liền, cười nói:

- Bà nói phải đấy. Ngày trước đã có lần bà đến thăm bà ấy, thế thì ngày mai bà nên đi một chuyến nữa, nghe ngóng ra sao?

Già Lưu nói:

- Chao ôi, người ta thường nói: "Cửa nhà quan sâu như bể." Ta là cái thá gì, lại không quen biết ai, thì đi cũng uổng công thôi.

Cẩu Nhi nói:

- Không sao, tôi sẽ bảo cách. Bà dắt cháu Bản đi. Trước hết bà tìm đến Chu Thuỵ là người hầu bà Vương lúc mới về nhà chồng. Gặp được ông ấy, ta sẽ có phần chắc đấy. Ngày trước, cha tôi có giúp ông ấy một việc, từ đấy hai bên đi lại rất tử tế với nhau.

Già Lưu nói:

- Tôi hiểu rồi. Nhưng lâu nay mình không đến thăm, không biết người ta thế nào, thành ra cũng khó nói. Anh là đàn ông, ăn nói lỗ mãng, cố nhiên không nên đến. Vợ anh còn non trẻ cũng không nên xông xáo. Thôi, để gái già này đành giơ mặt hứng lấy việc vậy. Nếu được may mắn thì cả nhà cũng có lợi đấy.

Chiều hôm ấy bàn định xong, hôm sau, trời chưa sáng rõ, già Lưu đã dậy rửa mặt, chải đầu, rồi dặn cháu Bản mấy câu. Đứa bé mới năm, sáu tuổi, nghe nói được ra tỉnh chơi, mừng tíu lên, bảo gì cũng vâng.

Già Lưu dắt thằng Bản vào thành. Khi đến phố Ninh-Vinh, cạnh con sư tử đá ở trước cửa phủ Vinh, thấy chật ních những ngựa và kiệu. Già Lưu đứng lại, phủi quần áo, dặn cháu Bản mấy câu rồi chạy đến chỗ cửa nách. Thấy mấy người đương ngồi trên ghế lớn, ưỡn ngực, phưỡn bụng, khoa chân múa tay, nói chuyện ba hoa, già Lưu rón rén lại chào:

- Lạy các ông ạ!

Mọi người ngắm nghía một lúc rồi hỏi:

- Ở đâu đến đây?

Già Lưu cười đáp:

- Tôi cần hỏi ông Chu là người theo hầu Vương phu nhân, nhờ ông mời ra hộ.

Không ai thèm để ý đến. Một lúc lâu họ mới trả lời:

- Hãy lại góc tường thật xa đằng kia mà chờ. Chốc nữa trong nhà sẽ có người ra.

Trong bọn, có một người lớn tuổi, nói:

- Đừng làm người ta nhỡ việc.

Rồi ngoảnh lại hỏi già Lưu:

- Ông Chu đi sang bên Nam rồi. Nhà ở phía sau, chỉ có bà ấy ở nhà thôi. Mụ đi vòng ra cửa sau mà vào.

Già Lưu cảm ơn, dắt cháu Bản đi vòng ra cửa sau. Thấy trước cửa có nhiều gánh hàng bán thức ăn, bán đồ chơi, lại có mấy chục đứa trẻ đang đùa nghịch ầm ỹ, già Lưu níu lấy một đứa hỏi:

- Hỏi cậu một tí, bà Chu có nhà không?

Đứa bé trừng mắt:

- Bà Chu nào? ở đây có ba bà Chu kia. Còn hai bà Chu nữa. Không biết bà Chu nào?

- Bà ấy là người theo hầu Vương phu nhân.

- Thế thì dễ thôi. Bà cứ đi theo tôi.

Rồi nó lon xon dẫn già Lưu đến bên cạnh tường sau dinh, trỏ bảo:

- Đấy nhà bà ấy đấy.

Nói rồi lại gọi to:

- Bà Chu ơi, có bà già nào hỏi đấy.

Vợ Chu Thụy vội chạy ra hỏi:

- Bà nào đấy?

Già Lưu đon đả chạy lại cười nói:

- Bà chị có được khỏe không?

Vợ Chu Thụy nhìn một lúc rồi cười nói:

- À bà Lưu ! Bà vẫn khỏe đấy chứ! đã mấy năm nay không gặp, thành ra tôi quên mất. Xin mời bà vào nhà chơi.

Già Lưu vừa đi vừa cười nói :

- Bây giờ bà sang rồi, hay quên là phải, còn nhớ gì đến chúng tôi nữa.

Nói xong vào trong nhà.

Vợ Chu Thụy sai con bé pha trà uống, rồi hỏi:

- Cháu Bản đã lớn thế kia à?

Sau mấy câu chuyện kể lại trong khi xa nhau, bà Chu

hỏi già Lưu:

- Hôm nay bà đi qua tạt vào chơi, hay chủ ý đến đây có việc gì?

Già Lưu nói:

- Hôm nay tôi chủ ý đến thăm bà chị, sau nữa muốn đến hầu cả bà Vương. Nếu có thể đưa tôi đến được càng hay, bằng không thì nhờ bà chị nói giúp.

Bà Chu nghe nói đã phần nào đoán được chủ ý của già Lưu. Vì chồng bà Chu trước kia nhờ thế lực bố Cẩu Nhi mới mua tranh được ít ruộng đất. Nay thấy già Lưu nói thế, bà Chu không tiện chối từ, mặt khác muốn tỏ ra là mình có thể diện nên cười nói:

- Bà cứ yên tâm, ở xa thế mà cũng chịu khó đến đây, lẽ nào tôi không dẫn đến chầu đức Phật bà. Cứ lẽ ra, những người đi lại đây không can dự gì đến tôi cả. Mỗi người một việc. Ông nhà tôi một năm hai mùa đi thu tô, lúc rồi thì dắt các cậu đi chơi, thế là hết. Còn tôi, chỉ có việc theo hầu các bà các cô đi chơi thôi. Vì bà là người bà con với bà Hai, vả lại cần đến tôi, tôi xin cố sức giúp hộ. Nhưng có một việc chắc bà không biết, ở đây không như năm năm về trước nữa đâu. Hiện giờ bà Hai không nhìn đến việc gì, tất cả đều giao cho mợ Liễn trông coi. Bà thử đoán xem mợ Liễn là ai? Tức là cháu gái bà Hai, con gái nhà ông cậu, lúc nhỏ cứ gọi là cô Phượng đấy.

Già Lưu nghe vậy lấy làm lạ lùng, hỏi:

- Thế ra cô ấy đấy à? Không trách được! Trước tôi vẫn nói cô ta khá lắm. Thế ra hôm nay tôi lại được gặp.

- Việc ấy cố nhiên rồi. Bây giờ bà Hai còn bận nhiều việc. Hễ khách nào đến có thể đẩy được là đẩy cho mợ Phượng săn sóc tiếp đãi cả. Hôm nay bà chưa nên gặp bà ấv vội, thế nào cũng phải gặp mợ Liễn, thì bà đi chuyến này mới không đến nỗi uổng công.

- Ai di đà Phật! Thôi trăm sự nhờ bà chị.

- Sao bà lại nói thế? Tục ngữ nói rất đúng: "Giúp người tức là giúp mình". Tôi chỉ mất lời nói thôi chứ có tốn kém gì đâu.

Nói xong, bà Chu sai a hoàn lẻn lên nhà trên, dòm xem bên cụ đã dọn cơm chưa. A hoàn đi rồi, hai người ở nhà nói chuyện phiếm. Già Lưu nói:

- Mợ Phượng năm nay chỉ độ hai mươi tuổi thôi, thế mà có tài đảm đang trông coi tất cả công việc trong nhà, thật là ít có.

Bà Chu nói:

- Ái chà? Còn phải nói. Mợ ấy ít tuổi, nhưng đảm đang gấp mấy người tạ Bề ngoài dáng điệu óng ả, tưởng chỉ là một cô gái đẹp, nhưng lại là người có đến vạn con mắt, không chỗ nào là không nhìn thấy. Còn về ăn nói thì chấp cả mười anh đàn ông mồm mép cũng phải thuạ Chốc nữa gặp, bà sẽ biết. Có điều đối với người dưới hơi nghiệt thôi.

Một chốc a hoàn về báo:

- Bên nhà cụ đã dọn cơm xong. Mợ hai đương ở nhà Vương phu nhân.

Bà Chu nghe nói, vội vàng đứng dậy giục già Lưu:

- Đi đi! Chốc nữa họ ăn cơm xong là có dịp rồi đấy, chúng ta đến chờ trước đi. Nếu chậm một bước, nhiều người đến trình việc thì khó nói lắm. Họ ăn xong lại đến giấc ngủ trưa, còn thì giờ nào nữa.

Hai người cùng xuống giường, sửa lại quần áo. Già Lưu nhắc lại thằng Bản mấy câu, rồi theo bà Chu đi quanh đến nhà Giả Liễn. Khi đến buồng ngoài, bà Chu để già Lưu ngồi chờ một chỗ, tự mình đi qua bức tường vẽ, tiến lên cửa dinh. Biết Phượng Thư chưa ra, bà Chu tìm ngay Bình Nhi là một a hoàn hầu cận của Phượng Thư, kể rõ lai lịch già Lưu rồi nói:

- Bây giờ già ấy ở xa đến thăm bà Hai. Vì ngày trước bà Hai đã thường gặp, nên tôi dắt bà ấy đến đây. Chờ khi mợ xuống, tôi sẽ nói rõ đầu đuôi, chắc mợ không mắng tôi là người lỗ mãng.

Bình Nhi nghe xong nói:

- Mời họ lên ngồi chỗ này đã.

Bà Chu ra dẫn bà cháu già Lưu đến thềm giữa. Bọn a hoàn nhỏ vén rèm đỏ lên. Vừa bước vào nhà đã thấy mùi hương ngào ngạt. Già Lưu không biết mùi gì, cứ như đứng ở trong đám mây vậy. Nhìn khắp nhà, đồ vật bày biện sáng choang; làm cho ai nấy phải nhức đầu lóa mắt. Già Lưu bây giờ chỉ biết gật đầu lẩm nhẩm niệm Phật, rồi đến gian nhà phía đông là buồng ngủ của con gái Giả Liễn. Bình Nhi đứng cạnh bục ngắm nhìn già Lưu hỏi một câu và mời ngồi. Già Lưu thấy Bình Nhi khắp người là lượt, trâm vàng, vòng bạc, dáng đẹp như hoa, mặt tròn như trăng, tưởng là Phượng Thư, toan chào là "cô", nhưng thấy bà Chu nói: "Đây là cô Bình". Lại thấy Bình Nhi gọi bà Chu là bà, già Lưu mới biết đấy chỉ là một thị nữ hạng khá. Bình Nhi mời già Lưu và cháu Bản ngồi lên bục, bọn a hoàn nhỏ pha trà mời uống.

Già Lưu nghe có tiếng lách tách như tiếng thanh la, nhìn ngược nhìn xuôi, thấy trên cột có treo một cái hộp, dưới hộp có một cái gì như quả cầu. cứ đưa đi đưa lại luôn. Già Lưu nghĩ bụng: "Nó là cái gì? Dùng nó để làm gì?" đương lúc ngẩn ngơ suy nghĩ thì nghe "Keng" một tiếng như chuông vàng, khánh đồng vậy. Sợ quá, già Lưu trên mắt lên nhìn, lại thấy "keng keng" tám chín tiếng liền, già Lưu toan hỏi thì bọn a hoàn nhỏ chạy xô đến nói:

- Mợ sắp xuống đấy!

Bà Chu và Bình Nhi đứng dậy vội bảo già Lưu:

- Bà cứ ngồi đây chờ một lúc, tôi sẽ lại mời.

Nói rồi chạy ra ngoài.

Già Lưu ngồi im lặng lắng tai nghe ngóng. Chỉ thấy xa xa có tiếng cười, chừng vài chục người đàn bà, quần áo sột soạt, lên thềm đi vào nhà. Lại thấy hai ba người đàn bà cầm hộp sơn đỏ đứng đấy chờ. Rồi trong nhà có tiếng gọi: "Dọn cơm". Mọi người dần dần lui ra, chỉ còn một vài người ở lại bưng thức ăn. Cả nhà im lặng không một tiếng động. Giờ lâu hai người khiêng cái mâm để lên trên bục. Trên mâm bát đĩa đầy những thịt cá, nhưng chỉ mới khuyết qua loa một vài thứ. Thằng Bản trông thấy đòi ăn, già Lưu tát nó một cái. Chợt thấy bà Chu cười hì hì chạy đến vẫy tay gọi. Già Lưu biết ý, dắt thằng Bản xuống bục đi lại gian giữa. Bà Chu đến thì thầm với già Lưu một lúc, rồi cùng rón rén vào nhà trong. Vừa bước vào cửa, già Lưu nhìn thấy trên móc đồng treo một cái màn hoa màu đại hồng, dưới cửa sổ hướng nam, kê một cái bục giải nệm màu đại hồng; cạnh vách phía đông đặt cái nệm, tựa lưng bằng gấm thêu, một cái gối tựa và một cái nệm ngồi cũng thêu bằng chỉ kim tuyến; bên cạnh có cái ống nhổ bằng bạc. Phượng Thư ở nhà thường đội mũ Chiêu Quân lông điêu sắc tía, chung quanh có dây giắt hạt châu, mặc áo hoa màu hồng điều, khoác áo choàng bằng da chuột, viền chỉ tơ màu thạch thanh, mặc quần nền lụa đại hồng phấn son lộng lẫy, ngồi nghiêm chỉnh ở đấy, tay đương cầm cái đũa bằng đồng gạt tro lồng ấp.

Bình Nhi đứng ở bên giường, bưng một cái khay sơn nhỏ, trong có một chén trà. Phượng Thư không cầm lấy chén, không ngửng đầu lên, cứ tay gạt tro, miệng thong thả nói: "Làm sao mãi không mời người ta lên?" Vừa lúc ngẩng lên uống nước thì thấy bà Chu dẫn hai người đứng ở dưới đất. Phượng Thư toan đứng dậy nhưng chưa đứng, vẻ mặt đã tươi cười hỏi han, lại quở bà Chu: "Tại sao không báo sớm?"

Già Lưu đứng dưới đất lạy mấy lạy, hỏi thăm sức khỏe. Phượng Thư nói :

- Chị Chu đỡ dậy, đừng để lạy nữa. Xin mời ngồi. Tôi còn ít tuổi, chưa biết rõ thứ bậc họ hàng, không biết xưng hô thế nào?

Bà Chu nói:

- Đây là bà cụ tôi mới trình mợ lúc nãy.

Phượng Thư gật đầu.

Già Lưu đã ngồi vào mép bục bảo thằng Bản đến hàng trăm lần ra chào mợ Hai, nó vẫn cứ nấp sau lưng, nhằng nhằng không chịu ra.

Phượng Thư cười nói :

- Chỗ họ hàng không năng đi lại, thành ra xa nhau. Người biết ra thì bảo bà con hững hờ với nhau, không đến chơi luôn. Người không biết lại bảo chúng tôi không coi ai ra gì.

Già Lưu vội nói:

- A di đà phật, nhà chúng tôi nghèo khó, không dám đến đây, dù cô không nói gì, nhưng các ông quản gia cũng chẳng coi chúng tôi ra sao.

Phượng Thư cười nói:

- Đừng nói thế, chẳng qua nhờ tiếng ông cha làm một chức quan kiết, chứ giàu có gì, chỉ là cái giá rỗng đấy thôi. Câu tục ngữ nói rất đúng: "Nhà vua còn có ba họ nghèo" nữa là nhà chúng ta.

Nói xong lại hỏi bà Chu đã đến trình bà chưa. Bà Chu đáp:

- Còn chờ lệnh mợ.

Phượng Thư nói:

- Chị đi xem, nếu có ai ở đấy thì thôi, bằng không thì hãy trình xem người bảo sao?

Bà Chu vâng lời đi ngaỵ Phượng Thư sai người lấy hoa quả cho cháu Bản ăn. Vừa nói chuyện phiếm mấy câu, đã có nhiều người nhà đến trình việc. Bình Nhi vào báo. Phượng Thư bảo:

- Ta bây giờ đương bận tiếp khách, bảo họ chiều hãy đến. Nếu ai có việc cần thì cứ vào.

Bình Nhi ra một lúc rồi vào nói:

- Tôi đã hỏi, không có ai có việc gì cần cả. Tôi bảo họ về cả rồi.

Phượng Thư gật đầu.

Bà Chu trở về nói với Phượng Thư:

- Bà nói, hôm nay không được rồi. Mợ tiếp cũng thế. Cảm ơn bà ấy có lòng tốt đến hỏi thăm. Bà ấy đến chơi không thì thôi, nếu có việc gì muốn nói thì cứ nói với mợ cũng được.

Già Lưu nói:

- Không có việc gì, tôi chỉ đến thăm bà cô và cô thôi, vì tình bà con họ hàng với nhau.

Bà Chu nói:

- Không có việc gì thì thôi, nếu cần gì thì cứ nói với mợ cũng như là nói với bà vậy.

Vừa nói bà Chu vừa đưa mắt cho già Lưu.

Già Lưu biết ý, chưa nói mặt đã đỏ bừng. định không nói. Nhưng hôm nay đến đây làm gì. Bà đành ngượng nghịu nói:

- Hôm nay mới gặp lần đầu, đáng lẽ tôi không nên nói thì phải. Nhưng vì từ xa đến đây, tôi không thưa cũng không được.

Vừa nói đến đây thì có bọn a hoàn vào trình:

- Có cậu cả Dung ở bên phủ Đông sang chơi.

Phượng Thư vội gạt tay nói:

- Bà không cần phải nói nữa.

Rồi ngoảnh mặt ra hỏi:

- Cậu cả Dung ở đâu?

Chợt nghe tiếng giày lẹp kẹp , một chàng trẻ tuổi độ mười bảy, mười tám, mặt mũi thanh tú, khổ người mềm mại, ăn mặc lịch sự, áo cừu mỏng, đai dát ngọc, từ ngoài đi vào. Già Lưu bấy giờ cuống quít đứng ngồi không tiện, chẳng biết lánh chỗ nào. Phượng Thư cười nói:

- Bà cứ ngồi yên, cháu tôi đấy.

Già Lưu mới rụt rè ngồi ghé bên cạnh bục.

Giả Dung chào rồi cười nói:

- Cha cháu sai cháu đến nhờ thím một việc. độ trước bên bà ngoại có cho thím cái bình phong pha lệ Ngày mai nhà cháu có khách xin thím cho mượn về, xong cháu sẽ trả ngay.

Phượng Thư nói:

- Cháu đến chậm quá. Hôm nọ ta trót cho mượn mất rồi.

Giả Dung nghe nói cười hì hì, quỳ lom khom ở trên bục nói:

- Nếu thím không cho mượn, cha cháu sẽ bảo cháu không khéo nói, lại bị một trận đòn thôi. Thím ơi! Thương cháu với.

- Không lẽ cái gì của nhà họ Vương cũng đều đẹp cả. Ở bên nhà cháu bao nhiêu đồ đẹp, nhưng hễ thấy cái gì của ta là chỉ chực cuỗm thôi.

- Thôi xin thím cứ làm ơn cho.

- Nhưng hễ sứt sát một tý là ta xé xác đấy!

Rồi sai Bình Nhi lấy chìa khóa mở cửa lầu, gọi mấy người cẩn thận lên khiêng bình phong đi. Giả Dung vội cười nói:

- Cháu sẽ tự dẫn người mang đi không dám làm sứt mẻ một tý.

Nói xong đứng dậy đi.

Phượng Thư chợt nghĩ đến một việc, vội ngoảnh ra cửa sổ gọi :

- Cháu Dung hãy trở lại đây.

Mấy người bên ngoài gọi theo:

- Cậu Dung hãy trở lại.

Giả Dung vội quay lại, buông thõng tay đứng đợi.

Phượng Thư cứ lẳng lặng uống nước, rồi ngẩn một lúc rồi mặt tự nhiên đỏ bừng lên, cười nói:

- Thôi cháu hãy về đi. Cơm chiều xong lại đây sẽ nói. Bây giờ đương có người, ta chẳng bụng nào nghĩ đến nữa.

Giả Dung vâng một tiếng rồi lững thững đi ra.

Già Lưu lúc này mới yên dạ, bèn nói:

- Hôm nay tôi đem cháu cô đến, chẳng có việc gì khác cả. Chỉ vì bố mẹ cháu ở nhà ăn cũng không có, trời lại rét, nên phải mang cháu đến đây.

Nói xong, lại giục thằng Bản:

- Ở nhà bố mày dặn mày đến nói những gì để bày tỏ hết tình cảnh nhà tả Mày chỉ biết ăn thôi!

Phượng Thư biết ngay, thấy đứa bé không nói, liền cười bảo:

- Thôi, không cần nói nữa, tôi biết cả rồi.

Rồi lại hỏi bà Chu:

- Bà Lưu đã ăn cơm sáng chưa?

Già Lưu vội đáp:

- Trời vừa sáng tôi đã tất tưởi chạy đến đây, còn có thì giờ đâu mà ăn nữa.

Phượng Thư bèn sai dọn cơm ngay.

Một lúc bà Chu gọi bưng một mâm cơm để ở gian nhà phía đông rồi dắt già Lưu và thằng Bản sang ăn.

Phượng Thư nói:

- Chị Chu sang mời hộ, tôi không thể tiếp được.

Rồi lại gọi bà Chu đến hỏi:

- Vừa rồi chị đến trình bà, người bảo sao?

- Bà nói bà ấy không phải là người trong họ đâu. Trướcđây ông nhà họ và ông nhà ta cùng làm quan một nơi, nên nhận họ cho thân đấy thôi. Đã mấy năm nay họ không đến thăm nom gì. Trước đây mỗi lần họ đến, không lần nào về không. Nay bà ấy đến thăm, cũng là có bụng tốt; đừng khinh rẻ người tạ Nếu cần gì, mợ cứ việc định đoạt.

Phượng Thư nghe xong rồi nói:

- Không trách được! Bảo là người trong họ, sao ta lại chẳng biết một tí gì?

Hai người đang nói chuyện, già Lưu đã ăn cơm xong, dắt thằng Bản đến, liếm môi liếm mép, lắp bắp cám ơn.

Phượng Thư cười nói:

- Hãy ngồi xuống đây để tôi nói chuyện đã. Bà nói lúc nãy tôi hiểu cả rồi. Đã là người trong họ, đáng ra không đợi bà đến đây tôi mới giúp đỡ. Nhưng giờ nhà tôi nhiều việc, bà Hai đã có tuổi, không thể mỗi lúc nghĩ đến tất cả họ hàng được. Nhà tôi tiếng tăm bề ngoài lừng lẫy thực, biết đâu cũng còn nhiều việc khó khăn. Nói ra chưa chắc đã ai tin. Bà ở xa đến đây, lại lần đầu giãi bày câu chuyện, lẽ nào tôi để cho bà về không. May sao vừa rồi mẹ tôi cho hai mươi lạng bạc để may quần áo cho người nhà, hiện chưa dùng đến, nếu bà không chê ít thì hãy đem về tiêu tạm vậy.

Già Lưu trước nghe nói khó khăn, tưởng không hy vọng gì, trong lòng thậm thột. Sau thấy cho hai mươi lạng bạc thì hớn hở vui mừng, người rạo rực lên, cười nói:

- Chúng tôi biết nhà ta bây giờ cũng khó khăn thực. Nhưng tục ngữ nói: "Con lạc đà còm rúm, vẫn lớn hơn con ngựa". Dù thế nào mặc lòng, nhà ta chỉ nhổ một cái lông măng còn hơn cả cái lưng chúng tôi.

Bà Chu đứng bên, nghe già Lưu nói nhiều câu tục tằn, phải đưa mắt bảo thôi. Phượng Thư cười, không để ý đến, sai Bình Nhi đem gói bạc ra và lấy thêm một quan tiền nữa để cả trước mặt già Lưu. Phượng Thư nói:

- Hai mươi lạng bạc này hãy tạm cho lũ trẻ may áo rét. Hôm nào bà lại đến chơi, thế mới là tình họ hàng. Bây giờ muộn rồi, không muốn mời suông. Khi về nhà, ai nên hỏi thăm, nhờ bà hỏi hộ.

Nói rồi đứng dậy.

Già Lưu tay cầm tiền, mồm cám ơn lia lịa rồi theo bà Chu đi ra.

Bà Chu nói:

- Cha mẹ Ơi, khi gặp mợ ấy sao bà nói vụng về thế? Cứ mở miệng ra bà gọi thằng Bản là cháu cộ Tôi nói câu này bà đừng giận, ngay cháu ruột mợ ấy cũng phải ăn nói cho nhã nhặn. Như cậu Dung mới thực là cháu, chứ đâu lại có thằng cháu như thế này?

Già Lưu cười nói:

- Chị Ơi! Trông thấy mợ ấy tôi yêu quá đi mất, còn nói sao nên lời nữa.

Hai người nói chuyện xong lại đến nhà bà Chu ngồi một lúc. Già Lưu muốn để một lạng bạc cho con bà Chu ăn quà, nhưng bà Chu khi nào thèm để mắt đến, nhất định không nhận.

Già Lưu cám ơn luôn mồm, rồi ra cửa sau về nhà. Thực là:

Để giúp đỡ trong khi hởi dạ,

Hơn bạn bè ở chỗ mang ơn.

Hồi thứ bảy

Đem biếu cung hoa, Giả Liễn đùa Hy Phượng

Ăn yến Ninh phủ, Bảo Ngọc gặp Tần Chung

Bà Chu tiễn già Lưu về rồi, lên trình Vương phu nhân, không thấy ở trong phòng, hỏi ra lũ a hoàn mới biết là sang chơi bên Tiết phu nhân. Bà Chu liền ra cửa nách, qua nhà phía đông, đến viện Lệ hương. Vừa vào cửa, thấy a hoàn của Vương phu nhân là Kim Xuyến cùng một a hoàn mới để tóc đang đùa với nhau ở trên thềm. Trông thấy bà Chu, Kim Xuyến biết tất có việc gì liền hếch mồm vào phía trong ra hiệu.

Bà Chu khẽ nâng rèm bước vào, thấy Vương phu nhân cùng Tiết phu nhân đang nói chuyện lan man hết việc nhà đến việc người. Bâ Chu không dám đánh động, rảo bước vào nhà trong, thấy Tiết Bảo Thoa mặc đồ thường, trên đầu búi tóc trần, ngồi cạnh bục, cúi xuống bàn cùng a hoàn là Anh Nhi đang vẽ hoa. Thấy bà Chu đến, Bảo Thoa bỏ bút xuống, quay người lại, đon đả cười nói:

- Mời chị Chu ngồi.

Bà Chu vội cười hỏi:

- Cô mạnh luôn chứ?

Rồi ngồi cạnh bục nói:

- Đã hai ba hôm nay không thấy cô sang bên kia chơi, hay là cậu Bảo có điều gì trái ý đấy!

- Sao lại nói thế? Chỉ vì bệnh của tôi lại phát, nên phải ở nhà tĩnh dưỡng mấy ngày.

- Thế à? Cô có bệnh gì? Nên mời thầy xem mạch cho thuốc. Còn trẻ tuổi mà mắc bệnh không phải là chuyện chơi đâu!

- Thôi đừng nói chuyện ấy nữa, đã mời bao nhiêu thầy lang, tốn thuốc, tốn tiền, rút cục chẳng thấy hiệu nghiệm gì. Sau có một vị hòa thượng chuyên trị những bệnh không tên, không tuổi, tôi nhờ xem, người bảo tôi bị nhiệt độc từ khi ở trong thai, may mà tiên thiên tốt, nên không việc gì. Thuốc thường thì không ăn thua. Người có kê cho bài thuốc tên là "Hải thượng tiên phương"(1), lại cho một gói thuốc bột để làm thuốc dẫn, mùi thơm lạ thường. Người bảo: hễ thấy đau thì uống một liều là đỡ ngay. Kể cũng lạ thật, uống vào quả thấy hiệu nghiệm.

- Phương thuốc gì, cô cho biết, để sau này có ai mắc bệnh như thế tôi sẽ mách họ, cũng là một việc làm phúc.

- Đừng hỏi phương thuốc ấy còn hơn, nếu hỏi, có khi làm người ta bực đến chết được. Các vị thuốc phải có đồng cân đồng lạng nhất định, khó nhất là được hai chữ "Vừa khéo". Phải có mười hai lạng nhụy hoa mẫu đơn trắng nở vào mùa xuân, mười hai lạng nhụy hoa sen trắng nở vào mùa hạ, mười hai lạng nhụy hoa phù dung trắng nở vào mùa thu, mười hai lạng nhụy hoa mai trắng nở vào mùa đông. Đem bốn thứ này phơi vào ngày xuân phân(2) năm sau, rồi tán kỹ với thuốc bột; lại phải có mười hai đồng cân nước hứng giữa trời đúng vào ngày vũ thủy.

- Ối chao! Mất ba năm mới thành thang thuốc! Nếu ngày vũ thủy không mưa thì làm thế nào?

- Nếu không gặp được nước mưa vừa khéo thì đành lại chờ vậy. Còn phải mười hai đồng cân nước móc vào ngày bạch lộ, mười hai đồng cân nước sương vào ngày sương giáng, mười hai đồng cân tuyết vào ngày tiểu tuyết. Đem bốn thứ này hòa với thuốc, thêm mười hai đồng cân mật ong, mười hai đồng cân đường trắng, viên to bằng quả nhãn, để vào trong cái hũ sứ cổ, chôn ở gốc cây hoa, khi nào ốm thì lấy một viên ra uống, sắc một đồng hai phân hoàng bá làm thang.

- A di đà Phật! Khéo chết người chưa? Chờ đến mười năm nữa cũng chưa chắc đã tìm đủ được các vị thuốc!

- Cũng may, sau khi hòa thượng đi độ một hai năm, vừa khéo tôi tìm đủ các vị để chế được một tễ. Giờ tôi mang từ nam lên, hiện chôn ở gốc cây lê kia.

- Thuốc ấy có tên không?

- Có, hòa thượng bảo tên là Lãnh hương hòa(3).

Bà Chu nghe xong gật đầu hỏi:

- Cô ốm ra sao?

- Không biết thế nào, chỉ ho xuyễn thôi, uống một viên là khỏi

Bà Chu muốn nói nữa, chợt nghe Vương phu nhân hỏi:

- Ai ở trong ấy?

Bà Chu vội chạy ra trình việc già Lưu. Một lúc, thấy Vương phu nhân không nói gì , bà Chu muốn lùi ra thì Tiết phu nhân cười bảo:

- Chị đứng lại đây. Tôi có cái này, nhờ chị mang đi hộ.

Nói xong, gọi: Hương Lăng!

Có tiếng rèm động, a hoàn bé hồi nãy chơi đùa với Kim Xuyến tiến lên hỏi:

- Thưa mẹ bảo gì?

Tiết phu nhân bảo:

- Lấy chùm hoa ở trong hộp mang lại đây.

Hương Lăng vâng lời, mang hộp gấm nhỏ đến. Tiết phu nhân nói:

- Đây là mười hai cành hoa bằng lụa kiểu mới rất đẹp, ở trong cung tết ra để cài đầu. Hôm qua tôi nghĩ: nếu cất đi nó cũ mất, thật đáng tiếc, chi bằng đem ra cho các chị em chúng nó dùng. Tôi định đưa ngay, nhưng rồi lại quên bẵng đi mất. Hôm nay chị đến vừa đúng, nhờ chị mang đi chia giúp. Ba cô nhà, chị chia mỗi cô hai cành, còn sáu cành cho cô Lâm hai cành, cô Phượng bốn cành.

Vương phu nhân nói:

- Sao không để cho cháu Bảo mà lại chia cho các cháu?

Tiết phu nhân nói:

- Chị không biết, con ranh ấy tính lạ lắm! Xưa nay nó có thích hoa thích phấn bao giờ.

Bà Chu cầm hộp ra cửa. Thấy Kim Xuyến vẫn còn ngồi ngoại nắng, bà Chu hỏi:

- Con Hương Lăng này có phải con bé mà người ta thường nói, khi sắp vào Kinh mới mua nó, vì nó mà xảy ra vụ án mạng đấy không?

Kim Xuyến nói:

- Nó đấy, chứ còn ai nữa.

Đương nói, thấy Hương Lăng cười hì hì chạy đến, bà Chu kéo tay nó lại gần, ngắm nghía nó một lúc rồi quay lại phía Kim Xuyến cười nói:

- Dáng điệu con này hơi giống chị Dung bên phủ Đông chúng ta.

Kim Xuyến nói:

- Tôi cũng bảo thế.

Bà Chu lại hỏi Hương Lăng:

- Em đến đây được mấy năm rồi? Cha em ở đâu? Năm nay bao nhiêu tuổi? Quê quán ở đâu?

Hương Lăng lắc đầu:

- Em chẳng nhớ gì cả.

Bà Chu và Kim Xuyến nghe nói than thở hồi lâu.

Một lúc sau, bà Chu đem hoa đến buồng Vương phu nhân. Nguyên gần đây Giả mẫu có nói: "Lũ cháu gái bây giờ đông hơn trước, ở chung một chỗ không tiện, nên chỉ để Bảo Ngọc và Đại Ngọc ở bên cạnh cho đỡ buồn thôi, còn Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích xuân thì cho ở ba gian sau buồng của Vương phu nhân và bảo Lý Hoàn sớm tối trông nom". Bà Chu tiện đường đến đấy trước. Bọn a hoàn nhỏ đang ngồi trong nhà nghe đợi sai gọi. A hoàn của Thám Xuân là Thị Thư, a hoàn của Nghênh Xuân là Tư Kỳ đứng vén rèm, tay hãy còn bưng khay nước. Bà Chu biết ngay là mấy cô đang ngồi chơi đấy, bèn đi vào buồng. Thấy Nghênh Xuân, Thám Xuân đang đánh cờ dưới cửa sổ . Bà Chu đưa hoa và nói rõ là của Tiết phu nhân cho. Hai cô dừng đánh cờ, đứng dậy gửi lời cám ơn, rồi bảo a hoàn cất đi.

Bà Chu vâng lời rồi nói:

- Cô Tích Xuân không ở nhà, có lẽ sang bên cụ.

A hoàn nói:

- Không sang bên ấy thì còn ở đâu.

Bà Chu nghe nói đi sang ngay, gặp Tích Xuân đang cười đùa với sư cô Trí Năng ở am Thủy Nguyệt. Trông thấy bà Chu đến, Tích Xuân hỏi có việc gì. Bà Chu mở hộp ra nói việc Tiết phu nhân sai đem hoa đến cho. Tích Xuân cười nói:

- Tôi đương nói với Trí Năng, ngày mai sẽ cắt tóc theo cô ấy đi tu. Rõ khéo chưa? Giờ lại mang hoa đến! đã cắt tóc thì còn cài hoa vào đâu nữa?

Mọi người cười ầm lên, Tích Xuân sai a hoàn cất hoa đi.

Bà Chu hỏi Trí Năng:

- Sư cô đến đây từ bao giờ? Sư phụ đầu trọc của cô đi đâu?

Trí Năng nói:

- Chúng tôi đến từ sớm. Sư phụ tôi đến thăm bà Hai, rồi sang bên nhà ông Dư, bảo tôi chờ ở đây.

Bà Chu hỏi:

- Tiền hương đến ngày rằm đã lĩnh chưa?

Trí Năng nói:

- Tôi không biết.

Tích Xuân hỏi bà Chu:

- Tiền hàng tháng của các chùa, các miếu, ai trông nom?

Bà Chu đáp:

- Dư Tín trông nom.

Tích Xuân nghe xong cười nói:

- Thảo nào sư phụ khi mới tới, vợ Dư Tín đã đến thì thầm, chắc cũng chỉ vì việc ấy.

Bà Chu nói chuyện với Trí Năng một lúc, rồi sang nhà Phượng Thư. Đi đường cạnh nhà, ven qua cửa sổ nhà Lý Hoàn, rẽ sang tường hoa phía tây, ra đến cửa nách thì đến nhà Phượng Thư. Đến thềm, a hoàn nhỏ là Phong Nhi đương ngồi ở bực cửa, trông thấy, vội vẫy tay bảo đi sang phía đông. Bà Chu biết ý, rón rén đi ngay đến đó, thấy vú em đương ru em ngủ. Bà Chu khẽ hỏi:

- Mợ đương ngủ trưa đấy à? Nên mời dậy hộ.

Vú em cười, bĩu môi lắc đầu. Ngay khi ấy nghe thấy ở trong có tiếng cười, lại là tiếng Giả Liễn. Liền đấy có tiếng mở cửa. Bình Nhi mang cái chậu đồng ra gọi người móc nước. Bình Nhi đi sang bên kia, thấy bà Chu liền hỏi:

- Bà lại đến đây làm gì thế?

Bà Chu vội vàng đứng dậy đưa cái hộp nói:

- Đem cho hoa đây.

Bình Nhi mở hộp lấy bốn cành hoa rồi quay người đi ngay, một chốc cầm hai cành ra, gọi Thái Minh đến bảo: "Đưa sang cho mợ Dung ở phủ bên kia, rồi bảo bà Chu về cám ơn hộ."

Bà Chu vừa ở bên nhà Giả mẫu, đi qua xuyên đường, ngẩng đầu lên, thấy con gái mình ăn mặc chải chuốt, vừa ở nhà mẹ chồng đến. Bà Chu vội hỏi:

- Mày đến đây làm gì?

- Mẹ vẫn khỏe chứ. Con ở nhà chờ suốt nửa ngày, không gặp. Mẹ có việc gì bận mà không về. Chờ mãi không được, con đến thăm cụ. Bây giờ con lại định đến thăm bà Hai đây. Mẹ còn bận việc chưa xong à? Tay cầm cái gì đấy?

- Ối chào! Hôm nay già Lưu đến, thành ra mình lại mua lấy việc, vì bà ta mà tao phải chạy suốt nửa ngày. Vừa rồi, Tiết phu nhân lại sai đem mấy cành hoa cho các cô. Đến bây giờ cũng chưa đưa hết! Hôm nay mày đến đây chắc là có việc gì?

Người con gái cười nói:

- Mẹ khéo đoán thế! Nói thực với mẹ, con rể mẹ hôm trước say rượu cãi nhau với người ta, không biết làm sao, bị người ta vu oan giá họa cho là anh ấy lý lịch không rõ ràng, thưa quan bắt phải giải về nguyên quán. Vì thế con đến nhờ mẹ bàn tính làm thế nào cho xong việc được?

- Tao biết rồi, lo gì việc ấy. Mày chỉ cuống lên thôi. Về nhà trước đi để tao đến đưa hoa cho cô Lâm đã. Bây giờ bà và mợ Hai không rỗi đâu.

Người con gái thấy vậy quay về, lại nói:

- Mẹ về ngay nhé!

- Ừ, con nhà hèn, không từng trải việc, cứ cuống cuồng lên.

Nói xong đi đến buồng Đại Ngọc.

Khi ấy Đại Ngọc đương chơi Cửu liên hoàn(4) ở bên buồng Bảo Ngọc. Bà Chu vào, cười nói:

- Thưa cô Lâm! Tiết phu nhân bảo tôi mang hoa lại biếu.

Bảo Ngọc nói:

- Hoa gì thế, đưa tôi xem nào.

Rồi vội giơ tay đỡ lấy cái hộp xem, thấy hai cành hoa giả làm bằng lụa rất đẹp. Đại Ngọc ghé vào tay Bảo Ngọc xem và hỏi:

- Chỉ đưa cho mình tôi thôi, hay các cô khác cũng có cả.

Bà Chu nói:

- Các cô đều có, hai cành hoa này là của cô đấy!

Đại Ngọc cười nhạt:

- Tôi biết rồi, thừa người mới đến phần tôi.

Bà Chu chẳng dám nói lại câu gì. Bảo Ngọc hỏi:

- Chị Chu sang bên ấy làm gì?

- Vì bà ở bên ấy, tôi sang trình việc. Khi về Tiết phu nhân tiện bảo tôi đem hoa cho các cô.

- Cô Bảo Thoa ở nhà làm gì? Làm sao mấy hôm nay không sang chơi?

- Cô ấy trong mình hơi khó chịu.

Bảo Ngọc nghe nói, ngoảnh ra đám a hoàn nói:

- Có ai sang bên ấy nói là ta và cô Lâm sai sang hỏi thăm sức khỏe bà dì và cô Bảo, lại hỏi xem cô ấy yếu làm sao? Uống thuốc gì? Lẽ ra ta phải sang thăm tận nơi mới phải, nhưng vừa ở trường về, hơi bị lạnh, ngày khác ta sẽ sang thăm.

Nghe dặn xong, Phiến Tuyết nhận lời đi ngay. Bà Chu cũng ra về.

Nguyên con rể Chu Thụy là Lãnh Tử Hưng, bạn thân với Giả Vũ Thôn, vừa rồi nhân việc bán đồ cổ, bị kiện tụng lôi thôi, nên sai vợ đi chạy chọt. Bà Chu cậy thế của chủ , không thèm để bụng đến việc ấy, cho là chỉ đến nhờ Phượng Thư là xong.

Lúc lên đèn, Phượng Thư bỏ những đồ trang sức ra, đến phòng Vương phu nhân thưa chuyện:

- Hôm nay nhà họ Chân mang biếu mấy thứ quà, con đã nhận cả rồi. Nhân tiện bên ấy có thuyền sang đây, con cũng gửi biếu mấy thứ của nhà.

Vương phu nhân gật đầu. Phượng Thư lại nói:

- Lễ mừng sinh nhật cụ bà sinh ra Lâm An Bá, con đã sắm sửa đủ cả rồi, mẹ định sai ai mang đi?

Vương phu nhân nói:

- Con xem những ai rỗi thì sai độ bốn nữ tỳ mang đi là đủ, còn phải hỏi ta làm gì?

Phượng Thư lại cười hỏi:

- Hôm nay chị Trân mời con ngày mai sang chơi, vậy ở nhà có việc gì không?

- Có việc hay không cũng chẳng cần gì, mỗi khi chị ấy mời cả chúng ta thì con không được tự do. Nay không mời chúng ta chỉ mời một mình con, đủ biết chị ấy có bụng tốt, muốn cho con được thoải mái hơn. Con chớ nên phụ lòng người ta, sang chơi là phải.

Phượng Thư vâng lời. Chị em Lý Hoàn, Thám Xuân đến hỏi thăm xong cũng đều về buồng mình.

Ngày hôm sau, Phượng Thư sắm sửa xong, đến trình Vương phu nhân rồi lên trình Giả mẫu để đi. Bảo Ngọc nghe thấy cũng đòi đi theo. Phượng Thư bằng lòng. Bảo Ngọc lập tức thay quần áo, rồi hai chị em ngồi cùng xe đi sang phủ Ninh. Bấy giờ Vưu thị, vợ Giả Trân, cùng con dâu là Tần thị, vợ Giả Dung đều dẫn tỳ thiếp ra cửa đón.

Vưu thị vừa trông thấy Phượng Thư, cười giễu một hồi, rồi dắt tay Bảo Ngọc vào trong phòng ngồi. Tần thị pha nước, Phượng Thư nói:

- Chị và cháu mời tôi sang có việc gì? Có gì thì mang ra? Tôi còn bận việc đây.

Vưu thị, Tần thị chưa kịp trả lời, thì bọn đàn bà hầu cười nói:

- Hôm nay mợ không sang đây thì thôi, đã sang thì không thể về ngay được.

Đương nói chuyện, Giả Dung ra chào, Bảo Ngọc nói:

- Anh Cả hôm nay đi vắng à?

Vưu thị nói:

- Hôm nay anh đi ra ngoài thành thăm bác.

Lại nói:

- Xem ra chó hơi buồn, ngồi đây làm gì, đi ra ngoài mà chơi.

Tần thị cười nói:

- Lần trước chú Bảo muốn gặp em tôi. Hôm nay may sao nó đương ngồi ở buồng học kìa, sao chú không sang chơi?

Bảo Ngọc muốn đi ngay. Vưu thị, Phượng Thư đều ngăn lại: "Vội gì thế?". Và bảo người nhà "phải cẩn thận đưa đi, đừng để chú ấy phải bực mình".

Phượng Thư nói:

- Đã thế sao không gọi cậu ấy sang đây, ta cũng muốn gặp.

Vưu thị cười nói:

- Thôi, thôi! Gặp làm gì? Bạo dạn đâu bằng trẻ nhà mình. Con nhà người ta e dè nhút nhát quen, đã gặp ai sấn sổ như thím bao giờ. Khéo lại làm người ta cười chết đi được.

Phượng Thư cười nói:

- Tôi không cười ai thì thôi, chứ lại để cho đứa bé cười tôi à?

Giả Dung nói:

- Nó vốn hay thẹn, không dám đến gần chỗ đông bao giờ. Thím có trông thấy xin đừng bực mình.

Phượng Thư gắt:

- Nó là con vua Na Tra(5), ta cũng đòi gặp cho được, đừng nói láo. Nếu không mang nó đến đây, ta sẽ cho mày cái tát bây giờ.

Giả Dung cười nói:

- Cháu không dám cưỡng lời, sẽ dắt nó lại.

Lát sau, một cậu bé được đưa đến, so với Bảo Ngọc, gầy hơn một chút, nhưng mặt mũi sáng sủa, môi son, má phấn, dáng người tuấn tú, đi đứng phong nhã, hơn hẳn Bảo Ngọc, chỉ có phần nhút nhát như con gái thôi. Cậu bé bẽn lẽn đến chào Phượng Thư. Phượng Thư thích lắm, đẩy Bảo Ngọc một cái, cười nói:

- Thử sánh xem nào!

Rồi nghiêng mình xuống, cầm tay cậu bé bảo ngồi bên cạnh, thong thả hỏi bao nhiêu tuổi, học sách gì, sau mới biết tên là Tần Chung.

Đám người nhà theo hầu thấy Phượng Thư lần đầu gặp Tần Chung, chưa có quà gì tặng, vội chạy về bảo Bình Nhi. Bình Nhi biết Phượng Thư với Tần thị xưa nay chơi thân với nhau, tuy Tần Chung còn bé nhưng cũng không nên hà tiện, bèn lấy một tấm lụa, hai thoi vàng con có khắc chữ "Trạng nguyên cập đệ"(6). Bảo người mang đến cho Phượng Thư. Phượng Thư nói nhún: "Quà này mọn quá". Chị em Tần thị tạ ơn. Một lúc, ăn cơm xong, bọn Vưu thị, Phượng Thư, Tần thị ngồi lại đánh bài, Bảo Ngọc, Tần Chung ra ngoài nói chuyện với nhau.

Từ lúc Bảo Ngọc gặp Tần Chung, trong bụng bâng khuâng như là mình thiếu cái gì, đứng ngẩn người ra một lúc, nghĩ vơ vẩn: "Trong thiên hạ sao lại có người như thế! Bây giờ xem ra, ta thành như lợn bùn, chó ghẻ vậy! Đáng giận cho ta sinh vào nhà công hầu phú quý, nếu vào nhà nho nghèo, quan kiết để sớm đi lại chơi bời với nhau thì không đến nỗi phí mất một đời. Ta dù tôn quý hơn, nhưng the lụa gấm vóc, cũng chẳng qua để bọc cái cành khô, gỗ mục; rượi nồng, dê béo cũng chẳng qua để lấp cái hố phân, rãnh bùn mà thôi. Hai chữ "phú quý" làm hại người đời xiết bao!"

Về phần Tần Chung thấy Bảo Ngọc dáng điệu hơn người, đi đứng phong nhã, đồ mặc thì mũ vàng, áo gấm, người hầu đều là gái đẹp, trai xinh, bèn nghĩ: "Thảo nào Bảo Ngọc chả được mọi người yêu mến. Ta là con nhà thanh bần, dám đâu chơi thân với cậu ta. Mới biết hai chữ "giàu, nghèo" ngăn hẳn con người thật là một sự rất không vui ở thế gian này".

Hai người đều nghĩ vẩn vơ như vậy. Chợt Bảo Ngọc hỏi Tần Chung đọc sách gì? Tần Chung cứ thực trả lời. Mới trò chuyện được mươi câu, cả hai đã thấy thân mật nhau ngay.

Một lúc người nhà mang nước trà và hoa quả lên. Bảo Ngọc nói:

- Chúng ta không uống rượu, cứ mang hoa quả để lên cái bục con trong nhà, sẽ đến đấy ăn, đỡ bận cho các người.

Rồi hai người vào trong uống nước.

Tần thị một mặt mời Phượng Thư uống rượu, ăn quả, một mặt dặn dò Bảo Ngọc:

- Thưa chú, cháu chú còn ít tuổi, ăn nói có điều gì sơ suất, xin hãy vì tôi mà đừng chấp nó. Nó nhút nhát thực, nhưng ăn nói lại ngang trái, không biết lựa lời đâu.

Bảo Ngọc cười:

- Chị cứ đi, tôi biết rồi.

Tần thị lại dặn dò em mấy câu rồi lại sang tiếp Phượng Thư.

Phượng Thư và Vưu thị cứ một chốc lại sai người đến hỏi Bảo Ngọc muốn dùng thức gì thì cho người sang lấy. Bảo Ngọc nhận lời, nhưng không nghĩ gì đến ăn cả, chỉ hỏi Tần Chung những việc nhà gần đây. Tần Chung nói:

- Năm ngoái thầy học về nghỉ, cha tôi già ốm luôn, lại bận việc quan, vì thế chưa nghĩ đến việc đón thầy. Giờ chỉ ở nhà ôn bài cũ. Vả lại việc học cũng phải có một vài bầu bạn để cùng nhau bàn bạc mới bổ ích.

- Đúng đấy, bên tôi vẫn có một trường học tư. Trong họ, nhà nào không mời được thầy đều gửi đến đấy cả. Con em các nhà thân thích cũng có thể đến được. Năm ngoái thầy dạy tôi về nhà tôi cũng nghỉ học, ý cha tôi muốn tạm cho sang đấy ôn tập, chờ sang năm thầy học lên, tôi lại sẽ học. Nhưng bà tôi bảo: "Một là trường đông người, sợ có khi cãi nhau sinh chuyện; hai là vì độ này tôi mệt nên nấn ná mãi. Cứ như anh nói, chắc ông nhà đang áy náy về việc học của anh. Sao anh không xin sang đây học với tôi, làm bạn với nhau, ích lợi cho cả đôi bên. Như thế chả phải đều tốt cả hay sao?

Tần Chung cười:

- Hôm nọ bàn về việc mời thầy, cha tôi cũng đã nghĩ đến trường học bên này, vẫn muốn sang thưa chuyện với ông nhà; nhưng thấy bên này bận luôn, sợ việc nhỏ nhặt sang quấy quả không tiện. Nếu chú rộng lượng cho tôi sang đây theo hầu rửa nghiên mài mực, thì xin tác thành ngay cho. Chúng ta sẽ không đến nỗi bỏ học, có thể sớm tối gần gũi bên nhau để yên lòng cha mẹ, lại thêm vui tình bè bạn, chẳng hay hơn sao.

Bảo Ngọc nói:

- Cứ yên tâm, hai chúng ta hãy nói chuyện trước với vợ chồng anh Dung và chị Liễn đã. Ngày mai anh về trình với ông nhà, tôi thì trình với bà tôi, như thế lẽ nào việc không chóng xong

Bấy giờ đã đến lúc lên đèn. Hai người bàn định xong rồi ra xem mọi người đánh bài. Khi tính sổ, Tần thị, Vưu thị phải trả tiền rượu, hẹn đến hôm sau sẽ uống rượu phạt, rồi đi ăn cơm chiều.

Trời đã tối, Vưu thị bảo:

- Cắt hai đứa hầu bé, đưa cậu Tần về nhà. Bọn hầu đàn bà truyền ra ngoài, một lúc Tần Chung đứng dậy cáo từ. Vưu thị hỏi:

- Sai ai đưa về đấy?

Bọn hầu đáp:

- Ở ngoài họ cắt Tiều Đại, không ngờ nó say rượu, nó mắng ầm cả lên.

Vưu thị, Tần thị đều nói:

- Cắt nó làm gì, sai một đứa bé nào không được, sao lại còn dây với nó?

Phượng Thư nói:

- Lâu nay người ta chê chị quá nhu nhược, nuông người nhà như thế còn ra thể thống gì!

Vưu thị thở dài:

- Thím không biết thằng Tiều Đại à? Ngay ông tôi và anh Trân cũng rất thương nó. Vì lúc còn trẻ, nó theo cụ ta đi ra trận, ba bốn lần cõng cụ khỏi đống xác chết, mới cứu người toàn mệnh. Nó kiếm được cái gì thì đem cả về cho chủ ăn, còn mình đành nhịn đói. Hai ngày không có nước, nó kiếm được nửa bát cũng đem về cho chủ uống, còn mình thì đành uống nước đái ngựa. Chẳng qua cũng vì công lao ấy, nên khi cụ ta còn sống đều biệt đãi nó. Bây giờ ai cũng mặc kệ nó. Lại thêm nó đã già rồi, chỉ thích uống rượu, không giữ thể diện, khi say bạ ai nó cũng mắng. Tôi thường bảo bọn quản sự, từ giờ trở đi, không được cắt nó làm việc gì, cứ coi như nó đã chết rồi là xong, bây giờ làm sao lại sai nó?

Phượng Thư nói:

- Tôi làm gì chả biết lão Tiều Đại ấy, rút cục chỉ tại các chị không biết tính toán, sao không tống cổ nó đến một cái trại nào xa tít là xong chuyện.

Nói xong lại hỏi: Xe đã sắp đủ chưa?

Người hầu nói:

- Sắp đủ cả rồi ạ.

Phượng Thư đứng dậy cáo từ, dắt Bảo Ngọc về.

Bọn Vưu thị đưa ra đến cửa dinh đèn đuốc sáng trưng. Lũ hầu nhỏ đứng chực ở thềm. Tiều Đại biết Giả Trân không ở nhà, mặc dù ở nhà cũng kệ, hắn cứ tha hồ mà ngang tàng. Nhân mượn chén say, trước hết hắn mắng đại tổng quản là Lại Nhị:

- Sao chẳng công bằng một tý nào? "Mềm thì nắn, rắn thì buông", có món gì bở thì sai người khác, còn việc đưa người lúc đêm khuya trời tối thì lại sai tao. Đồ vô liêm sỉ, vô lương tâm! Thằng quản gia mù kia, mày không nghĩ chứ: Cụ Tiều này chỉ ghếch một cái đùi lên, còn cao hơn cả cái đầu mày. Hai mươi năm về trước, mắt cụ Tiều này chẳng còn biết có ai, ai nói đến giống hèn mạt như chúng mày.

Tiều Đại đang mắng bọn chúng sướng mồm thì vừa lúc Giả Dung ra đưa Phượng Thư lên xe. Mọi người ngăn hắn không được Giả Dung nhịn không nổi, quát to:

- Ai đâu, trói nó lại, chờ ngay mai nó tỉnh rượu, sẽ hỏi nó muốn chết hay muốn sống?

Nhưng dưới mắt Tiều Đại có coi Giả Dung vào đâu, hắn lại kêu to lên:

- Này anh Dung! Đừng làm bộ ông chủ với thằng Tiều Đại này nữa! Không nói anh, ngay bố anh và cả ông anh cũng không dám làm bộ với ta nữa là. Thằng Tiều Đại này làm cho các người được làm quan, được hưởng vinh hoa phú quý! Ông tổ nhà các người một sống mười chết mới để lại cơ nghiệp này đến giờ không báo ơn thì chớ, lại dám lên mặt chủ nhà với ta à? Không nói đến ta còn khá, chứ nói nữa thì ta sẽ: "Lưỡi dao trắng đâm vào, lưỡi dao đỏ rút ra" cho mà xem.

Phượng Thư ở trên xe nói với Giả Dung:

- Sao không tống cổ ngay thằng giặc này đi, để nó ở trong nhà chỉ có hại thôi. Bà con biết chuyện tránh sao khỏi chê cười nhà ta mất cả tôn ti trật tự.

Giả Dung vâng theo.

Mọi người thấy Tiều Đại càn rỡ quá, vật xuống trói lại, lôi nó bỏ vào chuồng ngựa. Tiều Đại càng tức, nói động cả đến Giả Trân. Nó thét ầm lên, đòi đến từ đường khóc với cụ tổ: "Ai ngờ bây giờ lại đẻ ra những giống súc sinh này! Hàng ngày trộm gà bắt chó, nào "Tiểu thúc"(7), nào "Ba hôi"(8), loạn luân cả lũ, tao lại không biết à? Thôi đừng đem cánh tay gãy giấu vào trong ống áo nữa!"

Bọn người nhà thấy nó nói toàn những câu không có trời đất nào, sợ hết hồn vía, trói chặt nó lại, lấy đất và phân ngựa nhét đầy mồm.

Phượng Thư và Giả Dung ở đằng xa nghe thấy đều lờ đi như không. Bảo Ngọc ngồi trên xe, hỏi Phượng Thư:

- Chị ơi, nó nói "Ba hôi", "Ba hôi" là nghĩa thế nào?

Phượng Thư trừng mắt mắng át:

- Đừng nói bậy! Quân say rượu nói càn, em phải lờ đi như không nghe thấy, sao lại còn hỏi lẩn mẩn làm gì? Chị về mách mẹ xem có phải đòn không?

Bảo Ngọc sợ hãi, vội van xin:

- Chị ơi, từ giờ em không dám nói câu ấy nữa.

Phượng Thư nói:

- Thế mới phải chứ. Để khi về, chúng ta sẽ trình cụ, sai người đến trường nói rõ, rồi mời Tần Chung sang học ngay.

Nói xong, trở về phủ Vinh. Thực là:

Bạn khổ chẳng vì người sắc sảo;

Sách ham chỉ tại nét phong lưu.

---------------------------------

(1) Bài thuốc của các tiên ở ngoài bể.

(2) Theo âm lịch: một năm có hai mươi bốn tiết, chia thành xuân phân, vũ thủy, bạch lộ, sương giáng, tiểu tuyết...

(3) Thứ thuốc viên có mùi hoa thơm mát.

(4) Một thứ đồ chơi có chín cái vòng, đánh một cái làm cho chín cái vòng liền nhau.

(5) Theo thần thoại: tên một vị thần con vua Tỷ sa môn, diện mạo hung dữ, pháp thuật cao cường.

(6) Thi đỗ trạng nguyên; bốn chữ thường khác vào cái khánh, hay những thỏi vàng; bạc nhỏ; làm tặng phẩm cho con trai, ngụ ý chúc mừng được thi đỗ cao.

(7) ,(8) Đều là những tiếng lóng: em chồng nằm với chị dâu; bố chồng nằm với con dâu.

Hồi thứ tám

So ngọc thông linh Kim Oanh hơi ngỏ ý

Thăm dò cô Bảo, Đại Ngọc nếm phải chua

Vạc cổ pha trà phượng tủy hương,

Hiếm thay chén ngọc rót quỳnh tương.

Đừng cho là lượt không phong nhã,

Hãy ngắm kim nương cạnh ngọc lang.

Khi Bảo Ngọc và Phượng Thư về đến nhà, chào hỏi mọi người xong, Bảo Ngọc bèn thưa với Giả mẫu, muốn mời Tần Chung đến trường cùng học, để có bạn bè ganh đuạ Bảo Ngọc lại khen phẩm hạnh của Tần Chung rất đáng để mọi người yêu mến. Phượng Thư ở bên cũng nói giúp : "Có ngày Tần Chung sẽ đến hầu bà". Nghe nói, Giả mẫu càng thêm vui mừng. Nhân tiện Phượng Thư mời Giả mẫu đi xem hát ở bên phủ Ninh. Giả mẫu tuy có tuổi, nhưng vẫn thích các cuộc vui. Hôm sau, Vưu thị đến mời, Giả mẫu liền cùng Vương phu nhân, Đại Ngọc và Bảo Ngọc sang xem hát. Đến gần trưa Giả mẫu về nghỉ. Vương phu nhân vốn ưa thanh tĩnh, thấy Giả mẫu về, cũng theo về. Phượng Thư ở lại làm chủ cuộc vui, đến chiều mới thôi. Bảo Ngọc đưa Giả mẫu về, muốn đợi bà đi ngủ trưa rồi sẽ trở lại xem nữa, nhưng lại sợ làm phiền bọn Tần thị. Nghĩ đến Bảo Thoa gần đây phải ở nhà dưỡng bệnh, mình chưa lại thăm lần nào, ý muốn đến đó, nhưng lại sợ đi qua cửa nách nhà trên, gặp việc gì ngăn trở chăng, nếu gặp cha thì càng không tiện. Chẳng thà đi quanh ra đường khác, xa một quãng còn hơn. Khi ấy người nhà đương chờ thay quần áo cho Bảo Ngọc, nhưng thấy Bảo Ngọc đi ra cửa thứ hai, bọn người nhà kéo nhau đi theo, tưởng lại sang bên kia xem hát, ngờ đâu khi đến xuyên đường, Bảo Ngọc lại theo hướng đông bắc đi ra sau dinh. Đang đi thì gặp hai gia khách là Thiềm Quang và Đan Sính. Nhân trông thấy, họ chạy ngay đến, người ôm lưng, người dắt tay Bảo Ngọc, cười nói:

- Phật con của chúng tôi đây! Chúng tôi nằm chiêm bao chăng? Được gặp cậu có dễ dàng đâu?

Họ hỏi thăm sức khỏe rối rít một lúc rồi mới đi. Một bà già gọi hai người kia, hỏi:

- Có phải hai vị Ở chỗ ông lớn lại đây không?

Hai người kia gật đầu:

- Ông hiện đương ngủ trưa ở Mộng Pha Trai(#1) không can gì đâu.

Nói xong rồi đi.

Nghe vậy, Bảo Ngọc cũng cười, rồi quay sang phía bắc, đến viện Lê hương. Lại gặp Ngô Tân Đăng là tổng lĩnh giữ kho tiền và Đài Lương là đầu mục kho thóc, cùng tất cả bảy người đang ở buồng kế toán đi ra. Thấy Bảo Ngọc, họ vội vàng đứng xếp hàng chắp taỵ Có một anh mãi biện tên là Tiền Hoa, vì từ lâu chưa được gặp Bảo Ngọc, vội chạy lên quì gối, chắp tay hỏi thăm sức khỏe. Bảo Ngọc mỉm cười, giơ tay kéo hắn đứng dậy. Mọi người cười nói:

- Hôm nọ chúng tôi thấy chữ cậu viết vào một tờ giấy dán ở một chỗ nọ, rất đẹp. Vậy hôm nào xin cậu viết cho chúng tôi một tờ.

- Trông thấy ở đâu?

- Ở nhiều chỗ. Ai cũng khen, có người đến tìm chúng tôi để xin nữa.

- Có đáng cái gì, các anh cứ nói với bọn hầu nhỏ tôi là được thôi.

Nói xong rồi đi. Mọi người đợi Bảo Ngọc đi khỏi mới lui về.

Bảo Ngọc đến viện Lê hương, vào ngay nhà Tiết phu nhân, thấy Tiết phu nhân đương bảo ban bọn a hoàn thêu thùa. Bảo Ngọc lại chào, Tiết phu nhân kéo lại, ôm vào lòng, cười nói:

- Trời lạnh thế này, không ngờ cháu lại sang được! Hãy lên ngồi cạnh đây cho ấm đã.

Tiết phu nhân sai người pha nước trà uống. Bảo Ngọc hỏi:

- Anh Bàn có nhà không?

Tiết phu nhân thở dài:

- Nó là con ngựa bất kham, ngày nào cũng đi, có chịu ở nhà đâu!

- Chị Thoa có khỏe không?

- Hôm trước cháu đã nghĩ đến nó. Sai người sang hỏi thăm. Nó ở trong nhà ấy. Cháu vào chơi. Trong ấy ấm hơn ngoài này, cháu cứ ngồi luôn đấy, ta thu dọn xong sẽ vào nói chuyện.

Bảo Ngọc nghe nói, vội đi vào nhà trong, thấy trước cửa treo một bức rèm the đỏ hơi cũ. Bảo Ngọc vén rèm vào, thấy Bảo Thoa đương ngồi trên giường thêu kim tuyến, đầu vén, tóc đen nhánh, mặc áo bông màu gụ, cái khoác vai màu tím nhạt viền kim ngân tuyến, quần lụa bông lót màu vàng. Tất cả đồ mặc đều đã rung rúc, giở cũ giở mới, nhìn không có vẻ xa hoa mà lại thêm nhũn nhặn, môi không tô mà đỏ, mày không kẻ vẫn xanh, mặt như mâm bạc, mắt sáng long lanh. Điềm đạm ít lời, có người cho là giả dại; tùy thời đối xử, tự mình chỉ biết phận mình.

Bảo Ngọc vừa nhìn vừa hỏi:

- Chị đã khỏe hẳn chưa?

Bảo Thoa ngẩng đầu lên, thấy Bảo Ngọc, vội đứng dậy, cười nói:

- Xin cám ơn, tôi đã khá rồi.

Nói xong mời Bảo Ngọc ngồi cạnh bục, và sai Oanh Nhi đi pha trà. Bảo Thoa vừa hỏi sức khỏe Giả mẫu, Vương phu nhân, và các chị em, vừa nhìn Bảo Ngọc, thấy đầu đội mũ vàng dát ngọc, trán bịt khăn có hai con rồng vờn hạt châu, mình mặc áo chẽn tay, màu hoa cúc thêu rồng, lót da nách cáo trắng, ngoài thắt dây lưng thêu bướm năm màu, cổ đeo khóa "Trường mệnh"(#2) bùa "Ký danh"(#3), ngoài lại đeo một viên bảo ngọc ngậm ở trong mồm khi mới đẻ. Bảo Thoa nhân cười nói:

- Ngày thường vẫn nghe anh có viên ngọc quý, nhưng chưa xem kỹ, nay phải xem mới được.

Nói xong ghé lại gần. Bảo Ngọc cũng nhích lại, tháo viên ngọc ra đưa tận tay Bảo Thoa. Bảo Thoa nâng viên ngọc lên xem, thấy to bằng quả trứng chim sẻ, sáng suốt như ráng trời ban mai, nhẵn mịn như váng sữa, lóng lánh đủ năm màu. Đó là ảo tưởng của hòn đá ở ngọn Thanh Ngạnh trong núi Đại Hoang. Người sau có bài thơ trào phúng:

Chuyện luyện đá có hay không có ?

Núi Đại Hoang chuyện đó lạ thay!

Đá kia thay mặt đổi mày,

Thịt da một bọc chứa đầy thối tha.

Vàng hết vận, giá đà hết quý,

Ngọc lỡ thời, sáng hóa phai màu.

Đống xương trắng, họ tên đâu?

Nào phường áo mũ, nào lầu phấn son?

Trên mặt hòn đá cũng ghi lại những ảo tưởng của nó và một bài của sư chốc đầu khắc bằng chữ triện. Nay theo nguyên hình vẽ ra đây. Nhưng vì hòn đá ấy rất nhỏ, nên mới có thể ở trong miệng đứa bé khi còn ở trong thai. Nay nếu vẽ như thế, sợ chữ bé quá, làm người xem không thấy, sẽ giảm mất hứng thú. Vì thế nên phóng hơi to ra, để tiện ngắm nghía trong khi nhàn rỗi, và để cho người sau khỏi ngờ rằng: miệng đứa bé có to đâu mà lại ngậm được một vật sù sì như thế.

Mặt trước thông linh bảo ngọc Mặt sau thông linh bảo ngọc

Mặt trước viên ngọc có bốn chữ viết ngang: "Thông Linh Bảo Ngọc"(#4) tám chữ viết dọc: "Mạc thất mạc vương, tiên thọ hằng xương"(#5). Mặt sau có mười hai chữ viết dọc: "Nhất trừ tà tụy, nhị liệu oan ương, tam tri họa phúc"(#6). Bảo Thoa xem xong, lại giơ mặt trước xem kỹ, mồm lẩm nhẩm đọc: "Mạc thất mạc vương, tiên thọ hằng xương". Sau đó Bảo Thoa quay lại bảo Oanh Nhi:

- Mày không đi pha nước à? đứng ngẩn ra đấy làm gì?

Oanh Nhi cười hì hì nói:

- Tôi nghe hai câu này như là đối với hai câu khắc ở cái khóa cổ của cô.

Bảo Ngọc nghe nói, vội cười hỏi:

- Thế ra khóa của chị cũng khắc tám chữ à? Cho tôi xem nào?

Bảo Thoa nói:

- Anh đừng nghe nó, chẳng có chữ gì cả.

Bảo Ngọc nằn nì mãi:

- Chị Ơi, chị coi tôi như thế nào?

Bảo Thoa không từ chối được mới nói:

- Đó chẳng qua vì có hai câu chúc tụng tốt lành, nên ngày nào tôi cũng đeo, nếu không thì nó nặng chình chịch, đeo có thú gì!

Bảo Thoa vừa nói vừa cởi dây, lấy cái chuỗi ngọc có kết hạt châu ở trong cổ áo đại hồng ra.

Bảo Ngọc vội đỡ lấy xem, quả nhiên mỗi mặt có bốn chữ, hai mặt thành hai câu tám chữ: "Bất ly bất khí, phương linh vĩnh kế"(#7), theo cách thức vẽ ra đây:

Mặt trước khóa vàng Mặt sau khóa vàng

Bảo Ngọc xem xong lẩm nhẩm hai lần, lại nhẩm câu của mình hai lần, cười nói:

- Chị Ơi! Tám chữ này với tám chữ của tôi thành một câu đối.

Oanh Nhi cười nói:

- Đó là hòa thượng chốc đầu cho đấy. Người bảo phải khắc vào cái khóa vàng.

Bảo Thoa ngắt lời mắng:

- Sao mày không đi pha nước đem lại đây?

Rồi hỏi lảng Bảo Ngọc ở đâu đến.

Bảo Ngọc ngồi bên cạnh Bảo Thoa, thấy thoang thoảng có mùi thơm dìu dịu, không biết mùi gì, hỏi:

- Chị xức thứ hương gì đấy? Tôi chưa ngửi thấy mùi thơm này bao giờ.

- Tôi rất sợ xức hương! Quần áo đẹp mà xức thì chỉ đầy hơi khói thôi.

- Thế thì mùi gì đấy?

Bảo Thoa nghĩ một lúc nói:

- Phải rồi, đó là mùi thơm của "Lãnh hương hoàn" tôi mới uống sáng hôm nay.

- Thế nào gọi là "Lãnh hương hoàn"? Ngửi sao thơm thế! Chị cho tôi nếm một viên.

- Thôi lại nói nhảm rồi! Anh tưởng mọi thứ thuốc ai cũng uống được hay sao?

Chợt có người vào báo:

- Cô Lâm đến chơi.

Nói chưa dứt lời thì Đại Ngọc đã tha thướt tới nơi. Trông thấy Bảo Ngọc, Đại Ngọc cười nói:

- Ối chào! Tôi đến không đúng lúc rồi?

Bảo Ngọc vội đứng dậy mời ngồi. Bảo Thoa cười nói:

- Sao chị lại nói thế?

Đại Ngọc nói:

- Nếu biết anh ấy ở đây, thì tôi chẳng đến làm gì!

Bảo thoa hỏi:

- Thế là thế nào?

Đại Ngọc nói:

- Thế nào à? Khi đến thì cùng đến, khi không đến thì chẳng ai đến cả; hôm nay anh ấy đến, ngày mai tôi đến, cứ cắt lượt nhau, thế có phải là ngày nào cũng có người đến không? Như thế thì không có lúc nào buồn quá, mà cũng không có lúc nào vui quá. Có gì mà chị không hiểu?

Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc khoác một cái áo đoạn ngoài bằng lông chim màu đỏ sẫm, liền hỏi:

- Có tuyết à?

Bọn hầu già ở dưới nói:

- Có tuyết từ lúc nãy.

Bảo Ngọc nói:

- Lấy cho tôi cái áo đi mưa.

Đại Ngọc cười nói:

- Đấy có phải không? Cứ tôi đến là anh ấy lại chực đi ngay!

Bảo Ngọc nói:

- Khi nào tôi lại đi! Bảo sẵn đấy thôi.

Vú Lý của Bảo Ngọc nói:

- Nay tuyết lại xuống nhiều, phải xem thời tiết cẩn thận, cậu hãy ở đây chơi với chị em đã! Bên bà dì Tiết đã bày tiệc rồi. Tôi cũng bảo người đi lấy áo mưa đến. Bây giờ cho lũ người hầu về nhé.

Bảo Ngọc gật đầu. Vú Lý ra bảo đám trẻ theo hầu: "Về".

Tiết phu nhân đã cho bày xong mấy thức ăn ngon, giữ họ Ở lại uống trà, ăn quả. Bảo Ngọc nhân khoe hôm nọ được ăn món chân ngỗng ở nhà chị Trân bên phủ đông rất ngon. Tiết phu nhân liền lấy ngay món chân ngỗng đã ướp sẵn ra thết.

- Món này có rượu thì tốt lắm!

Tiết phu nhân bèn sai người mang thứ rượu thật ngon đến. Vú Lý đứng lên nói:

- Xin bà dì đừng cho cậu ấy uống rượu.

Bảo Ngọc nằn nì:

- U ơi, tôi chỉ uống một chén thôi.

Vú Lý nói:

- Không được. Trước mặt cụ và bà Hai bên nhà, tha hồ cậu uống hàng vò. Hôm nọ chỉ chợp mắt một tý, tôi không để ý đến, không biết đứa mất dạy nào muốn làm cho cậu vui, không kể sống chết thế nào, đã để cậu uống rượu, thành ra tôi bị mắng mất mặt hai ngày liền! Bà dì không biết tính cậu ấy à? Hễ uống rượu vào là khác tính ngaỵ Chỉ có một hôm cụ vui nên để cậu ấy tha hồ uống, còn các hôm khác đều cấm. Nếu không, tội gì tôi lại mất công chầu chực ở đây.

Tiết phu nhân cười nói:

- Thôi già cứ yên tâm đi uống rượu, tôi không cho cậu ấy uống nhiều đâu. Nếu cụ hỏi, thì đã có tôi.

Rồi bảo a hoàn:

- Hãy mời vú Lý đi uống rượu cho đỡ rét.

Vú Lý nghe nói, đành phải đi uống rượu với mọi người.

Bảo Ngọc lại nói:

- Không phải hâm nữa, tôi thích uống rượu lạnh.

Tiết phu nhân nói:

- Không thế được, uống rượu lạnh hay run tay, không viết được chữ.

Bảo Thoa cười nói:

- Anh Bảo, hàng ngày anh học hỏi được nhiều điều, thế mà anh lại không biết tính rượu rất nóng à? Phải uống nóng thì phát tán nhanh; nếu uống lạnh thì đọng lại ở bên trong, ngũ tạng sẽ bị lạnh, như thế chẳng có hại hay sao? Từ rày anh nên chừa đi, đừng uống rượu lạnh nữa.

Bảo Ngọc nghe nói có lý, bỏ rượu lạnh xuống, sai người hâm nóng mới uống.

Đại Ngọc đương cắn hạt dưa, nhếch mép mỉm cười. Vừa lúc đó a hoàn của Đại Ngọc là Tuyết Nhạn mang đến cái lồng ấp, Đại Ngọc cười hỏi:

- Ai bảo em đem đến cho ta thế? Thật là em chu tất quá. Nhưng ta đã chết rét đâu mà sợ!

Tuyết Nhạn nói:

- Chị Tử Quyên sợ cô lạnh, bảo tôi mang đến đấy.

Đại Ngọc cầm lấy lồng ấp để vào lòng, cười nói:

- Khen cho em cũng khá đấy! Lại biết nghe lời nó. Xưa nay ta bảo em câu gì, em đều để ngoài tai. Thế mà bây giờ nó bảo em, em vâng lời, nhanh hơn chiếu chỉ nhà vua!

Bảo Ngọc nghe nói thế, biết Đại Ngọc mượn cớ nói chọc mình, nhưng không biết trả lời ra làm sao, chỉ hì hì cười mà thôi.

Bảo Thoa vẫn biết Đại Ngọc xưa nay quen lối nói cạnh nói khóe, nên không để ý. Tiết phu nhân cười nói:

- Cháu người vốn yếu, không chịu được lạnh, thế mà nó lại nghĩ đến cháu, chẳng tốt hay sao?

Đại Ngọc cười nói:

- Dì không biết: may mà ở nhà dì đấy, chứ ở nhà khác, chẳng làm cho người ta phát bực hay sao? Nhà ai chẳng có lồng ấp, việc gì phải mang từ nhà đến? Dù rằng bọn a hoàn chu tất thật đấy, nhưng người ta lại cho cháu ngày thường quen thói ngông cuồng đi rồi.

Tiết phu nhân nói:

- Cháu cẩn thận quá, hay để ý đến những việc ấy, chứ ta thì chẳng bao giờ để tâm đến.

Khi nói chuyện, Bảo Ngọc đã uống mấy chén liền. Vú Lý lại lên can ngăn. Bảo Ngọc đương lúc hào hứng, vui chuyện với chị em Bảo Thoa, Đại Ngọc, nói nói cười cười, lẽ nào không đòi uống nữa, đành phải nén lòng nài xin:

- U ơi, cho tôi uống hai chén nữa thôi.

Vú Lý nói:

- Cậu cẩn thận đấy, hôm nay ông ở nhà, sợ hỏi đến bải vở chăng?

Bảo Ngọc nghe nói, rất không bằng lòng, từ từ bỏ chén xuống, cúi đầu ngồi. Đại Ngọc vội nói:

- Đừng làm cho người ta mất vui! Cậu có hỏi, cứ nói là dì giữ ở lại chơi. Bà già này muốn dạy khôn chúng ta đây!

Một mặt khẽ dúi để Bảo Ngọc bực thêm, một mặt lẩm bẩm:

- Mặc kệ mụ ấy! Chúng ta cứ việc vui.

Vú Lý xưa nay biết tính Đại Ngọc, bên cười nói:

- Cô Lâm ơi! đừng xui cậu ấy nữa! Cô khuyên một câu chắc cậu ấy còn nghe hơn!

Đại Ngọc cười nhạt:

- Việc gì tôi phải xui! Tôi cũng chẳng phải khuyên! U cẩn thận quá! Ngày thường cụ tôi vẫn cho anh ấy uống rượu. Hôm nay ở nhà dì, anh ấy có uống mấy chén cũng chẳng sao. Hay nhà dì là người ngoài, không nên ngồi uống rượu ở đây?

Vú Lý nghe đoạn, vừa sốt ruột, vừa buồn cười nói:

- Những lời nói của cô Lâm thật là sắc hơn lưỡi dao.

Bảo Thoa cũng nhịn không nổi, béo má Đại Ngọc một cái, cười nói:

- Thật đấy! Chỉ cô Tần(#8) này hễ mở mồm ra là làm cho người ta giận không giận được, mà vui cũng chẳng thành vui.

Tiết phu nhân nói:

- Cháu Bảo ơi! đừng sợ. Nhà dì chẳng có thức gì ngon cho cháu ăn, cháu không nên để tâm đến những điều lặt vặt ấy, làm cho dì không yên lòng. Cháu cứ việc uống, đã có dì đây. Uống xong ăn cơm, có say thì cháu ngủ lại đây.

Rồi gọi a hoàn:

- Hâm rượu nữa mang lại đây. Dì uống với cháu hai chén, rồi ăn cơm.

Bảo Ngọc nghe nói, lại cao hứng lên. Vú Lý dặn dò a hoàn:

- Các người ở đây cẩn thận nhé, ta về thay quần áo rồi sẽ đến!

Rồi khẽ nói với Tiết phu nhân:

- Xin bà đừng cho cậu ấy uống nữa.

Nói xong ra về.

Tuy còn hai, ba bà già hầu ở lại đấy, nhưng đều hờ hững không ai thiết. Thấy vú Lý đi rồi, họ cũng đều lảng đi mỗi người một ngả. Còn vài a hoàn nhỏ ở lại cố chiều cho Bảo Ngọc vui. May được Tiết phu nhân vừa dỗ, vừa lừa, chỉ cho uống vài chén, rồi sai dọn mâm đi. Lại sai nấu canh da gà với măng chua đem lên. Bảo Ngọc ăn luôn mấy bát, rồi lại ăn già nửa bát cháo gạo cẩm. Bấy giờ Bảo Thoa và Đại Ngọc đã ăn xong, ra uống trà.

Tiết phu nhân mới yên lòng. Bọn Tuyết Nhạn cũng đều ăn cơm xong, lên hầu. Đại Ngọc hỏi Bảo Ngọc:

- Đã về hay chưa?

Bảo Ngọc lim dim mắt nói:

- Em về, anh cũng về!

Đại Ngọc đứng dậy nói:

- Chúng ta ở đây cả ngày rồi, cũng nên đi về, kẻo bên nhà lại tìm.

Nói xong hai người đứng dậy cáo từ.

*

A hoàn vội mang cái mũ đi mưa đến. Bảo Ngọc cúi đầu xuống bảo nó đội vào. A hoàn vừa chụp cái mũ lông màu đại hồng lên đầu. Bảo Ngọc nói ngay:

- Thôi! Thôi! Đồ ngu! Nhè nhẹ chứ. Mày không thấy người ta đội mũ như thế nào à? Để tao đội lấy vậy.

Đại Ngọc đứng cạnh bục nói:

- Om sòm làm gì! Lại đây! Tôi đội cho.

Bảo Ngọc chạy lại ngaỵ Đại Ngọc nhè nhẹ đỡ mạng tóc, đặt mũ lên trên khăn bịt trán, rồi nâng cái bông bằng nhung ở trên đầu trâm to bằng hạt đào lên. Bông rung rúc ngoài mũ. Sửa sang xong, Đại Ngọc ngắm nghía một lúc, rồi nói:

- Đẹp rồi, khoác áo đi mưa vào.

Bảo Ngọc nghe nói, liền cầm áo tơi khoác vào người, Tiết phu nhân vội nói:

- U cháu chưa đến, cháu hãy chờ một lát.

Bảo Ngọc nói:

- Các cháu lại phải chờ họ kia à! Có bọn a hoàn này đi theo là được rồi.

Tiết phu nhân không đành lòng, lại sai hai người đàn bà nữa đưa anh em Bảo Ngọc về.

Hai người đều nói:

- Thật chúng cháu đến quấy rầy dì.

Rồi đi thẳng về buồng Giả mẫu.

Giả mẫu chưa ăn cơm chiều, biết các cháu ở bên nhà Tiết phu nhân về thì rất vui. Thấy Bảo Ngọc say rượu, nên bảo vào buồng nghỉ, không được ra ngoài. Lại sai người chầu chực luôn đấy để xem có cần gọi gì không. Chợt nghĩ đến người đi theo Bảo Ngọc, Giả mẫu hỏi:

- Vú Lý đâu không thấy?

Mọi người không dám nói thẳng là vú đã về nhà, chỉ thưa:

- Đã về đây rồi, nhưng chắc có việc gì, nên lại đi.

Bảo Ngọc đương đi lảo đảo, quay lại nói:

- Mụ ấy còn sướng hơn bà kia! Bà hỏi mụ ấy làm gì? Không có mụ ấy, có lẽ cháu còn sống thêm được vài ngày!

Vừa nói vừa đi về buồng ngủ, thấy bút mực còn bỏ lăn lóc trên bàn. Tình Văn chạy ra đón, cười nói:

- Cậu hay nhỉ! Sớm dậy hứng lên, bảo tôi mài mực, mới viết được ba chữ, đã quăng bút đi mất, làm tôi chờ suốt ngày. Cậu hãy lại ngay đây viết cho hết cái mực này mới xong với tôi.

Bảo Ngọc nhớ đến việc khi sáng mới dậy, nhân cười nói:

- Tôi viết ba chữ ở đâu rồi?

Tình Văn cười nói:

- Thôi cậu say rồi! Lúc cậu đi sang bên phủ có dặn tôi đem dán ở trên cửa, bây giờ lại hỏi. Tôi sợ người khác dán hỏng, tôi phải trèo lên thang dán một hồi lâu, đến bây giờ tay hãy còn rét cóng đây này.

Bảo Ngọc cười nói:

- Tôi quên mất đấy! Tay chị lạnh à? Để tôi nắm cho nóng nhé.

Rồi giơ tay ra nắm lấy tay Tình Văn cùng đến xem ba chữ mới viết dán ở trên cửa.

Một lúc Đại Ngọc đến, Bảo Ngọc cười nói:

- Này, em nói thật nhé, ba chữ này có được chữ nào tốt không?

Đại Ngọc ngửa mặt lên xem, thấy ba chữ "Giáng vân hiên"(#9)) cười nói:

- Chữ nào cũng tốt cả. Sao mà viết giỏi thế! Ngày mai anh viết hộ em một cái biển nhé.

Bảo Ngọc cười nói:

- Em lại trêu anh rồi!

Lại hỏi:

- Chị Tập Nhân đâu?

Tình Văn ngoảnh vào phía trong, giảu mỏ làm hiệu. Bảo Ngọc trông vào, thấy Tập Nhân để cả áo nằm ngủ. Bảo Ngọc cười nói:

- Giỏi lắm. Hãy còn sớm thế mà đã ngủ à?

Lại hỏi Tình Văn:

- Sáng hôm nay tôi ăn cơm ở bên kia có một đĩa bánh đậu. Biết chị thích ăn, nên tôi nói với mợ Trân cho người mang sang để đến chiều chị sẽ ăn. Chị có thấy không?

Tình Văn nói:

- Đừng nhắc đến chuyện ấy nữa. Khi họ mới mang sang, tôi biết là cậu để phần tôi, nhưng vì ăn cơm rồi nên cất đi. Sau vú Lý đến, trông thấy, nói: "Bảo Ngọc chưa chắc đã ăn cái này, để ta mang về cho cháu. Rồi vú sai người đem về nhà.

Đương lúc nói chuyện. Phiến Tuyết mang trà đến, Bảo Ngọc nói:

- Em Lâm xơi nước.

Mọi người cười nói:

- Cô Lâm về từ bao giờ, còn mời!

Bảo Ngọc uống được nửa chén, chợt nghĩ đến trà pha buổi sáng, hỏi Phiến Tuyết:

- Buổi sáng hôm nay pha trà Phong Lộ(#10), ta đã nói thứ trà này uống đến nước thứ ba, thứ tư mới ngon. Sao bây giờ lại pha trà khác?

Phiến Tuyết nói:

- Tôi đã cất đi, nhưng lúc nãy vú Lý đến uống cả.

Bảo Ngọc nghe nói, quăng ngay chén nước cầm trong tay xuống đất, "Choang" một tiếng, chén vỡ tan, nước bắn cả vào quần Phiến Tuyết. Bảo Ngọc nhảy lên hỏi:

- Vú Lý có phải là mẹ các chị đâu mà các chị hiếu thảo thế? Chẳng qua lúc bé, ta có bú sữa vú ấy mấy hôm, thế mà quen lối lên mặt, làm như ông cha người tạ Bây giờ ta không bú nữa, nuôi không vú ấy làm gì. Tống cổ vú ấy đi, cả nhà mới êm thấm!

Nói xong định sang trình Giả mẫu ngay.

Số là Tập Nhân vẫn thức, chỉ nằm giả cách ngủ, để giữ Bảo Ngọc đến đùa cho vui. Trước nghe thấy Bảo Ngọc hỏi chữ, hỏi bánh thì cũng không cần dậy, sau thấy quăng chén, xem có ý tức giận, nên mới dậy khuyên ngăn. Lại có người của Giả mẫu sai sang hỏi "Việc gì thế?" Tập Nhân vội trả lời:

- Tôi pha trà nhỡ trượt chân phải tuyết ngã, vỡ mất cái chén.

Tập Nhân lại khuyên Bảo Ngọc:

- Cậu nhất định đuổi vú Lý cũng được, và chúng tôi cũng muốn xin ra cả, chi bằng nhân dịp này cậu đuổi luôn cả chúng tôi đi một thể, cậu chẳng lo gì không có người hầu khéo hơn chúng tôi.

Bảo Ngọc nghe vậy, không nói gì nữa.

Tập Nhân dắt Bảo Ngọc đến giường ngủ, cởi bộ quần áo, không biết Bảo Ngọc nói gì, chỉ líu tíu luôn mồm, mắt ríu lại. Tập Nhân vội vàng đỡ Bảo Ngọc nằm xuống, rồi tháo viên "Thông linh bảo ngọc" ra, lấy lụa bọc và để xuống dưới nệm, vì sợ ngày mai đeo sẽ lạnh cổ chăng. Bảo Ngọc vừa nằm xuống đã ngủ ngaỵ Bấy giờ vú Lý vừa đến, thấy nói Bảo Ngọc say, không dám vào, chỉ đứng ngoài lắng nghe. Thấy Bảo Ngọc ngủ rồi, vú Lý mới yên tâm về.

Ngày hôm sau Bảo Ngọc tỉnh dậy, có người trình:

- Cậu Dung bên kia dẫn cậu Tần sang thăm.

Bảo Ngọc vội ra tiếp, rồi dẫn vào chào Giả mẫu. Giả mẫu trông thấy Tần Chung dáng điệu phong nhã, đi đứng khoan thai, đáng làm bạn học của Bảo Ngọc, trong bụng rất vui. Liền giữ ở lại uống nước ăn cơm, rồi sai người dẫn sang chào Vương phu nhân. Mọi người vì yêu Tần thị, và thấy phẩm cách Tần Chung như thế, nên mến thích cả. Lúc Tần Chung sắp về, ai nấy đều đem quà ra tặng. Giả mẫu cho một cái túi và một cái tượng "Khôi tinh"(#11) bằng vàng, lấy nghĩa là Văn linh sum họp, lại dặn:

- Nhà cháu ở xa, lúc nắng, lúc rét đi lại không tiện. Cháu nên ở ngay bên này cùng học với chú Bảo, đừng chơi bời với nhưng con nhà lười biếng.

Tần Chung nhất nhất vâng lời, về nhà nói lại với cha.

Cha Tần Chung là Tần Nghiệp hiện làm ở ty doanh thiện lang(#12), năm nay gần bảy mươi tuổi, vợ chết từ lâu. Trước đây vì hiếm hoi. Tần Nghiệp đến Dưỡng Sinh Đường xin một đứa con trai, một đứa con gái, không ngờ đứa con trai lại chết, chỉ còn đứa con gái, lúc nhỏ đặt tên là Khả Nhị Lớn lên cô gái hình dung yểu điệu, tính cách phong lưu. Vì có bà con xa với họ Giả, nên kết làm thông gia. Năm năm mươi ba tuổi, Tần Nghiệp mới đẻ được Tần Chung, năm nay mười hai tuổi. Năm ngoái thầy học về mất, chưa mời thầy khác được, Tần Chung phải ở nhà ôn lại bài cũ. Tần Nghiệp đương muốn đến nói với họ Giả để cho con sang trường bên ấy, khỏi trễ nải việc học. May sao có dịp tốt, Tần Chung được gặp Bảo Ngọc, lại biết thầy dạy là Giả Đại Nho, một vị túc nho lúc bấy giờ. Tần Chung được sang đấy học, có thể tấn tới, thành danh được, nên ông ta vui mừng lắm. Chỉ vì bổng lộc ít ỏi, mà bên ấy thì toàn người giàu sang có con mắt khác người, nếu đưa lễ vật ít quá sợ không tiện. Nghĩ đến việc lớn quan hệ suốt đời của con mình, Tần Nghiệp cố gắng bòn góp được hai mươi bốn lạng bạc làm lễ yết kiến và dẫn Tần Chung đến lạy chào Giả Đại Nho, rồi chờ Bảo Ngọc chọn ngày tốt để cùng vào học.

Biết sau này bị đua hơi vặt,

Thì sáng nay chẳng đọc sách nhầm.

Chú thích:

(1-) Nơi chay tịnh mộng tưởng đến Tô Đông Pha.

(2-) Một thứ trang sức vàng hay bạc làm hình cái khóa khắc bốn chữ "Bản mệnh trường sinh" đeo lên sổ trẻ con cho khước.

(3-) Xem chú thích ở hồi thứ ba.

(4-) Thông suốt đến cõi thiêng liêng.

(5-) Đừng đánh mất, đừng bỏ quên; tuổi tiên được khỏe mạnh mãi.

(6-) Trừ ma quỷ; chữa bệnh tật; biết được những điều dữ, điều lãnh.

(7-) Không xa lìa, không rời bỏ; tuổi thơm được lâu bền mãi.

(8-) Đôi lông mi cau lại có vẻ buồn. Các nhà văn thường dùng để tả vẻ đẹp của người buồn, có nghĩa là càng buồn càng đẹp. Cũng có khi dùng để tả vẻ đẹp của người đàn bà đa sầu đa cảm.

(9-) Hiên: danh từ do các nhà văn xưa dùng để đặt tên chỗ ngồi chơi, ngắm phong cảnh, đọc sách, ngâm thơ... Giáng: màu đỏ; Vân: một loại cỏ thơm dùng để ướp sách cho khỏi mọt; nghĩa rộng là nơi đọc sách, thí dụ: Vân trai, Vân song... Giáng vân hiên: Hiên cỏ vân đỏ, có thể hiểu là nơi đọc sách.

(10-) Tên một thứ chè ngon.

(11-) Theo thiên văn thời cổ: Khôi là ngôi sao đẩu của sao bắc đầu, ứng vào người nào thi đỗ trạng nguyên.

(12-) Một ty coi riêng về công việc kiến trúc.

Hồi thứ chín

Quen nết phong lưu, bạn đa tình cùng vào trường học

Gây chuyện ngờ vực, tên ngoan đồng làm nhộn thư đường

Cha con Tần Chung đang chờ tin họ Giả hẹn ngày vào học. Bảo Ngọc thì muốn gặp ngay Tần Chung, nên chọn ngày hôm sau vào trường, và sai người sang đưa tin: "Sáng mai xin mời cậu Tần sang bên này cùng đi".

Hôm ấy, Bảo Ngọc chưa dậy, Tập Nhân đã sắm đủ bút sách rồi ngồi buồn rũ ở bên giường. Lúc Bảo Ngọc dậy. Tập Nhân vội hầu rửa mặt, chải đầu. Bảo Ngọc thấy Tập Nhân có dáng buồn, bèn hỏi:

- Chị ơi, chị làm sao lại không vui thế? Hay là sợ tôi đi học vắng, khiến các chị buồn?

Tập Nhân cười nói:

- Sao cậu lại nói thế? Đi học là việc rất hay, nếu không thì lêu lổng suốt đời, còn làm nên trò gì được? Chỉ có một điều: khi đi học thì cậu nghĩ đến sách, khi nghỉ thì nghĩ đến nhà, nhất là đừng đùa nghịch với ai, ông biết thì không phải chuyện chơi đâu. Tuy học phải cố gắng, nhưng cũng phải có chừng mực, một là ăn nhiều thì nhai không kỹ; hai là cần phải giữ gìn sức khỏe. Tôi nghĩ thế đấy, cậu nên hiểu cho.

Tập Nhân nói câu nào, Bảo Ngọc gật đầu câu ấy. Tập Nhân lại nói:

- Cái áo da cáo của tôi đã bọc sẵn và giao lũ hầu bé mang đi. Khi ở trường, thấy lạnh, cậu phải nhớ mặc thêm, không như lúc ở nhà, có người trông nom sẵn. Lồng ấp chân, lồng ấp tay, đã cho người mang đi cả rồi. Cậu bắt chúng nó đặt vào chỗ ngồi cho ấm. Cái lũ ranh con lười biếng ấy, không ai bảo thì chúng càng sướng, không chịu làm gì, sẽ để cậu chết rét đấy.

Bảo Ngọc nói:

- Chị cứ yên tâm, tôi lo liệu được cả. Các chị cũng đừng ngồi buồn rũ ở trong nhà này, thỉnh thoảng sang chơi với cô Lâm cho vui.

Bảo Ngọc mặc quần áo xong, Tập Nhân giục đến trình Giả mẫu, Giả Chính và Vương phu nhân. Bảo Ngọc lại dặn dò Tình Văn, Xạ Nguyệt mấy câu, rồi sang trình Giả mẫu, Giả mẫu cũng dặn dò mấy câu, sau sang trình Vương phu nhân, rồi sang trình Giả Chính.

Khi ấy Giả Chính đương ngồi trong thư phòng, nói chuyện với bọn gia khách. Thấy Bảo Ngọc đến chào và nói xin đến trường học, Giả Chính cười nhạt:

- Mày nói đến hai chữ đi học làm tao xấu hổ chết đi được. Cứ như ý tao thì mày đi chơi là đúng hơn. Coi chừng đấy, đừng đứng bẩn đất tao, dựa bẩn cửa tao!

Bọn gia khách đứng dậy cười nói:

- Sao cụ lại nói quá như thế? Cậu nhà đi học chuyến này, thế nào hai ba năm nữa cũng sẽ hiển thân thành danh, chứ không còn trẻ thơ như ngày trước nữa. Sắp đến bữa cơm rồi, mời cậu đi thôi.

Nói xong hai người già dắt Bảo Ngọc ra.

Giả Chính hỏi:

- Những ai đi theo Bảo Ngọc đấy?

Ở ngoài có tiếng dạ ran rồi ba bốn người vào vái chào. Giả Chính nhìn ra, thấy con trai vú nuôi Bảo Ngọc là Lý Quí, bèn hỏi:

- Ngày thường theo hầu nó đi học, thấy nó học đến sách gì rồi? Hay là chỉ học những câu lếu láo, những lối ngỗ nghịch tinh ranh? Lúc nào rỗi, ta sẽ lột da mày và sửa tội cho cái thằng hư thân kia!

Lý Quí run sợ, quỳ xuống, bỏ mũ rập đầu "dạ" "dạ" và nói:

- Cậu ấy đã học kinh Thi đến quyển thứ ba, hình như có câu: "du du lộc minh, hà diệp phù bình"(1) gì ấy, cháu không dám nói dối.

Mọi người ngồi đấy nghe vậy cười ầm lên. Giả Chính cũng không nhịn được cười, liền nói:

- Dù có học ba mươi quyển kinh Thi, cũng là câu chuyện "bịt tai ăn trộm chuông" để lòe người ta thôi. Mày đến trường hỏi thăm sức khỏe tôn sư và trình lại lời của tao: "Không nên dạy theo lối cũ, cho nó đọc kinh Thi hay cổ văn, trước nhất phải giảng cho nó rõ nghĩa và học thuộc lòng Tứ thư đã."

Lý Quí vâng vâng da dạ, thấy Giả Chính không nói gì nữa, hắn mới đứng dậy lùi ra.

Bảo Ngọc đứng chờ ở ngoài cửa nghe ngóng và đợi bọn họ ra cùng đi. Bọn Lý Quí vừa phủi quần áo vừa nói:

- Cậu nghe thấy gì không? Ông định lột da chúng tôi đấy! Đầy tớ nhà chúng ta theo chủ thì được hãnh diện, còn chúng tôi làm đầy tớ cậu thì bị đánh chửi hoài, như thế có đáng thương không?

Bảo Ngọc nói:

- Thôi anh đừng phàn nàn nữa, mai tôi mời anh đánh chén một bữa.

Lý Quí nói:

- Ông trẻ ơi! Ai dám mong ông mời, chỉ xin ông để ý nghe cho một vài câu thôi.

Bảo Ngọc lại đến chỗ Giả mẫu, gặp ngay Tần Chung đã ở đấy và đang nói chuyện với Giả mẫu. Hai người chào nhau, rồi cáo từ xin đi.

Bảo Ngọc chợt nghĩ đến Đại Ngọc, bèn sang bên đó chào để đi. Bấy giờ Đại Ngọc đương ngồi dưới cửa sổ soi gương trang điểm, nghe nói Bảo Ngọc đi học thì cười và nói:

- Tốt lắm, đi chuyến này có thể định "bẻ cành quế trên cung trăng" đấy. Tôi không thể đi tiễn.

Bảo Ngọc nói:

- Cô em chờ tôi đi học về hãy ăn cơm chiều, còn sáp bôi mặt thì để tôi về sẽ pha cho.

Nói chuyện một lúc lâu rồi mới dứt ra đi. Đại Ngọc vội gọi giật lại hỏi:

- Sao không đến chào cô Bảo Thoa nhà anh?

Bảo Ngọc nhoẻn mép cười không nói gì, cùng Tần Chung đi thẳng đến trường.

Trường không xa nhà mấy, do vị thủy tổ họ Giả lập ra, để cho những con em trong họ không mời thầy riêng được thì vào đấy học. Những người làm quan trong họ đều có quyên góp, kẻ nhiều người ít, để chi tiền dầu đèn, thầy học thì mời người nào cao tuổi và có đạo đức đến dạy.

Tần Chung, Bảo Ngọc đến trường, liền đi chào từng người một, rồi vào lớp học. Từ đó hai người đi đứng có nhau, ngày càng thêm thân mật. Giả mẫu lại càng yêu Tần Chung, thường giữ ở lại dăm ba ngày, chẳng khác gì chắt ruột. Nhân thấy Tần Chung không được đầy đủ, Giả mẫu lại giúp cho cả quần áo, đồ dùng. Chưa đầy hai tháng, Tần Chung đã trở thành quen thuộc trong phủ Vinh.

Nguyên Bảo Ngọc xưa nay là người không chịu yên thường thủ phận, cái gì cũng thích theo ý muốn của mình, đã thành cái tật riêng. Bảo Ngọc thường nói với Tần Chung:

- Hai chúng ta cùng lứa tuổi, lại là bạn học. Từ giờ trở đi đừng xưng chú cháu nữa, chỉ gọi là anh em bạn thì phải hơn.

Lúc đầu Tần Chung không dám, nhưng Bảo Ngọc không nghe, cứ gọi là em và gọi tên là Kình Khanh. Tần Chung thấy vậy cũng định phải gọi bừa đi.

Trường học này vốn chỉ nhận con em trong họ và con cháu những nhà bà con thân thuộc thôi. Nhưng tục ngữ nói rất đúng: "Một con rồng chín giống, mỗi giống mỗi khác". Ở đây nhiều người, nên rồng rắn lẫn lộn, trong ấy có cả đám hạ lưu nữa. Từ khi Tần Chung, Bảo Ngọc đến trường, xem ra dáng điệu tươi đẹp như hoa; Tần Chung thì bẽn lẽn nhu mì, chưa nói đã đỏ mặt, ngượng nghịu như con gái; Bảo Ngọc thì nhũn nhặn dịu dàng, nói năng hòa nhã. Vì hai người thân mật với nhau như thế nên tránh sao khỏi sự ngừ vực của một số học trò. Lúc vắng mặt thì người nói thế này, kẻ nói thế khác, giễu cợt, gièm pha khắp cả trong và ngoài lớp học.

Sau khi Tiết Bàn đến ở nhà Vương phu nhân, biết ở đây có một trường học, trong trường lại có nhiều học trò trẻ, nên bệnh "Long dương"(2) lại nổi lên. Hắn cũng mượn tiếng đi học, nhưng "Ba ngày đánh cá thì hai ngày phơi lưới"(3), quăng tiền ra trả công thầy học, chỉ cốt để ăn mặc tiêu xài, đã có mấy đứa bị Tiết Bàn cám dỗ. Việc này không cần nói nhiều. Có hai đứa không biết con cái nhà ai, tên tuổi là gì, chỉ vì thấy chúng có vẻ lẳng lơ, nên cả trường đặt tên cho một đứa là Hương Lân, một đứa là Ngọc ái. Có nhưng người mến thích chúng, định đem lòng không tốt đối với lũ trẻ nhưng lại sợ uy thế Tiết Bàn, nên không ai dám vương vào. Từ khi Tần Chung, Bảo Ngọc đến trường, thấy hai đứa ấy trong bụng cũng vấn vương trìu mến, nhưng biết là bạn tương tri của Tiết Bàn, nên cũng không dám động chạm đến. Hai đứa Hương Lân, Ngọc ái đều để ý đến Tần Chung và Bảo Ngọc. Bốn người sẵn có tình ý với nhau, nhưng chưa dám lộ ra ngoài. Mỗi khi vào học, họ ngồi riêng bốn chỗ, nhưng tám mắt vẫn liếc nhau, hoặc đặt lời mượn ý, vịnh dâu ngắm liễu, xa tỏ nỗi lòng. Ngoài mặt họ lại muốn che mắt mọi người. Không ngờ có mấy đứa láu lỉnh, thấy bộ dạng ấy, thường ở sau lưng chế giễu hoặc nháy mắt đưa mày, hoặc đằng hắng lên tiếng. Việc này xảy ra đã từ lâu rồi.

Một hôm, Đại Nho có việc về nhà, ra sẵn cho học trò một câu đối bảy chữ, để ngày mai sẽ giảng sách và giao cho cháu trưởng là Giả Thụy trông nom nhà trường. Vừa buổi sáng hôm ấy khi gọi tên, thấy Tiết Bàn vắng mặt, Tần Chung thừa dịp liền đầu mày khóe mắt với Hương Lân. Hai người ra hiệu với nhau giả cách đi tiểu, chạy ra sau nhà trò chuyện. Tần Chung hỏi:

- Ông nhà có cấm em chơi với bạn không?

Nói chưa dứt lời, đằng san có tiếng đằng hắng. Hai người giật mình quay lại, thấy một đứa bạn học tên là Kim Vinh. Hương Lân vốn nóng tính, vừa thẹn vừa bực nói:

- Mày đằng hắng cái gì? Định cấm chúng tao nói chuyện à?

Kim Vinh cười nói:

- Chúng bay nói chuyện được, tao đằng hắng không được à? Tao chỉ hỏi chúng bay có chuyện gì sao không nói rõ ràng, mà lại thầm thầm thụt thụt thế? Tao bắt được quả tang, mày còn chối cái gì? Mày cho tao chơi nước đầu, chúng ta im chuyện cả; nếu không, đây sẽ bới tung ra hết.

Tần Chung và Hương Lân đỏ bừng mặt lên hỏi:

- Mày bắt chúng tao về cái gì?

Kim Vinh cười nói:

- Tao hiện bắt được quả tang đấy!

Nói xong nó vỗ tay cười ầm lên:

- Có bánh nướng ngon đây, sao chúng bay không mua một cái mà ăn?

Tần Chung và Hương Lân tức giận lắm, vội đến nói với Giả Thụy là Kim Vinh vô cớ vu oan cho chúng. Giả Thụy vốn người không đứng đắn, chỉ thích lợi, khi ở trong trường hắn thường hay mượn việc công làm việc tư, hạch sách đám học trò phải mời hắn ăn uống. Hắn vào hùa với Tiết Bàn, mong kiếm tiền, kiếm rượu, nên tha hồ để mặc cho Tiết Bàn ngông nghênh làm càn, không những hắn không ngăn cấm mà còn nối giáo cho giặc để lấy lòng Tiết Bàn. Khốn nỗi Tiết Bàn có tính lông bông, nay yêu đứa này, mai yêu đứa khác, gần đây có mới nới cũ, hắn bỏ rơi hai đứa Hương Lân và Ngọc ái. Ngay cả Kim Vinh, trước cũng là bạn thân của Tiết Bàn, nhưng từ khi có Hương Lân và Ngọc ái, thì nó bỏ ngay Kim Vinh. Gần đây Hương Lân và Ngọc ái cũng lại bị nó bỏ rơi nốt, nên Giả Thụy không có ai cưu mang. Giả Thụy không oán Tiết Bàn có mới nới cũ, lại oán Hương Lân và Ngọc ái không biết chiều chuộng Tiết Bàn, vì thế cả Giả Thụy lẫn Kim Vinh đều ghét sẵn hai đứa này. Nay thấy Tần Chung và Hương Lân đến thưa Kim Vinh, Giả Thụy trong bụng cũng khó chịu, nhưng không dám mắng Tần Chung, mà lại quở trách Hương Lân, cho là hay sinh sự. Thành ra Hương Lân tiu nghỉu, Tần Chung cũng bẽn lẽn, đều đi về chỗ ngồi.

Kim Vinh càng lên nước, đầu lắc lư, miệng tóp tép, nói nhiều câu bâng quơ. Ngọc ái ngồi ở đằng xa nghe thấy, liền sinh chuyện cãi nhau. Kim Vinh nhất quyết nói:

- Vừa rồi chính mắt tao trông thấy hai đứa hôn và sờ đít nhau ở đằng sau nhà, chúng nó bàn tán nhau định giở trò ma quái...

Bấy giờ Kim Vinh đắc ý nói bừa, không còn để ý đến ai nữa. Ngờ đâu lại làm cho một người phát bực lên, người ấy là ai? Chính là Giả Tường, hàng chút ngành trưởng bên phủ Ninh, cha mẹ mất sớm, từ bé đến ở với Giả Trân, nay đã mười sáu tuổi dáng người thanh tú, hơn cả Giả Dung. Hai người ở với nhau rất thân. Trong phủ Ninh, nhiều người lắm miệng, nên có những đứa đầy tớ không vừa lòng, hay đặt đều nói xấu chủ. Nhiều chuyện phao đồn nhảm nhí đến tai Giả Trân. Muốn tránh sự hiềm nghi, Giả Trân đã chia nhà cho Giả Tường ra ở riêng ngoài phủ Ninh.

Giả Tường đẹp trai, lại thông minh. Gọi là đi học để che mắt đời chứ hắn vẫn thích chó săn gà chọi, hỏi liễu tìm hoa. Trên có Giả Trân quá yêu, dưới có Giả Dung che chở, nên khắp trong họ không ai dám trái ý hắn. Hắn vốn chơi thân với Giả Dung, nay thấy người ta khinh rẻ Tần Chung, thì khi nào lại chịu nhịn? "Ta phải đứng lên dẹp sự bất bằng này!" Nhưng rồi hắn lại đắn đo trong bụng: "Bọn Kim Vinh, Giả Thụy đều là bạn thân của Tiết Bàn, ta cũng đi lại với chú Tiết. Nay nếu ra mặt bênh Tần Chung, tất nhiên chúng nó sẽ mách chú Tiết, chẳng hóa ra tổn thương đến hòa khí hay sao? Nếu cứ lặng yên, thì tiếng xấu ầm lên, mang tiếng cả lũ. Ta sao không dùng kế ngăn chặn ngay đi, vừa dập tắt được tiếng xấu, lại không mất lòng ai?" Nghĩ xong hắn giả cách ra đằng sau đi tiểu, lẳng lặng gọi thư đồng của Bảo Ngọc là Dính Yên đến cạnh, nói khích mấy câu.

Dính Yên là người hầu đắc lực nhất của Bảo Ngọc, nhưng còn trẻ tuổi, không hiểu việc đời, xưa nay không có việc gì nó cũng còn nạt nộ người ta, nay nghe thấy Giả Tường nói "Kim Vinh khinh rẻ Tần Chung, lại có cả cậu Bảo Ngọc chúng mày cũng dính líu vào đó, nếu không cho nó biết tay, thì lần sau nó còn láo nữa" Dính Yên bèn lập tức đi tìm ngay Kim Vinh. Nó không gọi ông Kim nữa, mà gọi ngay "Họ Kim kia, mày là cái giống gì?" Giả Tường vội xỏ chân vào giày làm bộ sắp sửa quần áo đi ra xem bóng mặt trời, nói: "Đến giờ rồi và nói với Giả Thụy có việc xin về trước. Giả Thụy không dám ngăn lại, đành để cho hắn đi. Dính Yên chạy đến nắm lấy Kim Vinh hỏi:

- Chúng tao có giở trò gì chăng nữa thì can gì đến mày miễn là không đ... thằng cha mày thôi. Mày có giỏi ra đây chơi với ông Dính nhà mày!

Học trò cả trường đều ngơ ngác nhìn, Giả Thụy vội quát:

- Dính Yên không được nói bậy!

Kim Vinh giận tái mặt nói:

- Làm loạn à? Đồ nhãi con mà dám như thế, tao sẽ nói với chủ mày.

Rồi hắn giật tay định quay sang đánh Bảo Ngọc và Tần Chung.

Bỗng vù một tiếng ở phía sau, không biết ai ném cái nghiên lại, nhưng may không trúng vào người nào, lại tạt sang phía bàn của Giả Lam và Giả Huân, là chắt họ gần bên phủ Vinh. Giả Huân lúc bé mồ côi cha, được mẹ nuông chiều, ở trường chơi thân với Giả Lam, cùng ngồi học một chỗ. Giả Huân tuổi còn nhỏ, nhưng chí rất to, bướng bỉnh không biết sợ ai. Hắn đang ngồi ở bàn, trông thấy bạn bè Kim Vinh có ý giúp ngầm Kim Vinh, ném nghiên vào Dính Yên, nhưng lại rơi vào trước mặt mình, cái nghiên vỡ tan, mực bắn tóe ra đầy quyển sách. Hắn không chịu được bèn mắng:

- Quân chết đâm chết chém kia! Chúng bay định đánh hôi à!

Hắn cầm lấy cái nghiên định ném lại, Giả Lam không muốn sinh chuyện, vội giằng lấy cái nghiên bảo:

- Em ơi, không việc gì đến chúng mình.

Giả Huân không nhịn được, thấy cái nghiên đã bị giằng mất, vội vớ ngay cái tráp ném sang bên kia. Nhưng vì người bé, sức yếu nên không đến nơi, lại rơi ngay vào bàn của Bảo Ngọc và Tần Chung. "Choang" một tiếng, sách giấy, bút nghiên đổ tung tóe cả trên bàn, làm vỡ chén nước của Bảo Ngọc, nước đổ ra lênh láng.

Giả Huân nhảy ra, định đánh đứa ném nghiên. Bấy giờ Kim Vinh tiện tay vớ ngay được cái gậy tre, múa tít lên. Phòng hẹp, người đông, tránh sao khỏi đụng phải người! Dính Yên bị ngay một gậy, kêu ầm lên: "Các anh đứng khoanh tay đấy à?" Bảo Ngọc còn một lũ hầu bé là Tảo Hồng, Sừ Dược, Mặc Vũ, ba đứa này lẽ nào lại không hung lên. Chúng kêu ầm ĩ: "Đồ chó đẻ kia: Mày dám lấy gậy đánh người ta à?" Mặc Vũ rút ngay cái then cửa, Tảo Hồng, Sừ Dược tay cầm roi ngựa, xông vào như ong.

Giả Thụy vừa cản người này, vừa ngăn người kia, nhưng nào có ai nghe. Đánh nhau túi bụi, bọn trẻ con thấy vậy có đứa xúm vào đánh hôi cho vui, có đứa nhát gan thì lánh đi một chỗ, lại có đứa đứng lên bàn vỗ tay cười và xúi thêm : "Đánh đi! Đánh đi!" Lúc bấy giờ cả trường sục lên như vạc nước sôi.

Mấy người hầu lớn của Bảo Ngọc là bọn Lý Quí, nghe tiếng ồn ào ở trong trường, vội chạy vào quát phải thôi và hỏi vì cớ gì? Bọn học trò đứa nói thế nọ, đứa nói thế kia, mỗi đứa một phách. Lý Quí mắng Dính Yên một trận rồi đuổi ra. Đầu Tần Chung đụng phải gậy Kim Vinh, toạc một miếng da. Bảo Ngọc lấy vạt áo xoa cho Tần Chung. Thấy mọi người đã đứng yên, Bảo Ngọc bèn bảo Lý Quí:

- Dọn sách vở, mang ngựa lại đây, để ta về trình tôn sư! Chúng ta bị người ta khinh rẻ quá. Không nói gì xa, riêng một việc giữ lễ phép, đến nói với anh Thụy, thế mà anh ấy lại bảo chúng ta trái, để cho người khác mắng chúng ta, lại xui người đánh Dính Yên. Cả Tần Chung cũng bị đánh toạc đầu. Như thế còn học làm gì nữa? Dính Yên thấy người ta khinh nhờn ta, nó mới làm thế, chi bằng về là xong chuyện.

Lý Quí khuyên can:

- Xin cậu đừng nóng. Tôn sư có việc về nhà, nay vì việc nhỏ làm rác tai người, lại càng tỏ ra là mình vô lễ. Cứ ý tôi, cũng nên dàn xếp cho xong, đừng làm phiền đến người. Việc này lỗi ở cậu Thụy cả. Tôn sư đi vắng, cậu ấy là người đứng đầu trông nom trường này, ai làm việc gì cũng phải hỏi cậu ấy. Ai có lỗi đáng đánh thì đánh, đáng phạt thì phạt, có lẽ nào để mặc cho họ lung tung như thế?

Giả Thụy nói:

- Tôi đã mắng gạt đi, nhưng chẳng ai chịu nghe cả.

Lý Quí cười nói:

- Cậu giận tôi cũng cứ nói: vì ngày thường cậu ăn ở không được đứng đắn, nên nói chẳng ai buồn nghe. Nếu trình tôn sư, ngay cậu cũng có lỗi, sao cậu không thu xếp ngay cho xong đi.

Bảo Ngọc nói:

- Thu xếp cái gì? Ta phải về thôi!

Tần Chung khóc nói:

- Có Kim Vinh ở đây thì tôi nhất định phải về.

Bảo Ngọc nói:

- Tại sao thế? Người ta còn đến học nữa là chúng ta? Tôi phải về trình đuổi Kim Vinh đi.

Lại hỏi Lý Quí:

- Kim Vinh là họ hàng của phòng nào?

Lý Quí nghĩ một lúc rồi thưa:

- Thôi đừng hỏi nữa. Nếu nói rõ họ hàng e tổn thương đến hòa khí trong anh em.

Dính Yên ở ngoài nói chêm vào:

- Nó là cháu chị Hoàng, ở bên phủ Đông, chứ là cái hạng gì mà cậy thế đến dọa nạt chúng ta! Cô nó là chị Hoàng chỉ biết tìm cách luồn lụy ton hót mợ Hai Liễn để nhờ vả vay mượn. Hạng chủ nhà ấy tôi coi ra gì đâu.

Lý Quí vội thét mắng:

- Đồ chó con kia! Biết gì mà dám lai nhai nói bậy!

Bảo Ngọc cười nhạt:

- Ta cứ tưởng nó là họ hàng thế nào, chẳng hóa ra cháu gọi chị Hoàng bằng cô. Để ta đến hỏi cô nó.

Nói xong, gọi Dính Yên đến thu xếp sách vở và định đi ngay. Dính Yên chạy lại, đắc ý nói:

- Cậu không cần phải đi, để tôi đến bảo chị Hoàng là cụ cho gọi đến, rồi thuê một cái xe lôi cổ chị ta về, cho cụ hỏi tội, như thế chẳng tiện hay sao?

Lý Quí vội thét:

- Mày muốn chết à? Giờ hồn đấy, tao sẽ đánh mày trước, rồi về trình ông và bà là việc này đều tại mày xui giục cậu Bảo cả! Tao muốn khuyên ngăn cho êm đi, mày lại cứ bới chuyện ra. May làm ầm cả trường học, đã không tìm cách dập tắt đi, lại còn định nhảy vào đống lửa à!

Dính Yên mới chịu im, không dám nói gì nữa.

Bấy giờ Giả Thụy sợ việc kéo dài thành to chuyện, thì bản thân cũng không được yên, nên đành phải khúm núm đến xin nài Tần Chung và Bảo Ngọc. Trước hai người không bằng lòng. Sau Bảo Ngọc nói:

- Bắt Kim Vinh đến tạ lỗi thì sẽ thôi không về trình nữa!

Lúc đầu Kim Vinh không chịu, sau Giả Thụy bắt buộc nó phải xin lỗi, Lý Quí cũng khuyên bảo:

- Việc này do anh gây ra đầu tiên, nếu không chịu thế, thì bao giờ xong chuyện.

Kim Vinh bị ép quá, đành phải vái Tần Chung một vái.

Nhưng Bảo Ngọc không nghe, bắt phải lạy. Giả Thụy chỉ muốn cho yên chuyện nên lại khẽ bảo Kim Vinh:

- Tục ngữ có câu: "Dù tội giết người cũng đến rập đầu xin lỗi là cùng". Mày đã gây chuyện thì phải cố nhịn đi, đến rập đầu cho xong chuyện.

Kim Vinh không làm thế nào được đành phải đến lạy Tần Chung.

------------------------

(1). Chữ trong kinh Thi: Du du lộc minh, thực dã chi bình. Lý Quí không biết đọc sai nên mọi người mới cười.

(2). Long Dương quân: một bầy tôi rất được yêu đương của vua nước Ngụy đời Chiến quốc. Về sau dùng điển này chỉ cái bệnh thích con trai hơn con gái.

(3). Cũng như nói: học ngày đực ngày cái.

Hồi thứ mười

Kim quả phụ tham lợi chịu nhẫn nhục

Trương thái y xem bệnh nói gốc nguồn

Vì dựa vào người nhiều thế mạnh, và Giả Thụy bắt phải tạ lỗi, nên Kim Vinh đành phải lạy tạ Tần Chung, bấy giờ Bảo Ngọc mới chịu thôi, không sinh chuyện nữa. Tan học, Kim Vinh về nhà, càng nghĩ càng tức, lẩm bẩm: "Tần Chung chỉ là em vợ Giả Dung, không phải là con cháu họ Giả, cũng đi học như ta thôi. Chỉ vì nó thân với Bảo Ngọc, nên coi người bằng nửa con mắt. Nếu nó ăn ở đứng đắn thì chẳng nói làm gì, nhưng thường ngày nó lại thậm thậm thụt thụt với Bảo Ngọc, coi như ai cũng mù cả, không trông thấy gì. Nay nó lại đi chằng với đứa khác, chọc vào mắt ta. Dù có gây chuyện, ta lại sợ gì?"

Mẹ Kim Vinh là họ Hồ, nghe con cảu nhảu một mình, bảo:

- Mày lại định sinh sự gì đấy? Tao phải nói khó mãi với cô mày, cô mày lại tìm hết cách để nói với mợ Liễn bên phủ Tây, mày mới có chỗ học. Nếu không nhờ người ta, thì nhà mình sức đâu mời được thầy? Vả chăng, ở bên ấy cơm nước có sẵn, hai năm nay mày được học ở đấy, tao đỡ bao nhiêu tiền. Số tiền bớt ra ấy, tao may thêm quần áo đẹp cho mày. Nếu mày không học ở bên ấy, thì biết thế nào được cậu Tiết, mỗi năm được cậu ấy giúp nhà mình tới bảy tám mươi lạng bạc? Nay mày lại muốn sinh sự thì liệu mày có tìm được chỗ nào học tốt như thế không? Tao bảo cho mà biết, việc ấy khó hơn lên trời đấy! Mày muốn tốt thì đi ngủ ngay đi cho xong chuyện!

Bấy giờ Kim Vinh mới chịu im, không nói nữa. Một lúc ngủ yên. Hôm sau lại đi học như thường.

Cô của Kim Vinh là vợ Giả Hoàng. Giả Hoàng thuộc dòng chữ "ngọc" trong chi trưởng họ Giả. Nhưng có phải cả họ nhà nào cũng được thịnh vượng như phủ Ninh, phủ Vinh đâu? Điều đó chẳng cần phải nói. Vợ chồng Giả Hoàng có một cơ nghiệp nho nhỏ thường hay đến thăm phủ Ninh và phủ Vinh, lại khéo chiều chuộng Phượng Thư và Vưu thị, được họ giúp đỡ, mới có thể sinh sống qua ngày. Hôm ấy trời tạnh ráo, rỗi việc, vợ Giả Hoàng mang theo một bà già, thuê xe về thăm chị dâu và cháu.

Trong khi nói chuyện, mẹ Kim Vinh đem việc hôm qua xảy ra ở trường học, từ đầu đến đuôi, kể cho vợ Giả Hoàng nghe. Vợ Giả Hoàng điên tiết nói:

- Thằng nhãi Tần Chung kia là bà con với họ Giả, thì thằng Vinh này không phải là họ hàng với họ Giả hay sao? Nó cậy thế vừa chứ? Vả lại việc làm của nó có đẹp đẽ gì cho cam! Ngay đến Bảo Ngọc cũng không có phép như thế. Để tôi sang phủ Đông nói chuyện với chị Trân và chị thằng Tần Chung, xem họ phân giải ra sao?

Mẹ Kim Vinh nghe nói hoảng lên, vội vàng ngăn lại:

- Tôi buột miệng nói chuyện với cô đấy thôi, cô đừng sang kể với người ta nữa. Phải trái thây kệ chúng nó. Nếu xảy ra chuyện gì thì cháu nó còn ở yên bên ấy sao được? Sức nhà thì không những không mời được thầy, mà cả đến tiền ăn uống chi dùng cho nó cũng tốn kém nhiều.

Vợ Giả Hoàng nói:

- Việc ấy không ngại. Để tôi sang nói xem sao.

Không nghe lời chị dâu, vợ Giả Hoàng cứ sai bà già gọi xe sang phủ Ninh. Đến nơi, xuống xe trước cửa nách phía đông, vào gặp ngay Vưu thị. Bấy giờ, vợ Giả Hoàng chưa dám tuôn nỗi bực dọc, chỉ vồn vã thăm hỏi, nói mấy câu chuyện phiếm rồi hỏi:

- Hôm nay sao không thấy mợ Dung?

Vưu thị nói:

- Không biết cháu nó ra làm sao, mà hai tháng nay không thấy kinh. Mời ông lang đến xem, lại bảo không phải là có tin mừng. Hai hôm nay, nó cứ đến chiều là người mệt, mắt hoa, chuyện cũng không buồn nói, tôi bảo cháu: "Không nên giữ lễ lắm, sớm tối không cần theo lệ đến thăm nom, phải tĩnh dưỡng mới được. Họ hàng đến, đã có tôi; nếu các bậc bề trên có chê trách điều gì tôi sẽ nói hộ". Tôi dặn cả cháu Dung: "Không được quấy rầy nó. Không được làm nó tức giận, để nó tĩnh dưỡng ít lâu cho khỏe. Nó cần gì thì cứ đến đây mà lấy, nếu chẳng may có mệnh hệ nào mày phải lấy vợ khác, ta chắc rằng có đốt đuốc đi lùng khắp thiên hạ cũng chẳng tìm đâu ra được người nết na như thế. Các bậc trên trong họ không ai là không yêu quý cách cư xử của nó". Vì nó mà bấy lâu nay tôi cứ lo lắng không yên. Không ngờ sáng nay, em trai nó đến thăm, tính còn trẻ con, chưa biết cân nhắc hay dở, thấy chị ốm, đáng lẽ có việc gì tức bực đến đâu cũng không nên nói mới phải. Thế mà nó kể hết cả những chuyện đánh nhau ở trường, chẳng biết đứa nào đến học nhờ mà dám bắt nạt nó, và nói cho chị nó nghe cả những câu chuyện bậy bạ. Thím ơi, chắc thím cũng biết con dâu tôi bề ngoài thì nói cười vui vẻ lắm, nhưng trong bụng hay suy nghĩ, hễ nghe thấy ai nói cái gì, nó cũng đắn đo đến năm ba ngày mới thôi. Bệnh này là do nó nghĩ nhiều quá mà sinh ra. Nay nghe nói có người khinh rẻ em nó, nó vừa buồn vừa tức; buồn vì bọn vô lại gây bè kéo cánh, ăn không nói có, đâm người nọ chọc người kia; tức vì em mình hư hỏng không chịu học, không chuyên tâm sách vở, lại làm ồn cả trường. Vì thế, nó bỏ cả bữa cơm sáng. Tôi khuyên giải một hồi, lại dặn dò em nó mấy câu, bảo hãy sang chơi với Bảo Ngọc ở phủ bên kia. Tôi lại trông cho nó ăn hết nửa bát yến sào rồi mới về đây. Thím tính thế có sốt ruột không? Lại thêm bây giờ không có thầy thuốc nào hay. Nghĩ đến bệnh nó lúc nào, là ruột tôi đau như kim châm. Thím có biết ai chữa thuốc giỏi không?

Kim thị nghe vậy, bao nhiêu cơn tức giận ở nhà muốn đến cãi nhau ngay với Tần thị đều bay đến tận nước Trảo Oa(1) hết cả. Lại nghe thấy Vưu thị hỏi thầy thuốc hay, liền trả lời:

- Tôi không quen thầy thuốc nào, cứ bệnh tình mợ Cả như vậy, chắc đâu không phải là có mang? Chị đừng nên cho chữa bậy kẻo oan gia đấy!

Vưu thị nói:

- Đúng thế.

Hai người đương nói chuyện, Giả Trân ở ngoài vào hỏi:

- Có phải thím Hoàng đấy không?

Kim thị đứng dậy chào. Giả Trân bảo Vưu thị:

- Mời thím Hoàng ở lại xơi cơm.

Nói xong, Giả Trân đi ra. Kim thị đến chuyến này, cốt nói cho Tần thị biết là Tần Chung khinh rẻ cháu mình, nay biết Tần thị ốm, nên thôi không nhắc đến nữa. Lại thấy vợ chồng Giả Trân đối đãi rất tử tế, Kim thị đổi giận làm vui, nói chuyện phiếm một lúc rồi về.

Kim thị đi rồi. Giả Trân lại vào hỏi Vưu thị:

- Hôm nay thím ấy đến có việc gì?

Vưu thị đáp:

- Chẳng nói gì cả. Khi mới đến, trông có vẻ bực tức. Một lúc sau tôi nói đến chuyện con dâu ốm, thì nét mặt thím ấy dần dần dịu đi. Ông có mời ở lại ăn cơm, thím ấy nói thấy con dâu ốm như thế, không tiện ngồi lại, chỉ nói dăm ba câu chuyện rồi đi, cũng không cầu cạnh việc gì cả. Con dâu mình ốm, ông nên tìm đâu có thầy thuốc hay chữa chạy cho nó, đừng để nấn ná mà lỡ việc. Hiện giờ một lũ thầy thuốc ở nhà này, không thể dùng được. Hễ người ta kể thế nào thì họ theo thế mà nói dựa nói dẫm mấy câu cho có văn có vẻ. Bề ngoài ra bộ ân cần chăm chỉ lắm, cứ ba bốn người luân phiên nhau xem mạch, một ngày ít ra cũng xem đến bốn năm lần. Rồi họp nhau lại bàn tán kê đơn nhưng rồi cũng chẳng ăn thua gì. Người bệnh thì một ngày phải bốn năm lần thay quần áo, đứng lên ngồi xuống để tiếp ông lang, thực chẳng có ích gì.

Giả Trân nói:

- Con bé cũng lẩn thẩn lắm, việc gì phải thay quần áo luôn? Nhỡ bị lạnh, bệnh nặng thêm thì làm thế nào? Bảo nó cứ mặc quần áo đẹp vào, có đáng là mấy. Người nó là cần, dù mỗi ngày một bộ quần áo mới cũng chẳng sao. Tôi đang định nói để bà biết: Vừa rồi Phùng Tử Anh lại thăm, thấy tôi buồn, ông ta hỏi có việc gì. Tôi nói: "Có người con dâu đương ốm, không biết là bệnh hay có tin mừng mà không tìm được thầy thuốc hay, chẳng hiểu có nguy hiểm không? Vì thế tôi lo lắm." Phùng Tử Anh nói: "Khi còn bé có một thầy học họ Trương tên Hữu Sĩ, học rất rộng, lại giỏi nghề thuốc, đoán trước được sống chết. Năm nay vào Kinh quyên cho con làm quan, hiện đương ở nhà ông ta." Xem thế, bệnh nó may ra gặp thầy gặp thuốc, cũng chưa biết chừng. Tôi đã sai người đưa danh thiếp đến mời. Hôm nay muộn rồi, có thể là sáng mai ông ta mới đến. Phùng Tử Anh cũng nói về nhà sẽ cố mời cho bằng được. Vậy chờ Trương tiên sinh đến sẽ hay.

Vưu thị nghe nói rất mừng, nhân nói:

- Ngày kia là sinh nhật ông ta, ông định làm thế nào?

Giả Trân nói:

- Tôi vừa mới đến thăm và mời ông về nhà để con cháu làm lễ mừng. Ông nói: "Ta quen thanh tịnh đi rồi, không muốn về nhà huyên náo lắm. Gặp ngày sinh nhật, con muốn ta về nhận lễ mừng của con cháu, chi bằng đem bản "Âm chất văn"(2) mà ta đã chú thích, cho người viết lại tử tế rồi đưa đi in, so với việc ta nhận lễ mừng thọ của con cháu còn quý gấp trăm lần. Ngày mai hay ngày kia, con cháu các nơi đến, con nên tiếp đãi cẩn thận. Con không cần phải đến đây nữa, và cũng không cần phải mang biếu ta cái gì. Nếu con còn thấy áy náy, thì nhân tiện đây con lễ tạ mấy lễ, chứ hôm sau đừng mang người đến quấy rầy, ta không bằng lòng đâu." Ông đã dạy thế, ngày mai tôi không dám đến nữa. Hãy gọi Lai Thăng đến đây, bảo nó sửa soạn tiệc rượu trong hai ngày.

Vưu thị gọi Giả Dung đến dặn:

- Con bảo Lai Thăng phải theo lệ sửa soạn tiệc rượn trong hai ngày cho thật lịch sự. Con phải sang phủ Tây mời cụ, bà Cả, bà Hai và thím Liễn sang chơi. Hôm nay cha con đã tìm được thầy thuốc hay, cho người đi mời rồi. Ngày mai ông ta đến, con sẽ kể rõ bệnh tình vợ con cho ông ta nghe.

Giả Dung vâng lời đi ra, gặp đứa bé đi mời thầy thuốc ở nhà Phùng Tử Anh về nói:

- Con vừa cầm danh thiếp của ông đến nhà họ Phùng mời ông lang, ông lang bảo: "Việc này ông Phùng đã nói rồi, nhưng vì đi chơi cả ngày mới về, tinh thần không được tỉnh táo, có đến cũng chưa xem mạch được. Cần phải tĩnh dưỡng một đêm. Ngày mai sẽ lại". Ông ấy lại nói: "Y học còn nông cạn, đáng lẽ không dám nhận lời. Nhưng vì nể ông Phùng đã tiến cử với ông không đến không tiện, nên nhờ con về trình trước với ông. Còn bức danh thiếp của ông thì không dám nhận". Ông ta đã trả lại cho con mang về(3). Vậy nhờ cậu trình ông hộ cho.

Giả Dung vào nhà trong trình với Giả Trân và Vưu thị, rồi đi gọi Lai Thăng, bảo sửa soạn tiệc rượu trong hai ngày liền, Lai Thăng nhận lời đi ngay.

Trưa hôm sau, người gác cửa vào trình: "Trương tiên sinh đã đến". Giả Trân mời vào trong nhà khách. Uống nước xong, bắt đầu câu chuyện.

Giả Trân nói:

- Hôm trước ông Phùng có cho biết tiên sinh học vấn và phẩm cách hơn người, lại hiểu sâu về y học. Tiểu đệ xiết bao mến phục.

Trương nói:

- Vãn sinh là kẻ học trò quê mùa, hiểu biết nông cạn. Hôm qua ông Phùng cho biết chỗ đại nhân đây khiêm nhường, tôn trọng kẻ sĩ, nay cho gọi đến, vãn sinh không dám trái lệnh. Nhưng vì không có chút thực học, nghĩ càng thêm hổ thẹn.

Giả Trân nói:

- Xin tiên sinh đừng quá khiêm tốn, vào xem mạch cho cháu, nhờ bực cao minh, chúng tôi sẽ trút khỏi nỗi lo lắng trong lòng.

Giả Dung mời Trương vào nhà trong. Trông thấy Tần thị, Trương quay lại hỏi:

- Đây là tôn phu nhân?

Giả Dung đáp:

- Thưa phải, mời tiên sinh ngồi chơi, để tôi kể những bệnh chứng của nhà tôi, rồi tiên sinh hãy xem mạch, có được không?

Trương nói:

- Theo ý tôi, xem mạch trước đã, rồi hãy kể bệnh. Tôi mới đến tôn phủ lần đầu, chưa biết bệnh tình tôn phu nhân ra sao, nhưng vì đã nhận lời với ông Phùng, không đến không được. Nay xin bắt mạch trước xem tôi nói có đúng hay không, rồi hãy kể cho biết bệnh tình của tôn phu nhân mấy lâu nay. Sau đó chúng ta sẽ châm chước lập một phương thuốc, và dùng được hay không là tay cậu quyết định.

Giả Dung nói:

- Tiên sinh thực là bực cao minh, tiếc không được gặp sớm. Bây giờ nhờ tiên sinh xem mạch cho, chữa được hay không xin cho biết, để cha mẹ tôi được yên lòng.

Bấy giờ bọn a hoàn mang gối đến, để Tần thị ngồi dựa vào đó rồi vén áo lên, thò tay ra ngoài cho ông lang bắt mạch. Ông lang tự mình thở đều để nhận rõ số chí(4).

Xem tay phải một lúc, rồi bắt sang tay trái. Xem xong rồi nói: "Chúng ta ra ngoài".

Giả Dung cùng ông lang ra nhà ngoài ngồi. Người hầu pha nước bưng lên, Giả Dung nói:

- Mời tiên sinh xơi nước. - Sau đó bèn hỏi: - Tiên sinh xem bệnh này có chữa được không?

Ông lang nói:

- Mạch "Thốn" bên tả thì trầm sác, "Quan" bên tả thì trầm phục; "Thốn" bên hữu thì tế mà vô lực, "Quan" bên hữu thì hư mà vô thần. "Tả Thốn" trầm sác là tâm khí hư mà sinh hỏa; "Tả Quan" trầm phục là can khí trệ mà huyết khuy. "Hữu thốn" tế mà vô lực, là khí phận ở phế kinh rất hư; "Hữu Quan" hư mà vô thần, là tỳ thổ bị can mộc khắc chế. Tâm khí hư mà sinh hỏa, tất sinh ra chứng kinh nguyệt không đều, đêm không ngủ được. Can mà huyết khuy khí tuệ, thì dưới mạng mỡ đau mà phát trướng, nguyệt tín đến chậm trong bụng phát nóng. Khí phận ở phế kinh mà hư, thì đầu nặng mắt hoa, giờ dần, giờ mão thế nào cũng ra mồ hôi, choáng váng như ngồi trong thuyền; Tù thổ mà bị can mộc khắc chế thì không muốn ăn uống, tinh thần mỏi mệt, chân tay buồn bực. Theo tôi, mạch này phải có chứng bệnh như thế mới đúng. Nếu bảo có tin mừng, thì tiểu đệ không dám nghe theo(5).

Một bà già hầu ở bên cạnh nói:

- Tiên sinh nói như thần vậy. Điều gì cũng đúng. Tôi không cần phải kể thêm nữa. Mấy ông lang nhà này đến xem mạch, không ai nói được đúng như thế; người nói không quan hệ gì; người thì bảo đến tiết đông chí là đáng lo. Nhưng không ai nói được đúng như thế, mong tiên sinh chỉ bảo rõ cho.

Ông lang nói:

- Chứng bệnh của tôn phu nhân nhà ta mà đến nỗi này là bởi các thầy để chậm quá! Nếu chữa ngay lúc mới hành kinh không đều, có lẽ bây giờ đã khỏi rồi chả còn phải lo nữa. Cứ như tôi xem, thì bệnh còn ba phần có thể chữa được. Dùng đơn thuốc của tôi, uống vào mà ngủ được, sẽ chắc thêm vài phần nữa. Mạch này phải là người tâm tính cao cường, thông minh tột bực; nhưng thông minh quá thường có việc không như ý, đã có nhiều việc không như ý, thì phải tư lự quá độ. Bệnh này là do lo nghĩ, thành ra hại tỳ, can mộc vượng quá, nên kinh nguyệt đến không đúng kỳ. Tôi xin hỏi: Tôn phu nhân nhà ta ít lâu nay, kinh kỳ không ngắn quá, mà lại dài quá, có phải không?

Bà già nói:

- Kinh kỳ không bao giờ ngắn cả. Có khi kéo đến hai ba ngày, hoặc đến mười ngày.

Ông lang nói:

- Phải rồi! Chính là gốc bệnh ở đấy. Nếu ngay từ đầu mà cho uống thuốc dưỡng tâm điều kinh, thì đâu đến nỗi này! Bây giờ rõ là bệnh thủy khuy hỏa vượng. Hãy uống thử thang thuốc này xem sao.

Rồi ông ta kê đơn đưa cho Giả Dung.

Ích khí dưỡng vinh bổ tỳ hòa can thang:

Nhân sâm hai đồng; bạch truật hai đồng; (thổ sao); Vân linh ba đồng; Thục địa bốn đồng; Qui thân hai đồng; bạch thược hai đồng; Xuyên khung một đồng năm phân; Hoàng kỳ ba đồng; Hương phụ mễ hai đồng; Thổ sài hồ tám phân; hoài sơn dược hai đồng (sao); Chân a dao hai đồng (cáp phấn sao); Diên hồ sách một đồng rưỡi (sao rượu); Chích thảo tám phân.

Thuốc dẫn dùng: Kiện liên tử, tám hột, bỏ ruột; Đại táo hai quả.

Giả Dung xem xong nói:

- Tiên sinh thực là bậc cao minh. Xin cho biết bệnh này có đáng lo ngại không?

Ông lang cười:

- Cậu rất sáng suốt, bệnh đến thế này, cũng đã quá lâu rồi. Uống thuốc này vào còn nhờ ở "Mát tay" nữa. Theo tiểu đệ, mùa đông năm nay chưa việc gì đâu. Qua tiết xuân phân, mới có thể mong khỏi hẳn được.

Giả Dung là người thông minh, cũng không hỏi thêm nữa.

Tiễn ông lang về rồi, Giả Dung đưa đơn thuốc, mạch án và kể lại nhưng lời ông lang vừa nói cho Giả Trân và Vưu thị nghe. Vưu thị nói:

- Xưa nay các ông lang đều không ai nói được rành mạch như thế, chắc ông ấy dùng thuốc không lầm.

Giả Trân cười nói:

- Ông ta không phải là hạng "Lang thang" kiếm ăn về nghề thuốc. Vì nhà ta chơi thân với ông Phùng Tử Anh, mới mời được ông ấy, chứ có dễ dàng đâu. Nhờ có ông ta, may ra con dâu ta khỏi bệnh. Trong đơn thuốc có kê nhân sâm, hôm nọ nhà đã mua sẵn một cân, đem ra mà dùng.

Giả Dung nghe nói, mới cho người đi bốc thuốc sắc cho Tần thị uống, chưa biết bệnh tình sau này ra sao.

-------------------------

(1). Tên một hải đảo ở ngoài Thái Bình Dương, người ta cho là Java ngày nay. Ở đây ý nói cơn giận tan hết.

(2). Một thứ văn khuyên người làm phúc.

(3). Theo tục lệ cổ, người dưới nhận lời mời của người trên, nếu có danh thiếp mời thì trả lại; tức là tỏ ý khiêm tốn, không dám tự coi là ngang hàng.

(4). Chí: Theo phép xem mạch của đông y: mạch trung bình là một hơi thở, mạch mổ bốn cái, không đủ bốn cái gọi là trì, quá bốn cái gọi là sác. Vậy số chí là số mổ nhiều hay ít của mạch trong một hơi thở.

(5). Đây là những danh từ về mạch lý và y lý của đông y.

Hồi thứ mười một

Mừng sinh nhật, phủ Ninh bày tiệc linh đình;

Gặp Hy Phượng, Giả Thụy động lòng dâm dục.

Nói về ngày sinh nhật Giả Kính, Giả Trân sắp các thức ăn ngon và hoa quả lạ, bày vào mười sáu mâm đồng lớn, bảo Giả Dung dẫn người nhà mang đến dâng Giả Kính, lại dặn:

- Phải để ý cẩn thận xem ông có vui hay không, rồi hãy làm lễ chúc thọ, và thưa với ông rằng: "Cha cháu vâng lời ông dạy, không dám đến, sớm hôm nay ở nhà cùng mọi người đã làm lễ bái vọng chúc thọ ông rồi".

Giả Dung vâng lời, dẫn người mang lễ đi.

Ở nhà dần dần có người đến. Trước hết là Giả Liễn, Giả Tường đến xem những chỗ khách ngồi, rồi hỏi:

- Có trò gì vui không?

Người nhà đáp:

- Ông chúng tôi trước tưởng cụ hôm nay về nhà, nên không dám sắp sẵn trò vui. Nhưng vừa rồi nghe nói cụ không về nên đã bảo chúng tôi đi đón một ban hát nhỏ và một phường âm nhạc đến, chúng đang chực sẵn ở rạp hát.

Sau đó, Hình phu nhân, Vương phu nhân, Phượng Thư, Bảo Ngọc đều đến cả. Vợ chồng Giả Trân ra đón. Mẹ vợ Giả Trân đã ở đây trước. Mọi người chào và mời nhau ngồi. Vợ chồng Giả Trân mời nước rồi cười nói:

- Cụ ta là bậc trên, cao tuổi, cha tôi là hàng cháu, đáng ra ngày hôm nay không dám mời người đến mới phải; nhưng được khi tiết trời mát mẻ, hoa cúc nở đầy vườn, chúng tôi muốn mời người sang chơi, trông thấy lũ cháu chắt vui đùa nhộn nhịp để người đỡ buồn. Không ngờ người lại không hạ cố.

Phượng Thư không đợi Vương phu nhân trả lời, nói ngay:

- Hôm nọ cụ đã bảo hôm nay thế nào cũng sang, nhưng vì chiều hôm qua thấy chú Bảo ăn đào, người cũng ăn già nửa quả, đến canh năm phải đi ngoài hai lần. Sáng hôm nay thấy mệt, truyền tôi thưa với ông bác rằng người không sang được. Người truyền đưa sang vài món ăn ngon, nhưng phải nấu thật dừ.

Giả Trân cười nói:

- Tôi đã bảo người vẫn thích vui, hôm nay không sang được tất có chuyện gì. Té ra là thế.

Vương phu nhân nói:

- Hôm trước thấy vợ anh Dung khó ở, bây giờ thế nào?

Vưu thị nói:

- Bệnh cháu cũng hơi lạ. Hôm trung thu vừa rồi, nó còn chơi ở bên cụ và bà Hai, đến nửa đêm về nhà vẫn khỏe. Sau đấy hai mươi hôm, càng ngày cháu càng thấy mệt, đến nửa tháng nay không chịu ăn uống gì. Hai tháng nay cháu lại không thấy kinh.

Hình phu nhân nói luôn:

- Hay là có tin mừng?

Đương nói chuyện thì có người ở ngoài vào báo: "Hai ông và các vị bên phủ Vinh đã sang, hiện ở trên nhà khách."

Giả Trân vội ra đón. Vưu thị nói tiếp:

- Trước cũng có thầy thuốc nói là có tin mừng, nhưng hôm nọ ông Phùng Tử Anh mách một ông lang là thầy học của ông ta lúc bé, rất giỏi về nghề thuốc, đến xem cho nó. Ông ta bảo không phải tin mừng mà là bệnh nặng. Ông ta có kê đơn, đã uống một thang đầu đỡ nhức, còn các bệnh khác thì chưa thấy bớt.

Phượng Thư nói:

- Theo tôi thì chị ấy cũng không đến nỗi yếu lắm đâu, hôm nay vui thế này, nên cố gượng mà dậy.

Vưu thị nói :

- Hôm mồng ba vừa rồi, thím đến thăm, nó cố gượng dậy một lúc, cũng là chỗ thím cháu hợp tính nhau, nên quyến luyến không rời ra được.

Phượng Thư nghe xong, mắt đỏ hoe, nói:

- Trời có khi mưa gió bất ngờ, người cũng có lúc họa phúc không lường trước được. Mới bằng ấy tuổi đầu mà đã đau ốm như thế, nếu đến nỗi nào thì người ta ở đời, còn có thú gì!

Chợt Giả Dung đến chào Hình phu nhân, Vương phu nhân và Phượng Thư, rồi nói với với Vưu thị:

- Con đã mang đến dâng ông các thức ăn và thưa: cha con ở nhà đang tiếp các ông, các chú bên phủ Vinh sang. Theo lời ông dạy, cha con không dám đến. Ông nghe nói rất vui, bảo thế mới phải. Lại truyền: cha mẹ tiếp các ông, các bà, con phải tiếp các chú, các thím, các em cho chu tất; và phải khắc ngay kinh "âm chất văn" in ra một vạn cuốn để phát cho mọi người. Việc này con đã thưa với cha rồi. Bây giờ con phải ra ngay mời các ông, các chú dùng cơm.

Phượng Thư nói:

- Anh Dung hãy đứng lại! Chị hôm nay thế nào?

Giả Dung chau mày nói:

- Mệt lắm! Lát nữa thím đến thăm thì biết.

Nói xong đi ra.

Vưu thị hỏi Hình phu nhân và Vương phu nhân:

- Các vị định xơi cơm trong này hay ra ngoài vườn? Ở ngoài ấy đã sửa soạn ban hát.

Vương phu nhân nhìn Hình phu nhân nói:

- Chúng ta sẽ ăn trong này cho tiện.

Hình phu nhân nói:

- Đúng đấy.

Vưu thị liền sai dọn cơm, bọn người hầu đứng ngoài cửa dạ ran, rồi mỗi người bưng một thức vào.

Một lúc bày xong, Vưu thị mời Hình phu nhân, Vương phu nhân và bà mẫu thân cùng ngồi lên trên, còn mình ngồi bên cạnh Phượng Thư và Bảo Ngọc. Hình phu nhân và Vương phu nhân nói:

- Chúng tôi đến đây cốt để chúc thọ ông anh chứ có phải đến để ăn mừng ngày sinh nhật đâu.

Phượng Thư nói:

- Bác thích tĩnh dưỡng, tu luyện thành công, cũng chẳng khác gì thần tiên. Những lời chúc của hai mẹ cũng có thể là lòng thành thấu đến quỷ thần đấy!

Cả nhà nghe vậy cười ầm lên.

Mẹ Vưu thị, Hình phu nhân, Vương phu nhân, Phượng Thư ăn cơm xong, súc miệng, rửa tay rồi bảo nhau ra vườn nghe hát.

Giả Dung đến nói với Vưu thị:

- Hai ông, các chú, các em ăn cơm xong cả rồi. ông Cả thì nói nhà có việc; ông Hai thì không thích nghe hát, lại sợ đông người làm ồn ào nên đều về cả. Còn các chú, các anh thì con đã mời chú Liễn, chú Tường ra xem hát. Vừa rồi, bốn quận vương là Nam An Quận vương, Đông Bình Quận vương, Tây Ninh Quận vương, Bắc Tĩnh Quận vương, sáu quốc công như Trần Quốc Công ở phủ Ngưu, và tám tước hầu như Trung tĩnh hầu phủ Sứ, đều sai người mang danh thiếp và lễ vật đến chúc thọ, con đã trình cha và thu vào buồng, lễ đơn cũng đã vào sổ. Con đã đưa thiếp cám ơn, cho các người nhà tiền thưởng, và mời họ ăn uống chu tất cả rồi. Mẹ nên mời hai bà, bà ngoại, thím Phượng ra ngoài xem hát.

Vưu thị nói:

- Trong này ăn xong cũng sắp ra đây.

Phượng Thư nói:

- Xin phép mẹ, cho con vào thăm chị Dung, rồi sẽ ra sau.

Vương phu nhân bảo:

- Ừ, chúng ta cũng muốn vào thăm cháu, nhưng sợ ồn quá, con nói hộ là chúng ta có lời hỏi thăm.

Vưu thị nói với Phượng Thư:

- Thím ơi! Cháu nó rất nghe lời thím. Thím vào khuyên giải cháu một câu, tôi cũng yên lòng rồi mời thím ra vườn xem hát.

Bảo Ngọc cũng đòi đi theo Phượng Thư. Vương phu nhân nói:

- Con vào thăm rồi ra ngay nhé, nó là cháu dâu đấy!

Vưu thị mời Hình phu nhân, Vương phu nhân và bà mẫu thân ra vườn Hội Phương.

Phượng Thư và Bảo Ngọc cùng Giả Dung vào buồng Tần thị. Đến cửa, đi se sẽ. Tần thị trông thấy, toan đứng dậy. Phượng Thư bảo: "Thôi đừng đứng dậy mà chóng mặt".

Phượng Thư bước nhanh lại, cầm tay Tần thị nói:

- Cháu ơi, mới có mấy hôm nay không gặp mà đã gầy đến thế này à?

Rồi ngồi trên đệm, cạnh Tần thị.

Bảo Ngọc hỏi thăm rồi ngồi xuống ghế trước mặt.

Giả Dung gọi:

- Pha nước lại đây, thím và chú Hai ở nhà trên chưa uống nước đấy.

Tần thị cầm tay Phượng Thư gượng cười:

- Cháu thực là ít phúc quá! Ở trong nhà này, bố mẹ chồng thương như con đẻ. Thưa thím, chồng cháu tuy còn ít tuổi, nhưng vẫn kính yêu nhau, chưa hề gắt gỏng một câu. Thím thương cháu đã đành rồi, cả nhà, những bậc trên, người ngang hàng ai cũng thương cháu, yêu cháu. Bây giờ bị ốm, cháu chán ngán quá, chưa báo hiếu bố mẹ chồng được một ngày nào. Thím có lòng thương cháu, nhưng dù cháu muốn báo đáp lại cũng đành chịu vậy! Cháu lo chưa chắc đã chịu nổi hết năm nay.

Bảo Ngọc đương ngắm nhìn bức tranh "Hải đường xuân thụy" và đôi câu đối:

Lờ mờ giấc mộng xuân hơi lạnh;

Ngào ngạt mùi hương rượu khá nồng.

Lại nhớ ngay đến việc nằm ngủ ở đây, mơ đến "Thái hư ảo cảnh". Đương lúc ngẩn ngơ suy nghĩ, chợt nghe thấy tiếng Tần thị, trong lòng Bảo Ngọc đau đớn như muôn mũi tên bắn vào, nước mắt tự nhiên chảy xuống ròng ròng. Phượng Thư thấy vậy, trong bụng áy náy bội phần, sợ người ốm trông thấy lại thêm đau lòng, còn đâu là an ủi nữa, liền nói:

- Chú Bảo thật là tính đàn bà! Người ốm bực mình thì nói thế, chứ đã đến nỗi nào. Tuổi cháu còn trẻ, ốm qua loa rồi sẽ khỏi. Và cháu cũng đừng nghĩ ngợi lung tung vậy, chỉ tăng thêm bệnh đấy thôi.

Giả Dung nói:

- Bệnh nhà cháu chẳng cần phải uống thuốc men gì, cứ ăn được là khỏi.

Phượng Thư nói:

- Chú Bảo! Mẹ bảo vào rồi ra ngay. Chú đừng làm thế để cháu nó lại sinh buồn thêm. Mẹ ở ngoài kia đang mong chú đấy.

Rồi quay lại, bảo Giả Dung:

- Cháu và chú Bảo hãy ra ngoài kia, để ta ngồi đây một lúc nữa.

Giả Dung nghe nói, cùng Bảo Ngọc đi ra vườn hoa Hội Phương.

Phượng Thư khuyên giải Tần thị một lúc, lại thì thào với nhau nhiều câu tâm sự. Vưu thị hai ba lần sai người về đón, Phượng Thư mới bảo Tần thị:

- Cháu cứ yên lòng tĩnh dưỡng, hôm nào rỗi, thím lại sang thăm. Bệnh cháu thế nào cũng khỏi. Hôm nọ đã tìm được thầy thuốc hay, vậy cháu cũng đừng lo nghĩ nữa.

Tần thị cười nói:

- Dù là thần tiên chăng nữa, chữa được bệnh chứ chữa sao được mệnh! Thím ơi, cháu biết bệnh này chỉ tính ngày tính giờ thôi.

Phượng Thư nói:

- Cháu cứ nghĩ thế thì bao giờ khỏi được? Nên khuây khỏa đi là phải. Vả lại thầy thuốc đã nói, không chữa ngay sợ đến mùa xuân sang năm, bệnh sẽ tăng lên, nay mới nửa tháng chín, còn bốn năm tháng nữa, lo gì bệnh chẳng chữa khỏi. Nếu như nhà khác không có nhân sâm, thì cũng khó đấy. Nhưng ở đây bố mẹ chồng cháu còn có thể chữa được thì đừng nói mỗi ngày hai đồng cân, chứ hai cân nhân sâm cũng có thể cho cháu uống được. Thôi cháu chịu khó tĩnh dưỡng, thím ra vườn đây.

Tần thị nói:

- Thím ơi, tha lỗi cho cháu, cháu không thể theo thím ra được. Lúc nào rỗi, mời thím sang chơi, thím cháu sẽ nói chuyện nhiều.

Phượng Thư nghe vậy tự nhiên mắt lại đỏ hoe lên:

- Lúc nào rỗi, thím lại sang thăm cháu.

Rồi dẫn bọn người hầu và người nhà phủ Ninh ra quanh cửa đi tắt vào vườn hoa, nhìn thấy:

Hoa vàng giải đất, liễu trắng quanh bờ. Suối Nhược Gia(1) cầu nhỏ bắc qua; núi Thiên Thai(2) đường con rẽ tới. Khe đá dòng trong róc rách, hàng giậu đều thơm; trên cây lá đỏ rập rờn, rừng thưa như vẽ. Gió tây thổi mạnh, oanh còn thỏ thẻ bên tai; ngày ấm vui dồn, dế cũng rì rầm nói chuyện. Kìa phía đông nam, mấy tòa lầu nhấp nhô dựa núi; nọ nơi Tây bắc, ba gian hiên thấp thoáng kề sông. Vang tiếng phách sênh, tình riêng khôn tả; chen màu là lụa, cảnh đẹp nên thơ.

Phượng Thư đi thong thả xem cảnh trong vườn. Đương lúc ngắm nghía, chợt thấy một người ở sau núi giả chạy ra, đứng trước mặt, nói:

- Xin chào chị!

Phượng Thư giật mình, lùi lại hỏi:

- Có phải chú Thụy đấy không?

Giả Thụy nói:

- Chị không nhận ra tôi à?

- Không phải tôi không nhận ra, đương lúc bất thình lình không ngờ chú lại ở đây.

Giả Thụy nói:

- Có lẽ tôi với chị có duyên hay sao? Tôi vừa ở trong tiệc lẻn ra, đến chỗ thanh vắng này cho khoan khoái một tí, không ngờ lại gặp chị. Thế chẳng phải có duyên là gì.

Vừa nói, mắt hắn vừa chòng chọc nhìn Phượng Thư.

Phượng Thư là người thông minh, thấy dáng bộ ấy đã đoán được tám chín phần, liền nhìn Giả Thụy, giả cách mỉm cười, nói:

- Không trách anh chú thường nhắc đến chú luôn, bảo chú tốt lắm. Nay được gặp, nghe nói mấy câu, biết ngay chú là người thông minh hòa nhã. Bây giờ tôi phải đến chỗ các bà, không tiện nói chuyện. Lúc nào rỗi, chúng ta lại sẽ gặp nhau.

Giả Thụy nói:

- Tôi muốn đến thăm chị, nhưng sợ chị trẻ tuổi không chịu tiếp khách dễ dàng.

Phượng Thư lại giả cách cười nói:

- Chỗ anh em ruột thịt trong nhà, sao lại nói trẻ tuổi với không trẻ tuổi?

Giả Thụy nghe thế, trong bụng mừng thầm: "Không ngờ hôm nay lại có cuộc gặp gỡ lạ lùng thế này!" Tình cảnh ấy càng làm cho Giả Thụy ngẩn ngơ ngơ ngẩn. Phượng Thư lại nói:

- Thôi, chú vào tiệc ngay đi. Coi chừng họ lại bắt uống phạt đấy!

Giả Thụy nghe xong, tê tái cả người, đi chầm chậm rồi cứ quay đầu lại nhìn. Phượng Thư cố ý đi thong thả. Thấy hắn đi xa rồi, trong bụng nghĩ: "Thế mới là: Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao? Đâu lại có hạng người chó má như thế! Nếu vậy có lúc nó phải chết với ta cho nó biết tay!"

Phượng Thư đang đi vòng qua quả núi giả, thấy hai bà già hớt hải chạy đến, cười nói:

- Mợ tôi không thấy mợ lại, sốt ruột quá, bảo chúng tôi đi mời.

Phượng Thư nói:

- Mợ các ngươi lúc nào cũng nóng tính thế!

Phượng Thư vẫn đi thong thả, hỏi:

- Hát được mấy vở rồi?

Bà già nói:

- Được tám chín vở.

Đi đến cửa sau lầu Thiên Hương, thấy Bảo Ngọc đương chơi với lũ hầu nhỏ ở đấy. Phượng Thư nói:

- Chú Bảo đừng có đùa nghịch đấy.

Một a hoàn nói:

- Các bà đương ngồi trên lầu. Mời mợ lên.

Phượng Thư thong thả vén áo bước lên lầu. Vưu thị đã đợi ở trên cầu thang, cười nói:

- Hai thím cháu nhà ngươi mến nhau lắm nhỉ, hễ gặp mặt là không thể nào rời ngay ra được. Ngày mai thím dọn sang đây với cháu. Ngồi xuống đây, tôi mời một chén đã.

Phượng Thư đến xin phép Hình phu nhân, Vương phu nhân rồi mới ngồi. Vưu thị đem giấy kê các vở hát, mời Phượng Thư chấm, Phượng Thư nói:

- Hai mẹ ngồi đây, khi nào con dám chấm!

Hình phu nhân, Vương phu nhân nói:

- Chúng ta và bà thông gia đây đã chấm mấy vở rồi, bây giờ chị chấm mấy vở để họ hát cho chúng ta nghe.

Phượng Thư đứng dậy xin vâng, cầm giấy kê vở hát xem rồi chấm vở "Hoàn hồn" và vở "Đàn từ", sau đó trả lại giấy kê, nói:

- Hát xong vở "Song quan cáo" rồi đến hai vở này là vừa hết giờ.

Vương phu nhân nói:

- Phải đấy. Cũng nên để cho các anh các chị ấy đi nghỉ sớm, vì trong lòng họ cũng không được thư thái lắm đâu!

Vưu thị nói:

- Các bà mẹ có hay sang chơi đâu. Bây giờ trời hãy còn sớm, xin mời hai vị và thím Phượng hãy ngồi lại một lúc cho vui .

Phượng Thư đứng dậy nhìn xuống dưới lầu, nói:

- Các ông đi đâu cả?

Một bà già đứng bên cạnh nói:

- Các ông ấy vừa đến hiên Ngưng Hy, đem cả phường âm nhạc ra đấy uống rượu!

Phượng Thư nói:

- Ở trong này không được thỏa thích hay sao? Họ định đem ra ngoài đó để làm trò gì?

Vưu thị cười nói:

- Phải đâu người nào cũng đứng đắn như thím.

Mọi người cười cười nói nói, nghe hát xong, dọn tiệc rượu đi bưng cơm lên. Ăn xong, họ ra cửa vườn, lên buồng nhà trên, uống nước, gọi sắp sẵn xe, rồi cáo từ bà mẹ Vưu thị, Vưu thị dẫn người hầu ra tiễn. Giả Trân dẫn con cháu đứng hầu cạnh xe, nói:

- Ngày mai lại mời hai mẹ sang chơi.

Vương phu nhân nói:

- Thôi hôm nay chúng tôi ở cả ngày bên này mệt lắm. Ngày mai cần phải nghỉ.

Rồi cùng lên xe về.

Giả Thụy vẫn chòng chọc nhìn Phượng Thư. Sau khi Giả Trân quay vào, Lý Quí mang ngựa đến, Bảo Ngọc cưỡi đi theo Vương phu nhân về.

Giả Trân cùng anh em, con cháu ăn cơm xong, rồi đâu về đấy. Hôm sau các người trong họ lại đến, nhộn nhịp suốt ngày. Chẳng cần phải kể rõ.

Từ đấy, Phượng Thư thỉnh thoảng sang thăm Tần thị. Bệnh tình Tần thị khi giảm khi tăng. Giả Trân, Vưu thị, Giả Dung rất buồn.

Giả Thụy đến phủ Vinh mấy lần, nhưng đều gặp lúc Phượng Thư sang phủ Ninh vắng.

Năm ấy ngày ba mươi tháng một là ngày đông chí. Gặp lúc tiết trời thay đổi, ngày nào Giả mẫu, Vương phu nhân, Phương Thư cũng sai người sang thăm Tần thị. Người nhà về đều nói: "Trong mấy hôm nay bệnh không thấy tăng giảm gì".

Vương phu nhân nói với Giả mẫu:

- Tiết giời thế này, mà bệnh không tăng, may ra có thể khỏi được.

Giả mẫu nói:

- Phải đấy, con bé ngoan như thế, lỡ có mệnh hệ nào, thật đáng thương đến chết đi được.

Nói xong, lòng rất đau xót, quay lại bảo Phượng Thư:

- Thím cháu chúng mày xưa nay thân thiết với nhau. Mai là mồng một, đến mồng hai cháu nên sang thăm cháu xem bệnh tình nó thế nào? May nó đỡ được, về nói cho ta biết. Ngày thường nó thích ăn thứ gì, cháu sai người mang sang cho nó.

Phượng Thư vâng lời. Đến mồng hai, ăn cơm sáng xong, đi sang phủ Ninh, thấy bệnh tình Tần thị tuy không nặng thêm, nhưng người gầy võ đi. Phượng Thư ngồi chơi nói chuyện một lúc khuyên giải Tần thị là bệnh có thể khỏi được. Tần thị nói:

- Khỏi hay không, đến mùa xuân sẽ biết. Nay qua tiết đông chí mà không việc gì, may ra có thể khỏi được cũng chưa biết chừng. Nhờ thím về trình với cụ và bà Hai xin cứ yên tâm. Hôm nọ cụ cho bánh bột hoài sơn có nhân táo, cháu ăn hai chiếc, thấy dễ chịu và bệnh hơi chuyển.

Phượng Thư nói:

- Ngày mai thím lại mang sang. Bây giờ thím ra thăm mẹ chồng cháu, rồi về trình cụ.

Tần thị nói:

- Nhờ thím hỏi thăm sức khỏe cụ và bà bên ấy hộ cháu.

Phượng Thư nhận lời, đi đến buồng Vưu thị. Vưu thị nói:

- Thím xem cháu thế nào?

Phượng Thư cúi đầu một lúc, nói:

- Chẳng có cách nào cứu được. Chị nên cho sắm sửa đồ hậu sự cho cháu, mượn cách xung, họa may dữ hóa lành chăng.

Vưu thị nói:

- Tôi đã thầm sai người đi sắm rồi, nhưng chưa có gỗ tốt, thong thả sẽ sắm sau.

Phượng Thư uống nước, trò chuyện một lúc, nói:

- Tôi phải về trình cụ đây.

Vưu thị bảo:

- Nói cho có ý nhé, đừng để cụ phải lo.

- Tôi biết rồi.

Phượng Thư đứng dậy về trình Giả mẫu:

- Vợ cháu Dung có lời sang thăm sức khỏe bà, lạy tạ ơn bà, và nó nói đã hơi đỡ, xin bà cứ yên tâm, hễ nó hơi khá một chút, sẽ sang hầu ngay.

Giả mẫu nói:

- Cháu xem nó thế nào?

- Hiện giờ chưa ngại, tinh thần còn khá.

Giả mẫu nghe nói, ngẫm nghĩ một lúc, bảo:

- Cháu hãy thay quần áo rồi đi nghỉ.

Phượng Thư vâng lời ra thăm Vương phu nhân rồi về nhà, Bình Nhi đem quần áo đã hơ ấm sẵn cho Phượng Thư thay. Phượng Thư ngồi xuống, hỏi:

- Ở nhà có việc gì không?

Bình Nhi pha trà mang đến, nói:

- Không có việc gì, chỉ có chị Vượng đem nộp tiền lãi ba trăm lạng bạc, tôi đã nhận rồi. Lại có cậu Thụy sai người sang xem mợ có nhà không để sang thăm.

Phượng Thư nghe nói "hừ" một cái:

- Thằng súc sinh này đáng chết, xem nó đến đây làm trò gì?

Bình Nhi nói:

- Cậu Thụy có việc gì mà cứ hay đến?

Phượng Thư mới kể lại câu chuyện gặp hắn, và những lời lẽ cử chỉ của hắn trong vườn hoa phủ Ninh cho Bình Nhi nghe.

Bình Nhi nói:

- Ếch ghẻ lại muốn ăn thịt ngỗng trời! Đồ khốn nạn! Không có luân thường gì! Nó có bụng dạ ấy tất phải chết không toàn vẹn được đâu.

Phượng Thư nói:

- Cứ để hắn lại đây, ta sẽ có cách.

--------------------------------------

(1). Tên một cái suối ở Chiết Giang, tương truyền là chỗ Tây Thi giặt vải ngày xưa.

(2). Tên một quả núi ở Chiết Giang. Theo thần thoại Lưu Thần, Nguyễn Triệu gặp tiên ở trên núi này.

Hồi thứ mười hai

Vương Hy Phượng độc ác, bày cuộc tương tư;

Giả Thiên Tường chết oan, soi gương phong nguyệt.

Phượng Thư đang nói chuyện với Bình Nhi thì có người vào báo:

- Cậu Thụy đến.

Phượng Thư bảo:

- Mời vào đây!

Giả Thụy thấy mời, trong bụng mừng thầm, vội vã vào ngay. Khi gặp Phượng Thư, hắn vui vẻ chào hỏi luôn mồm.

Phượng Thư làm ra dáng ân cần, mời hắn ngồi uống nước. Giả Thụy thấy Phượng Thư trang điểm, càng thêm say sưa, liền lim dim mắt hỏi:

- Anh nhà sao mà chưa về?

- Không biết tại làm sao?

- Hay là đi đường lại có ai buộc chân, nên không về được?

- Cũng có lẽ, thế mới biết bọn đàn ông bạ người nào yêu người ấy.

Giả Thụy cười nói:

- Chị lầm rồi, tôi thì không phải hạng người ấy đâu.

Phượng Thư cười nói:

- Mấy người được như chú? Mười người chưa chắc đã được một.

Giả Thụy nghe nói mừng lắm, gãi mặt gãi tai, nói:

- Chắc ngày nào chị cũng buồn lắm thì phải?

- Đúng đấy, chỉ mong có người đến chơi nói chuyện cho đỡ buồn.

- Tôi thì ngày nào cũng rỗi, thỉnh thoảng đến chơi với chị cho đỡ buồn, có được không?

- Chú nói đùa đấy chứ, khi nào chịu đến đây?

- Trước mặt chị, nếu tôi nói dối, thì trời đánh thánh vật! Chỉ vì thường nghe nói chị ghê gớm lắm, đối với chị, hơi sơ suất một tí cũng không được, cho nên tôi sợ không dám đến. Nay thấy chị là người vui vẻ, rất thương người, sao tôi lại không đến? Dù có chết cũng cam lòng.

Phượng Thư cười nói:

- Chú là người tinh ranh hơn anh em cháu Dung nhiều! Mặt mũi họ sáng sủa thế, cứ tưởng bụng họ cũng tinh ranh, hay đâu họ đều là hạng lẩn thẩn. Chẳng hiểu bụng người ta một tí nào.

Giả Thụy nghe nói, bụng càng rộn rực, toan sấn lại ngắm nghía cái túi của Phượng Thư. Lại hỏi Phượng Thư đeo cái nhẫn gì?

Phượng Thư khẽ nói:

- Đứng đắn một tí nào! Đừng để bọn người nhà trông thấy.

Giả Thụy nghe, tưởng chừng như những lời vua ban, Phật dạy, vội lùi ra xa. Phượng Thư cười bảo:

- Thôi hãy về đi.

- Tôi ngồi lại đây một lúc nữa. Chị nhẫn tâm thế!

- Ban ngày ban mặt, kẻ đi người lại luôn, ngồi lại đây sao tiện. Hãy về đi! Đến tối, độ đầu canh một lẩn đến cái nhà trống phía tây chờ tôi.

Giả Thụy nghe nói, như được của báu, vội nói:

- Đừng đánh lừa nhé. Nhưng chỗ ấy nhiều người đi lại lắm, núp vào đâu được?

- Cứ yên chí. Tôi cho những đứa canh đêm nghỉ hết, hai bên đóng cửa lại, chẳng còn có ai đâu.

Giả Thụy nghe nói, mừng quá, vội cáo từ, trong bụng chắc mẩm. Chờ đến chiều tối, hắn mò sang phủ Vinh. Đương lúc sắp đóng của, hắn lẻn vào cái nhà trống, quả thấy tối om, chẳng có người nào đi lại. Cửa sang bên nhà Giả mẫu đã khóa rồi, chỉ còn cửa phía đông chưa đóng. Giả Thụy lắng nghe giờ lâu chẳng thấy ai đến. Chợt nghe tiếng lách cách, cửa phía đông cũng đóng nết. Giả Thụy sốt ruột, nhưng không dám lên tiếng, khe khẽ lần đến đẩy mấy cái, thấy cửa đóng chặt như thùng sắt. Bấy giờ hắn muốn ra cũng không được. Phía nam, phía bắc đều là tường cao, muốn trèo cũng không có chỗ vịn. Chỗ ấy lại là nơi gió lùa, chung quanh trống hốc. Trời tháng chạp đêm dài, gió bấc thổi hun hút, rét buốt đến xương, ai đứng đó một đêm có thể chết cứng được. Chờ mãi đến mờ sáng, thấy một bà già mở cửa phía đông, rồi sang gọi cửa phía tây. Lúc bà già ngoảnh mặt đi, hắn liền cắm đầu cắm cổ chạy biến mất. May trời còn sớm, chưa ai dậy, hắn lẻn ra cửa sau chạy một mạch về nhà.

Vì bố mẹ mất sớm, Giả Thụy ở với ông là Giả Đại Nho. Đại Nho dạy cháu rất nghiêm, không cho ra ngoài một bước, sợ cháu uống rượu đánh bạc, học trai gái gì chăng, hại đến việc học. Nay thấy cháu suốt đêm không về, Đại Nho rất bực bội, cho là không rượu chè thì cờ bạc hoặc trai gái, hát xướng chứ ngờ đâu lại là cái chuyện tội nợ ấy. Giả Thụy sợ toát mồ hôi, phải nói dối:

- Đến thăm cậu, trời tối quá, cậu giữ ngủ lại một đêm.

Đại Nho nói:

- Xưa nay mày đi đâu là phải xin phép tao, sao hôm qua lại dám tự tiện lẻn đi, như thế đã đáng đánh đòn rồi, huống chi lại còn nói dối.

Bèn đánh Giả Thụy ba bốn chục roi thật đau, lại không cho ăn cơm, bắt phải quỳ học bù mười buổi mới tha. Giả Thụy bị rét một đêm, lại bị một trận đòn đau, phải nhịn đói, quỳ ở dưới đất mà học, khổ sở muôn phần.

Nhưng lòng tà vẫn chưa chịu bỏ, Giả Thụy vẫn chưa biết mưu chước của Phượng Thư. Qua vài ngày được lúc rỗi, hắn lại tìm đến. Phượng Thư làm ra bộ trách móc sai hẹn. Giả Thụy vội vàng thề ngay. Phượng Thư thấy hắn tự đâm đầu vào tròng, lại bày mẹo khác để cho hắn tỉnh ngộ. Bèn giả cách hẹn:

- Tối hôm nay đừng đến chỗ cũ nữa, cứ đến chờ ở cái gian nhà bỏ không, có đường rẽ sang buồng tôi, đừng có lầm đấy!

- Thực thế chứ?

- Không tin thì đừng đến!

- Thế nào cũng đến, nhất định đến, dù chết cũng đến.

- Bây giờ hãy về đi.

Giả Thụy chắc mẩm tối ấy thế nào cũng ổn chuyện ra về ngay. Bấy giờ Phượng Thư mới điều binh khiển tướng, đặt sẵn vòng vây.

Giả Thụy chỉ mong sao chóng tối, chờ mãi cho đến chiều, không ngờ lại có người trong họ đến chơi, ăn cơm tối xong mới về. Đến lúc lên đèn hắn lại phải đợi cho ông đi ngủ rồi mới lẻn sang phủ Vinh, đứng chờ ở chỗ hẹn. Hắn đi đi lại lại, loanh quanh, luống cuống như kiến bò trên nồi nước sôi. Bên trái chẳng thấy bóng người, bên phải chẳng có tiếng động. Hắn vừa sợ vừa ngờ: "Hay là không đến, lại làm cho ta chịu rét một đêm nữa chăng?"

Đương lúc phân vân, thấy lù lù một bóng đen đi đến, Giả Thụy đoán chắc là Phượng Thư. Người ấy vừa đến gần, Giả Thụy ôm chầm lấy, như hổ đói vồ mồi, mèo đói vồ chuột, nói: "Chị ơi! Làm tôi chờ lâu chết đi được!" Hắn ôm ngay lên giường, hôn hít, cởi dải quần, rồi cứ "cha ôi! mẹ ôi!" kêu cuống cuồng lên. Người ấy lặng yên chẳng nói gì. Giả Thụy cũng đang cởi dải quần định nhập cuộc. Chợt có bóng đèn lòe sáng. Giả Tường cầm nến soi, hỏi:

- Ai ở trong nhà ấy?

Người nằm trên giường té ra là Giả Dung cười nói:

- Chú Thụy định hiếp tôi đấy!

Giả Thụy xấu hổ quá, không lẩn vào chỗ nào được, quay mình toan chạy. Giả Tường giữ lại, bảo:

- Không được chạy! Thím Liễn đã trình với bà Hai là chú đến ghẹo thím ấy. Thím ấy dùng kế giữ được chú ở đây. Bà Hai nghe nói, tức lộn ruột, bảo đến bắt chú. Chú phải theo tôi đi ngay!

Giả Thụy sợ hết hồn, nói:

- Cháu ơi! Cháu cứ nói là không tìm thấy chú, ngày mai chú sẽ hậu tạ.

Giả Tường nói:

- Tha chú cũng chẳng sao, nhưng chú định tạ bao nhiêu? Nói miệng không được, phải viết văn tự.

Giả Thụy nói:

- Viết thì viết thế nào?

- Có khó gì, cứ nói là chú thua bạc, vay bao nhiêu lạng là xong.

- Điều ấy cũng dễ thôi, nhưng không có giấy bút.

Giả Tường lấy giấy bút, ra vẻ làm phúc làm đức, bắt Giả Thụy phải viết văn tự và ký tên vay 50 lạng. Xong xuôi đâu đấy, hắn lại bắt điều đình với Giả Dung. Lúc đầu Giả Dung nhất định không nghe, chỉ nói: "Ngày mai báo cho cả họ biết, xem họ phân xử ra sao!" Giả Thụy kêu van mãi, sau phải sụp xuống lạy, Giả Tường mới làm ra vẻ nhân từ, bắt Giả Thụy phải viết một bức văn tự vay 50 lạng bạc nữa mới thôi.

Giả Tường lại nói:

- Bây giờ tha chú ngay, tôi phải chịu lỗi. Cửa bên buồng cụ đóng rồi: ông tôi đang ngồi ở trên nhà khách xem những thứ ở Nam kinh gửi đến, lối ấy cũng khó đi lọt. Nay chỉ có thể lẻn đi ra cửa sau. Nhưng đi lối ấy mà gặp người thì cả tôi cũng có lỗi. Chờ tôi đi trước dò xem sao. rồi sẽ về đưa chú đi. Chú đứng nấp ở đây cũng không yên, lát nữa người ta còn chất nhiều thứ ở đây. Để tôi đi tìm chỗ khác.

Giả Tường tắt đèn, dắt Giả Thụy ra ngoài, lần mò đến dưới thềm nhà, bảo:

- Chỗ này nấp được, chú hãy ngồi đây, không được lên tiếng. Đợi tôi đến sẽ đi.

Giả Thụy không làm thế nào được, đành phải ngồi chồm chỗm ở dưới thềm. Đang lúc lo nghĩ. Chợt ở trên đỉnh đầu, nghe ào một tiếng, một thùng vừa cứt vừa nước đái đổ xuống suốt từ đầu đến chân, Giả Thụy "ối chào" một tiếng, vội bưng miệng, không dám kêu to, đầu và mặt đầy những cứt đái, người lạnh như băng, run cầm cập. Giả Tường chạy lại bảo "Chạy mau! Chạy mau!" Giả Thụy được lệnh, ba chân bốn cẳng, từ cửa sau chạy về. Bấy giờ đêm đã canh ba, phải gọi cửa.

Người nhà trông thấy quang cảnh như thế, hỏi: "Làm sao thế?" Giả Thụy phải nói dối "Trời tối nhỡ chân ngã xuống hố xí". Rồi vào buồng tắm rửa, thay quần áo. Bấy giờ hắn mới biết Phượng Thư lừa mình, tức giận một hồi, nhưng lại nghĩ đến bóng dáng yểu điệu của nàng, tiếc không được ôm ngay vào lòng. Hắn nghĩ vơ nghĩ vẩn suốt đêm, không chợp mắt. Từ đó, trong lòng vẫn tơ tưởng Phượng Thư, nhưng không dám bén mảng đến phủ Vinh nữa.

Bọn Giả Dung thường đến đòi nợ, Giả Thụy sợ ông biết, bệnh tương tư đã khổ lắm rồi, huống chi lại mắc thêm mấy món nợ nữa. Việc học hàng ngày lại rất nghiêm. Với con người mới hai mươi tuổi đầu, chưa có vợ, mơ tưởng Phượng Thư không toại nguyện, tránh sao khỏi ngón tay rầy dã rành rơi(1), gia dĩ hai lần bị rét và đi lại đêm hôm vất vả. Mấy mặt dồn dập tấn công, hắn đâm ra mắc bệnh: bụng đầy, miệng nhạt, chân run, mắt cay, đêm sốt, ngày mỏi mệt, đi đái dắt, di tinh, ho ra máu... Chưa đầy một năm, bệnh cứ nặng lên. Không gượng được nữa, hắn phải nằm liệt trên giường, hễ nhắm mắt lại mê mẩn bàng hoàng, sợ hãi, hoảng hốt, nói nhảm luôn mồm. Thầy thuốc xoay xở hết cách, nhục quế, phụ tử, miết giáp, mạch đông, ngọc trúc, uống hàng mấy chục cân, vẫn không thấy chuyển. Hết đông sang xuân, bệnh hắn càng nặng. Đại Nho lo lắng, tìm đủ thầy, đủ thuốc, cũng chẳng thấy công hiệu gì. Sau uống đến bài "độc sâm", nhưng nhà Đại Nho sức đâu mà kiếm ra được, phải sang xin ở phủ Vinh.

Vương phu nhân bảo Phượng Thư cân cho hai lạng. Phượng Thư nói:

- Hôm nọ đã mang ra chế thuốc cho bà rồi; mẹ lại bảo giữ lại một ít để biếu bà Dương đề đốc, con đã cho mang biếu hết cả rồi.

Vương phu nhân nói:

- Bên này hết thì cho hỏi bên mẹ chồng cháu hay anh Trân cố kiếm thêm cho đủ để giúp người ta, cứu người được cũng là việc phúc đức đấy.

Phượng Thư vâng lời, nhưng không cho người đi hỏi, chỉ lấy mấy đồng sâm vụn cho người mang đi, bảo là bà Hai cho đấy. Nếu xin thêm thì không còn nữa. Rồi đến thưa với Vương phu nhân: "Đã kiếm được hai lạng và cho người mang đi rồi".

Giả Thụy muốn chóng khỏi bệnh, thuốc nào cũng uống, tiền mất tật mang, chả ăn thua gì. Một hôm có vị đạo nhân khiễng chân đi hành khất, nói là chữa được bệnh oan nghiệt. Giả Thụy nằm trong nhà nghe thấy, kêu to: "Ra mời ngay vị phật sống ấy vào cứu tôi". Rồi hắn cứ dập đầu xuống gối lạy lấy lạy để. Khi người nhà đưa vị đạo sĩ vào. Giả Thụy kéo ngay lấy tay kêu luôn:

- Nhờ phật sống cứu tôi!

Đạo sĩ thở dài:

- Bệnh ngươi không thể chữa bằng thuốc được! Ta đưa cho ngươi cái "bảo bối" này, ngày ngày ngươi ngắm vào đấy mới có thể cứu được.

Đạo sĩ lấy ở trong tay nải ra đưa cho Giả Thụy một cái gương soi cả hai mặt. Đằng sau gương khắc bốn chữ "Phong nguyệt bảo giám"(2) và nói:

- Gương này lấy ở đền Không Linh trong cõi Thái hư ảo cảnh, do vị tiên Cảnh ảo làm ra, có công giúp người đời bảo toàn tính mệnh. Vì thế, ta mang xuống trần chỉ để cho những bọn Vương tôn công tử tuấn tú phong lưu soi thôi. Nhưng chỉ nên soi mặt trái, không được soi mặt phải. Cẩn thận đấy! Soi ngay đi! Ba ngày nữa ta lại lấy, chắc bệnh ngươi sẽ khỏi.

Nói xong, thong dong đi ra, ai giữ cũng không chịu ở. Giả Thụy cầm lấy gương nghĩ thầm:

- Đạo sĩ này chắc có ý gì đây! Ta hãy soi thử xem sao?

Bèn cầm gương mang mặt trái ra soi, thấy trong có bộ xương người. Giả Thụy sợ quá, vội giấu gương đi, mắng: "Đồ láo! Làm sao lại dọa ta! Ta hãy soi mặt phải xem sao?" Bèn soi mặt phải, thấy Phượng Thư đứng ở trong, vẫy tay gọi. Giả Thụy mừng lắm, mê mẩn đi vào trong gương, cùng Phượng Thư vui cuộc mây mưa, rồi Phượng Thư lại đưa ra nằm trên giường. Giả Thụy kêu "ái chà" một tiếng, bừng mắt ra, cái gương tự nhiên lật lại mặt trái, vẫn thấy một bộ xương người đứng sừng sững ở trong. Giả Thụy mồ hôi đầm đìa, dưới quần tinh thoát ra một đống. Dục tình vẫn chưa được thỏa, hắn lại quay mặt phải ra soi, thấy Phượng Thư lại vẫy tay gọi, hắn lại đi vào trong gương, cứ thế ba bốn lần. Đến lần cuối cùng vừa mới ở trong gương ra, thấy hai người chạy lại mang xích sắt khóa tay lôi đi, Giả Thụy kêu "Để cho tôi lấy cái gương đã". Rồi im bặt, không nói được nữa.

Những người hầu bên cạnh thấy Giả Thụy mang gương ra soi, gương rơi xuống, mắt trợn to, lại cầm lấy gương. Cuối cùng gương rơi ra, tay không động đậy nữa. Mọi người đến xem thì đã tắt thở rồi, dưới quần đầm đìa một vũng tinh lạnh buốt.

Họ mới vội vàng thay quần áo cho hắn và khiêng hắn lên giường. Vợ chồng Đại Nho khóc lóc, chết đi sống lại, mắng đạo sĩ ầm lên: "Giống yêu đạo nào đưa lại vật này, hại đời không ít. Sao không đem đốt nó đi?" Rồi sai người chất lửa đốt cái gương. Bỗng trong gương có tiếng nói: "Ai bảo soi mặt phải! Các ngươi tự mình lấy giả làm thực, việc gì lại đốt gương của ta?"

Chợt thấy đạo sĩ khiễng chân từ ngoài vào, nói to:

- Ai đốt cái gương "Phong nguyệt bảo giám" ta lại cứu đây!

Liền chạy thẳng vào trong nhà cướp lấy cái gương, rồi vùn vụt ra đi.

Đại Nho đành phải lo liệu việc tang, báo tin buồn đi các nơi, ba ngày tụng kinh, bảy ngày cất đám, đưa ra quàn ở chùa Thiết Hạm, đợi ngày đưa về nguyên quán. Người trong họ đều đến viếng. Phủ Vinh thì Giả Xá giúp hai mươi lạng, Giả Chính giúp hai mươi lạng. Phủ Ninh, Giả Trân cũng giúp hai mươi lạng; còn những người trong họ giàu nghèo không đều nhau, người thì một hai lạng, người thì ba bốn lạng. Ngoài ra, các bạn hữu giúp đỡ cũng được hai ba mươi lạng. Nhà Đại Nho tuy nghèo, nhưng được nhiều người giúp đỡ, việc tang cũng lo liệu đầy đủ.

Cuối mùa đông năm ấy, Lâm Như Hải mắc bệnh nặng, viết thư bảo Đại Ngọc phải về, Giả mẫu nghe tin, lại thêm lo buồn, đành phải sắm sửa cho Đại Ngọc lên đường. Bảo Ngọc bứt rứt khó chịu. Nhưng vì tình cha con, nên không tiện ngăn giữ.

Giả mẫu bảo Giả Liễn đưa Đại Ngọc đi, khi xong việc sẽ lại đưa về. Các món quà địa phương và tiền lộ phí đều sắm sửa đủ cả. Chọn ngày tốt, Giả Liễn cùng Đại Ngọc từ biệt mọi người, mang theo người hầu xuống thuyền đi Dương Châu.

------------------------------

(1). Nghĩa đen của chữ "thủ dâm" của Tây sương ký.

(2). Cái gương báu để cho những người say đắm tình duyên trăng gió tự soi mà tỉnh ngộ

Hồi thứ mười ba

Tần Khả Khanh chết được phong long cẩm túy;

Vương Hy Phượng sang giúp việc bên phủ Ninh.

Từ ngày Giả Liễn đưa Đại Ngọc đi Dương Châu, Phượng Thư trong lòng buồn bã, cứ đến tối là cười đùa qua loa với Bình Nhi một lúc rồi đi ngủ ngay. Một đêm, Phượng Thư cùng Bình Nhi ngồi dưới đèn, ôm lồng ấp, sai a hoàn hơ ấm chăn đệm, rồi hai người đi nằm. Phượng Thư bấm đốt tay, tính đường đi xem chừng đã đến đâu. Hai người nói chuyện, bất giác sang canh ba. Bình Nhi ngủ lúc nào không biết. Phượng Thư thì đang mơ mơ màng màng. Chợt thấy Tần thị ở ngoài bước vào, mỉm cười nói:

- Thím ngủ ngon thế! Hôm nay cháu về, sao thím không đi tiễn chân cháu một quãng! Chỗ thím cháu ta ngày thường thân mật với nhau, cháu không dứt ra được, nên lại đây từ biệt. Có một điều áy náy trong lòng, cháu chỉ nói với thím, chứ nói với người khác chưa chắc đã ăn thua gì.

Phượng Thư nghe nói, hoảng hốt hỏi:

- Cháu có việc gì, nói cho ta biết.

Tần thị nói:

- Thím ơi! Thím là bực anh hùng trong đám phấn son, ngay bọn con trai mũ cao áo dài cũng chẳng hơn được. Câu tục ngữ "Trăng tròn rồi khuyết, nước đầy thì tràn", và "Trèo cao tất ngã đau", chắc thím cũng đã hiểu. Nhà ta giàu sang lừng lẫy non trăm năm nay, một ngày kia "Hết vui đến buồn", đúng như câu tục ngữ: "Cây đổ khỉ vượn tan", chẳng hóa ra phụ cái tiếng dòng họ thi thư lâu đời hay sao?

Phượng Thư nghe nói, lòng đầy vui vẻ, kinh sợ bội phần, vội hỏi:

- Cháu nghĩ thế rất phải. Nhưng có cách gì giữ lại để sau này khỏi lo không?

Tần thị cười nhạt:

- Thím thế mà cũng ngớ ngẩn! Bĩ chán thì phải thái, vinh chán thì phải nhục, xưa nay vẫn quanh quẩn như thế, sức người có giữ được mãi đâu! Nhưng đang lúc thịnh, ta nghĩ cách đề phòng lúc suy, thì cũng có thể giữ lâu được. Hiện giờ mọi sự điều ổn, chỉ có hai việc là chưa xuôi, nếu biết xếp đặt ngay thì sau này sẽ không phải lo.

- Những việc gì?

- Một là, hiện nay mộ tổ vẫn bốn mùa tế lễ, nhưng không có món tiền chi tiêu nhất định; hai là, trường học của họ cũng không có món nào cung cấp nhất định. Bây giờ đương lúc thịnh, hai món ấy không đến nỗi thiếu thốn. Sau này không may sa sút, thì lấy tiền đâu ra mà chi. Theo ý cháu, chi bằng đang lúc phú quý, nên đặt nhiều trang trại, nhà cửa, ruộng đất bên cạnh một tổ, để chi phí việc tế tự và cung cấp. Trường học của họ cũng đặt ở đấy. Họp cả lớn bé trong họ, đặt một điều lệ, phàm việc ruộng đất, tiền nong, tế lễ, cung cấp, mỗi nhà trông nom một năm. Cứ lần lượt như thế, có thể tránh được cái tệ tranh giành nhau, hay mang đi cầm bán. Nếu người nào có tội, chỉ tịch thu riêng của người ấy, còn sản nghiệp hương hỏa thì ngay quan cũng không lấy được. Như vậy dù khi sa sút, con cháu vẫn có thể lui về nhà đọc sách, làm ruộng, giữ trọn được tế tự. Nếu chỉ nhìn trước mắt cho là vinh hoa mãi mãi mà không tính đến mai sau, thì không phải là kế lâu dài. Rồi đây chẳng bao lâu nữa sẽ có một sự vui mừng khác thường, thực là: "lửa nóng sôi dầu, hoa tươi cài gấm!" Nhưng đó chỉ là cuộc phồn hoa nháy mắt, vui sướng một thời, đừng nên quên câu: "tiệc vui cũng tàn!" Nếu không lo xa từ giờ, sau này hối cũng vô ích!

- Việc gì đáng mừng thế?

- Cơ trời không thể tiết lộ được, chỉ vì thím cháu ta thân nhau, nay cháu sắp đi, xin tặng lại hai câu này, thím nên nhớ kỹ:

Ba xuân khi đã qua rồi.

Hoa tàn, thơm hết, mọi người chia tay!

Phượng Thư còn muốn hỏi nữa, chợt thấy ở cửa ngoài vang lên bốn hồi mõ sắt, báo tin có tang. Phượng Thư giật mình tỉnh dậy. Có người vào báo:

- Mợ Dung bên phủ Đông mất rồi!

Phượng Thư thất kinh, toát mồ hôi, ngẩn người ra một lúc, vội mặc quần áo, đến chỗ Vương phu nhân. Bấy giờ cả nhà đều biết, ai nấy buồn rầu, vẫn chưa tin là thật. Khắp họ, bậc trên thì thương nàng là người nết na; hàng dưới thì thương nàng hiền hậu. Cả những người nhà, từ già chí trẻ, nghĩ đến nàng ngày thường thương kẻ nghèo hèn, kính nể người già, yêu mến trẻ con. nên ai cũng khóc lóc đau xót. Nói về Bảo Ngọc, gần đây vì Đại Ngọc đi vắng, một mình lẻ loi, cũng không chơi đùa với ai. Cứ tối đến là buồn thiu, đi ngủ ngay. Đang lúc mơ màng, chợt nghe tin Tần thị chết, Bảo Ngọc vội vùng trở dậy, ruột đau như cắt, không ngờ ọe một cái, khạc ra một cục máu. Bọn Tập Nhân vội vàng đến đỡ hỏi tại làm sao và định đi trình Giả mẫu, mời thầy thuốc đến. Bảo Ngọc nói:

- Đừng làm rộn lên, ta không sao đâu. Đó là do tâm hỏa bốc mạnh, huyết không đi theo đường đấy thôi.

Nói xong vùng dậy, thay quần áo, đến thăm Giả mẫu, rồi xin đi ngay.

Tập Nhân thấy thế, trong bụng không đành, nhưng không dám ngăn; mặc cho Bảo Ngọc đi.

Giả mẫu thấy vậy, bảo:

- Người mới tắt thở, không được sạch sẽ, vả lại đêm hôm gió to, sáng mai cháu đến cũng chưa muộn.

Bảo Ngọc nhất định xin đi. Giả mẫu đành bảo sắp xe, sai nhiều người đi theo. Đến phủ Ninh, Bảo Ngọc thấy cửa phủ mở toang, đèn đuốc sáng như ban ngày, người đi lại tấp nập. Trong nhà tiếng khóc ầm lên, tưởng như rung động cả rừng núi, Bảo Ngọc xuống xe, vội vàng đến ngay chỗ người chết, gào khóc một hồi, rồi đến thăm Vưu thị. Lúc này Vưu thị đang bị chứng dạ dày phát lại, nằm ở trên giường. Bảo Ngọc lại đến gặp Giả Trân.

Giả Đại Nho cũng dẫn bọn Giả Sắc, Giả Hiệu, Giả Đôn, Giả Xá, Giả Chính, Giả Tông, Giả Biển, Giả Hanh, Giả Quang, Giả Thâm, Giả Quỳnh, Giả Lân, Giả Tường, Giả Xương, Giả Lăng, Giả Vân, Giả Cần, Giả Trăn, Giả Bình, Giả Tảo, Giả Hanh, Giả Phân, Giả Phương, Giả Lan, Giả Huân, Giả Chi đến. Giả Trân khóc sướt mướt, nói với bọn Giả Đại Nho:

- Tất cả lớn bé trong nhà, bè bạn gần xa, ai cũng khen con dâu tôi khôn ngoan hơn con trai nhiều. Nay nó mất đi, đủ biết nhành trưởng này lụn bại mất!

Nói xong lại khóc, mọi người khuyên giải:

- Người đã chết rồi, khóc cũng vô ích, ông nên lo liệu ngay việc ma chay là hơn.

Giả Trân đập tay, nói:

- Lo liệu gì! Chẳng qua có bao nhiêu tiền làm hết bấy nhiêu thì thôi!

Đang nói chuyện thì Tần Nghiệp, Tần Chung và họ hàng chị em Vưu thị đều đến cả. Giả Trân sai Giả Quỳnh, Giả Thâm, Giả Lân, Giả Tường, bốn người đi tiếp khách. Một mặt sai mời quan giữ ty âm dương(1) ở tòa Khâm Thiên Giám đến chọn ngày. Linh cữu đặt ở trong nhà bốn mươi chín ngày, ba ngày sau thì phát tang và gửi cáo phó. Trong bốn mươi chín ngày ấy, đặc biệt mời một trăm linh tám vị sư làm lễ "Đại bi sám" ở nhà đại sảnh để siêu độ vong hồn. Lại đặt riêng một đàn ở lầu Thiên Hương, mời chín mươi chín vị đạo sĩ, làm lễ giải oan rửa tội mười chín ngày. Rồi rước linh cữu ra vườn Hội Phương. Trước bàn thờ có năm mươi vị cao tăng, năm mươi vị cao đạo lập đàn đối nhau, cứ bảy ngày làm lễ một lần.

Giả Kính nghe thấy cháu dâu trưởng chết, nhưng cứ tự cho mình sớm muộn sẽ thành tiên, không chịu về nhà nhuốm vào bụi trần, mất hết công tu luyện, nên không để ý đến, mặc cho Giả Trân lo liệu.

Giả Trân thấy cha không nhìn đến thì tha hồ phung phí. Nói đến áo quan, thì thứ gỗ nào cũng không vừa ý. Vừa lúc Tiết Bàn đến viếng thấy Giả Trân muốn tìm gỗ tốt, bèn nói:

- Cửa hàng gỗ nhà tôi có một cỗ ván gọi là gỗ đường, lấy ở núi Thiết Võng, đem làm quan tài thì muôn năm cũng không nát. Trước đây cha tôi lấy về, là vì Trung Nghĩa Thân Vương muốn dùng, nhưng sau Thân Vương bị mất chức, nên không dùng nữa. Hiện vẫn cất kỹ ở đó, không ai đủ sức mua nổi. Nếu anh cần, thì cho khiêng về mà dùng.

Giả Trân nghe nói rất mừng, sai khiêng ngay về. Cỗ ván dày tám tấc, vân như vân hạt cau, thơm như mùi bạch đàn, xạ hương, lấy tay gõ kêu "keng, keng" như tiếng vàng tiếng ngọc. Mọi người đều khen lạ. Giả Trân cười hỏi:

- Giá bao nhiêu?

Tiết Bàn nói:

- Dù có một nghìn lạng cũng chẳng mua đâu được. Nói giá làm gì. Chỉ cho chúng nó mấy lạng bạc tiền công là đủ rồi.

Giả Trân nghe nói, cảm tạ luôn mồm, sai cưa ra và gắn sơn ngay. Giả Kính khuyên:

- Người thường thì không nên dùng thứ này, tìm thứ gỗ tốt là được.

Giả Trân không thể chết thay cho Tần thị, khi nào lại chịu nghe.

Thấy Tần thị chết, a hoàn Thụy Châu cũng đập đầu vào cột chết theo, câu chuyện hiếm có ấy làm cho cả họ đều thở than khen ngợi. Giả Trân cho làm ma theo lễ "cháu gái", cũng rước linh vào gác Đăng Tiên trong vườn Hội Phương. Lại có một a hoàn tên là Bảo Châu, thấy Tần thị không có con, xin làm con nuôi giữ tang lễ như con đẻ. Giả Trân mừng lắm, cho gọi là tiểu thư. Bảo Châu theo lễ con gái chưa gả chồng ngồi bên linh cữu khóc than thảm thiết.

Cả người trong họ và người nhà, đều theo đúng nghi lễ, không chút nhầm lẫn. Giả Trân nghĩ: "Giả Dung chẳng qua là một giám sinh ở huỳnh môn(2), viết trên minh tinh không đẹp lăm, số chấp sự(3) cũng không được nhiều, vì thế trong bụng rất là áy náy.

May sao hôm ấy là ngày thứ tư trong tuần thất đầu, có quan nội giám ở cung Đại Minh, tên là Đái Quyền sai người mang lễ đến, hắn ngồi trên kiệu lớn, có quân hầu đánh thanh la dẹp đường, thân hành đến viếng. Giả Trân vội ra tiếp đón, mời ngồi uống nước ở Đậu Phong hiên(4) Giả Trân đã có ý định trước, nhân dịp xin với Đái Quyền cho Giả Dung được quyên hàm. Đái Quyền hiểu ý cười nói:

- Chắc là ông muốn cho tang lễ được trọng thể hơn phải không?

Giả Trân vội nói:

- Ngài đoán thực không sai.

Đái Quyền nói:

- Cũng may vừa có một chỗ khuyết. Trong số ba trăm long cẩm úy còn thiếu hai viên. Vừa rồi em Tương Dương hầu là Lão Tam đến xin, và đưa ngay đến nhà tôi một nghìn năm trăm lạng. Ông cũng biết đấy, chỗ chúng tôi chơi thân với nhau đã lâu, bất kỳ thế nào cũng nể mặt cha nó, nên tôi cứ nhận bừa. Còn một chân nữa thì Tiết độ sứ Vĩnh Hưng sai lão Phùng béo đến xin cho con, nhưng tôi không nhận lời. Nay cậu nhà ta muốn quyên, cứ viết ngay lý lịch đưa cho tôi.

Giả Trân vội sai người viết lý lịch vào một tờ giấy đỏ. Bọn người nhà không dám trì trệ, lập tức viết ngay vào tờ giấy đỏ đưa đến. Giả Trân xem xong, liền đưa cho Đái Quyền. Thấy viết như sau:

Giám sinh ở huyện Giang Ninh, phủ ứng Thiên, tỉnh Giang Nam, tên là Giả Dung, hai mươi tuổi. Cụ là Giả Đại Hóa, nguyên là Tiết độ sứ Kinh Doanh, tập tước nhất đẳng Thần uy tướng quân. Ông là Giả Kính, đỗ tiến sĩ khoa ất mão. Cha là Giả Trân tập tước tam phẩm Uy liệt tướng quân.

Đái Quyền xem xong quay lại đưa cho lính hầu cận, bảo:

- Mang về đưa cho quan bộ Hộ họ Triệu, nhờ ông ta cấp văn bằng cho một chức ngũ phẩm Long Cẩm úy, và phát giấy chấp chiếu điền lý lịch này vào. Ngày mai ta sẽ đem tiền đến nộp.

Lính hầu vâng lời. Đái Quyền cáo từ ra về. Giả Trân cố giữ lại không được, đành phải tiễn ra cửa phủ. Khi sắp lên kiệu, Giả Trân hỏi:

- Món tiền tôi mang đến bộ hay nộp ở phủ ngài?

Đái Quyền nói:

- Nếu mang đến bộ nộp, còn phải cân kẹo lôi thôi, ông sẽ bị thiệt; chi bằng khoán trắng một nghìn hai trăm lạng, đem đến nhà tôi là xong.

Giả Trân cảm ơn mãi, nói:

- Khi hết tang, sẽ đưa cháu đến phủ tạ ơn ngài.

Hai người chia tay nhau.

Tiếp đó lại có tiếng dẹp đường, bà Trung Tĩnh hầu Sử Đỉnh đến viếng. Bọn Vương phu nhân, Hình phu nhân, Phượng Thư vừa đón vào phòng giữa, lại thấy lễ viếng của Cẩm Hương hầu, Xuyên Ninh hầu, và Thọ Sơn bá bày ở bàn thờ; một lúc ba người xuống kiệu, bọn Giả Chính ra tiếp ở nhà khách.

Bạn bè đến viếng lũ lượt không biết bao nhiêu mà kể. Suốt trong bốn ngươi chín ngày, người nhà thì mũ áo tang trắng xóa một màu, quan khách thì sắc áo gấm vóc như hoa sặc sỡ, đi đi lại lại chật ních cả quãng đường vào phủ Vinh.

Giả Trân bảo Giả Dung ngày hôm sau mặc cát phục đi lĩnh bằng. Nhưng đồ thờ đều theo thể lệ ngũ phẩm, trên linh bài viết: "Thiên triều cáo thụ Giả môn Tần thị nghi nhân chi linh vị"(5). Cửa vườn Hội Phương mở rộng, hai bên có phòng âm nhạc, hai ban nhạc công mặc áo xanh tấu nhạc; đồ chấp sự bày từng đôi một rất là nghiêm trang. Hai cái biển lớn sơn đỏ chữ vàng dựng ở ngoài cửa, viết: "Phòng Hộ nội đình tử cấm đạo ngự tiền thị vệ Long Cẩm úy"(6). Đằng trước có một cái đàn tụng kinh rất cao, hai bên có tăng đàn và đạo đàn đối nhau. Trên bảng đề những chữ lớn: "Tang lễ của nghi nhân họ Tần, nàng dâu cháu trưởng họ Giả thế tập tước Ninh Quốc công, hiện giữ chức Phòng Hộ nội đình Ngự tiền thị vệ Long Cẩm úy; ở đất chính giữa của bốn đại châu, là nước vâng mệnh trời thái bình lâu đời, có Tổng 1ý ty hư vô tịch tĩnh giáo môn tăng lục họ Vạn, Tổng lý ty nguyên thủy tam nhất giáo môn đạo lục họ Diệp, kính sửa đàn chay, cầu trời khấn phật..." và: "kính thỉnh các vị Dà Lam, Yết đế, Công Tào, ơn thánh rộng ban, oai thần xa khắp, bốn mươi chín ngày thủy lục đạo tràng tiêu tai rửa tội..."

Giả Trân lòng tuy đã thỏa, nhưng vì bệnh Vưu thị lại phát, không lo liệu được công việc, sợ các bà mệnh phụ đến, lỡ có sơ suất đều gì, sẽ bị người ta chê cười. Đương lúc lo nghĩ, Bảo Ngọc ngồi bên cạnh, hỏi:

- Mọi việc đều ổn thỏa cả, anh còn buồn cái gì?

Giả Trân nói cho Bảo Ngọc biết là do không có người trông nom nhà trong, Bảo Ngọc cười nói:

- Có khó gì, tôi cử một người trông nom giúp một tháng, thì ổn thỏa hết.

Giả Trân vội hỏi là ai. Bảo Ngọc thấy có nhiều người ngồi đấy không tiện nói, bèn chạy đến ghé vào tai Giả Trân nói nhỏ mấy câu. Giả Trân mừng lắm, cười nói:

- Được thế thì ổn lắm. Bây giờ chúng ta đi nói chuyện ngay đi.

Liền cáo từ mọi người, kéo Bảo Ngọc đi lên nhà trên.

Cũng may hôm ấy không phải là ngày lễ chính, ít bạn bè đến, nhà trong chỉ có Hình phu nhân, Vương phu nhân, Phượng Thư và mấy người trong họ ngồi đấy. Nghe người báo: "Ông vào!", các bà các chị nhớn nhác lẩn vào phía sau, chỉ có Phượng Thư thong thả đứng dậy.

Bây giờ Giả Trân đang ốm, lại vì quá thương xót, nên chống gậy bước vào. Bọn Hình phu nhân nói:

- Anh đã yếu lại nhiều việc, nên nghỉ là phải, đến đây làm gì?

Giả Trân chống gậy, chực khom lưng quỳ xuống chào và xin lỗi. Bọn Hình phu nhân vội sai Bảo Ngọc ngăn lại, sai lấy ghế, bảo ngồi, Giả Trân không chịu ngồi, gượng cười, nói:

- Cháu đến đây có một việc nhờ hai thím và cô em. Hình phu nhân hỏi: "Việc gì?" Giả Trân nói:

- Hai thím chắc cũng biết: Bây giờ vợ thằng cháu mất đi, nhà cháu lại ốm, công việc lộn xộn, chẳng còn ra thể thống gì. Cháu muốn nhờ cô em đến trông nom hộ một tháng, cháu mới yên lòng.

Hình phu nhân cười nói:

- Té ra vì việc ấy. Em Phượng hiện ở với thím Hai, anh cứ nói với thím ấy.

Vương phu nhân vội nói: .

- Em nó còn ít tuổi, đã quen đâu những việc này. Nếu lo liệu không ổn, chỉ tổ cho người ta cười. Nên nhờ người khác thì hơn.

Giả Trân cười nói:

- Cháu đã đoán được ý thím rồi. Thím chỉ sợ cô em khó nhọc đấy thôi. Nếu nói rằng lo liệu không nổi, cháu tin chắc là cô em lo liệu nổi. Dù có sai, thì ai mà chả có chỗ làm sai. Hồi cô em còn bé, từ lời nói tiếng cười đã có tính quyết đoán. Bây giờ đi lấy chồng, cáng đáng mọi việc bên nhà, chắc đã thành thạo lắm rồi. Cháu nghĩ mãi mấy hôm nay, ngoài cô em ra, không còn ai nữa. Nếu thím không thương đến vợ chồng cháu, thì xin thương đến vong hồn kẻ đã chết vậy!

Nói xong, nước mắt chảy xuống ròng ròng.

Vương phu nhân nghĩ Phượng Thư chưa từng trải việc tang bao giờ, sợ trông nom không nổi, người ta chê cười chăng; nay thấy Giả Trân nằn nì mãi thì cũng động tâm, cứ nhìn Phượng Thư rồi lặng lẽ ngồi yên. Phượng Thư xưa nay hay mua việc để tỏ ra mình là người thạo, thấy Giả Trân vật nài, trong bụng cũng đã thuận rồi, lại thấy Vương phu nhân có ý bằng lòng bèn nói:

- Anh đã nói thiết tha như thế, mẹ cũng nên chuẩn y cho là phải.

Vương phu nhân khẽ hỏi:

- Liệu cháu có làm nổi không?

- Làm gì mà chẳng nổi! Những việc lớn bên ngoài đã có anh lo liệu, chỉ còn phải trông nom bên trong thôi. Nếu có điều gì con không biết, sẽ hỏi mẹ là được.

Vương phu nhân nghe nói có lý cũng ngồi lặng yên.

Giả Trân thấy Phượng Thư bằng lòng, cười nói:

- Bây giờ tôi cũng không nghĩ hết được, thôi thì phiền cô em khó nhọc ít lâu. Tôi xin chào cô em trước, khi nào xong việc, tôi sẽ sang bên phủ tạ ơn.

Nói xong vái một cái, Phượng Thư vội vái lại.

Giả Trân liền lấy đối bài(7) của phủ Ninh trong tay áo ra, nhờ Bảo Ngọc đưa cho Phượng Thư và nói:

- Cô em muốn làm gì cứ làm, muốn lấy gì cứ lấy không phải hỏi tôi. Tốn kém bao nhiêu cũng không cần, cốt làm thế nào cho trọng thể; đối với người bên này cũng như bên nhà, đừng sợ ai oán trách. Ngoài hai việc này, tôi chẳng còn gì đáng lo nữa.

Phượng Thư chưa dám nhận đối bài, chỉ nhìn Vương phu nhân. Vương phu nhân bảo:

- Anh đã nói thế, cháu cứ nhận. Nhưng không nên tự tiện, có việc gì phải sai người đến hỏi anh chị đã, rồi hãy làm.

Bảo Ngọc cầm lấy đối bài ở tay Giả Trân dúi vào tận tay Phượng Thư.

Giả Trân lại hỏi:

- Cô em ở luôn bên này, hay hàng ngày đi về? Nếu cứ đi về như thế thì vất vả lắm, để tôi cho dọn một cái buồng, cô em ở luôn bên này cho tiện.

Phượng Thư cười nói:

- Không cần, bên kia rời em ra cũng không được. Thôi để ngày mai em sang là hơn.

Giả Trân cũng bằng lòng, nói mấy câu chuyện phiếm rồi đi ra.

Một lúc họ hàng về cả, Vương phu nhân hỏi Phượng Thư:

- Bây giờ cháu định thế nào?

Phượng Thư nói:

- Xin mẹ cứ về trước, con phải ở lại hỏi cho ra đầu mối các việc, xong rồi hãy về.

Vương phu nhân bèn cùng Hình phu nhân về trước.

Phượng Thư vào ngồi trong cái phòng ba gian bên cạnh, suy nghĩ: một là số người lộn xộn, đồ đạc mất mát; hai là không có người chuyên trách công việc hay đùn lẫn cho nhau; ba là tiêu dùng phí phạm, cài bừa lĩnh bậy; bốn là trách nhiệm không phân biệt lớn nhỏ, người thì vất vả, người thì nhàn rỗi không đều; năm là người nhà ngông ngược, ai mạnh vế thì khó kiềm thúc, ai lép vế thì chịu ép một bề. Năm điều này là thói quen ở trong phủ Ninh xưa nay, ta cần phải chỉnh đốn lại. Thực là:

Trị nước khó giao phường mũ áo;

Tầy nhà đành mặc bọn quần thoa.

-------------------------------

(1). Một ty chuyên môn suy tính theo thuyết âm dương sinh khắc chọn ngày tốt cho việc hiếu, hỷ...

(2). Nghĩa chung: trường học; nghĩa riêng: trường Quốc tử giám dưới triều đại phong kiến).

(3). Những nghi trượng như cờ, lọng, bài quan hàm; của bọn quan thời phong kiến.

(4). Gọi con ong đến, ý nói có nhiều hoa.

(5). Linh vị của nhgi nhân họ Tần; nàng dâu họ Giả được triều đình phong hàm.

(6). Tên quan hàm.

(7). Bài làm bằng gỗ, hoặc bằng tre, có dấu hiệu và có số riêng của các gia đình quý tộc phong kiến, dùng để cấp phát tiền lương và các dụng cụ.

Hồi thứ mười bốn

Lâm Như Hải từ trần ở thành Dương Châu;

Giả Bảo Ngọc giữa đường chào vua Bắc Tĩnh.

Đô tổng quản ở phủ Ninh là Lai Thăng biết tin Phượng Thư đến giúp việc, liền gọi những người đồng sự đến bảo:

- Nay mời mợ Liễn ở phủ Tây sang trông nom công việc. Mợ ấy muốn chi cái gì, lấy cái gì, truyền bảo câu gì, mọi người phải hầu hạ cẩn thận. Hàng ngày chúng ta đến sớm về muộn, chịu vất vả một tháng rồi sau sẽ nghỉ, đừng để phải bẽ mặt. Mợ ấy là người ngoài mặt đanh đá, trong lòng sâu cay, đáo để có tiếng, khi nóng tiết lên, chẳng nể ai đâu.

Mọi người đều nói: "Phải đấy!" Có một người cười nói:

- Cứ lý ra, bên này chúng ta cũng cần được mợ ta sang để bắt vào khuôn khổ, nếu cứ như bây giờ thì chẳng còn ra thể thống gì.

Đương nói chuyện, vợ Lai Vượng cầm đối bài đến lấy giấy chép kinh viết sớ. Trong phiếu kê rõ số mục. Mọi người mời ngồi uống nước, một mặt sai người chiếu theo phiếu lấy giấy rồi cùng vợ Lai Vượng đi ra đến cửa nghi môn, mới giao mang đi.

Phượng Thư sai Thái Minh đóng sổ, truyền cho vợ Lai Thăng tra xét lại danh sách người nhà; hẹn sáng sớm ngày mai, hết thảy người nhà và đàn bà hầu đều đến phủ để nghe lệnh. Phượng Thư điểm qua sổ sách xong, hỏi vợ Lai Thăng mấy câu, rồi lên xe về.

Ngày hôm sau, đúng giờ mão hai khắc, Phượng Thư lại đến. Những đàn bà và người hầu trong phủ đều đã đủ mặt. Thấy Phượng Thư và vợ Lai Thăng đương cắt các người chấp sự, họ đều đứng ngoài cửa sổ nghe ngóng không dám vào.

Phượng Thư bảo vợ Lai Thăng:

- Đã giao cho ta, nếu ta có điều gì làm cho các người khó chịu thì cũng đành vậy. Ta không nhu nhược như mợ các ngươi, muốn gì được nấy đâu. Các người cũng đừng lấy nê rằng phủ này từ trước đến nay vẫn thế. Bây giờ hết thảy đều theo lệnh ta, nếu làm sai một tý, bất luận là người có thể diện, đều nhất luật trừng trị.

Phượng Thư nói xong, sai Thái Minh đọc danh sách, đọc đến tên người nào thì gọi người ấy lên nhận mặt, rồi cắt đặt như sau:

- Hai mươi người này chia làm hai ban, mỗi ban mười người, chuyên việc pha nước tiếp các tân khách;

- Hai mươi người này chia làm hai ban, chuyên việc cơm nước phục dịch họ hàng và những người trong nhà;

- Bốn mươi người này chia làm hai ban, chuyên việc thắp hương, róc dầu, kéo màn, cúng cơm, cúng nước, có khách đến viếng thì "cử ai" trước linh sàng;

- Bốn người này chuyên ở phòng trà coi giữ ấm, chén, mất mát cái nào, phải chia nhau đền;

- Bốn người này chuyên giữ hồ rượu và bát đĩa, mất mát cái gì cũng phải chia nhau đền;

- Tám người này chuyên thu nhận lễ viếng;

- Tám người này coi giữ đèn, nến, dầu, các đồ mã: sẽ được cấp phát trước, rồi mới theo sổ phân phát đi các nơi;

- Ba mươi người này hàng ngày thay phiên canh đêm, trông nom cửa ngõ, đèn đuốc, quét dọn các nơi;

- Các người khác chia đi các phòng, mỗi người một chỗ, bàn ghế, đồ đạc, cho đến ống nhổ, phất trần... ở chỗ nào mất mát hoặc hư hỏng, trách cứ người đó phải đến.

- Chị Lai Thăng ngày nào cũng phải xem xét tất cả, nếu có ai lười biếng, uống rượu, đánh bạc, đánh cãi nhau, lập tức bắt đến trình ta. Nếu thiên vị một ai, ta xét ra, dù là người có thể diện từ mấy đời, ta cũng không nể. Bây giờ đã có khuôn phép, nếu ai làm bậy, người ấy phải chịu lỗi. Những người theo hầu ta hàng ngày đều có đồng hồ. Trong buồng nhà trên cũng có đồng hồ đánh chuông, nên bất cứ việc lớn hay nhỏ, phải có thì giờ nhất định. Hàng ngày cứ giờ mão hai khắc ta đến điểm danh; đúng giờ tỵ ăn cơm sáng; vào đầu giờ ngọ hai khắc lĩnh bài, trình việc; đầu giờ tuất đốt giấy báo hiệu tối, ta sẽ đến các nơi tra xét lại một lượt rồi nhưng người canh đêm đem nộp đủ chìa khóa cửa. Sáng hôm sau, đúng giờ mão hai khắc, mọi người lại phải có đủ mặt tại đây. Chúng ta chịu khó vất vả mấy ngày, khi công việc xong, ông các người sẽ thưởng cho.

Sau đó theo số phân phát: chè, dầu, nến, phất trần, chổi, các thứ. Một mặt sắp đặt các đồ trong nhà: bàn, ghế, nệm, chiếu, ống nhổ, đệm kê chân. Một mặt phân phát, một mặt vào sổ, ai trông chỗ nào, ai nhận thứ gì, biên chép rất rõ ràng. Mọi người nhận xong về chỗ, không như trước kia việc nhẹ thì tranh nhau làm, việc nặng chẳng ai ngó đến. Trong các phòng cũng không vì đông người nhốn nháo mà mất đồ đạc. Kẻ đến người đi, ở đâu vào đấy, không lộn xộn như trước người đang bưng nước thì lại bắt đi bưng cơm, người đang cử ai thì lại bắt đi tiếp khách. Hết thảy những chuyện lười biếng, trộm cắp cũng không xảy ra nữa.

Phượng Thư thấy mình có uy quyền, ra lệnh cho ai, đều răm rắp làm theo, trong bụng rất là đắc ý. Nhân thấy Vưu thị ốm, Giả Trân lại thương xót quá đỗi không ăn uống được, Phượng Thư ngày nào cũng bảo nấu cháo dừ và những món ăn ngon, rồi sai người mang đến. Giả Trân hàng ngày cũng sai người sửa soạn đồ ăn ngon đưa đến chỗ Phượng Thư làm việc. Phượng Thư không ngại khó nhọc, ngày nào cũng đến đúng giờ, điểm danh người nhà và bảo ban công việc. Một mình đứng ngồi ở trong phòng, không trò chuyện với các chị em dâu, ngay bạn gái thân thuộc đến cũng không ra đưa đón.

Hôm ấy là ngày thứ năm trong tuần thất thứ năm, các vị sư làm đàn khai phương phá ngục, thắp đèn cho vong hồn vào chầu vua Diêm Vương, bắt ma quỷ, mời Địa tạng bồ tát, mở cầu vàng, dẫn cành phan(1); các đạo sĩ đọc sớ, chầu Tam thanh(2), lạy Ngọc Đế; các sư đốt hương, phù phép, lễ kinh Thủy sám(3); lại có ba sư nữ trẻ tuổi mặc áo cà sa gấm, đi giày đỏ, niệm chú Tiếp dẫn(4) ở trước linh cữu, rất là nhộn nhịp.

Phượng Thư chắc hôm ấy có nhiều khách, đúng giờ dần dậy rửa mặt chải đầu, sắm sửa đâu đấy, rồi mặc quần áo, uống sữa, súc miệng, đến giờ mão hai khắc, vợ Lai Vượng đem người nhà đến chờ sẵn. Phượng Thư ở trong nhà ra, lên xe, trước xe treo đôi đèn lồng viết ba chữ "Vinh quốc phủ". Ngoài cửa phủ Ninh, ở giữa có đèn treo, hai bên có đèn cầy, đốt sáng như ban ngày. Người nhà mặc đồ tang, xếp hàng đứng hầu. Xe đỗ ở cửa giữa, bọn hầu nhỏ lui ra, bọn đàn bà chạy lại vén rèm. Phượng Thư xuống xe, tay vịn vào Phong Nhi, hai người đàn bà cầm đèn, đỡ Phượng Thư vào. Những người đàn bà bên phủ Ninh đều ra chào.

Phượng Thư thong thả bước vào bàn thờ ở gác Đăng tiên trong vườn Hội Phương. Vừa trông thấy quan tài, nước mắt đã lã chã như hạt châu sa. Những hầu nhỏ chắp tay đứng đợi đốt vàng. Phương Thư gọi to:

- Pha nước cúng, đốt vàng!

Một lượt thanh la và âm nhạc nổi lên. Có người mang một cái ghế tựa lớn để ở trước linh cữu, Phượng Thư ngồi xuống khóc to, hết thảy gái trai trong ngoài trên dưới đều khóc rầm lên. Giả Trân và Vưu thị sai người đến khuyên giải, Phượng Thư mới thôi.

Vợ Lai Vượng đem nước trà đến, Phượng Thư súc miệng, đứng dậy từ biệt mọi người trong họ, đi vào nhà bên, mang sổ ra gọi tên. Mọi người đều có mặt cả, chỉ trừ người giữ việc đưa đón các bạn thân là chưa thấy đến. Phượng Thư sai đi gọi ngay. Người kia rất sợ chạy đến. Phượng Thư cười nhạt:

- Ngỡ là ai hóa ra chính là mụ. Mụ cho mình có thể diện hơn người, nên không nghe lời ta!

Người kia nói:

- Hôm nào tôi cũng đến sớm. Hôm nay tôi đã dậy từ lâu, thấy trời còn sớm, lại ngủ mất, thành ra đi chậm một bước, xin mợ tha cho lần đầu.

Đương nói thì vợ Vương Hưng ở bên phủ Vinh sang, đứng ngoài ló đầu vào.

Phượng Thư để người ấy đứng đấy, quay sang hỏi vợ Vương Hưng:

- Chị đến có việc gì?

Vợ Vương Hưng đến gần nói:

- Đến lĩnh bài lấy chỉ để đính diềm xe và kiệu.

Nói xong nộp đơn. Phượng Thư bảo Thái Minh đọc lên: "Kiệu nhỡ hai cỗ, kiệu nhỏ bốn cỗ, xe bốn cỗ, cộng tất cả phải dùng là bao nhiêu sợi, mỗi sợi bao nhiêu cân chỉ tơ".

Phượng Thư nghe xong, thấy số mục đúng, liền sai Thái Minh biên vào sổ, rồi lấy đối bài ở phủ Vinh ném cho vợ Vương Hưng mang đi.

Phượng Thư định quay lại câu chuyện đi trễ, lại có bốn người chấp sự ở phủ Vinh đến, đều là những người lĩnh bài để đi lấy các thứ. Phượng Thư bảo họ đưa đơn đọc lên, nghe có bốn thứ liền trỏ vào hai thứ, bảo:

- Cái này khai nhầm, về tính lại sẽ đến lĩnh.

Nói xong vứt đơn xuống. Hai người này tưng hửng đi ra.

Phượng Thư thấy vợ Trương Tài đứng bên cạnh, hỏi:

- Chị có việc gì?

Vợ Trương Tài vội đưa đơn ra nói:

- Vừa mới thuê làm màn xe kiệu xong, đến lĩnh tiền trả công thợ may.

Phượng Thư thu lấy đơn trao cho Thái Minh vào sổ. Chờ Vương Hưng trao đồ xong, xem số trao có hợp với số mua không, rồi mới cho vợ trương Tài đi lĩnh. Sau đó lại sai đọc một đơn khác, tức là khoản tiền mua các thứ giấy, vải, hồ dán để sửa sang buồng học của Bảo Ngọc, Phượng Thư sai nhận đơn, biên sổ đợi vợ Trương Tài nộp đủ rồi mới phát.

Phượng Thư phân phát các việc xong, mới quay lại bảo:

- Ngày nay người này ngủ quên, ngày kia người kia ngủ quên, thì sẽ hết cả người. Ta cũng muốn tha cho mụ, nhưng lần đầu ta khoan thứ cho mụ, thì sau còn cai quản được ai? Chi bằng cứ xử trí ngay.

Nói xong lập tức nghiêm nét mặt, gọi:

- Mang mụ này ra đánh hai mươi roi.

Thấy Phượng Thư nổi giận, lông mày dựng ngược, không ai dám chậm trễ, người thì lôi mụ ra, người thì nhặt lấy đôi hài. Mụ kia bị đánh hai mươi roi, lại phải đến lạy tạ.

Phượng Thư nói:

- Ngày mai còn chậm, sẽ đánh bốn mươi roi, ngày kia đánh sáu mươi roi. Đứa nào muốn chịu đòn thì cứ chậm. Thôi, cho đâu về đấy.

Mọi người đứng ngoài cửa sổ, nghe vậy, đều răm rắp đi làm việc. Những người ở hai phủ Ninh, phủ Vinh đến lĩnh thẻ trả thẻ, đi lại tấp nập. Người đàn bà bị đòn xấu hổ bỏ đi. Lúc này mọi người mới biết Phượng Thư là tay ghê gớm, nên ai nấy nơm nớp lo sợ, làm việc cẩn thận, không dám lười biếng nữa.

Bảo Ngọc thấy đông người, sợ Tần Chung khó chịu, liền rủ đến chỗ Phượng Thư ngồi. Tần Chung nói:

- Bên ấy đang bận việc. Vả lại, chị ấy cũng không thích có người đến. Chúng ta đến đó sợ làm phiền chị ấy.

Bảo Ngọc nói:

- Phiền cái gì? Không ngại. Cứ theo ta.

Nói xong liền kéo Tần Chung đi.

Phượng Thư đang ăn cơm, thấy chúng đến, cười nói:

- Sao mà nhanh chân thế! Mau lên đây.

Bảo Ngọc nói:

- Chúng tôi vô phép rồi.

- Ăn ở bên nhà hay bên này?

- Ở bên này đông người, ăn làm sao được. Chúng tôi ăn bên cụ rồi mới lại đây.

Nói xong, ngồi xuống.

Phượng Thư ăn xong, có một người đàn bà ở phủ Ninh đến lĩnh bài để lấy đến hương. Phượng Thư cười bảo:

- Ta chắc hôm nay chị phải đến lĩnh. Không thấy chị đến, ta cứ tưởng chị quên, hóa ra bây giờ mới lĩnh. Nếu quên thực, thì chị phải xuất tiền ra, càng lợi cho ta.

Người ấy cười nói:

- Tôi quên thật, vừa mới nhớ ra, nếu chậm một bước nữa thì có lẽ không lĩnh được.

Nói xong lĩnh bài đi.

Đương lúc biên sổ, trao bài. Tần Chung cười nói:

- Cả hai phủ đều dùng một thứ bài, lỡ có người làm bài giả đi lĩnh tiền, thì làm thế nào?

Phượng Thư nói:

- Cứ như cháu nói thì ra không còn có phép vua nữa!

Bảo Ngọc hỏi:

- Sao bên nhà ta không có ai đến đây lĩnh bài để lấy đồ vật?

Phượng Thư nói:

- Khi họ đến thì chú hãy còn trong giấc chiêm bao kia! Tôi hỏi chú bao giờ các chú bắt đầu học tối?

- Chỉ trông mong học ngay từ bây giờ; nhưng họ chưa thu xếp xong buồng học nên đành chịu vậy.

- Chú cứ nói với chị là xong ngay.

- Chị cũng chẳng làm gì được, khi nào họ có làm thì mới xong.

- Họ dù có làm cũng phải cần các thứ, ta không cấp đối bài thì cũng khó mà làm được!

Bảo Ngọc nghe nói, xoắn lấy ngay Phượng Thư, đòi cho đối bài ngay tức khắc:

- Chị ơi, phát ngay bài cho họ đi sắm sửa các thứ.

- Ta mệt rồi, đau dừ cả người, chịu sao được cái lối quấy rầy của chú? Cứ yên tâm, hôm nay họ đã lĩnh giấy dán rồi, họ cần thứ gì thì đến lĩnh, còn chờ gọi à? Sao chú ngốc thế?

Bảo Ngọc không tin. Phượng Thư gọi Thái Minh đem sổ cho xem. Bỗng có người vào trình:

- Chiêu Nhi ở Tô Châu đã về.

Phượng Thư bảo gọi ngay vào. Chiêu Nhi quì xuống vái chào. Phượng Thư hỏi về làm gì? Chiêu Nhi nói:

- Cậu con bảo về. Cụ Lâm đã mất hôm mồng ba tháng chín. Cậu con đưa cô Lâm và linh cữu cụ Lâm về Tô Châu, độ cuối năm nay mới về. Cậu sai con về báo tin, hỏi thăm sức khỏe cụ, chờ chỉ thị của cụ và xem các mợ ở nhà có mạnh khỏe cả không. Cậu con lại dặn lấy mấy bộ áo da mang đi.

- Mày đã gặp mọi người chưa?

- Đã gặp cả rồi.

Nói xong vội vàng đi ra.

Phượng Thư nói với Bảo Ngọc:

- Cô Lâm có thể ở lâu được với chúng ta.

Bảo Ngọc nói:

- Khổ quá! Không biết mấy hôm nay em nó thương khóc đến thế nào!

Nói xong cau mày thở dài.

Phượng Thư thấy Chiêu Nhi về, trước mặt mọi người không kịp hỏi kỹ về Giả Liễn, nhưng nóng lòng sốt ruột, chỉ muốn về ngay. Vì công việc chưa xong, nên đành phải chịu. Chiều về, Phượng Thư gọi ngay Chiêu Nhi đến hỏi kỹ xem trên đường Giả Liễn có được bình an không. Suốt đêm Phượng Thư cùng Bình Nhi sửa soạn áo da, lại nghĩ xem chồng ở ngoài cần những thứ gì gói cả vào một gói trao cho Chiêu Nhi. Phượng Thư lại dặn dò Chiêu Nhi: "Phải hết sức hầu hạ cậu, đừng để cho cậu giận. Phải luôn luôn khuyên cậu ít rượu, không được đưa cậu đi lại với bọn con gái bậy bạ. Tao mà biết được, về đây tao sẽ đánh mày gãy chân".

Chiêu Nhi cười, vâng lời đi ra.

Phượng Thư mãi canh tư mới đi ngủ, trời sáng lúc nào không biết, vội vàng dậy rửa mặt chải đầu rồi đi sang phủ Ninh.

Giả Trân thấy sắp đến ngày phát dẫn, liền lên xe mang theo người coi ty âm dương đến chùa Thiết Hạm xem xét chỗ quàn linh cữu. Lại dặn dò kỹ lưỡng nhà sư Sắc Không sửa soạn đồ lễ chuẩn bị mời các vị danh tăng đến để làm lễ tiếp linh. Giả Trân không nghĩ gì đến ăn uống, vì gần tối không tiện về nhà, phải ngủ lại đấy một đêm. Sáng sớm hôm sau, vội vàng trở về, lo liệu việc cất đám; một mặt sai người đến chùa Thiết Hạm sửa sang gấp chỗ để linh cữu, chỗ bếp núc và số người rước linh. Ngày phát dẫn sắp đến Phượng Thư phân phái người đi lo liệu các việc; mặt khác sai người phủ Vinh sắp sửa xe kiệu theo Vương phu nhân đi đưa đám, và thu xếp chỗ mình nghỉ.

Lúc này lại dồn dập nhiều việc như tang bà Thiện quốc công, Hình phu nhân, Vương phu nhân phải đến viếng và đi đưa đám; sinh nhật bà Tây An quận phi, phải đưa lễ mừng; lại có anh ruột là Vương Nhân và gia quyến về Nam, phải viết thư và sắm sửa các thứ mang về nhà; lại thêm Nghênh Xuân ốm, ngày nào cũng phải mời thầy xem bệnh, bốc thuốc. Phượng Thư bận quá đứng ngồi không yên, còn nghĩ gì đến ăn uống. Khi sang phủ Ninh thì người phủ Vinh đi theo, khi về phủ Vinh thì người phủ Ninh tới tìm. Thấy vậy, Phượng Thư càng hăm hở, không hề thoái thác việc gì, lỡ để người ngoài chê trách. Vì vậy ngày đêm bận rộn, tính toán công việc đâu vào đấy, nên trong họ, trên dưới ai cũng khen ngợi.

Chiều hôm trước ngày đưa đám, họ hàng bạn hữu cùng các ban âm nhạc đến đầy nhà. Vưu thị vẫn ốm nằm trong buồng, một mình Phượng Thư đảm đang hết mọi việc. Trong họ tuy có nhiều chị em dâu, nhưng người thì ăn nói vụng về, người thì đi đứng hấp tấp, hoặc e lệ với bọn quyền quý nên không quen tiếp khách. Riêng có Phượng Thư là người cử chỉ khoan thai, nói năng khoát đạt, tỏ vẻ cao quý, rộng rãi, nên chẳng coi ai vào đâu tha hồ phung phí, sai phái, muốn làm gì thì làm.

Suốt đêm hôm ấy, đèn đuốc sáng trưng, kẻ đưa người đón, rộn rịp trăm đường, chẳng cần phải nói. Sáng hôm sau, được giờ tốt, một bọn sáu mươi tư người mặc áo xanh rước linh, mặt trước minh tinh viết một dòng chữ lớn : "Linh cữu của nghi nhân họ Tần, quan hàm Ngự tiền thị vệ Long Cẩm úy đạo Tử cấm, phòng Hộ nội đình là cháu dâu trưởng họ Giả cáo phong nhất đắng Ninh quốc công. Thiên triều Hồng phúc triệu năm". Bao nhiêu đồ chấp sự và trần thiết đều làm một loạt mới, trông choáng cả mắt. Bảo Châu theo lễ con gái chưa lấy chồng, chịu tang dẫn linh cữu, khóc lóc rất thảm thiết.

Quan khách đến đưa đám có: tập tước Bá nhất đẳng Ngưu Kế Tông là cháu Trần quốc công Ngưu Thanh; tập tước tử nhất đẳng Liễu Phương là cháu Lý quốc công Liễu Bưu; tập tước tam phẩm Uy trấn tướng quân Trần Thụy Văn là cháu Tề quốc công Trần Dực; tập tước tam phẩm Uy viễn tướng quân Mã Thượng là cháu Trị quốc công Mã Khôi; tập tước nhất đẳng Tử Hầu Hiếu Khang là cháu Tu quốc công Hầu Hiếu Minh; duy có bà Thiện quốc công chết, cháu là Thạch Quang Châu không đến được: Bấy giờ người ta gọi sáu nhà này cùng hai nhà Ninh, Vinh là "bát công".

Ngoài ra còn có: cháu Nam An quận vương, cháu Tây Ninh quận vương, Trung tĩnh hầu Sử Đĩnh; tập tước nhị đẳng Nam là Tưởng Tử Ninh, cháu Bình Nguyên Hầu; tập tước nhị đẳng Nam kiêm chức Kinh doanh du kích là Tạ Côn, cháu Định thành hầu; tập tước nhị đẳng Nam là Thích Kiến Huy, cháu Tương Dương hầu; Ngũ thành binh mã Ty là Cừu Lương, cháu Cảnh Điền hầu. Lại còn các vương tôn công tử như Hàn Kỳ là con Cẩm hương bá, Phùng Tử Anh là con Thần vũ tướng quân, Trần Dã Tuấn và Vệ Nhược Lan... không kể xiết được. Khách đàn bà có độ mười kiệu lớn, ba bốn mươi kiệu nhỏ, cùng với kiệu xe trong nhà hơn một trăm cỗ. Trước mặt có bày các thứ lộ bộ chấp sự đi nối nhau một dãy dài đến ba bốn dặm đường.

Bên đường, có những trạm kết hoa cao ngất, bày cỗ bàn, tấu âm nhạc. Đó là trạm tế giữa đường của các nhà. Trạm thứ nhất là của Đông Bình quận vương, trạm thứ hai là của Nam An quận vương, trạm thứ ba là của Tây Ninh quận vương, trạm thứ tư là của Bắc Tĩnh quận vương. Trong bốn vị vương này, khi trước chỉ có Bắc Tĩnh vương công cao nhất, nên con cháu vẫn được tập tước... Hiện nay Bắc Tĩnh vương là Thủy Dung, chưa đầy hai mươi tuổi, tuấn tú khác thường, tính tình nhũn nhặn. Được tin vợ cháu đích tôn phủ Ninh chết, nghĩ đến tình nghĩa ngày trước ông cha hai nhà chơi thân với nhau, Bắc Tĩnh vương không nghĩ mình là tước vương, hôm trước đã đến nhà hỏi thăm, làm lễ điếu tang, nay lại sửa lễ tế giữa đường, sai các thuộc hạ túc trực ở đấy. Canh năm vào chầu xong, Bắc Tĩnh vương mặc đồ trắng, ngồi kiệu, đánh chiêng trương lọng đến trước trạm đỗ xuống. Các quan đứng hầu hai bên, không cho quân dân qua lại.

Một chốc, đám ma phủ Ninh như ngọn núi bạc, trắng xóa trên mặt đất, rầm rầm rộ rộ, từ phương Bắc đến. Thấy trạm tế, người giữ việc của phủ Ninh quay lại báo, Giả Trân truyền ngay nhưng người cầm chấp sự đằng trước đứng lại, rồi cùng Giả Xá, Giả Chính, vội vàng theo quốc lễ đến yết kiến. Bắc Tĩnh vương ngồi trong kiệu nghiêng mình mỉm cười đáp lễ. Trong khi trò chuyện, Bắc Tĩnh vương vẫn dùng tiếng xưng hô như bạn bè thân mật, không có ý gì tỏ vẻ cao quý cả. Giả Trân nói:

- Con dâu kẻ hèn hạ này mất, phiền đức vương hạ cố nhiều lần, bọn chúng tôi đâu dám nhận!

Bắc tĩnh vương cười nói:

- Chúng ta là chỗ bạn thân đời đời với nhau, sao lại nói thế?

Rồi quay lại bảo trưởng phủ quan thay mình chủ tế. Bọn Giả Xá đứng cạnh đáp lễ, rồi thân đến tạ ơn.

Bắc Tĩnh vương tỏ ý rất khiêm tốn, nhân hỏi Giả Chính:

- Có cậu con ngài khi mới sinh ngậm ngọc, tôi muốn xem mặt đã lâu, đều bị việc trở ngại. Hôm nay chắc cậu ấy có ở đây, sao không mời lại?

Giả Chính vội lui ra, gọi Bảo Ngọc thay áo rồi dẫn lại yết kiến. Bảo Ngọc xưa nay nghe tiếng Bắc Tĩnh vương là người hiền đức, tài mạo khác thường, phong lưu, phóng khoáng, không câu nệ lối quyền quý, vẫn muốn được gặp, nhưng vì cha ngăn giữ, không được như ý. Nay thấy gọi, rất là vui mừng, vội chạy lại liếc nhìn, thấy Bắc tĩnh vương nghiêm trang phong nhã đương ngồi trong kiệu.

---------------------------------

(1). Theo lễ bên nhà chùa; tức là Đàn mông sơn.

(2). Theo phái đạo gia (phái tu tiên). Tam thanh là ba cõi trong sạch nhất: Ngọc thanh, Thượng thanh, Thái thanh. Có thuyết cho là ba vị thánh: Nguyên thủy thiên tông; Thái thượng đạo quân; Thái thương lão quân.

(3). Những nghi lễ riêng bên nhà chùa, thường dùng trong tuần bốn mươi chín ngày để siêu độ vong linh.

(4). Đưa linh hồn về cõi phật.

Hồi thứ mười lăm

Vương Phượng Thư lộng quyền ở chùa Thiết Hạm;

Tần Kình Khanh gặp gái trong am Mạn Đầu.

Bảo Ngọc thấy Bắc Tĩnh vương đầu đội mũ tước vương, trâm ngọc, cánh chuồn bạc, mình mặc áo gấm trắng, thêu rồng năm móng, đai dạ màu đỏ, dát ngọc bích; mặt như ngọc, mắt như sao, thực là một bực tuấn tú. Bảo Ngọc vội chạy đến chào. Thủy Dung ở trong kiệu giơ tay ra kéo lại gần, thấy Bảo Ngọc đội mũ chóp bạc, đeo cái che trán thêu đôi rồng vờn, mặc áo chẽn thêu rồng trắng, thắt đai bạc, dát hạt châu; mặt tươi như hoa, mắt đen nhánh. Bắc Tĩnh vương cười nói:

- Tiếng đồn không sai, quả là "bảo ngọc!"

Lại hỏi:

- Bảo bối ngậm khi mới sinh, bây giờ ở đâu?

Bảo Ngọc vội lấy ở trong áo đưa ra. Bắc Tĩnh vương ngắm nghía mãi, đọc mấy chữ khắc ở viên ngọc, rồi hỏi:

- Có linh nghệm thực không?

Giả Chính đáp:

- Tuy thế, cũng chưa thử bao giờ.

Bắc Tĩnh vương luôn miệng khen lạ, vuốt lại dải đeo, rồi tự tay đeo cho Bảo Ngọc. Sau lại dắt tay Bảo Ngọc hỏi:

- Năm nay bao nhiêu tuổi? Học sách gì?

Bảo Ngọc trả lời rành rọt từng câu.

Bắc Tĩnh vương thấy Bảo Ngọc giọng nói trong trẻo, chuyện trò phong nhã, liền ngoảnh lại bảo Giả Chính:

- Cậu bé nhà ta thực là "long câu phượng sồ"(1), không phải tiểu vương này nói đường đột trước mặt ngài đâu. Sau này tiếng phượng non trong hơn tiếng phượng già(2) cũng chưa biết chừng.

Giả Chính cười nói:

- Cháu ngu dại đâu dám nhận những lời vàng ngọc ấy. Nhờ ơn đức người, được thế thì thật là may cho chúng tôi.

Bắc tĩnh vương lại nói:

- Có một điều lạ, tư chất cậu bé như thế, chắc cụ nhà yêu lắm thì phải, nhưng bọn hậu sinh chúng ta thì đừng nên nuông quá, nuông quá sẽ làm cho cậu ta sao nhãng việc học. Tiểu vương này trước cũng ở trong cảnh ngộ ấy, e cậu ta rồi cũng như thế. Nếu ở nhà không tiện cho việc học, thì không ngại gì thỉnh thoảng ngài cho cậu ấy sang bên tôi. Tôi dù không có tài, nhưng được các bực danh sĩ trong nước quá yêu, hễ ai đến kinh đô đều có lòng hạ cố. Vì thế trong nhà thường có các bậc cao nhân họp mặt. Nếu cậu ấy năng lại chơi, thì việc học cũng có thể ngày một tiến hơn.

Giả Chính vội cúi đầu đáp: xin vâng.

Bắc Tĩnh vương lại tháo chuỗi hạt châu đeo trong cánh tay đưa cho Bảo Ngọc, nói:

- Hôm nay mới gặp lần đầu, không có vật gì tặng, xin lấy chuỗi hạt châu này là vật ban thưởng của thánh thượng, tạm làm lễ mừng.

Bảo Ngọc vội đỡ lấy, quay lại đưa cho Giả Chính. Giả Chính dắt bảo Ngọc lại tạ ơn. Sau đó Giả Xá, Giả Trân đều đến cúi đầu xin mời quay xe về. Bắc Tĩnh vương nói:

- Người mất đã lên cõi tiên, không như chúng ta lận đận ở dưới trần này. Tôi tuy nhờ ơn trời, lạm tập vương tước, có lẽ nào dám vượt trước xe tiên?

Bọn Giả Xá đành phải tạ ơn, quay lại bảo người nhà im hẳn tiếng nhạc, rước cữu lẳng lặng đi qua, rồi mời Bắc Tĩnh vương về.

Đám ma phủ Ninh làm nhộn nhịp suốt cả quãng đường. Ra đến cửa thành, lại có các trạm tế của các đồng liêu thuộc hạ Giả Xá, Giả Chính và Giả Trân. Khi tang gia tạ ơn xong, đám ma rước ra ngoài thành, theo đường lớn đi về chùa Thiết Hạm. Bấy giờ Giả Trân dẫn Giả Dung đi mời các bực tôn trưởng lên kiệu, lên ngựa. Bọn Giả Xá đều lên kiệu, bọn Giả Trân cũng sắp sửa lên ngựa. Phượng Thư chợt nghĩ đến Bảo Ngọc, sợ ra ngoài thành hay chơi đùa, không chịu nghe lời người nhà. Giả Chính thì không để ý đến việc vặt, lỡ xảy chuyện gì sẽ bị Giả mẫu quở trách, bèn sai tên hầu bé đi gọi. Bảo Ngọc đến trước xe, Phượng Thư cười nói:

- Em ơi, em là bực tôn quý, cũng như các vị thiên kim tiểu thư, đừng bắt chước họ ngồi chồm chỗm trên ngựa như con khỉ ấy. Hãy xuống đây, chị em ta cùng ngồi xe chẳng hơn ư?

Bảo Ngọc nghe nói, xuống ngựa, trèo lên xe, cùng đi với Phượng Thư.

Một lát, có hai người cưỡi ngựa đến gần xe Phượng Thư, xuống ngựa, bíu xe lại nói:

- Đây có chỗ nghỉ, xin mợ hãy nghỉ chốc lát.

Phượng Thư bảo ra mời Hình phu nhân và Vương phu nhân. Hai người kia nói:

- Các vị bảo không cần phải nghỉ, còn mợ thì cứ tùy tiện.

Phượng Thư truyền cho nghỉ một lát sẽ đi. Bọn hầu nhỏ dắt kiệu rẽ đám đông quay sang phía bắc. Bảo Ngọc vội sai người đi mời Tần Chung. Tần Chung đang cưỡi ngựa đi theo kiệu cha, thấy đứa hầu Bảo Ngọc mời nghỉ lại ăn lót dạ. Nhìn xe Phượng Thư đi về phía bắc, mà ngựa của Bảo Ngọc thì để nguyên yên, Tần Chung biết ngay là hai người cùng ngồi một xe, liền cưỡi ngựa chạy theo, cùng vào trong trại. Người nhà đã đứng sẵn đó, đuổi hết cả đàn ông đi.

Trại này chỉ lơ thơ mấy nóc nhà, đàn bà con gái không có chỗ lẩn tránh, đành đứng liều đấy. Thấy dáng bộ khoan thai và quần áo lộng lẫy của Phượng Thư, Bảo Ngọc và Tần Chung, ai nấy đều dán mắt nhìn. Phượng Thư đi vào một ngôi nhà tranh, bảo bọn Bảo Ngọc ra ngoài chơi. Bảo Ngọc biết ý, cùng Tần Chung đem lũ hầu bé ra chơi các nơi. Trông thấy những vật dụng trong trại, họ rất lấy làm lạ, không biết gọi tên là gì, dùng để làm gì. Trong bọn hầu có người kể rõ từng cái một. Bảo Ngọc nghe xong, gật đầu nói:

- Không trách được, cổ nhân có câu: "Ai biết đầy mâm cơm trắng muốt. Hạt nào cũng đẫm những mồ hôi".

Đi đến một gian buồng, Bảo Ngọc rất lấy làm lạ khi thấy có một cái guồng kéo sợi đặt ở trên giường. Bọn hầu nhỏ nói:

- Đó là cái guồng kéo sợi để dệt vải đấy.

Bảo Ngọc trèo lên giường cầm guồng quay, thì thấy một người con gái độ 17, 18 tuổi, ăn mặc lối nhà quê chạy lại nói:

- Đừng làm hỏng đấy!

Bọn hầu nhỏ chạy đến quát mắng om sòm.

Bảo Ngọc ngừng tay lại nói:

- Ta không trông thấy cái này bao giờ, nên quay thử một tý chơi.

Người con gái nói:

- Ở nơi các cậu làm gì có cái này! Đứng xa ra, để tôi quay cho mà xem.

Tần Chung kéo Bảo Ngọc lại nói thầm:

- Cô này rất có tình tứ.

Bảo Ngọc đẩy ra nói:

- Đồ đáng chết, nếu còn nói nhảm nữa ta đánh cho bây giờ.

Nói xong, đứng xem người con gái quay guồng. Chợt thấy một bà già ở bên kia gọi:

- Con Hai về đây ngay!

Người con gái bỏ guồng chạy đi.

Bảo Ngọc có vẻ buồn thiu. Phượng Thư cho gọi hai người về. Phượng Thư rửa tay, thay quần áo xong, hỏi Bảo Ngọc có thay không? Bảo Ngọc trả lời "không thay". Bọn người hầu mang hoa quả và pha trà thơm bưng lên. Phượng Thư uống nước rồi chờ cho mọi người thu xếp xong xuôi mới đứng dậy lên xe.

Bên ngoài Vượng Nhi lấy phong bao thưởng cho những người trong trại, họ vội đến lĩnh thưởng và cảm ơn. Phượng Thư không thèm để ý đến. Bảo Ngọc cố chú ý nhìn, không thấy người con gái kéo sợi đâu cả. Đi một quãng, thấy người con gái ấy ẵm em, cùng với hai đứa bé nữa cười cười nói nói đi lại. Bảo Ngọc định xuống xe gặp cô ta, nhưng chắc chẳng ai cho xuống, chỉ liếc mắt nhìn lại. Xe ngựa đi nhanh như gió, trong nháy chẳng còn thấy dấu vết gì nữa.

Đi một quãng đã theo kịp đám ma. Mặt trước có đủ chiêng, trống, phướn, lọng. Các sư ở chùa Thiết Hạm đứng xếp hàng hai bên đường. Một lát, đến chùa lại lập đàn tụng kinh, rồi đặt linh cữu ở cái nhà gần bên đền phía trong. Bảo Châu sửa soạn chỗ nằm ngay cạnh linh cữu. Bên ngoài thì Giả Trân tiếp khách đàn ông, có người ở lại ăn cơm, có người cáo từ ra về, Giả Trân đều tỏ lời cảm tạ. Các tân khách từ tước công, tước hầu, tước bá, tước tử, tước nam, lần lượt ra về, đến cuối giờ mùi mới hết.

Bên trong, Phượng Thư tiếp các bà, cũng theo phẩm tước đến quá ngọ thì lần lượt về hết. Chỉ còn những người họ thân ở lại ban ngày chờ làm lễ xong mới về. Hai bà Hình phu nhân, Vương phu nhân biết Phượng Thư không về ngay được, muốn đem Bảo Ngọc về trước. Nhưng Bảo Ngọc, mới xuống hương thôn lần đầu, khi nào chịu về ngay cứ nằng nặc đòi ở lại với Phượng Thư. Vương phu nhân đành phái giao cho Phượng Thư, rồi về.

Chùa Thiết Hạm là do hai ông Ninh, Vinh ngày trước dựng nên, có đặt ruộng đất hương hỏa để phòng khi trong họ ở kinh có ai qua đời thì quàn cữu ở đây. Trong chùa có làm hai nơi, một để quàn linh cữu, một để người đi đưa đám nghỉ ngơi. Không ngờ về sau người nhiều, lại giàu nghèo không đều, hoặc tính tình khác nhau, nên nhà nào nghèo, thì khi đến đưa đám đều ở lại đây; còn nhà giàu sang muốn bày vẽ, thì cho là ở đấy không tiện, lại tìm ra ngoài, hoặc là trang trại, hoặc là chùa chiền nào, để khi xong việc sẽ về đấy nghỉ ngơi.

Nay đến đám ma họ Tần, những người trong họ đi đưa đều ở lại chùa Thiết Hạm cả, chỉ có Phượng Thư cho là ở lại đây không tiện, sai người đến nói với sư cô Tĩnh Hư ở chùa Mạn Đầu, dọn sẵn cho vài gian buồng để nghỉ. Chùa Mạn Đầu tức là chùa Thủy Nguyệt, vì ở đấy làm bánh mạn đầu ngon có tiếng, cho nên mới có tên ấy. Chùa này cách chùa Thiết Hạm không xa mấy.

Khi hòa thượng tụng kinh xong, cúng cơm chiều, Giả Trân sai Giả Dung đến mời Phượng Thư đi nghỉ. Phượng Thư thấy có mấy chị em tiếp khách hộ, bèn cáo từ mọi người, dắt Bảo Ngọc và Tần Chung sang chùa Mạn Đầu. Tần Nghiệp tuổi già nhiều bệnh, phải về nhà để Tần Chung ở lại dự lễ, vì thế Tần Chung ở lại với Phượng Thư và Bảo Ngọc. Một lúc đến chùa, sư cô Tĩnh Hư mang hai tiểu Trí Thiện, Trí Năng ra đón. Mọi người chào nhau. Phượng Thư vào nhà riêng thay áo, rửa tay, trông thấy Trí Năng càng lớn thân hình càng ngồn ngộn dễ yêu, liền nói:

- Thầy trò nhà ngươi lâu nay không thấy sang chơi?

Tĩnh Hư nói:

- Mấy hôm trước, nhà cụ Hồ sinh hạ cậu trai, bà Hồ đưa sang mười lạng bạc bảo mời mấy vị sư phụ niệm kinh "huyết bồn" trong ba ngày. Chúng tôi bận quá, nên không sang thăm sức khỏe mợ được.

Khi sư già tiếp Phượng Thư, thì Tần Chung, Bảo Ngọc ngồi chơi ở trên đền. Trông thấy Trí Năng đi qua, Bảo Ngọc cười nói:

- Con Năng đến kia kìa.

Tần Chung nói:

- Nhắc đến nó làm gì!

- Mi đừng nói dối, vừa mới hôm nào, ở nhà bà ta, trong lúc vắng người, mi ôm nó làm gì? Bây giờ mi còn dối ta à?

- Làm gì có chuyện ấy?

- Có hay không, thây kệ mi, chỉ bảo nó pha trà ta uống thì êm chuyện hết.

- Lạ thật! Anh bảo nó pha trà, nó không pha hay sao? Lại cứ phải nhờ tôi bảo?

- Ta bảo nó thì chẳng lý thú gì cả, mi bảo nó mới có tình tứ hơn.

Tần Chung không từ chối được, phải nói:

- Năng, pha trà lên đây.

Trí Năng từ bé vẫn đi lại phủ Vinh, thường chơi đùa với Bảo Ngọc và Tần Chung, ai cũng biết cả. Bây giờ nó đã lớn, hơi biết chuyện gió trăng và đã để ý đến Tần Chung là người có dáng bộ phong lưu. Tần Chung cũng yêu nó có duyên dáng thùy mị. Hai người tuy chưa được gần gụi nhau, nhưng đã tình đầu ý hợp rồi. Trí Năng bưng trà đến, Tần Chung bảo đưa cho Tần Chung, Bảo Ngọc bảo đưa cho Bảo Ngọc. Trí Năng bĩu môi cười:

- Có một chén trà cũng tranh nhau, có lẽ tay tôi dính mật chăng?

Bảo Ngọc giật lấy uống trước, vừa muốn nói chuyện, thì Trí Thiện gọi Trí Năng đi bày các thức quả. Một lúc mời hai người vào ăn. Hai người khi nào chịu ăn nhưng thứ ấy! Họ ngồi một lát rồi rủ nhau ra ngoài chơi.

Phượng Thư cũng vào nhà riêng nghỉ, có sư già tiếp đãi. Những người hầu thấy không có việc gì, đều ra chỗ khác nghỉ, chỉ còn vài người hầu nhỏ thân cận ở lại. Sư già thừa dịp nói:

- Tôi có một việc muốn đến phủ nhờ bà Hai, nay xin hỏi ý mợ trước.

Phượng Thư hỏi việc gì? Sư già đáp:

- A di đà phật! Khi trước tôi mới xuất gia, đến ở chùa Thiện Tài, huyện Trường An, nơi đó có một thí chủ họ Trương, giàu lắm. Ông ta có cô con gái lúc bé tên là Kim Kha, thường hay đến chùa lễ phật. Một hôm gặp Lý công tử là em vợ ông phủ Trường An. Trông thấy Kim Kha, Lý công tử xiêu lòng ngay, lập tức nhờ người đến hỏi. Nhưng Kim Kha đã nhận lời con ông Thủ Bị phủ Trường An rồi. Họ Trương muốn thoái hôn, lại sợ ông Thủ Bị không nghe , nên phải trả lời với họ Lý là đã có người hỏi rồi. Lý công tử nhất định đòi lấy. Họ Trương thấy khó xử, không biết gả con cho bên nào. Ông Thủ Bị nghe tin ấy, chẳng hỏi trắng đen gì, đến làm ầm lên: "Có một con gái mà định gả cho mấy người à?" Ông ta không bằng lòng thoái hôn, và đi kiện ngay. Nhà gái bí quá, phải cho người vào kinh chạy thầy chạy thợ, và tức khí nhất định thoái hôn. Tôi nghĩ hiện nay cụ Vân làm Tiết độ sứ Trường An là chỗ thân với phủ ta. Tôi muốn nhờ bà nhà nói với ông lớn viết thư cho cụ Vân nói với ông Thủ Bị một câu, thì thế nào ông ấy chẳng phải nghe. Nếu được như thế thì họ Trương có dốc hết cơ nghiệp để tạ ơn cũng vui lòng.

Phượng Thư cười nói:

- Việc có to tát gì bà ta chẳng thèm bận tâm đến đâu.

- Bà nhà không thèm nhìn đến, nhưng mợ vẫn có thể giúp được

- Ta không cần tiền, cũng chẳng làm việc ấy.

Sư già nghe nói, nghĩ ngợi một lúc rồi thở dài:

- Đã hay là thế. Nhưng họ Trương biết rõ tôi đến nhờ phủ ta rồi. Nếu không giúp, họ Trương có biết đâu là phủ ta không thèm làm, không thèm lễ tạ, mà lại cho rằng những việc nhỏ nhặt như thế phủ ta cũng không làm nổi.

Phượng Thư nghe xong, tự nhiên thấy cao hứng nói:

- Sư già hẳn đã biết rõ tính ta lắm. Xưa nay ta chẳng tin sự báo ứng âm ty địa ngục gì cả. Bất cứ việc gì ta đã làm là làm. Bảo họ đưa ba nghìn lạng bạc đến đây, ta sẽ nói hộ cho.

Sư già nghe xong mừng lắm vội nói:

- Có ngay! Có ngay! Việc ấy chẳng khó gì.

- Ta không phải như bọn người đưa đón để kiếm lời. Ba nghìn lạng bạc này chẳng qua để làm món tiền phí tổn đi lại vất vả cho người nhà, chứ ta thì chẳng cần một đồng, ngay đến ba vạn lạng ta cũng có sẵn.

- Đã thế, ngày mai nhờ mợ làm ơn cho.

- Ta bận lắm, có chỗ nào là thiếu được. Ta đã nhận lời, thể nào cũng giúp bằng được.

- Việc này nếu vào người khác, chưa biết bận rộn đến chừng nào, nhưng đối với mợ thì dù có khó đến đâu cũng chỉ gảy cái móng tay là xong. Tục ngữ có câu: "Càng giỏi giang càng vất vả". Bà nhà thấy mợ thông minh, thì giao hết mọi việc. Nhưng mợ cũng nên cẩn thận giữ gìn sức khỏe mới được.

Sư già hết sức tâng bốc, càng làm cho Phượng Thư lên nước, không nghĩ gì đến khó nhọc, câu chuyện càng nở như cơm vàng.

Tần Chung thừa dịp trời tối vắng người, đi tìm Trí Năng. Hắn vừa đến buồng sau, thì gặp Trí Năng đương ngồi một mình rửa ấm chén. Tần Chung kéo ngay lại hôn. Trí Năng vội lùi bước nói:

- Làm cái gì thế! Còn thế nữa, tôi sẽ kêu to lên.

Tần Chung van nài:

- Em ơi, anh chết mất! Nếu hôm nay em không nghe anh, anh đành chết ngay ở đây!

- Cậu muốn thế nào, trừ phi em ra khỏi nơi giam hãm, xa rời những người ở đây mới được.

- Việc ấy dễ thôi, nhưng nước ở xa làm thế nào cho đỡ khát ngay bây giờ!

Nói xong tắt phụt ngay đèn, nhà tối như mực. Hắn ôm Trí Năng lên giường định giở cuộc mây mưa. Trí Năng thì hết sức giãy giụa, nhưng không dám kêu, sau đành phải chịu vậy. Đang lúc hứng lên, bất thình lình có một người đến, chẳng nói chẳng rằng, đè chặt hai người xuống. Tần Chung và Trí Năng sợ quá không hiểu là ai, cứ nằm nép dài, không dám động đậy. Bỗng "phì" một tiếng, có người phá lên cười, họ mới biết là Bảo Ngọc.

Tần Chung hậm hực nói:

- Làm trò gì thế?

Bảo Ngọc nói:

- Nếu mi không nghe, ta sẽ kêu ầm lên.

Trí Năng thẹn quá, thừa lúc tối chạy biến mất. Bảo Ngọc kêu Tần Chung ra ngoài nói:

- Mi còn già thồm nữa thôi?

Tần Chung cười nói:

- Xin anh đừng to tiếng khỏi vỡ chuyện. Anh muốn gì tôi cũng xin vâng.

Bảo Ngọc cười nói:

- Bây giờ không cần nói vội, để chốc nữa đi ngủ, ta sẽ kể tội cho.

Một lúc, hai người cởi áo đi ngủ, Phượng Thư nằm ở nhà trong, Bảo Ngọc, Tần Chung nằm ở nhà ngoài. Bọn hầu đàn bà giải chiếu ở dưới đất ngồi canh đêm. Phượng Thư sợ mất viên ngọc thiêng, chờ Bảo Ngọc ngủ rồi, sai người đến lấy và cất vào bên gối mình. Việc Bảo Ngọc kể tội Tần Chung thế nào chưa biết rõ, đó còn là một nghi án, nên không dám viết ra đây.

Sáng hôm sau, Giả mẫu và Vương phu nhân sai người đến thăm Bảo Ngọc, bảo phải mặc thêm quần áo, không có việc gì thì về nhà. Bảo Ngọc không nghe, Tần Chung còn mến tiếc Trí Năng, xui Bảo Ngọc nói với Phượng Thư ở lại một ngày nữa. Phượng Thư nghĩ: tang lễ tuy đã xong rồi, nhưng còn mấy việc vặt chưa sắp xếp ổn thỏa; nên ở thêm một ngày nữa. Một là để Giả Trân vừa lòng; hai là để xong việc của Tĩnh Hư; ba là để chiều ý Bảo Ngọc. Giả mẫu nghe thấy tất cũng vui lòng. Liền dặn Bảo Ngọc:

- Việc chị làm xong cả rồi, em còn muốn ở lại chơi, chị cũng đành nán lại hôm nữa. Nhưng thế nào sớm mai cũng phải về.

Bảo Ngọc nói:

- Muôn lạy chị, ngàn lạy chị, em chỉ ở lại một ngày nữa thôi. Sớm mai nhất định sẽ về.

Mấy người lại ở lại một đêm nữa.

Phượng Thư đem việc sư già nói hôm trước khẽ bảo Lai Vượng. Lai Vượng hiểu ý, vội về thành tìm người thư ký, nói dối là Giả Liễn sai viết một bức thư rồi cho người sai ngay đến huyện Trường An. Quãng đường dài một trăm dặm, chỉ mất hai ngày là công việc xong xuôi cả. Quan Tiết Độ sứ ở đấy là Vân Quang, tử tước hàm ơn họ Giả, nay có việc nhỏ, lẽ nào lại không nhận lời? Ông ta trao ngay thư trả lời cho Lai Vượng mang về.

Phượng Thư ở lại một ngày. Đến hôm sau, cáo từ sư già ra về, hẹn ba ngày nữa vào phủ sẽ trả lời. Tần Chung và Trí Năng hai bên quyến luyến không nỡ xa nhau, ngấm ngầm hò hẹn những ngày gặp gỡ, rồi ngậm ngùi chia tay. Phượng Thư lại đi xem xét trong chùa Thiết Hạm một lần nữa. Bảo Châu nhất định không chịu về. Giả Trân đành phải cắt người ở lại để làm bầu bạn với nhau.

----------------------

(1). Long câu: con ngựa non, giống tốt, ví như con rồng. Phượng sổ con phương non, dùng để ví những bậc tài tuấn tú. Tấn thư, truyện Lục Vân: đứa trẻ này không phải là long câu thì là phượng sổ.

(2). Ví con giỏi hơn cha.

Hồi thứ mười sáu

Giả Nguyên Xuân có tài, được tuyển vào cung Phượng Tảo;

Tần Kình Khanh còn trẻ, đã thác xuống cõi Hoàng Tuyền.

Phượng Thư thu xếp công việc ở chùa Thiết Hạm xong, dẫn Tần Chung, Bảo Ngọc lên xe về thành. Đến nhà, vào chào Giả mẫu, Vương phu nhân rồi về buồng nghỉ. Hôm sau, Bảo

Ngọc thấy phòng học đã dọn dẹp xong, hẹn Tần Chung đến tối cùng tới đó học. Tần Chung vốn người yếu đuối, ra ngoài thành bị sương gió, lại mấy lần dan díu với Trí Năng, không biết giữ gìn, khi về bị cảm phong, ho suyễn, không thiết ăn uống, người cứ rạc đi, phải ở nhà tĩnh dưỡng, không đi học được. Bảo Ngọc vì thế mất vui. Không còn cách gì, đành phải chờ cho Tần Chung khỏi bệnh.

Phượng Thư nhận được thư trả lời của Vân Quang, nói việc ấy đã xong xuôi cả. Sư già liền đến báo tin cho nhà họ Trương. ông Thủ Bị không biết làm thế nào, đành nuốt giận

nhận lại món tiền sêu tết khi trước. Không ngờ bố mẹ thì thính thế lực, tham tiền của, nhưng con gái lại biết lẽ phải, giàu tình cảm, khi nghe tin phải thôi người chồng trước , bắt gả về nhà họ Lý, Kim Kha liền thắt cổ tự tử. Con trai ông Thủ Bị cũng là một người chung tình, nghe nói Kim Kha thắt cổ chết, cũng không phụ nghĩa vợ, đâm đầu xuống sông chết theo . Đáng thương cho hai nhà họ Trương, họ Lý vừa mất người, vừa mất của, còn Phượng Thư thì ngồi mát ăn không ba nghìn lạng bạc. Việc này Vương phu nhân chẳng biết một tí gì. Từ đó , Phượng Thư càng bạo gan, biết bao chuyện làm liều như thế, không kể xiết được.

Một hôm, gặp ngày sinh nhật Giả Chính, người nhà phủ Ninh, phủ Vinh đương nhộn nhịp ăn mừng. Chợt có người gác cổng vào báo:

- Có cụ Hạ là quan đô thái giám ở Lục cung đem chiếu chỉ đến.

Bọn Giả Chính, Giả Xá sợ hãi không biết việc gì, ngừng ngay hát xướng, dọn cỗ bàn đi, bày hương án, mở cửa giữa ra, quỳ đón chiếu chỉ. Đô thái giám là Hạ Bỉnh Trung cưỡi ngựa đến, có nhiều nội giám đi theo. Hạ thái giám không mạng chiếu sắc, đến tận cửa dinh giữa mới xuống ngựa, nét mặt tươi tỉnh, đứng ngoảnh về phía nam, nói:

- Vâng đặc chỉ Hoàng đế đòi Giả Chính lập tức vào điện Lâm Kính bệ kiến(*). Nói xong hắn không uống nước, cưỡi ngựa đi ngay.

-------------

(*) chầu Vua. . . . .

-------------

Giả Chính đoán mãi chẳng biết việc gì, vội vàng thay

quần áo vào chầu. Giả mẫu và người nhà hoảng hốt, lo sợ, luôn luôn sai người cưỡi ngựa đi dò tin tức. Độ hai giờ sau, lũ Lại Đại cùng bốn người quản gia thở hồng hộc chạy vào cửa nghi môn báo tin mừng: "ông bảo về mời cụ dẫn các bà vào cung tạ ơn ."

Giả mẫu đang lúc tâm thần hoảng hốt, đứng dưới hành lang nghe ngóng. Hình phu nhân, Vương phu nhân, Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư, chị em Nghênh Xuân và Tiết phu nhân đều chụm cả một chỗ chờ tin. Giả mẫu gọi Lại Đại vào hỏi kỹ đầu đuôi . Lại Đại bẩm:

- Chúng con chỉ đứng chờ ở ngoài triều phòng thôi, tin tức trong ấy không biết gì cả . Sau thấy Hạ thái giám chạy ra chúc mừng . Cô lớn nhà ta đã được phong chức Thượng thư ở cung Phượng Tảo, gia phong là Hiển đức phi. Sau ông nhà ra cũng dặn bảo chúng con như thế. Hiện giờ ông đi sang Đông cung. Xin mời cụ và các bà vào tạ ơn ngay.

Giả mẫu nghe vậy mới yên lòng, ai nấy vui tươi hiện ra nét mặt. Giả mẫu dẫn Hình phu nhân, Vương phu nhân và Vưu thị mặc triều phục theo phẩm tước, đi bốn cỗ kiệu lớn nói

đuôi nhau vào chầu. Giả Xá, Giả Trân cùng mặc triều phục dẫn Giả Tường, Giả Dung đi theo hầu Giả mẫu.

Khắp phủ Ninh, Vinh, ai nấy đều vui cười vang trời dậy đất, chỉ có Bảo Ngọc là lờ như không biết. Đó là vì sao? Vì gần đây Trí Năng ở am Thủy Nguyệt lẻn vào thành tìm Tần Chung, không ngờ bị Tần Nghiệp biết, đuổi Trí Năng đi, đánh Tần Chung một trận rồi vì giận quá, đâm ốm mấy hôm thì chết.

Tần Chung vốn người yếu sẵn, đương ốm chưa khỏi, bị một trận đòn, cha lại vì tức mà chết. Hắn rất băn khoăn hối hận, nên bệnh tình ngày càng nặng thêm. Thấy thế, Bảo Ngọc áy náy không vui, dù Nguyên Xuân đã được phong chức, cũng chẳng khuây khỏa nỗi buồn rầu. Giả mẫu khi đi tạ ơn, lúc trở về nhà bè bạn đến chúc mừng, rồi mọi người trong hai phủ Ninh, Vinh đi lại nhộn nhịp vui mừng hớn hở, riêng có Bảo Ngọc vẫn hờ hững như không, chẳng hề để ý đến. Vì thế mọi người cười hắn là chàng ngốc.

May sao có người về báo tin Giả Liễn cùng Đại Ngọc đã về, ngày mai sẽ đến nhà. Bảo Ngọc lúc ấy mới hơi mừng. Hỏi kỹ nguyên do, biết là nhờ có Vương Tử Đằng dâng sớ nhiều lần về Giả Vu Thôn, nên mới được nhà vua triệu Vũ Thôn vào Kinh bộ biến, và chờ ngày bổ dụng. Vũ Thôn là anh em cùng họ với Giả Liễn, lại có tình thầy trò với Đại Ngọc, nên cùng đi một đường lên đây. Linh cữu Lâm Như Hải đã được chôn gần mộ tổ. Mọi việc đều đã xong xuôi.

Giả Liễn về Kinh chuyến này cứ theo hành trình thì tháng sau mới đến nhà. Nhưng vì nghé thấy tin mừng của Nguyên Xuân nên đêm ngày đi gấp, trên đường đều được bình yên cả.

Bảo Ngọc ngoài việc hỏi sức khỏe của Đại Ngọc ra thì không để ý đến gì nữa.

Đến quá trưa hôm sau, mới thấy người báo: "Cậu Liễn và cô Lâm đã về".

Khi gặp mặt, ai nấy mừng mừng, tủi tủi, khóc ầm lên một lúc, rồi ngỏ lời chúc mừng và an ủi nhau.

Bảo Ngọc nhìn kỹ Đại Ngọc, thấy nét mặt có vẻ xinh xắn hơn trước. Đại Ngọc mang nhiều sách vở về, sai người quét dọn buồng ngủ, bày biện đồ đạc, chia các thứ bút giấy cho bọn Bảo Thoa, Nghênh Xuân và Bảo Ngọc. Bảo Ngọc lấy chuỗi hạt châu thơm của Bắc Tĩnh Vương tặng ngày trước, trịnh trọng đưa cho Đại Ngọc. Đại Ngọc vứt trả lại nói:

- Cái thứ mà hạng con trai hôi hám đã cầm rồi, tôi không nhận đâu.

Bảo Ngọc đành phải nhặt về.

Giả Liễn chào hỏi mọi người xong, về buồng, Phượng Thư đương bận rộn, không lúc nào rỗi, thấy Giả Liễn đi xa về, đành phải bỏ việc ra đón tiếp. Nhân lúc trong buồng không có người, Phượng Thư cười nói:

- Xin mừng quốc cữu ! Ngài đi đường vất vả lắm nhỉ! Hôm qua người nhân phi ngựa về báo là hôm nay ngài sẽ về phủ, kẻ hèn mọn này gọi là sửa một chén rượu tẩy trần, không biết ngài có chiếu cố cho chăng ?

Giả Liễn cười nói:

- Không dám! Không dám! Hậu tình quá! Hậu tình quá.

Bình Nhi và các a hoàn vào chào xong, bưng nước lên, Giả Liễn hỏi chuyện nhà trong những ngày đi vắng, và an ủi Phượng Thư đã chịu khó trông coi.

Phượng Thư nói:

- Tôi có làm được việc gì đâu! Hiểu biết thì hẹp, mồm mép lại vụng, bụng thì thẳng như ruột ngựa, người ta đưa cho cái dùi, mình lại ngỡ là cái kim. Thấy ai nói khéo thì hay cả nể. Vả lại, tôi ít trải việc, lại nhát gan, hễ thấy mẹ có điều gì không vừa ý là tôi sợ hãi suốt đêm không ngủ được. Tôi đã từ chối mấy lần nhưng mẹ không cho, lại bảo là tôi chỉ muốn nhàn rỗi không chịu học việc. Có biết đâu tôi đã vắt ra biết bao mồ hôi. Từng câu nói phải giữ gìn, từng bước đi phải rón rén. Cậu đã biết đấy, các chị quản gia nhà này hay bới chuyện lắm. Lầm một tí là họ bêu ngay ra làm trò cười; hơi nghiệt một tí là họ oán. Rồi họ nói bóng nói gió, nào là "ngồi trên núi xem hổ đánh nhau", "mượn dao giết người , "nhờ gió thổi lửa", "cầm sào đứng trên bờ", "hất bình dầu đổ rồi bỏ mặc đấy", đều là những lời cạnh khóe của bọn mẹ mìn . Tôi còn ít tuổi, không dọa dẫm được ai, tránh sao họ chẳng coi tôi bằng nửa con mắt. Đáng buồn cười nữa là việc tang vợ cháu Dung bên kia, anh Trân hai ba lần quỳ trước mặt mẹ, xin tôi sang trông nom giúp mấy ngày. Tôi ba bốn lần từ chối, nhưng mẹ nể quá bảo cứ đi, tôi đành phải nhận lời. Rút cuộc, công việc rối bét, chẳng ra thể thống gì, làm anh Trân đến nay vẫn còn trách móc phàn nàn. Ngày mai cậu gặp anh ấy, nên nói đỡ cho tôi, rằng tôi còn ít tuổi, chưa từng trải việc bao giờ. Ai bảo anh ấy cứ giao liều công việc cho tôi.

Đang nói chuyện, nghe bên ngoài có tiếng người xì xào.

Phượng Thư hỏi:

- Ai đấy?

Bình Nhi vào nói:

- Tiết phu nhân sai Hương Lăng sang hỏi một việc, tôi đã trả lời và bảo về rồi .

Giả Liễn cười nói:

- Đúng đấy, ta vừa gặp dì Tiết, và một người con gái đến, xem dáng điệu xinh xắn lắm. Ta nghĩ nhà ta không có người nào như thế. Hỏi mới biết con bé đó tên gọi Hương Lăng, trước đây vì nó mà xảy ra kiện cáo lôi thôi. Nay nó là nàng hầu của anh ngốc họ Tiết. Con bé này đã cạo mặt vẽ lông mày(*), trông lại càng thêm vẻ xinh đẹp. Anh chàng họ Tiết thật là làm nhơ bẩn cả một đời người ta.

---------------

(*)Có lẽ theo tập quán phong kiến Trung Quốc, con gái khi lấy chồng mới cạo mặt, vẽ lông mi .

---------------

Phượng Thư bĩu môi nói: .

- Hừ ! Chuyến này đi Giang Tô, Hàng Châu về, chắc đã biết mùi đời nhiều rồi, thế mà còn no bụng đói con mắt! Nếu cậu thích thì chẳng khó gì, để tôi đem Bình Nhi đánh đổi có

được không? Anh chàng họ Tiết là hạng người cầm bát cơm nhưng vẫn dòm nồi. Một năm nay vì chưa lấy được Hương Lăng, anh chàng đã quấy dì Tiết nhiều lần. Dì Tiết cho nhan sắc của Hương Lăng chỉ là việc thường, nhưng thấy con bé đứng đắn, khác hẳn những đứa khác, tính tình lại ôn hòa điềm đạm., các cô con nhà quyền quý cũng chưa chắc đã ăn đứt được nó. Vừa rồi anh Tiết có sửa tiệc mời khách, chính thức nhận nó là người trong phòng. Nhưng chưa đầy nửa tháng, anh ấy lại thoảng đi như không, chẳng khác gì gió thổi qua chuồng ngựa!

Trong khi đang nói chuyện, người hầu vào báo:

- Ông đương chờ cậu ở thư phòng. .

Giả Liễn nghe nói vội vàng mặc áo đi ra.

Phượng Thư mới quay sang hỏi Bình Nhi: .

- Vừa rồi dì Tiết sai Hương Lăng đến hỏi việc gì thế?

Bình Nhi nói:

- Có Hương Lăng nào đâu . Đó là tôi nói dối đấy. Mợ xem, chị Vượng chẳng có ý tứ gì cả.

Rồi đến cạnh Phượng Thư nói khẽ:

- Món tiền lãi ấy sớm tối mang đến lúc nào chẳng được, lại nhè vào lúc cậu đương ở nhà. May sao tôi gặp ở ngoài thềm, nếu không thì chị ta đã chạy thẳng vào buồng đưa cho mợ, thế là cậu sẽ trông thấy. Tính cậu thì còn lạ gì, tiền bạc có bỏ trong vạc dầu sôi cũng lấy ra được. Nếu biết mợ có tiền để riêng, cậu lại không tha hồ phung phí hay sao? Thấy thế, tôi chạy ngay ra đón, nói cho chị ấy mấy câu. Ngờ đâu mợ lại nghe thấy. Nhưng vì cậu đương ngồi đấy, nên tôi phải nói dối là Hương Lăng sang.

Phượng Thư nghe rềi cười nói:

- Ta biết mà. Dì Tiết biết cậu về rồi, vô cớ sai người sang làm gì. Hóa ra con ranh này nói dối.

Đang ngồi nói chuyện thì Giả Liễn về. Phượng Thư sai dọn rượu. Vợ chồng ngồi đối diện với nhau. Phượng Thư tuy uống được, nhưng không dám lai láng vui quá chén, chỉ ngồi hầu Giả Liễn uống. Giữa lúc đó, vú nuôi Giả Liễn là họ Triệu đến.

Giả Liễn, Phượng Thư vội vàng mời ngồi lên giường, uống rượu. Vú Triệu nhất định không nghe. Bình Nhi đặt ngay một cái bàn riêng và một cái ghế thấp ở bên cạnh giường mời vú Triệu ngồi. Giả Liễn lấy mấy món ăn ở bàn mình đặt sang bàn vú Triệu. Phượng Thư nói:

- U không nhai được những món này đâu, không khéo thì gẫy răng đấy.

Rồi hỏi Bình Nhi:

- Sáng hôm nay ta thấy có món chân giò ninh dừ kia mà. Sao không bảo nhà bếp hâm nóng rồi mang lên đây u ăn.

Lại nói:

- U ơi con u mới mang rượu Huệ Tuyền về đây, u nếm một chén.

Vú Triệu nói:

- Tôi xin vâng. Mợ cũng uống một chén, sợ gì, không uống nhiều là được rồi. Lần này tôi đến đây có chút việc chứ có phải vì cơm rượn đâu. Mợ nên để bụng thương tôi, còn cậu nhà nói thì tử tế lắm, nhưng đến khi có việc thì quên khuấy tôi đi. Tôi nuôi cậu từ bé, nay cậu đã lớn, tôi cũng già rồi. Tôi có hai đứa con, nhờ cậu để ý chăm nom giúp, chắc người ngoài chẳng ai dám hé răng tị nạnh gì. Tôi hai ba lần nói với cậu, cậu cứ ừ tràn, rồi mãi đến nay vẫn không đâu vào đâu. Hiện giờ được một tin mừng lớn như từ trên trời rơi xuống là ở đây đang cần dùng người. Vì thế lần này tôi đến nhờ mợ là hơn cả, chứ nhờ cậu thì có lẽ tôi chết đói mất. .

Phượng Thư cười nói:

- U cứ giao hai anh cho tôi. U nuôi cậu ấy từ lúc bé lại không biết tính cậu ấy à? Cậu ấy thì ruột để ngoài da, chỉ để tâm đến những người bâng quơ ở đâu ấy. Các anh nhà u nào có thua kém gì ai, sao lại không để ý đến? Nếu cậu ấy thương đến các anh nhà u thì ai dám nói là không phải. Thế mà cậu ấy lại hay dễ dãi với người ngoài. Tôi nói thế có lẽ lầm đấy. Người mà chúng ta coi là "người ngoài", thì cậu ấy lại coi là "người trong (* ) .

----------

(*) Phượng Thư có ý ghen chồng coi những người đàn bà ngoài thân hơn vợ, mới mượn hai tiếng ấy để nói đùa.

------------

Nói đến câu ấy cả nhà đều cười. Vú Triệu cũng cười rộ lên, lại niệm phật:

- Trong nhà này đã có bóng mặt trời sáng soi. Cậu chúng ta đâu có chuyện lẫn lộn người trong với người ngoài như thế. Chẳng qua cậu tốt bụng, cả nể, người ta nằn nì vài câu là không nỡ từ chối đấy thôi.

Phượng Thư cười nói:

- U nói thế chưa đúng, có hạng "người trong" thì cậu ấy nể nang, nhưng đối với u con chúng ta thì cậu ấy chẳng nể nang gì cả.

Vú Triệu nói:

- Mợ nói thật là chính tình, tôi rất vui. Tôi uống thêm một chén rượu ngon nữa! Từ nay trở đi, mợ làm chủ, tôi không lo gì

Giả Liễn nghe vậy hơi ngượng, cười nói:

- Thôi đừng nói nhảm nữa, mang cơm ra ăn, còn có việc phải sang bàn với anh Trân.

Phượng Thư nói: .

- Phải đấy, đừng làm nhỡ việc. Vừa rồi ông gọi cậu sang bảo việc gì đấy?

- Việc "tỉnh nhân " (*) .

----------

(*) Cung phi được phép về thăm cha mẹ, các thân thuộc, gọi là "tỉnh nhân".

----------------

- Việc ấy đã được chuẩn y rồi à?

Tuy chưa chắc chắn cả mười, nhưng đã có hy vọng đến chín.

- Đó là đặc ân của hoàng thượng đấy. Xưa nay trong sách, trong các vở tuồng có nói đến việc này bao giờ.

Vú Triệu nói:

- Tôi già lẫn, chỉ nghe thấy mọi người đồn ầm lên về cái ngày ấy. Thế nào là "tỉnh nhân" hay không tỉnh nhân, tôi cũng chẳng để ý đến. Bây giờ lại nói đến việc "tỉnh nhân", sự thực đầu đuôi ra thế nào?

Giả Liễn nói: .

- Hoàng thượng bây giờ thể tất lòng mọi người, nghĩ rằng việc lớn trên đời không gì bằng chữ hiếu. Xưa nay lòng cha mẹ và con cái, không cứ sang hèn, ai cũng thế cả. Hoàng thượng cho rằng chính người ngày đêm hầu hạ thái hoàng thượng, hoàng thái hậu, còn sợ chưa làm tròn được đạo hiếu. Người thấy các phi tần, tài nhân vào cung lâu năm, xa cách cha mẹ, có lẽ nào lại không thương nhớ . Con thương nhớ cha mẹ đã đành, cha mẹ ở nhà cũng thương nhớ con, nếu không được gặp mặt, sinh ra đau ốm, đến chết, thế là tại ta giam hãm, khiến bao người không được trọn đạo luân thường, thương tổn đến hòa khí của trời đất. Vì thế người tâu lên thái thượng hoàng, hoàng thái hậu, mỗi tháng đến ngày hai, ngày sáu . Cung phi được phép vào thăm Thái thượng hoàng và hoàng thái hậu rất vui, khen người là bậc nhân hiếu, biết thể tất lòng trời, nghĩ đến muôn vật. Vì thế hai vị lão thánh nhân ban chỉ dụ xuống: "Các thân thuộc vào cung thăm nom, bị nghi lễ của nhà vua ràng buộc, chắc chưa được thỏa lòng. Nay ban đại ân rộng rãi hơn, trừ những ngày được vào thăm, còn đặc cách cho phép những người thân thuộc, nếu ai có nhà cửa riêng làm nơi nghỉ chân và tiện canh phòng, thì được phép xin với nội đình rước xe cung phi về thăm nhà, như thế là vẹn tình riêng cốt nhục, và cũng được trọn đạo luân thường". Chỉ dụ vừa đưa xuống, ai nấy nhảy nhót mừng rỡ đội ơn. Hiện nay phụ thân Chu quí phi đã khởi công sửa nhà riêng, phụ thân Ngô quí phi là Ngô Thiên Hựu cũng đã ra ngoài thành tìm nơi làm nhà riêng rồi. Như thế có phải việc này đã chắc được tám chín phần không?

Vú Triệu nói:

- A di đà phật. Nếu quả như thế thì phủ ta đây cũng phải sửa soạn đón tiếp cô lớn nhà ta.

Giả Liễn nói:

- Chẳng phải nói, nếu không thì bây giờ còn phải bận việc gì ?

Phượng Thư cười nói:

- Nếu quả như thế, thì phen này tôi được thấy một việc lớn nhất đời. Tiếc rằng tôi sinh sau đẻ muộn, nếu sớm độ hai ba mươi năm, thì còn ai dám khinh tôi là không biết việc đời. Thấy nói ngày trước đức Thái tổ hoàng đế ta bắt chước việc vua Thuấn đi tuần, quang cảnh nhộn nhịp hơn cả những chuyện trong sách, nhưng tôi không được trông thấy.

Vú Triệu nói: .

- Ối chà! Thực là một việc nghìn năm hiếm có! Tôi nhớ họ Giả nhà ta hồi còn ở miền Cô Tô, Dương Châu, trông nom việc đóng thuyền bể, và sửa sang đường bể, chỉ có sửa soạn đón tiếp vua một lần, mà tiền bạc tiêu như bể nước. Nhắc đến thì...

Phượng Thư vội nói tiếp:

- Họ Vương nhà tôi cũng đã sửa soạn đón tiếp vua một lần rồi. Bấy giờ ông tôi còn giữ riêng việc đón tiếp người các nước đến triều cống. Người nước ngoài đến, đều do nhà tôi tiếp đãi cả . Những thuyền bè hàng hóa ở ngoài đến các tỉnh Việt,

Mân, Điền, Chiếng đều là của nhà tôi.

------

(*) Việt, Quảng Đông, Mân, Phúc Kiên, Điền, Vân Nam, Chiết, Chiết Giang.

----------

Vú Triệu nói:

- Ai chẳng biết việc ấy? Hiện giờ còn có câu tục ngữ "Vua Đông Hải thiếu ngọc trắng làm giường, phải đến vay Kim Lăng nửa lạng". Câu ấy chỉ vào nhà mợ đấy. Lại còn nhà họ Chân ở Giang Nam. Ôi chà! Thần thế như trời! một mình nhà ấy đón vua bốn lần. Nếu không phải chính mắt chúng tôi trông thấy, thì nói không ai tin. Không những coi tiền bạc như bùn, mà các thứ ở đời, hết thảy đều có, cứ chồng chất như rừng như núi ấy. Nhưng tránh sao khỏi bốn chữ "Tội lỗi đáng tiếc".

Phượng Thư nói:

- Ông tôi cũng nói thế, lẽ nào lại không tin. Nhưng lạ thật sao nhà ấy lại giàu sang được như thế.

Vú Triệu nói:

- Tôi bảo mợ câu này nhé : chẳng qua lấy tiền bạc của nhà vua đem đập vào bản thân nhà đấy thôi! Chứ ai thừa tiền mua lấy cái náo nhiệt hão ấy!

Đương nói chuyện, Vương phu nhân sai người đến xem Phượng Thư ăn cơm xong chưa. Phượng Thư biết có việc, vội ăn cơm, súc miệng toan đi, lại có người hầu vào báo:

- Cậu Dung và cậu Tường ở phủ Đông sang chơi.

Giả Liễn vừa súc miệng xong, Bình Nhi bưng nước rửa tay đến, Giả Liễn thấy hai người vào, liền hỏi:

- Sang có việc gì?

Phượng Thư cũng đứng lại. Giả Dung nói:

- Cha cháu sai sang trình chú biết, các ông đã bàn định xong rồi. Khoảng đất từ phía đông nối liền với vườn hoa phủ Đông, đến phía tây bắc dài độ ba dặm rưỡi, chỗ ấy có thể lập nhà "tỉnh nhân" được. Cha cháu đã sai người vẽ bản đồ, ngày mai thì xong. Chú mới về, chắc hãy còn mệt, không cần phải sang bên cháu vội. Có việc gì, ngày mai sẽ mời chú sang bàn.

Giả Liên cười nói:

- Cảm ơn ông anh có lòng thể tất, tôi xin vâng lời, không sang nữa, ý định như thế là phải, vừa bớt được công việc, xây dựng cũng dễ hơn, nếu chọn nơi khác, tốn kém nhiều mà chưa chắc đã ra trò. Cháu về trình với cha cháu: "làm thế rất tốt" ; nếu các ông muốn thay đổi chỗ khác thì cha cháu nên can ngăn đi. Sáng mai chú sẽ sang thăm và bàn kỹ.

Giả Dung liền đáp "vâng".

Giả Tường lại đến gần nói:

- Ông sai cháu đem hai người con bác quản gia họ Lại cùng đi với hai vị khách là Đan Sính Nhân và Bốc Cố Tu xuốngCô Tô đón phường hát, chọn mua con gái bé, sắm sữa nhưng đồ âm nhạc và đồ hát tuồng. Cháu đến trình để chú biết.

Giả Liễn nghe nói, ngắm nghía Giả Tường rồi cười nói:

- Cháu có thạo việc này không? Nói tuy không quan hệ lắm, nhưng trong đó cũng có thể có chuyện tệ lậu đấy.

Giả Tường cười nói:

- Cháu hỏi han người ta rồi cũng làm được.

Giả Dung đứng sau bóng đèn, khẽ kéo áo Phượng Thư.

Phượng Thư hiểu ý, cũng khẽ xua tay làm như không biết.

Rồi cười nói:

- Cậu hay lo xa quá, có lẽ nào ông anh không biết dùng người bằng chúng ta. Cậu lại sợ cháu không thạo việc à! Chưa chắc ai thạo hơn ai. Vả chăng các cháu đã lớn cả rồi, tuy chưa ăn thịt lợn, nhưng cũng đã trông thấy lợn (*) . Chuyện ông anh sai cháu đi, chẳng qua để đóng vai ông tướng ngồi cầm cờ lệnh đó thôi, chứ có phải bảo đi tính toán giá cả và xếp đặt công việc đâu . Theo ý tôi, cháu đi được đấy.

----------

(*) ý nói việc tuy chưa làm bao giờ, nhưng đã trông thấy người ta làm.

------------

Giả Liễn nói:

- Việc ấy cố nhiên rồi; không phải tôi muốn ngăn giữ đâu, nhưng cũng nên bàn tính trước hộ cháu một tí. Nhân hỏi: "món tiền ấy thì lấy ở đâu?"

Giả Tường nói:

- Việc này vừa rồi đã bàn đến. Bác lại nói: "Không cần phải mang tiền ở nhà đi . Hiện giờ nhà họ Chân ở Giang Nam có giữ của nhà ta năm vạn bạc. Ngày mai viết một lá thư và phiếu nhận tiền giao chúng cháu mang đi, lấy ba vạn, còn hai vạn hãy gửi lại để chi việc sắm sữa đèn nến, cờ và màn.

Giả Liễn gật đầu nói:

- Nghĩ thế phải đấy.

Phượng Thư vội bảo Giả Tường:

- Đã thế thì ta có hai người thạo việc, cháu nên mang đi theo, càng dễ dàng cho công việc của cháu.

Giả Tường vội cười nói:

- May quá, cháu đang định xin thêm hai người.

Rồi hỏi tên hai người ấy, Phượng Thư hỏi lại vú Triệu.

Bấy giờ vú Triệu đương ngồi ngẩn ra nghe chuyện, Bình Nhi cười, đẩy một cái, vú Triệu mới tỉnh lại, vội nói: .

- Một đứa là Triệu Thiên Lương, một đứa là Triệu Thiên Đống.

Phượng Thư nói:

- Đừng có quên nhé. Thôi ta đi làm việc của ta đây.

Nói xong đi ngay. Giả Dung vội theo sau khẽ cười nói:

- Thím cần thứ gì, thì xin kê đơn, cháu sẽ mau đủ mang về.

Phượng Thư cười nói:

- Thèm vào! Mi định lễ lạt để lấy lòng ta à? Ta không ưa những trò thầm thầm thụt thụt ấy!

Nói xong cười rồi đi. . .

Bấy giờ Giả Tường cũng hỏi Giả Liễn, có cần gì sẽ mua về biếu, Giả Liễn cười nói:

- Cháu đừng hí hởn vội, mới bắt đầu học việc, đã học ngay những trò ấy. Thiếu thứ gì ta sẽ viết giấy báo sau.

Nói xong, bảo Giả Dung và Giả Tường về.

Sau đó ba bốn lần có người vào trình việc, Giả Liễn mệt, bảo người canh cửa, hết thảy không được một ai vào trình. Có việc gì chờ đến ngày mai. Phượng Thư thì mãi đến canh ba mới đi ngủ.

Sáng hôm sau, Giả Liễn trở lên thăm Giả Xá, Giả Chính, rồi sang phủ Ninh họp tất cả những người nhà thạo việc, cùng bọn gia khách đi xem xét khu đất hai phủ, vẽ bản đồ nhà "tỉnh nhân", rồi cắt đặt người nào vào việc nấy. Từ đó, các loại thợ

thuyền đến đủ mặt. Nhưng đồ vàng, bạc, đồng, thiếc, gỗ lạt, gạch ngói, chuyên chở không ngớt. Trước hết, sai thợ phá hết những nhà cửa, tường vách trong vườn Hội Phương ở phủ Ninh thông thẳng đến nhà lớn phía đông phủ Vinh. Một dãy những phòng của người nhà ở bên đông phủ Vinh cũng phá hết. Nguyên là hai phủ Ninh, Vinh có một cái ngõ nhỏ ngăn đôi. Ngõ này là đất tư, không phải đường công, nhưng vẫn để đi lại . Trong vườn Hội Phương, có một dòng suối từ góc tường phía bắc chảy qua, . cũng không phải khơi thêm nữa. cây cối núi non tuy chưa có mấy, nhưng vì chỗ ở của Giả Xá là vườn cũ của phủ Vinh, nên những núi non, cây cối, đình, tạ, hành lang đều có thể dời đến đấy được cả . Hai nơi gần nhau họp thành một chỗ, có thể đỡ được nhiều sức người và tiền của. Dù có thiếu cũng không tốn kém mấy. Lại nhờ được một nhà nổi tiếng về cách bài trí vườn hoa cây cảnh, núi non bộ là Sơn Tử Giã vẽ đồ bản, trù tính việc khởi công.

Giả Chính không quen công việc, nhất nhất đều nhờ bọn Giả Xá, Giả Trân, Giả Liễn, Lại Đại, Lại Thăng, Lâm Hiếu,Ngô Tân Đăng, Thiềm Quang, Trình Nhật Hưng trông nom xếp đặt . Nào là đắp núi, đào ao, xây lầu, dựng gác, trồng trúc, vun hoa, còn cách sắp xếp đã có Sơn Tử Giả. Khi tan chầu nhàn rỗi, Giả Chính chỉ đi ngắm nghía các nơi, có việc gì cần thì bàn với Giả Xá. Giả Xá cũng nằm khểnh ở nhà, có việc vặt, thì bọn Giả Trân hoặc đến hỏi, hoặc viết giấy trình, khi muốn bảo ban việc gì thì gọi bọn Giả Liễn, Lại Đại đến truyền lệnh. Giả Dung chuyên coi việc làm đồ vàng bạc, Giả Tường thì đi Cô Tô. Bọn Giả Trân, Lại Đại thì điểm số người, làm danh sách, trông coi thợ thuyền. Công việc nhộn nhịp, tấp nập không thể kể xiết.

Gần đây Bảo Ngọc vì trong nhà bận việc, Giả Chính không hay hỏi đến việc học, trong bụng rất là thư thái. Không ngờ bệnh Tần Chung càng ngày càng nặng, nên trong lòng áy náy không vui. Một hôm, Bảo Ngọc dậy sớm, rửa mặt xong, định sang xin phép Giả mẫu đi thăm Tần Chung. Chợt thấy Đinh Yên ở ngoài cửa thứ hai thập thò dòm vào, Bảo Ngọc vội ra hỏi việc gì Đinh Yên nói:

- Cậu Tần nguy lắm rồi!

Bảo Ngọc nghe nói giật mình vội hỏi:

- Hôm trước ta đến thăm, nó còn tỉnh táo kia mà, sao đã nguy kịch ngay thế ?

Đinh Yên nói:

- Con cũng không biết, vừa rồi người nhà cậu ấy đến nói thế !

Bảo Ngọc nghe xong, quay lại xin phép Giả mẫu. Giả mẫu sai người cẩn thận đi theo và bảo:

- Đến đấy thăm nom để tỏ tình bạn học, xong phải về ngay, không được ở lâu. Bảo Ngọc vội về thay quần áo. Ra đến ngoài, xe chưa sửa soạn kịp, cứ phải chạy loanh quanh khắp thềm. Giục mãi, xe mới kéo đến, Bảo Ngọc nhảy lên đi ngay. Lý Quí, Đinh Yên đi theo hầu. Khi đến cửa nhà họ Tần, thấy vắng tanh vắng ngắt, chẳng có một ai. Bọn Bảo Ngọc chạy ùa vào nhà trong, làm mấy người thím, chị dâu và các chị em của Tần Chung lẩn tránh không kịp.

Bấy giờ Tần Chung đã hai ba lần ngất đi. Thay chiếu (*) đã lâu rồi.

----------

(*) Về sau dùng lắm danh từ chỉ chung cho người đã chết.

------------

Bảo Ngọc trông thấy, không cầm nổi lòng thương, khóc òa lên. Lý Quí vội khuyên:

- Cậu đừng khóc. Cậu Tần yếu lắm, sợ nằm trên giường cứng quá, khó chịu, nên vực xuống nằm đó cho thoải mái đấy thôi . Cậu khóc chỉ làm cho cậu ấy ốm thêm.

Bảo Ngọc nghe nói mới nín, đến gần, thấy Tần Chung mặt trắng bệch như nến, mắt nhắm, thở thoi thóp trên gối.

Bảo Ngọc vội gọi:

- Kình Kha ơi ! Bảo Ngọc đến đây. - Gọi luôn hai ba tiếng, Tần Chung vẫn không mở mắt, Bảo Ngọc lại kêu to:

- Bảo Ngọc đến đây.

Bấy giờ Tần Chung hồn đang lìa xác, chỉ còn một tí hơi thừa ở ngực. Hắn thấy nhiều quỉ sứ cầm bài mang thừng đến bắt, nhưng khi nào hắn chịu đi ngay. Nghĩ đến nhà không có

người trông nom, nghĩ đến ba bốn nghìn lạng bạc của cha để lại nghĩ đến Trí Năng hiện bơ vơ không có chỗ nương tựa, hắn phải khẩn khoản van xin bọn quỉ sứ. Nhưng chúng không nghe, quát mắng: "Anh là người đọc sách mà không biết câu: "Theo tục lệ cũ, người chết rồi, thì thay chiếu nằm. Diêm Vương bảo canh ba phải chết . Ai dám chờ đến trống canh năm. Chúng ta ở âm phủ đều là những người mặt sắt, không thiên tư gì , không như ở dương gian, nể nang tình vị, làm lỡ cả việc".

Đương lúc ồn ào, hồn phách Tần Chung chợt nghe thấy bốn tiếng "Bảo Ngọc đến đây", lại vội van nài:

- Xin các vị từ bi một chút, cho tôi trở về nói rốt một lời với người bạn thân rồi xin đi ngay.

Quỉ sứ nói:

- Lại còn bạn thân nào?

Tần Chung nói:

- Không dám nói dối các vị, người ấy là cháu Vinh quốc công, tên gọi Bảo Ngọc.

Phán quan nghe nới sợ hãi, vội vàng đứng lên mắng lũ quỉ sứ:

- Ta đã bảo các ngươi lôi nó đi ngay, các người không nghe lời, để có người vận đỏ đến quấy rối, thì làm thế nào bây giờ ?

Lũ quỉ sứ nghe phán quan nói thế, sợ quá, chân tay luống cuống một mặt lại hậm hực:

- Trước kia ngài quát tháo ầm lên như sấm ran, sét nổ, là vì chưa nghe thấy hai chữ "Bảo Ngọc". Theo ý chúng tôi, nó ở dương gian, ta ở âm phủ, cần gì phải sợ nó.

Phán quan lại càng tức giận, gắt ầm lên:

- Đồ chó? Tục ngữ có câu: "Quan thiên hạ trị dân thiên hạ!"

Xưa nay người với quỷ là một, âm dương không hai. Mặc dầu anh ta ở âm hay ở dương, cũng phải kính trọng, không được sai trái . Lũ quỷ nghe vậy, đành phải tha hồn Tần Chung về. Hữ một tiếng, hai mắt hé mở, thấy Bảo Ngọc ngồi bên cạnh, Tần Chung gắng gượng thở dài:

- Sao anh không lại sớm? Chậm chút nữa em sẽ không được gặp .

Bảo Ngọc cầm tay Tần Chung, nước mắt giàn giụa:

- Có dặn lại câu gì không ?

Tần Chung nói:

- Không có gì đáng dặn cả. Trước đây anh em ta cứ tưởng cao quý hơn đời, nay mới biết là sai. Sau này anh nên quyết chí công danh làm rạng rỡ ông cha mới đúng.

Nói xong thở dài một tiếng, lặng lẽ qua đời.

Hồi thứ mười bảy và mười tám

Đề câu đối trong vườn Đại Quan, thử tài Bảo Ngọc

Về thăm nhà ở phủ Vinh Quốc, gặp tiết nguyên tiêu

Giàu sang là đáng thích,

Ly biệt lại khôn khuây.

Tiếng hão dành mua được,

Ai hay nỗi đắng cay.

Tần Chung chết rồi, Bảo Ngọc khóc lóc mãi, bọn Lý Quí phải khuyên giải, khi về nhà hãy còn ngậm ngùi thương xót.

Giả mẫu đã gửi giúp mấy chục lạng bạc, lại sắm sửa lễ vật để Bảo Ngọc đến viếng. Sau bảy ngày chốn cất xong, Bảo Ngọc nhớ tiếc, nhưng chẳng làm thế nào, và cũng chẳng biết bao giờ mới nguôi được.

Một hôm, Giả Trân đến trình Giả Chính:

- Công việc sửa sang trong vườn đã xong, ông Cả đã đến xem, chỉ chờ ông đến xem có chỗ nào chưa ổn thì sửa sang lại, và cần phải đề biển, câu đối.

Giả Chính nghĩ một lúc, rồi nói:

- Đề biển và câu đối là một việc khó, cứ nhẽ ra thì xin Quý phi mới phải. Nhưng người chưa trông thấy thì cũng khó nghĩ phỏng ra được. Nếu chờ khi người đến, thì bao nhiêu cảnh trí, bao nhiêu lâu đài, lại không có một chữ đề vào, mặc dù cây hoa non nước có đẹp đẽ dường nào, cũng kém phần sinh sắc .

Bọn gia khách đứng bên cạnh nói:

- Ngài nghĩ rất phải. Cứ ý chúng tôi thì biển và câu đối không thể thiếu, nhưng cũng không thể đặt tên trước được.

Bây giờ tùy theo từng cảnh mà đề hai, ba, bốn chữ gì na ná cho hợp rồi làm bằng đèn lồng treo tạm lên đã, chờ khi Quý phi đi du ngoạn, sẽ xin người đặt tên, như thế có tiện không.

Giả Chính nói:

- Nghĩ thế đúng đấy. Bây giờ chúng ta hãy đi xem các nơi, rồi cứ đề đi, nếu ổn thì dùng, không ổn thì nhờ ông Vũ Thôn đến sửa lại.

Mọi người cười nói: .

- Hôm nay ngài nghĩ chắc là hay, cần gì phải đợi ông Vũ Thôn.

Giả Chính cười nói:

- Các ông không biết, tôi từ bé đến giờ, về việc vịnh chim hoa non nước, cũng thường thôi. Bây giờ có tuổi, lại bận việc văn án nhiều, nên thú ngâm vịnh lại càng xao nhãng. Dù có nghĩ ra thì cũng quê mùa, lại làm cho vườn hoa cây cảnh kém phần xinh đẹp, chẳng còn thú gì!

Bọn gia khách nói:

- Cái đó không ngại, chúng tôi cùng nghĩ, ai nấy đều theo sở trường của mình, hay thì để, dở thì bỏ, cũng chẳng hề gì.

Giả Chính nói:

- Như thế phải đấy. Hôm nay khí trời ấm áp , chúng ta đi chơi một lượt.

Nói rồi đứng dậy dẫn mọi người đi. Giả Trân đi trước, báo cho mọi người biết.

Bảo Ngọc hồi này vì nhớ Tần Chung, lòng thương xót mãi. Thấy vậy Giả mẫu thường sai người dẫn đến vườn mới dạo cảnh cho khuây. Một hôm, vừa vào đến vườn, chợt gặp Giả Trân. Giả Trân cười bảo:

-Sao chú không tránh đi chỗ khác, chốc nữa ông đến đấy.

Bảo Ngọc nghe nói, dẫn ngay lũ hầu, chạy vút ra khỏi vườn . Vừa đi đến quãng đường vòng, thì gặp ngay Giả Chính dẫn các gia khách đến. Bảo Ngọc tránh không kịp, đành phải đứng về một bên.

Gần đây Giả Chính thường nghe Đại Nho khen Bảo Ngọc làm câu đối khá; tuy không thích học, nhưng có tài vặt. Vì thế Giả Chính bảo Bảo Ngọc đi theo vào trong vườn, ý muốn thử tài xem sao. Bảo Ngọc chưa biết ý định của bố, đành phải đi theo. Vừa đến cửa vườn, đã thấy Giả Trân dẫn các người chấp sự đứng hầu một bên. Giả Chính bảo:

- Cháu hãy cho đóng cửa vườn lại, để chúng ta xem bên ngoài đã, rồi sẽ vào sau.

Giả Trân sai người đóng cửa lại.

Giả Chính trước hết đứng ngắm nghía năm gian cửa chính, nóc nhà cong, lợp ngói ống, cánh cửa và bực cửa đều chạm trổ theo kiểu mới, không sơn vẽ hoa hòe; một dãy tường quét vôi trắng xóa, dưới thềm lát đá trắng thành hình hoa sen.

Nhìn hai bên tường trắng như tuyết, dưới xây đá có vân như da hổ, không lòe loẹt như lối nhà giàu thô tục. Giả Chính lấy làm thích, bảo mở cửa đi vào. Thoạt nhìn, một dãy núi xanh chắn ngay trước mặt. Các gia khách đều nói:

- Núi đẹp thật!

Giả Chính nói:

- Nếu không có núi này, thì khi vào sẽ trông thấy hết cả các cảnh đẹp ở trong vườn, còn thú gì nữa?

Mọi người nói:

- Rất đúng. Nếu ngài không có kiến thức rộng rãi thì làm sao nghĩ được như thế!

Đi vào tận nơi, thấy đá trắng chồng chất, hoặc như hình quỷ quái hoặc như hình thú dữ, ngang dọc đứng chầu nhau, bên trên, rêu xanh lấm tấm, cây leo chỗ thưa, chỗ nhặt, ở giữa hiện lên một con đường nhỏ quanh co. Giả Chính nói:

- Chúng ta vào con đường này chơi, rồi ra đường bên kia, thế mới nhìn khắp được.

Rồi bảo Giả Trân dẫn đường, còn mình thì dắt Bảo Ngọc đi quanh lên núi. Ngẩng lên trông thấy phía trước có một tảng đá mặt nhẵn như gương, chính là chỗ đáng để đề thơ.

Giả Chính quay lại hỏi:

- Các ông xem chỗ này nên đề thế nào cho hay?

Có người xin đề hai chữ "Điệp thúy"(1), có người xin đề: "cẩm chướng"(2), có người xin đề : "Trại Hương lô"(3).

Lại có người xin đề: "tiểu Chung Nam"(4).

Tất cả hàng mấy chục tên.

Mọi người biết Giả Chính muốn thử tài Bảo Ngọc, cho nên đều nghĩ mấy chữ sáo mép cho qua. Bảo Ngọc cũng biết ý ấy.

Giả Chính nghe xong, ngoảnh lại hỏi Bảo Ngọc. Bảo Ngọc nói:

- Cổ nhân có câu: "Mới không bằng cũ, cổ vẫn hơn kim". Nơi này không phải là nơi chính, chẳng qua là bước đầu vào vườn ngắm cảnh, chưa thể đề gì được. Sao bằng dùng ngay mấy chữ cũ: "Khúc kín thông u"(5) mới có nghĩa bao quát và hàm súc.

Mọi người khen: .

- Phải lắm ! Hay lắm ! Cậu Hai thông minh, tài tình, không như chúng tôi là hạng mọt sách.

Giả Chính cười nói:

- Không nên khen nó quá, nó còn bé, chẳng qua nghĩa mười hiểu một, góp làm trò cười đấy thôi, để sau bàn lại.

Mọi người lại đi vào hang đá, thấy cây đẹp xanh um, hoa lá rực rỡ, một dòng nước trong từ chỗ cây cối đằng xa chảy xuống khe đá. Đi mấy bước nữa, rẽ sang phía bắc, có một chỗ rộng phẳng, hai bên có lầu cao vút, nóc vẽ, cột sơn, ẩn núp dưới sườn núi ngọn cây. Cúi xuống nhìn thì thấy dòng trong chảy ngọc, bực đá xuyên mây, lan can đá trắng, bao lượn quanh hồ.

Đầu cầu đá ba nhịp con thú giả trông như khi ngậm vào, khi nhả ra. Trên cầu có cái đình.

Giả Chính cùng mọi người vào ngồi trong đình, hỏi:

- Theo ý các ông nên đề chữ gì ở đây?

Mọi người đều nói:

- Ngày trước trong bài "ký túy ông đình" của Âu Dương Tu(6) có câu "hữu đình dục nhiên"(7) vậy nên đặt là "Dục nhiên" .

Giả Chính nói:

- Dục nhiên hay thật, nhưng đình này ở trên mặt nước, cũng nên nói đến nước mới phải. Cứ ý tôi nghĩ, Âu Dương Tu có câu "Tá ư lưỡng phong chi gian"(8), vậy nên dùng chữ tá mới được.

Có một người khách nói:

- Phải lắm! Thế thì nên dùng hai chữ "Tả ngọc"(9) là hay.

Giả Chính vuốt râu ngẫm nghĩ, rồi sai Bảo Ngọc cũng thử nghĩ xem.

Bảo Ngọc nói:

- Cha vừa dạy rất phải, nhưng xét cho kỹ, có lẽ ngày trước Âu Dương Tu dùng chữ "tả" đề vào Nhượng tuyền(10) thì đúng, bây giờ dùng chữ "tả" ở đây hình như chưa ổn. Huống chi đây là biệt thự "tỉnh nhân", cũng nên theo như thể văn ứng chế, nếu dùng chữ "tả ngọc", con sợ thô lậu không nhã. Xin đề thế nào cho có nghĩa sâu xa hơn.

Giả Chính cười nói:

- Các ông nghe nó nói thế nào? Vừa rồi mọi người đặt chữ mới, thì mày bảo không bằng dùng chữ cũ; bây giờ dùng chữ cũ, mày lại bảo là không ổn! Thế mày định dùng chữ gì?

Bảo Ngọc thưa:

- Dùng hai chữ "Tả ngọc" , sao bằng dùng hai chữ "Thẩm phương"(11) chẳng mới và lịch sự hay sao?

Giả Chính vuốt râu, gật đầu không nói gì. Mọi người chìu ý ngay, khen Bảo Ngọc tài tình khác thường. Giả Chính nói:

- Đề hai chữ trên biển cũng dễ, thử làm đôi câu đối bảy chữ xem sao.

Bảo Ngọc nhìn quanh một lượt, nghĩ ngay ra, bèn đọc:

Quanh bờ vẻ biếc ba hàng hiên .

Cách bến mùi thơm một dây hoa.

Giả Chính nghe xong gật đầu mỉm cười. Mọi người lại khen ngợi một hồi. Ra khỏi đình, sang qua ao, từ một ngọn núi, một hòn đá, một bông hoa, một gốc cây chỗ nào họ cũng để ý ngắm nghía. Chợt ngẩng đầu lên thấy trước mặt một dãy tường trắng, mấy ngôi nhà con xinh xắn, thấp thoáng trong đám hàng nghìn khóm trúc xanh. Mọi người đều nói: "Chỗ này nhã thật!"

Rồi cùng đi vào. Bước vào cửa là một dãy hành lang quanh co. Nước đượm mùi thơm.Dưới thềm có con đường đá. Mặt trước ba gian nhà nhỏ, sạch sẽ, cửa khép, cửa mở. Trong nhà kê bàn ghế giường chiếu ngay ngắn gọn gàng. Từ phía trong có cửa con đi ra sân sau. Có mấy cây lê cao lớn, mấy cụm chuối um tùm. Lùi về phía sau, lại có vài gian nhà nhỏ . Chân tường có một dòng suối rộng chừng một thước quanh co theo thềm đến dãy nhà đằng trước, rồi từ trong những khóm trúc róc rách chảy ra. .

Giả Chính cười nói:

- Chỗ này thú đấy. Đêm trăng mà ngồi dưới cửa sổ đọc sách, cũng không uổng một đời.

Nói rồi nhìn Bảo Ngọc, Bảo Ngọc sợ quá cúi đầu xuống.

Mọi người vội vàng nói lảng sang chuyện khác. Có hai người nói:

- Chỗ này nên đề một cái biển bốn chữ.

Giả Chính cười hỏi:

- Bốn chữ gì?

Một người đọc:

- "Kỳ thủy di phong"(12).

Giả Chính nói:

- Quê lắm.

Lại một người đọc:

- Thọ viên nhã tích(13).

Giả Chính nói:

- Cũng quê.

Giả Trân đứng bên cạnh nói:

- Lại đến chú Bảo nghĩ thôi.

Giả Chính nói:

- Nó là đồ khinh bạc, chưa làm nổi đã khen chê người khác.

Mọi người nói:

- Khen chê đúng thì làm thế nào được.

Giả Chính vội nói:

- Thôi! Đừng nuông nó thế.

Rồi bảo:

- Hôm nay cho mày muốn nói gì thì nói, phải bàn cãi ra lẽ đã rồi mới cho mày làm. Những câu đề vừa rồi, có câu nào được không?

Bảo Ngọc nói: .

- Hình như đều không được cả.

Giả Chính cười nhạt:

- Làm sao mà không được?

Bảo Ngọc nói:

- Đây là nơi ra chơi đầu tiên của Quý phi, nên có những lời chúc tụng mới phải. Nếu muốn dùng bốn chữ đề biển thì có sẵn của cổ nhân rồi, cần gì phải làm nữa.

Giả Chính nói:

- "Kỳ thủy" và "thư viên" không phải là chữ của cổ nhân hay sao?

Bảo Ngọc thưa:

- Mấy chữ ấy cũ lắm, sao bằng đề: "Hữu phượng lai nghi"(14) còn hơn.

Mọi người nhao lên khen hay. Giả Chính gật đầu nói:

- Thằng ngu! Thực là đồ lấy ống dòm trời, lấy bầu đong biển.

Lại bảo:

- Phải đề một câu đối nữa.

Bảo Ngọc lại đọc.

Bên cửa cờ tan tay vẫn mát,

Trong lò trà cạn khói còn thơm.

Giả Chính lắc đầu:

- Chưa lấy gì làm hay.

Nói xong, dắt mọi người đi ra. Lúc sắp đi, chợt nghĩ việc gì, Giả Chính hỏi Giả Trân:

- Chỗ này nhà cửa, bàn ghế có đủ, nhưng màn, rèm và các đồ trần thiết đã xếp đặt đâu vào đấy chưa?

Giả Trân thưa:

- Những đồ trần thiết phải sắm thêm nhiều, đến ngày ấy sẽ đâu có đấy . Các thứ màn, rèm, hôm nọ chú Liễn nói còn thiếu vì lúc mới khởi công, đã vẽ đồ bản theo đúng kích thước và sai người đi thửa, hôm qua chắc đã làm được một nửa.

Giả Chính nghe nói, biết việc này không phải của Giả Trân, liền cho đi gọi Giả Liễn. Một lúc, Giả Liễn đến. Giả Chính hỏi:

- Tất cả bao nhiêu thứ ? Đã được bao nhiêu rồi? Còn thiếu bao nhiêu nữa?

Giả Liễn nghe hỏi, vội vàng rút quyển sổ ở trong ống giày ra xem, rồi trình: .

- Các thứ đoạn thêu rồng, thêu hoa, các thứ hoa lụa chỉ điều chỉ viền, các thứ màn che lớn nhỏ cộng một trăm hai mươi chiếc, hôm nọ đã được tám mươi chiếc, còn thiếu bốn mươi chiếc. Rèm hai trăm chiếc, sắm đủ rồi. Ngoài ra còn rèm da hai trăm chiếc, rèm trúc sơn đỏ tết chỉ vàng một trăm chiếc, rèm trúc sơn đen hai trăm chiếc, rèm thêu hoa năm màu hai trăm chiếc, mỗi thứ đã được một nửa, đến mùa thu thì đủ cả. Gối tựa, khăn bàn, quần giường, đệm ghế, mỗi thứ một nghìn hai trăm chiếc, đã đủ cả rồi.

Mọi người vừa nói chuyện vừa đi, đã đến một ngọn núi xanh chênh chếch. Đi vào trong núi, thấp thoáng có một bức tường thấp, đất vàng, trên tường có rơm che, có mấy trăm cây hoa hạnh, trông như lửa phun, ráng phủ. Mặt trong có mấy gian nhà tranh, mặt ngoài có những cây dâu, dâm bụt và găng mơn mởn tốt tươi theo nhau chỗ nhô ra, chỗ lượn vào, đan thành hai hàng rào xanh. Dưới chân núi, ngoài hàng rào có cái giếng khơi, bên cạnh có gầu và trục kéo nước; mé dưới có mảnh rộng phẳng lì, có luống rau tươi tốt, trông bát ngát mênh mông.

Giả Chính nói:

- Chỗ này thế mà có ý nghĩa lắm. Tuy tự tay người ta bày đặt ra, nhưng nhìn đến ai cũng phải cảm xúc, khêu gợi lòng ta muốn về hưởng thú điền viên. Chúng ta hãy vào đấy nghỉ ngơi xem.

Nói xong đang định đi vào, chợt thấy bên ngoài hàng giậu có một hòn đá, cũng là chỗ đáng đề thơ. Mọi người cười nói:

- Đẹp lắm! Đẹp lắm! Chỗ này mà treo biển đề chữ, thì hết hẳn phong vị nhà quê . Dựng một cái bia ở đây lại càng thêm vẻ đẹp . Nếu không có bài thơ "điền gia" của ông Phạm Thạch Hồ(15) thì không tả hết được cái đẹp của nó.

Giả Chính nói:

Xin các ông đề cho.

Mọi người nói:

- Vừa rồi cậu Bảo nói làm mới không bằng theo cũ, cổ nhân đã nói nhiều rồi, chi bằng đề ngay "hạnh hoa thôn" là hay.

Giả Chính nghe nói, cười bảo Giả Trân:

- Nhờ có câu ấy, ta lại nghĩ ra một điều. Chỗ này đẹp cả, chỉ thiếu một cái kỳ bài bán rượn thôi. Ngày mai làm cho ta một cái, mặt ngoài cứ theo lối nhà quê, không cần trang hoàng, lấy một con sào treo kỳ bài vào đó rồi buộc lên ngọn cây là được.

Giả Trân vâng lời, lại thưa:

-Chỗ này không cần nuôi các loài chim đẹp biết hót, chỉ nuôi ngỗng, vịt, gà... thì mới đúng.

Mọi người đều nói:

-Đúng đấy! .. ...

Giả Chính lại nói:

-"Hạnh hoa thôn" hay thực, nhưng hiềm vi phạm vào chính tên thôn của người ta, đợi xin quý phi đặt tên mới phải.

Mọi người nói:

- Phải đấy, nhưng bỏ trống không tiện, cũng nên dùng chữ gì?

Mọi người đương nghĩ, Bảo Ngọc sốt ruột, không chờ Giả Chính bảo, nói ngay:

-Thơ cũ có câu "Hồng hạnh sao đầu quái tửu kỳ"(16).

Nay xin đề bốn chữ: "thanh liêm tại vọng"(17) là hơn.

Mọi người đều nói:

- Hai chữ "tại vọng" hay lắm, lại ngụ ý "Hạnh hoa" không.

Bảo Ngọc cười nhạt:

- Tên thôn mà dùng hai chữ "Hạnh hoa" thì quê lắm. Thơ Đường có câu: "sài môn lâm đạo hoa hương"(18). Sao không dùng ba chữ đạo hương thôn có hay không?

Mọi người đều vỗ tay khen. Giả Chính quát to:

- Thằng súc sinh ngu ngốc kia, mày biết được mấy vị cổ nhân, nhớ được mấy bài thơ cũ, đã dám múa mép trước các vị tiền bối? Vừa rồi cho phép mày nói bừa, chẳng qua ta thử xem mày hay dở thế nào, để làm trò cười đấy thôi. Mày cứ tưởng thực đấy à?

Nói xong, dẫn mọi người vào trong nhà tranh. Ở đây, cửa sổ dán giấy, giường gỗ đơn sơ, không có gì là hào hoa phú quý cả.

Giả Chính trong lòng rất sung sướng, lại nhìn Bảo Ngọc nói:

- Chỗ này thế nào?

Mọi người thấy hỏi, đều khẽ đẩy Bảo Ngọc, xui Bảo Ngọc nói là đẹp. Bảo Ngọc không nghe, nói ngay:

- Xem ra chỗ này kém xa "Hữu phương lai nghi".

Giả Chính nói:

- Hứ! Đồ ngu xuẩn! Chả biết gì. Mày chỉ thích lầu son gác tía đẹp đẽ một cách thô tục, biết đâu được cái cảnh u nhã này.

Rút lại chỉ vì lỗi tại mày không chịu đọc sách thôi.

Bảo Ngọc đáp:

- Cha dạy đành là phải, nhưng cổ nhân có nói hai chữ thiên nhiên con không hiểu ý ra làm sao?

Ai nấy thấy Bảo Ngọc bướng bỉnh, sợ sẽ bị mắng; nay thấy hắn hỏi nghĩa hai chữ "thiên nhiên" đều vội nói:

- Cái gì cậu cũng hiểu cả, sao lại còn phải hỏi hai chữ "thiên nhiên". "Thiên nhiên" nghĩa là tự nhiên thiên thành, không phải sức người làm được.

Bảo Ngọc nói:

- Thế thì chỗ này đặt thánh trang trại, rõ ràng là do người bày đặt ra. Xa thì không có hàng xóm, gần thì không có thành quách, dựa vào núi thì không có mạch, trông ra nước thì không có nguồn, chỗ cao thì không có tháp nhà chùa, chỗ thấp thì không có cầu ra chợ, trơ trọi đứng một mình, không phải là nơi bao la rộng rãi. Sao bằng mấy nơi trước có vẻ tự nhiên hơn. Tuy có giồng trúc, khơi suối cũng hơi xuyên tạc, nhưng không hại gì . Cổ nhân có bốn chữ "bục tranh thiên nhiên", sợ chỗ này không đáng có thôn trang, và sơn thủy, mà gượng bày đặt ra, dù khéo léo đến đâu cũng vẫn không hợp.

Bảo Ngọc nói chưa dứt lời, Giả Chính nổi giận thét lên:

- Thôi, bước ngay!

Bảo Ngọc vừa đi ra, Giả Chính lại thét: "Hãy quay lại, làm thêm câu đối nữa, nếu không làm được thì ta sẽ vả vào mồm".

Bảo Ngọc đành phải đọc:

Giặt vải xanh tươi nguồn dưới bến;

Hái rau thơm đượm khách trong mây.

Giả Chính nghe xong, lắc đầu nói:

- Cũng chẳng ra gì!

Rồi dắt mọi người đi ra, đi quanh sườn núi, khi trong hoa, khi dưới liễu, khi trên núi, khi bên sông, đến rặng đồ mi, vào giàn mộc hương, lên đình mẫu đơn, qua vườn thược dược, tới viện tường vi, tựa vào khóm ba tiêu, ngang dọc, quanh co; chợt nghe thấy tiếng nước ở trong hang đá róc rách chảy ra, trên thì dây leo lòng thòng rũ xuống, dưới thì hoa rụng rập rờn trôi quanh. Mọi người đều nói:

- Đẹp lắm!

Giả Chính hỏi:

- Các ông định đề chữ gì?

Mọi người nói:

- Không cần phải nghĩ nữa, cứ viết ba chữ "Vũ lăng nguyên"(19) là được rồi.

Giả Chính cười nói: .

- Cũ lắm! Lại không đúng sự thực.

Mọi người cười:

- Không thì đề bốn chữ "tần nhân cựu xá"(20) cũng được.

Bảo Ngọc nói:

- Lại càng hỏng nữa. "Tần nhân cựu xá" có ý là tránh loạn, dùng thế nào được? Chi bằng dùng bốn chữ "liễu đình hoa thì là hơn(21).

Giả Chính nói:

- Cũng lại nhảm nữa! .

Giả Chính đi vào trong hang, hỏi Giả Trân:

- Có thuyền không?

Giả Trân nói:

- Có bốn thuyền hái hoa sen, một thuyền ngồi chơi , nhưng bây giờ chưa làm xong.

Giả Chính cười nói:

- Tiếc rằng không vào được.

Giả Trân nói:

- Đi quanh lên núi, sẽ đến nơi.

Nói rồi đi trước dẫn đường. Mọi người níu dây vịn cây đi lên, thấy mặt nước hoa rụng man mác, dòng suối trong vắt rập rờn quanh co; hai hàng liễu rủ bên bờ, những cây đào, cây mận, mọc chen nhau che rợp cả bóng mặt trời. Khắp nơi, không có một chút đất bụi. Trong rặng liễu nhô ra một nhịp cầu, lan can sơn đỏ .

Qua cầu, đường thông các ngả; xa xa, có một tòa nhà ngói mát mẻ và một dãy tường hoa. Ở đây mạch núi chính đều xuyên qua tường chia đi các ngả.

Giả Chính nói:

- Tòa nhà này ở đây chẳng có nghĩa lý gì!

Rồi bước vào cửa. Chợt thấy mặt trước có một quả núi đá lấp lánh cao ngất trời, xung quanh bao bọc bằng các thứ đá đủ các màu, che kín hẳn những nhà cửa bên trong. Ở đây, không có một gốc cây, toàn những cỏ lạ hoặc leo lên núi, hoặc bò ra đất hoặc từ trên núi rủ xuống, hoặc luồn qua khe đá chui ra; lại có những dây từ mái nhà bò xuống, leo quanh cột chằng chịt cả bờ hè, như vải xanh phất phơ, như sợi vàng uốn khúc, quả đỏ hoa vàng, hương thơm ngào ngạt, không một thứ hoa nào có thể bì được.

Giả Chính nói:

- Thú quá! Chỉ hiềm không biết là những loại cỏ gì?

Có người nói là:

- "Tiết lệ đằng la".

Giả Chính nói: .

- "Tiết lệ đằng la" làm gì có hương thơm lạ này?

Bảo Ngọc nói:

- Thực không phải. Trong loại cỏ này cũng có "tiết lệ đằng la", nhưng hương thơm là của "đỗ nhược hành vu". Còn cái giống này, hình như đây là cỏ "chi lan", kia là cỏ "thanh cát", đây là "kim đăng", kia là "ngọc lộ", thứ đỏ kia là "tử vân", thứ xanh này là "thanh chi". Nhớ đến những cỏ lạ đã nói ở trong Ly tao văn tuyển (văn của Khôi Nguyện), nào là hoắc nạp, gương vựng, nào là luân tổ, tử giáng; lại còn có cỏ thạch phàm, thủy tùng, phù lưu; cũng có những cỏ lục di, đan tiêu, mi vu, phong liên... Nay đã lâu năm, người đời không thể nhớ lại được, nên cứ trông hình dạng mà đặt tên; dần dần gọi sai đi, có lẽ thế đấy .

Bảo Ngọc nói chưa dứt lời, Giả Chính thét lên:

- Ai hỏi đến mày?

Bảo Ngọc sợ hãi lùi xuống, không dám nói nữa.

Giả Chính thấy hai bên hành lang có tay vịn, nhân tiện đi vào . Trước mặt, năm gian nhà mát mẻ, giàn hoa dựng lên, bốn mặt hành lang cửa sổ sơn xanh vách bóng, trông rất thanh nhã . Giả Chính thở dài:

- Ở đây mà pha trà, đánh đàn, thì chẳng cần phải đốt trầm nữa. Không ngờ lại có chỗ này, các ông chắc phải có những câu hay đề ở đây cho khỏi phụ cảnh đẹp.

Mọi người cười nói:

- Sao bằng đề bốn chữ "an phong huệ lộ"(22) là thiết thực hơn.

Giả Chính nói:

- Thế mới được bốn chữ thôi, còn câu đối?

Một người nói:

- Tôi nghĩ được một câu, xin các vị chưa cho. Nói rồi đọc:

Đỗ nhạc ngạt ngào châu minh nguyệt,

Xạ lan sực nức viện tà dương.

Mọi người nói:

- Hay thì hay thực, chỉ có hai chữ "tà dương" chưa ổn.

Người ấy nói:

- Cổ thi có câu "Mi vu mãn viện khấp tà dương"(23).

Mọi người nói:

-Buồn lắm! Buồn lắm!

Lại có một người nói:

- Tôi cũng có một câu, xin các vị chữa cho. Nói xong đọc:

Ba ngõ gió đưa hương ngọc huệ;

Một sân giăng rọi bóng kim lan.

Giả Chính vuốt râu, ngẫm nghĩ, cũng muốn để một câu.

Chợt trông thấy Bảo Ngọc đứng yên bên cạnh, mới thét:

- Sao lúc đáng nói mày không nói, định để người ta mời mày hay sao?

Bảo Ngọc thưa:

- Chỗ này làm gì có "lan xạ", "minh nguyệt" và chơi chữ , nếu cứ kể ra cho hết, thì đề đến hai trăm câu cũng không đủ .

Giả Chính nói:

- Ai gõ đầu mầy bắt phải nói những chữ ấy?

Bảo Ngọc thưa:

- Đã thế thì cái biển nên đề bốn chữ: "Hành chỉ thanh phân"(24) câu đối thì đề:

Ngâm câu đậu khấu, thơ càng đẹp,

Sao giấc đồ mi, mộng vẫn thơm.

Giả Chính cười nói:

- Mày lại ăn cắp cái câu "thư thành tiễu diệp văn áo lục"(25), lấy gì làm lạ.

Mọi người nói:

- Bài "phượng hoàng đài" của ông Lý Thái Bạch cũng ăn cắp bài "hoàng lạc lâu", chỉ cốt ăn cắp khéo là được. Bây giờ cứ nghĩ kỹ ra thì câu của cậu còn nhã và mạnh hơn câu "thư thành tiễu diệp" nhiều, khéo câu "thư thành..." lại ăn cắp ở câu này cũng nên.

Giả Chính cười nói:

- Có nhẽ nào thế.

Mọi người đi ra, không mấy chốc đã thấy gác tía nguy nga, lầu son cao ngất, nhà cửa san sát, đường đi quanh co.

Tùng xanh chạm mái, ngọc lan quanh thềm; mặt thú, đầu ly, sơn vàng sáng nhoáng. Giả Chính nói:

- Đây là điện chính, xa hoa quá?

Mọi người đều nói:

- Thế mới hợp thể, tuy rằng quý phi thích tiết kiệm thực, nhưng bây giờ đã tôn quý rồi, lễ nghi như thế, chẳng lấy gì làm quá .

Vừa nói vừa đi, thấy mặt trước có một cái cổng chào xây bằng ngọc thạch, phía trên long cuốn ly vờn, chạm trổ rất khéo.

Giả Chính nói:

- Chỗ này đề chữ gì được?

Mọi người nói:

- Nên đề "Bồng lai tiên cảnh".

Giả Chính lắc đầu không nói gì.

Bảo Ngọc trông thấy chỗ này, lòng tự nhiên xúc động, hình như mình đã được thấy ở đâu rồi, nhưng không nhớ ngày tháng năm nào(26).

Giả Chính lại bảo đề, Bảo Ngọc đương ngẫm nghĩ cảnh trước, không để bụng đến việc này. Mọi người không biết ý, cho là Bảo Ngọc bị quở mắng, từ bấy đến giờ tinh thần rối loạn, lẩn quẩn nghĩ không ra; nếu giục, sợ xảy ra sự gì thì không tiện bèn nói với Giả Chính.

- Thôi! Xin để ngày mai sẽ đề.

Giả Chính cũng sợ Giả mẫu không yên lòng, cười nhạt:

- Thằng súc sinh, mày đã đến lúc hết khoe giỏi rồi! Thôi ta hạn cho mày, đến ngày mai, nếu không đề được, ta nhất định không tha đâu. Chỗ này quan hệ nhất, phải làm cho hay mới được!

Nói xong, dẫn mọi người đi xem chỗ khác. Kể từ khi vào cửa vườn đến giờ, mười phần mới đi ngắm được năm sáu. Lúc này, có người vào báo: "Có ông Vũ Thôn sai người đến trình việc." Giả Chính cười nói:

- Còn vài chỗ chưa đến được, chúng ta hãy theo đường này đi ra, thì dù chưa biết hết cũng có thể xem qua loa.

Liền dẫn mọi người đến một cái cầu lớn, thấy nước như rèm thủy tinh dội vào, thì ra cái cầu này là cửa đập thông ra ngoài sông, khơi thành suối để dẫn nước vào.

Giả Chính hỏi:

- Đặt tên cái đập nây là gì.

Bảo Ngọc nói:

- Đây là dòng chính của suối "thẩm phương", thì nên đặt là "đập Thẩm phương" .

Giả Chính nói: .

- Mày lại nói nhảm, không nên dùng hai chữ "thấm phương".

Mọi người theo đường đi ra, thấy có những nhà rộng, lều tranh, tường, đá, cửa hoa, dưới núi có chùa, trong rừng có phòng luyện thuốc, hiên dài, động sâu, nhà vuông, đình tròn.

Giả Chính không đi hết được. Vì đã nửa ngày chưa được nghỉ ngơi; lưng đau chân mỏi, chợt trông thấy phía trước có một cái nhà. Giả Chính nói:

- Nơi này có thể nghỉ được!

Liền đi theo con đường nhỏ quanh khóm bích đào, qua cửa tò vò đan bằng trúc và cài hoa. Chợt thấy tường trắng vây quanh, ngoài có liễu xanh rủ xuống. Giả chính cùng mọi người đi vào. Hai bên, hành lang nối nhau, ở trong lác đác mấy ngọn núi . Một bên có mấy khóm chuối; một bên là cây hải đường của phủ tây, trông như cái tán, dây rủ xanh biếc, hoa đỏ như son.

Một người nói:

- Hoa đẹp nhỉ! Hải đường có nhiều, nhưng chưa thấy cây nào đẹp như thế này.

Giả Chính nói:

- Đây là "nữ nhi đường" , lấy giống ở nước ngoài. Tục truyền giống này ở nước Nữ Nhi. Bên ấy có rất nhiều, nhưng cũng là lời hoang đường, không đáng tin.

Một người nói:

- Bảo rằng hoang đường không đáng tin thì tại sao từ lâu đã có cái tên ấy.

Bảo Ngọc nói:

- Phần nhiều các nhà ngâm vịnh thấy hoa này đỏ như son, ẻo lả như có bệnh, gần giống phong độ của người trong khuê các, cho nên đặt tên là "Nữ Nhi". Có lẽ sau này người đời không thích nghe cái tên ấy, bèn dựa vào sử sách cho có chứng cớ rồi cứ thế truyền sai mãi đi, để thành sự thực.

Mọi người đều gật đầu khen ngợi, rồi ra ngồi cả ở giường ngoài hiên. Giả Chính bảo:

- Nên đề mấy câu gì thực mới đây?

Một người khách nói:

- Nên đề hai chữ "tiêu hạc"(27).

- Lại một người nói: "Nên đề bốn chữ "Sùng quang phiếm thái"(28).

Giả Chính cùng mọi người nói:

- "Sùng quang phiếm thái" hay!

Bảo Ngọc nói:

- Hay đấy, nhưng đáng tiếc

Mọi người hỏi:

- Sao lại đáng tiếc?

Bảo Ngọc nói:

- Chỗ này trồng chuối và hải đường, ám chỉ màu đỏ , màu xanh . Nếu chỉ nói chuối mà bỏ sót hải đường thì không hay; trái lại nói hải đường mà bỏ sót chuối cũng không được. Như thế không thể chỉ có chuối mà không có hải đường, càng không thể chỉ có hải đường mà không có chuối.

Giả Chính nói:

- Ý mày định viết chữ gì?

Bảo Ngọc nói:

- Con muốn viết bốn chữ "Hồng hương lục ngọc" thì mới đủ cả hai nghĩa.

Giả Chính lắc đầu:

- Không được, không được!

Mọi người vào trong buồng, thấy ở đấy trang trí không giống các nơi, nhìn chỗ nào cũng như chỗ nào. Nguyên ở đây xung quanh đều ghép gỗ chạm nổi của những tay thợ rất tài tình: chỗ thì chạm trăm con dơi bay vòng quanh, chỗ thì chạm ba người bạn mùa đông(29), chỗ thì chạm sông núi, nhân vật, chỗ thì chạm các thứ chim, cỏ, cây hoa hoặc thập cẩm, hoặc đời cổ hoặc chữ phúc, chữ thọ, các thứ này đều được khảm vàng ngọc đủ các màu sắc. Có nhiều ô vuông, tròn khác nhau, theo hình hoa quỳ, lá chuối, vòng tròn hay bán nguyệt để bỏ sách, bút nghiên, đặt đỉnh, lọ hoa chậu cây. Thực là trăm hoa nghìn gấm, chói lọi khắp nơi. Chỗ này cửa sổ dán lụa ngũ sắc xinh xắn; chỗ kia cửa che lụa mỏng lờ mờ. Khắp tường, có bày các đồ cỗ, như đàn, gươm, bầu rượu. . . đều đặt trong từng ô một, phẳng lì với mặt trăng. Mọi người đều khen: "Thực là tinh xảo! Làm được thế này khó lắm!"

Giả Chính chưa đi đến từng thứ hai đã lạc đường, trông

sang bên tả có cửa ra vào, nhìn sang bên hữu có cửa sổ ngăn lại, tiến lên phía trước bị một tủ sách chắn ngang, quay lại phía sau thấy cửa sổ che màn lụa trông rõ lối đi. Khi đến nơi, chợt thấy có người lù lù đi lại giống mình như hệt, đó là cái gương pha lê lớn. Luôn qua cái gương lại thấy nhiều cửa. Giả Trân cười nói:

- Ông cứ theo tôi, đi đường này ra thì đến sân sau, ở đằng sau đi ra thì gần hơn đằng trước.

Mọi người đi quanh hai lần cửa gấm, quả nhiên có một lối ra. Trong sân có nhiều giàn hoa tường vi. Qua hàng rào hoa, thấy có một khe nước chắn ngang. Mọi người lấy làm lạ nói:

- Dòng nước này từ đâu đến đây?

Giả Trân trỏ ra đằng xa nói:

Nó từ cửa đập đằng kia chảy đến cửa hang, theo chỗ trũng ở núi phía đông bắc dẫn đến trang trại. Lại có dòng nhỏ chảy ra phía tây nam, đến đấy hợp lại làm một, rồi theo chân tường chảy đi.

Mọi người đều nói: "Khéo quá nhỉ!"

Chợt thấy ngọn núi lớn chắn ngang, ai nấy đều sợ lạc đường Giả Trân cười nói:

- Cứ đi theo tôi.

Rồi hắn đi trước dẫn đường. Vòng khỏi chân núi một quãng lại là đường to bằng phẳng, có một cái cửa lớn hiện ra trước mắt. Mọi người nói: "Thú thực, thú thực! Thần kỳ tinh xảo đến thế là cùng!"

Bấy giờ Bảo Ngọc chỉ để tâm nhớ nhà, không thấy Giả Chính bảo gì, đành phải theo đến thư phòng. Giả hình sực nhớ, nói:

- Mày còn chưa về à? Đi chơi nửa ngày trời vẫn chưa chán hay sao? Chắc cụ lại mong đấy. Về ngay đi. Nuông lắm sinh hư thôi! .

Bảo Ngọc nghe vậy mới dám về. Ra đến ngoài, bọn hầu bé của Giả Chính chạy lại ôm lấy nói:

- May mà hôm nay ông nhà vui đấy. Vừa rồi cụ mấy lần sai người ra hỏi, chúng tôi đều nói ông đương vui với cậu; nếu không thì cụ đã gọi cậu về ngay rồi, còn trổ tài làm sao được? Ai cũng bảo thơ cậu hay hơn mọi người. Hôm nay được hãnh điện như thế, phải thưởng cho chúng tôi mới được.

Bảo Ngọc cười nói:

- Cho mỗi người một quan tiền.

Mọi người nói:

- Một quan tiền thì ai mà chẳng có? Thưởng cho cả cái túi của cậu!

Nói xong đứa cỡi lấy cái túi, đứa lấy túi quạt, chẳng kể đầu đuôi, chúng lấy sạch các thứ đeo ở trong người Bảo Ngọc.

Rồi nói:

- Thôi đưa cậu về đi.

Một lũ vây tròn lấy Bảo Ngọc, dẫn về đến tận cửa Giả mẫu. Bấy giờ Giả mẫu đương mong, thấy Bảo Ngọc về, biết là không xảy chuyện gì, trong lòng rất vui.

Một chốc, Tập Nhân mang nước trà đến, thấy những đồ đeo trong mình Bảo Ngọc không còn một thứ gì, cười hỏi: Những đồ đeo đâu cả? Chắc lại bị bọn mặt dày nào lột mất rồi.

Đại Ngọc nghe nói chạy lại, thấy chẳng còn cái gì, hỏi Bảo Ngọc:

- Cái túi của tôi khâu, anh cũng cho chúng nó rồi à? Mai lại chực xin cái khác, đừng hòng có của sẵn thế.

Nói xong, bực tức về buồng, lấy kéo cắt vụn cái túi đựng hương đang khâu cho Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc bực lên, biết lại sinh chuyện, vội vàng chạy đến thì Đại Ngọc đã cắt mất cái túi rồi, Bảo Ngọc cũng đã trông thấy cái túi ấy, tuy chưa làm xong, nhưng khéo lắm. Nay Đại Ngọc tự nhiên cắt đi, nghĩ cũng đáng tức. Bảo Ngọc vội vàng cỡi áo trong lấy cái túi của Đại Ngọc cho khi trước giơ ra nói:

- Em xem, cái gì đây! Khi nào tôi lại cho người ta nhưng cái em tặng tôi!

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc cẩn thận, sợ người ta lấy mất, đã đeo ở tận trong áo, rất hối hận đã quá nóng, cắt mất túi hương, nên cứ ngồi cúi đầu không nói câu gì.

Bảo Ngọc nói:

- Em không cần phải cắt. Tôi biết rằng em không thích cho tôi cái gì nữa. Ngay cái túi náy tôi cũng xin nộp lại có được không?

Nói xong, Bảo Ngọc ném cái túi vào lòng Đại Ngọc, rồi đi.

Đại Ngọc tức phát khóc lên, lại chực cắt nốt cái túi này.

Bảo Ngọc vội quay lại giật lấy, cười nói:

- Thôi! xin em tha cho nó!

Đại Ngọc vứt kéo đi, gạt nước mắt nói:

- Anh không nên thế, lúc thì tử tế, lúc thì giận dỗi. Không ưa nhau thì buông tha nhau ra.

Nói xong, bực tức lên giường nằm ngoảnh mặt vào tường chùi nước mắt. Bảo Ngọc lại phải chạy đến xin lỗi hết cô em thế nọ, đến cô em thế kia.

Giả mẫu cho người đến tìm Bảo Ngọc. Mọi người nói:

- Hiện đương ở buồng cô Lâm.

Giả mẫu nói:

- Được được! Để cho anh em nó chơi với nhau.Vừa rồi bố nó giam hãm nó mất nửa ngày, nay cho nó thỏa thuê một chút. Nhưng bảo chúng nó không được cãi nhau.

Mọi người vâng lời.

Đại Ngọc bị Bảo Ngọc làm rầy mãi, đành phải đứng dậy nói:

- Ý anh không muốn cho tôi yên, thì tôi đành phải xa anh.

Nói xong, chạy ngay ra ngoài.

Bảo Ngọc cười:

- Em đi chỗ nào, anh cũng đi chỗ ấy.

Một mặt lại cầm lấy cái túi đeo vào người.

Đại Ngọc giơ tay giăng lấy:

- Anh vừa nói không cần, sao lại còn đeo? Tôi lấy làm xấu hổ hộ anh!

Nói xong, phì ra cười. Bảo Ngọc nói:

- Em ơi, ngày mai lại khâu cho anh cái túi khác nhé!

Đại Ngọc nói:

- Để xem đã, lúc nào thích thì làm.

Hai người vừa nói, vừa đến buồng Vương phu nhân, thì gặp Bảo Thoa cũng ở đấy. Lúc này trong nhà Vương phu nhân bận rộn lắm. Vì Giả Tường đã mua mười hai người con gái ở Cô Tô về. Hắn mời người dạy hát và cả những đồ diễn tuồng nữa.

Tiết phu nhân thì dọn sang ở một ngôi nhà về phía đông bắc.

Viện Lê Hương được sửa sang lại cho phường hát ở để dạy con hát. Những người đàn bà già trong nhà, trước biết hát đều đến đó trông nom bọn con hát. Các khoản chi tiêu hàng ngày, các vật liệu cần dùng, đều do Giả Tường cai quản.

Lại có Lâm Chi Hiếu đến báo: mười hai ni cô, đạo cô trẻ tuổi đã đón về, hai mươi bốn bộ áo lễ nữa đã may xong. Ngoài ra có một vị sư cô để tóc, tên Diệu Ngọc, là người Tô Châu. Cô này dòng dõi nhà quan, khi bé lắm bệnh, phải làm bao nhiêu hình nhân thế mạng, vẫn không khỏi; sau cùng phải xuất gia vì thế đi tu mà vẫn để tóc. Năm nay cô ta mười tám tuổi, bố mẹ chết cả, chỉ còn có hai người vú và một a hoàn hầu hạ. Cô này chữ nghĩa rất thông, kinh kệ thuộc lòng, người lại đẹp. Nghe nói kinh đô có những di tích phật Quan âm và bản kinh viết bằng lá bối, nên năm ngoái cô ta theo sư phụ đến đây, hiện đương ở chùa Mầu Ni ngoài cửa tây. Sư phụ của cô ta, lấy số tiên thiên rất giỏi, nhưng đã chết từ mùa đông năm ngoái rồi. Theo lời dặn của sư phụ, Diệu Ngọc không nên về quê, cứ ở đây chờ tự khắc có kết quả tốt. Bởi vậy cô ta chưa về.

Vương phu nhân nói:

- Sao không mời cô ta?

Lâm Chi Hiếu nói:

- Nếu mời miệng thì cô ta sẽ nói: "Nhà quan hay cậy thế ức hiếp người, ta không khi nào chịu đến!"

Vương phu nhân nói:

- Cô ta là con gái nhà quan, tất nhiên hay làm cao. Ta viết thiếp mời, cũng không ngại gì.

Lâm Chi Hiếu vâng lời, ra bảo thư ký viết thiếp mời Diệu Ngọc, ngày mai sắp xe kiệu đi đón.

Bấy giờ có người đến trình: các thợ đang cần the lụa để trang trí, đến xin Phượng Thư mở lầu phát cho; lại có người đến trình: xin Phượng Thư nhận bỏ kho cho nhưng đồ vàng bạc, Vương phu nhân cùng các người hầu thân đều không ai được rỗi. Bảo Thoa nói:

- Chúng ta không nên ở đây làm quẩn chân, vướng tay người ta.

Bèn cùng Bảo Ngọc, Đại Ngọc đến buồng Nghênh Xuân nói chuyện phiếm.

Vương phu nhân ngày nào cũng bận túi bụi. Mãi đến cuối tháng mười thu xếp xong. Những người đốc biện đã tính toán và bàn giao sổ sách; các đồ cổ, các bức thư họa đã được bày biện ở các nơi; những chim muông như hạc, hươu, thỏ, gà, ngỗng đã mua về và đem thả ở trong vườn. Giả Tường cũng soạn xong hai mươi ba vở hát. Các ni cô, đạo cô niệm phật, tụng kinh đều đã thông thạo. Bấy giờ Giả Chính mới yên lòng, mời Giả mẫu vào vườn xem lại một lượt. Thấy mọi việc xếp đặt đã ổn thỏa đâu vào đấy không còn sai sót một ly. Giả Chính bèn chọn ngày tâu sớ lên. Chỉ vua truyền xuống: đến rằm tháng giêng sang năm là tiết thượng nguyên, Quý phi sẽ về thăm nhà. Từ đó trong phủ họ Giả bận rộn suốt ngày, ăn tết cũng vội vã.

Thấm thoát gần đến tiết nguyên tiêu, từ mồng tám tháng giêng trở đi đã có viên thái giám đến xem xét phương hướng: chỗ thay áo, chỗ ngồi chơi, chỗ nhận lễ, chỗ ăn tiệc, chỗ nghỉ ngơi. Lại có viên thái giám tổng quản lý quan phòng đem bọn thái giám nhỏ đến xem xét chỗ canh gác, chỗ căng màn, và dặn bảo người nhà họ Giả các nghi lễ như chỗ nào phải lui ra, chỗ nào quỳ, chỗ nào dâng món ăn, chỗ nào tâu việc. Bên ngoài lại có nhân viên bộ công và ty ngũ thành binh mã phải đến quét dọn đường sá, ngăn cấm những người không có chức vụ qua lại.

Bọn Giả Xá thì đốc thúc những thợ làm đèn đuốc. Mãi đến ngày mười bốn, mọi việc mới xếp đặt xong. Đêm hôm ấy, không một ai được chợp mắt.

Hôm rằm, đầu canh năm, từ Giả mẫu trở xuống, theo chức tước mặc phẩm phục đại trào. Trong vườn Đại quan, màn rồng, rèm phượng, vàng bạc châu báu choáng lên khắp nơi.

Đỉnh đốt hương bách hợp, lọ cắm hoa trường xuân, bốn bề im lặng như tờ, không một tiếng động. Bọn Giả Xá đứng ngoài cửa Tây, bọn Giả mẫu đứng ở ngoài cửa chính phủ Vinh. Đầu đường cuối ngõ mùng màn che kín. Đang lúc chờ lâu sốt ruột, chợt có một viên thái giám cưỡi ngựa đến, Giả Chính đón hỏi tin tức.

Viên thái giám nói:

- Hãy còn sớm chán, đầu giờ mùi ngự cơm chiều, giữa giờ mùi đến lễ phật ở cung Bảo Linh, đầu giờ dậu vào cung Đại Minh hầu yến, xem đèn rồi mới xin thánh chỉ về, có lẽ đầu giờ tuất mới bắt đầu đi.

Phượng Thư nghe xong, nói:

- Thế thì mời bà và mẹ hãy về buồng nghỉ, chờ lúc ấy sẽ ra cũng không muộn.

Giả mẫu trở về. Công việc trong vườn đều do Phượng Thư trông nom.

Những người coi việc, mời bọn thái giám đi ăn uống, sau đó bảo người nhà gánh từng gánh nến đi thắp ở các nơi.

Chợt nghe bên ngoài có tiếng ngựa chạy rầm rập, chừng mười viên thái giám thở hồng hộc đến vẫy tay ra hiệu. Bọn thái giám ở đấy biết là quý phi sắp đến, đều theo phương hướng đứng xếp hàng. Giả Xá dẫn con cháu trong họ đứng chực ngoài cửa Tây. Giả mẫu dẫn đám đàn bà trong họ đứng ở ngoài cửa chính đón tiếp . Lặng lẽ một lúc, thấy hai viên thái giám đi từ từ đến cửa Tây, xuống ngựa đem buộc ở ngoài chỗ quây màn rồi ngoảnh mặt về phía tây, buông thõng tay đứng chực. Chốc sau lại có hai viên nữa. Rồi cứ thế lần lượt tới gần mười đôi, khi ấy mới nghe văng vẳng có tiếng âm nhạc từ đằng xa vọng lại. Rồi từng đôi một cầm quạt phượng, cờ rồng, lông trĩ, quạt rồng, và lẵng vàng đốt trầm hương. Theo sau là một cái tán vàng thêu bảy con phượng, che mũ, áo, đai, giày. Lại có bọn thái giám mang khăn tay. ống nhổ, phất trần cũng từng đôi một lũ lượt đi qua. Sau cùng là tám viên thái giám rước cỗ xe loan thêu phượng màu vàng từ tử đi đến.

Giả mẫu vội quỳ xuống, có ngay bọn thái giám đến đỡ dậy. Xe loan đi vào cửa chính, rẽ sang phía đông, đến trước một nhà, có viên thái giám quì xuống, mời quí phi xuống xe thay áo. Khi vào đến cửa, bọn thái giám lui ra, chỉ có Tiêu Dung, Thái Tần(30) đỡ Nguyên Xuân xuống xe.

Trong vườn, đèn hoa sáng rực, đều làm bằng the lụa cực kỳ tinh xảo, trên treo một cái biển căng đèn, viết bốn chữ: "thể nhàn mộc đức"(31).

Nguyên Xuân vào thay áo rồi lại lên xe ra thăm vườn: khói thơm nghi ngút, bóng hòa rập rờn, chỗ nào cũng đèn sáng chói lọi, lúc nào cũng tiếng nhạc du dương, thật là cảnh tượng thái bình, phong lưu phú quí, nói không xiết được!

Nhớ lại những ngày ở dưới núi Thanh Ngạnh trong dãy núi Đại Hoang, mình sao mà buồn rầu tịch mịch vậy! Nếu không nhờ nhà sư chốc đầu và đạo sĩ khiễng chân mang đến đây, thì làm gì mình được thấy cái thế giới này. Muốn làm một bài phú đèn trăng, bài tụng tinh nhân, để ghi lại việc hôm nay, nhưng lại sợ vướng vào khuôn sáo của các sách. Với quang cảnh ấy, dù có làm bài phú, bài tụng, cũng không thể hình dung hết cái đẹp của nó; mà không làm thì những hào hoa mỹ lệ, chắc độc giả cũng có thể tưởng tượng ra được. Cho nên xin bớt đi, khỏi phải dài dòng, để quay về ý chính là hơn.

Giả phi ngồi trên kiệu trông thấy quang cảnh trong và ngoài vườn, lẳng lặng thở dài: "Xa hoa quá". Chợt viên thái giám quì mời lên thuyền. Giả phi xuống kiệu, chỉ thấy một dòng nước trong uốn khúc như rồng lượn, hai bên bờ đá, treo các thứ đèn bằng thủy tinh hoặc pha lê, sáng như bạc, trắng như tuyết. Khắp trên cành cây liễu, cây hạnh, đều kết hoa giả bằng giấy lụa và thông thảo treo hàng bao nhiêu ngọn đèn. Dưới nước có những đèn hình hoa sen, hoa ấu, con le, con cò, đều làm bằng vỏ trai, ốc hoặc lông chim. Trên dưới đua sáng, trời nước một màu, thực là một thế giới lưu ly. Trên thuyền lại có các chậu hoa, các thứ đèn cực kỳ tinh xảo, rèm châu, màn gấm, chèo quế, sào lan, không cần phải nói nhiều. . . Vào bến đá, có một cái biển đèn đề bốn chữ: "Liễu đình hoa tự".

Bạn đọc thử xem, những chữ: "liễu đình hoa tự", "hữu phượng lai nghi". Chỉ là những chữ Giả Chính muốn thử tài Bảo Ngọc, sao lại đem ra đề thực? Họ Giả lại là một nhà nền nếp thi thư, bạn bè qua lại đều là những tay tài giỏi, làm gì chả có mấy người đứng ra đề vịnh, sao lại lấy những câu của chú bé con để lấp liếm cho qua? Như vậy khác nào bọn hào phú, quẳng tiền ra, chuốc những chuyện tô son điểm phấn, như loại: Trước cửa khóa vàng cây liễu lục; sau nhà bình gấm chặng non xanh; và cho đó là nhã. Đằng này, hai phủ Ninh, Vinh mà suốt cuốn thạch đầu đã nêu ra thì không phải như vậy. Xem thế, đủ thấy trái ngược rất xa. Độc giả chưa hiểu, để vật ngu xuẩn nói rõ đầu đuôi cho hay.

Nguyên là Giả phi lúc bé được Giả mẫu nuôi dạy. Sau thêm được Bảo Ngọc. Giả phi là chị cả, Bảo Ngọc là em út. Giả phi nghĩ mẹ tuổi đã cao, mới sinh được đứa em nhỏ, nên rất thương yêu Bảo Ngọc, khác hẳn mọi người. Vả lại, chị em cùng ở với Giả mẫu, không rời nhau lúc nào. Khi Bảo Ngọc mới ba, bốn tuổi, chưa đi học, đã được Giả phi dạy truyền khẩu, thuộc lòng mấy quyển sách, biết đến mấy nghìn chữ. Tuy là chị em, nhưng chẳng khác gì mẹ với con. Sau khi vào cung, Giả phi thường nhắn tin cho cha mẹ: "Cần phải nuôi dạy Bảo Ngọc cẩn thận, không nghiêm thì sau này không thành người, nhưng nghiêm quá lại sợ xảy ra sự bất trắc, làm cho cha mẹ lo buồn".

Lòng quyến luyến của Giả phi đối với Bảo Ngọc thật là không khuây chút nào. Mấy hôm trước, thấy thầy học khen Bảo Ngọc tài tình, Giả Chính chưa tin, nhân lúc vào thăm vườn, liền bắt đề thơ, để xem ý tứ hay dở thế nào. Ông ta nghĩ: "Câu đối, biển đề" có nhờ ngòi bút của bậc đại tài cũng chẳng khó gì. Song trẻ con làm ra, tuy không hay lắm, cũng có chỗ đáng lấy và có phong vị của nhà mình hơn". Mặt khác, ông ta cũng muốn để Giả phi biết rằng: những câu đề vịnh này là của em nhỏ nghĩ ra, để khỏi phụ lòng Giả phi ngày thường mong mỏi. Vì thế ông ta mới để những câu đó lại. Còn chỗ nào hôm trước chưa đề, về sau đều đề thêm cả.

Giả phi xem bốn chữ này cười nói:

- Hai chữ "hoa tự" là được rồi, cần gì phả thêm "liễu đình" nữa?

Thái giám đứng hầu nghe vậy, vội lên bờ truyền cho Giả Chính. Giả Chính lập tức cho viết lại.

Bấy giờ thuyền đến bờ, ghé lại. Giả phi lên xe, thấy cung điện nguy nga, trên bức hoảnh viết bốn chữ lớn: "Thiên tiên bảo cảnh"(32) Giả Phi sai đổi là: "Tinh thân biệt thự"(33), rồi tiến vào hành cung. Ở đây, đèn đuốc rực trời, hương thơm nhát đất, cây lửa, hoa kỳ, cửa vàng, cột ngọc, rèm cuốn bằng móc râu tôm, đệm giải bằng da rái cá, đỉnh tỏa mùi xạ hương, tường treo quạt đuôi trĩ. Thực là: "Chốn thần tiền cửa vàng lầu ngọc, nhà hoàng phi đền quế, cung lan"

Giả phi hỏi:

- Tại sao nơi này không đề biển?

Thái giám đi theo hầu, quì tâu:

- Đấy là chính điện, không dám tự tiện đề trước.

Giả phi gật đầu. Thái giám mời Giả phi ngồi nhận lễ. Hai bên thềm tấu nhạc. Hai viên thái giám dẫn bọn Giả Xá, Giả Chính xếp hàng ở dưới thềm. Chiêu Dung truyền dụ: "miễn lễ". Mọi người lui ra. Lại dẫn bọn Giả mẫu từ thềm bên đông lên. Chiêu Dung lại truyền dụ: "miễn lễ". Mọi người lại lui ra. Ba tuần dáng trà xong. âm nhạc nghi. Giả phi xuống ngai, vào nhà bên thay áo, rồi lên xe ra vườn chơi. Đến nhà Giả mẫu, Giả phi muốn làm lễ gia đình, Giả mẫu quì xuống ngăn lại. Thoạt gặp mặt nhau, Giả phi rỏ nước mắt, một tay nắm Giả mẫu một tay nắm Vương phu nhân. Ba người đều thổn thức, nói không ra lời. Hình phu nhân, Lý Hoàn, Vương Hy Phượng, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân đứng bên cạnh cũng đều rỏ nước mắt không nói gì. Một lúc Giả phi mới nén buồn, cười gượng an ủi:

- Ngày trước đã đưa tôi đến chỗ không bao giờ được về gặp người nhà, nay may được về đây, mẹ con lại không cười, không nói, cứ khóc! Chốc nữa tôi đi, biết bao giờ lại được gặp nhau?

Nói xong Giả phi không nhịn được, lại thổn thức khóc.

Hình phu nhân vội đến khuyên giải. Giả mẫu mời Giả phi về chỗ ngồi. Giả phi theo thứ tự hỏi han từng người, lại khóc một phen nữa. Rồi đến những người coi việc ở phủ đông, phủ tây đứng ngoài hiên làm lễ. Sau lần lượt đến bọn hầu đàn bà con gái. Giả phi hỏi:

- Dì Tiết, Bảo Thoa, Đại Ngọc ở đâu không đến.

Vương phu nhân thưa:

- Vì họ là ngoại, không có chức vị gì, nên không dám thiện tiện vào hầu.

Giả phi liền bảo mời vào. Một lúc, Tiết phu nhân vào, muốn theo quốc lễ, nhưng Giả phi truyền miễn cho, rồi cùng kể "Hành chi thanh phân", trên gác, lên lầu, qua ngòi, quanh núi, nhìn ngắm quanh co, chỗ nào cũng trang hoàng lộng lẫy, cái gì cũng tô điểm mới lạ. Nguyên phi khen ngợi không ngớt, lại khuyên: "Làm thế này là quá lạm, lần sau không nên xa xỉ quá. Đến chính điện, Nguyên phi truyền miễn lễ, mọi người vào chỗ ngồi. Tiệc yến bắt đầu. Giả mẫu ngồi dưới tiếp, bọn Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư thì dâng canh, nâng chén.

Nguyên phi truyền lấy bút mực sẵn, tay mở giấy hoa tiên, chọn chỗ nào vừa ý thì đặt tên. Tên vườn thì đặt là "Đại quan viên"(34), biển ở chính diện đề là: "Cố ân tư nghĩa"(35).

Câu đối đề:

Trời đất mở lòng nhân, con đỏ dân đen đều mến phục,

Xưa nay rộng ân điển, chín cháu muôn nước đội vinh quang.

Chỗ có biển đề: "Hữu phượng lai nghi" thì đặt tên là: "Tiêu Tương quán"(36) Chỗ đề: "Hồng hương lục ngọc", thì đổi là: "Di hồng khoái lục"(37), và đặt tên là: "Di hồng viện". Chỗ đề "Hành chí thanh phân" thì đặt tên là: "Hành vu uyển". Chỗ đề: "Hạnh liêm tại vọng" thì đặt tên là: "Cán các sơn trang"(38) lầu giữa đặt tên là: "Đại quan lâu". Lầu bên đông đặt tên là: "Xuyết cẩm các"(39). Lầu bên tây đặt tên là: "Hàm phương ác". Lại còn những tên "Lục phong hiên", "Ngẫu hương tạ"(40), "Từ lang châu"(41), "Hành diệp chứ". Biển đề có những chữ: "Lê hoa xuân vũ", "Đồng tiễn thu phong"(42), "Địch lộ dạ tuyết"(43). Nguyên phi lại truyền không nên bỏ những câu đối và bức hoành đã đề trước, rồi đề một bài tứ tuyệt như sau:

Non nước bao quanh khéo lạ lùng,

Biết bao công của mới làm xong.

Thợ trời thêm thợ người tô điểm,

Gọi Đại quan viên có xứng không?

Nguyên phi đề xong, cười bảo các chị em:

- Tôi xưa nay vẫn kém tài mẫn tiệp, không quen ngâm vịnh, các em đều đã biết cả. Đêm hôm nay gọi là nghĩ qua loa để khỏi phụ cảnh này thôi. Bao giờ rỗi tôi sẽ soạn bài "Đại quan viên ký" và bài "Tình thân tụng" để kỷ niệm ngày hôm nay. Chị em cũng nên mỗi người đề một cái biển, vịnh một bài thơ, chớ vì tài mọn của tôi mà phải gò bó. Bảo Ngọc cũng biết đề vịnh, điều ấy đáng mừng. Trong các nơi, ta thích nhất "quán Tiêu Tương" và "Hành Vu uyển" rồi đến "viện Di Hồng" và "Cát cân sơn trang", bốn nơi này phải có thơ đề vịnh riêng mới được. Những câu đề trước tuy cũng khá, nhưng phải làm mỗi nơi một bài thơ, để ta thử tài tại chỗ, mới không phụ công ta vất vả dạy dỗ từ bé!

Bảo Ngọc vâng lời, lui ra nghĩ thơ.

Trong bọn Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân thì Thám Xuân hơn cả. Nhưng biết trước không thể đua tài với họ Tiết, họ Lâm được, tuy nhiên, nàng cũng phải gắng gượng làm cho qua chuyện. Lý Hoàn cũng gắng sức làm một bài. Giả phi lần lượt xem:

Biển đề KHOÁNG TÍNH DI TÌNH

Phong cảnh vườn này thực lạ ghê.

Vâng lời đề biển, thẹn tay đề.

Cõi trần đâu có nơi nào thế,

Dạo cảnh ai là chẳng phải mê!

Nghênh Xuân

Biển đề VẠN TƯỢNG TRANH HUY(44).

Vườn này xây đắp thực nguy nga,

Vâng mệnh đề thơ thẹn bút hoa.

Tinh xảo nhường nào không kể xiết,

Quả nhiên muôn vật đẹp thêm ra.

Thám Xuân

Biển đề VĂN CHUƠNG TẠO HÓA

Non nước bao quanh mấy dăm dài,

Lâu đài cao ngất giữa từng mây.

Sánh cùng nhật nguyệt cùng tươi sáng,

Bác thợ trời kia cũng kém tài.

Tích Xuân

Biển đề VĂN THÁI PHONG LƯU

Bốn bề non nước cảnh chơi vơi,

So với Bồng lai đẹp tuyệt vời.

Quạt lướt màu xanh làn cỏ ngát,

Quần xòe sắc đỏ cánh hoa rơi.

Ngọc chờ đời thịnh càng lên giá.

Tiên ở đài dao lại xuống chơi.

Từ lúc vườn này chào khách quí,

Phàm trần đã đến được bao người.

Lý Hoàn

Biển đề NGƯNG HUY CHUNG THỤY(45).

Vườn hoa xây cạnh đế thành,

Một vùng trời đẹp mây lành lạ sao.

Rời hang oanh đã đậu cao,

Trúc kia đợi phượng múa chào cùng vui.

Gió văn thổi lúc ra chơi,

Thăm nhà trọn hiếu dạy người theo noi.

Tài tiên cao diêu tuyệt vời,

Thẹn mình còn dám thêm lời nữa sao?

Tiết Bảo Thoa

Biển đề THẾ NGOẠI TIÊN NGUYÊN(46)

Dạo chơi Người lại thêm vui,

Cõi tiên nào phải là nơi bụi hồng!

Đep thay mượn cảnh non sông,

Điểm tô cảnh lại lạ lùng đẹp hơn.

Rượu kim cúc ngát mùi hương,

Chào mừng người ngọc rõ ràng hoa tươi.

Mong sao trên đội ơn trời,

Vườn này thường được đón mời xe loan.

Lâm Đại Ngọc

Nguyên phi xem xong khen mãi, cười nói:

- Rút cục bài của em Tiết, em Lâm hơn hẳn các bài. Chị em chúng ta không ai bằng.

Ngay đêm ấy, Đại Ngọc định trổ hết tài át hẳn mọi người. Không ngờ Nguyên phi chỉ bảo đề mấy chữ hoành biển và một bài thơ, nên không dám trái lời, chỉ làm qua loa một bài thơ cho tác trách.

Bảo Ngọc mới làm xong hai bài "Tiêu Tương quán" và "Hành vu uyển", đang nghĩ bài "Di hồng viện". Bảo Thoa liếc mắt nhìn, thấy trong bản nháp của Bảo Ngọc có câu "Lục ngọc xuân do quyển"(47). Nhân lúc mọi người không để ý, bèn đẩy Bảo Ngọc bảo:

- Quý phi không thích những chữ "hồng hương lục ngọc" mới đổi ra "di hồng khoái lục", giờ anh lại dùng hai chữ "lục ngọc" như thế chả phải là cố làm trái ý người hay sao? Vả chăng điển tích lá chuối cũng có nhiều, nên đổi đi là phải.

Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa nói thế, gạt mồ hôi nói:

- Bây giờ tôi nghĩ mãi cũng chẳng nhớ ra được điển tích nào?

Bảo Thoa cười:

- Anh chỉ đổi chữ "lục ngọc" làm chữ "lục lạp"(48) là được.

Bảo Ngọc nói:

- Chữ "lục lạp" xuất xứ ở đâu?

Bảo Thoa khẽ bĩu môi, gật đầu nói:

- Đêm nay mới có thế mà anh đã cuống lên, sau này thi ở trước đền vàng, có lẽ họ Triệu, họ Tiền, họ Tôn, họ Lý cũng quên tất. Bài thơ Vịnh ba tiêu của Hàn Dực nhà Đường có câu: "Lãnh chúc vô yên lục lạp can"(49) anh quên rồi à!

Bảo Ngọc nghe xong chợt nhớ ra cười nói:

- Đáng chết! Đáng chết! Chữ ngay trước mắt tôi cũng không nghĩ ra. Chị đáng là "Nhất tự sư"(50) vậy. Từ rầy tôi xin gọi là thầy, chứ không dám gọi là chị nữa.

Bảo Thoa khẽ cười nói:

- Làm nhanh đi, đừng chị chị em em nữa. Ai là chị? Người mặc áo vàng ngồi trên kia mới là chị.

Sợ làm mất thì giờ của Bảo Ngọc, Bảo Thoa vừa cười nói, vừa quay đi chỗ khác.

Bảo Ngọc làm xong bài này, mới là ba bài. Bấy giờ Đại Ngọc chưa được trổ hết tài, vẫn chưa mãn nguyện. Nhân thấy Bảo Ngọc nghĩ ngợi khó khăn, nghĩ bụng: "Sao ta không làm giúp vài bài cho anh ấy đỡ mệt". Rồi chạy đến bên bàn Bảo Ngọc khẽ hỏi đã làm xong chưa. Bảo Ngọc nói:

- Mới làm xong ba bài, còn thiếu bài "Hạnh liêm tại vọng".

Đại Ngọc nói:

- Đã vậy anh cứ chép ba bài kia đi, còn bài này tôi sẽ làm giúp.

Nói xong nghĩ ngợi một lúc, làm xong một bài, viết vào mảnh giấy, vê tròn ném cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc giở ra xem, thấy hay hơn ba bài của mình nhiều, vội chép cẩn thận rồi đưa nộp. Nguyên phi xem thấy:

HỮU PHƯỢNG LAI NGHI

Ngọc tốt vừa ra quả,

Đang chờ phượng đến chơi.

Rờn rờn xanh mấy ngọn,

Thoang thoáng mát đầy nơi.

Qua bực, e thềm ướt.

Lọt rèm thơm sặc mùi,

Bóng kia đừng rung động,

Giấc mộng đẹp đường dài.

HÀNH CHỈ THANH PHÂN

Vườn kia im lặng như tờ

Hành la đua nở đương chờ đợi ai ?

Có xuân xanh lẫn màu trời,

Dải hồng tha thướt quyệt mùi hương thơm.

Khói bay nhè nhẹ bên đường,

Áo quần xanh đẫm hơi sương lạnh lùng.

"Trì đường" là khúc hóa công,

Anh em họ Tạ giấc nồng nàn thay.

DI HỒNG KHOÁI LỤC

Một vùng sân vắng ngày dài,

Thuyền quyên hai ả cả hai đẹp dòn,

Trời xuân anh vẫn cuộn tròn,

Áo hồng thơ thẩn khuya còn đứng đây.

Bên kia áo đỏ gió bay,

Khói xanh, dựa đá bên này đỡ chơi.

Trước gió đông đứng hàng đôi,

Chủ nhân ướm hỏi ai người biết thương?

HẠNH LIÊM TẠI VỌNG

Cờ rượu treo mời khách,

Kề non dựng một tòa.

Cỏ thơm ao tắm ngỗng,

Dâu tốt yến xây nhà.

Rau xuân xanh bát ngát,

Mùi lúa nức gần xa.

Đời thịnh nào ai đói.

Canh cửi vội chi mà.

Bảo Ngọc kính đề

Nguyên phi xem xong, thích lắm, nói:

- Học đã tiến rồi đấy!

Lại bảo:

- Trong bốn bài, thì bài "Hạnh liêm" hơn cả.

Rồi đổi tên "Cán cát sơn trang" làm "Đạo hương thôn"(51).

Nguyên phi sai Thám Xuân lấy giấy hoa tiên chép cẩn thận những bài thơ ấy, rồi cho thái giám đưa ra nhà ngoài. Bọn Giả Chính xem, đều khen ngợi mãi. Giả Chính lại dâng bài "Qui tính tụng". Nguyên phi sai lấy các đồ vàng ngọc thưởng cho Bảo Ngọc và Giả Lan. Giả Lan hãy còn bé, chưa hiểu gì, chỉ biết theo mẹ và chú đến tạ.

Giả Hoàn bị ốm từ trong năm đang điều dưỡng nên không nói đến.

Bấy giờ Giả Tường đã dẫn một ban hát đứng ở dưới lầu, chờ mãi sốt ruột, chợt có một viên thái giám chạy đến bảo: thơ làm xong rồi, đem trình ngay các mục vở hát lên. Giả Tường vội đem trình các mục vở hát và danh sách mười hai ca nữ. Một lúc thấy chấm bốn vở:

1. Hào yến,

2. Khất sảo,

3. Tiên duyên,

4. Li hồn.

Giả Tường vội xếp đặt các vở đem ra diễn. Những điệu hát lên cao, lanh lảnh, những điệu múa biến ảo như ma, tuy chỉ là lối biểu diễn hóa trang, nhưng nỗi vui buồn đều biểu lộ rõ

Hát xong, bọn thái giám bưng lên một mâm kẹo bánh, hỏi:

- Ai là Linh Quan?

Giả Tường biết là để thưởng cho Linh Quan, vội vàng nhận lấy và bảo Linh Quan ra tạ ơn. Thái giám nói: Quí phi truyền "Linh Quan giỏi lắm, hát thêm hai vở nữa. Vở gì cũng được".

Giả Tường vội vàng vâng lời, bảo diễn thêm hai vở "Du tiên" và "Kinh mộng".

Linh Quan nói:

- Không quen hát hai vở ấy.

Hắn nhất định không nghe và xin hát hai vở "Tương ước và "Tương mạ". Giả Tường ngăn không được, đành để cho hát, Nguyên phi thích lắm, truyền: "Không nên bắt ép đám trẻ con quá, để nó học tập dần". Và đặc cách thưởng cho hai tấm nhiễu trong cung, hai cái túi và mấy thoi vàng bạc nhỏ. Tan tiệc Nguyên phi lại ra ngắm cảnh những chỗ chưa dạo qua. Chợt thấy ngôi chùa ở bên núi, Nguyên phi vội vàng rửa tay, thắp hương lễ phật, đề biển bốn chữ "Khổ hải từ hàng"(52), rồi đặc cách ban thưởng cho bọn ni cô, đạo cô.

Một lúc thái giám quì tâu: "Đồ ban thưởng sắp cả rồi, xin theo lệ phân phát". Rồi trình bản kê lên. Nguyên phi xem từ đầu đến cuối, không nói gì, truyền cứ theo thế mà làm. Thái giám đem xuống ban cho mọi người. Giả mẫu được một đôi như ý(53) bằng vàng và bằng ngọc, một cái gậy bằng gỗ trầm hương, một chuỗi tràng hạt, bốn tấm đoạn "phú quí trường xuân"(54), bốn tấm phiễu "phúc thọ miên trường"(55), mười hai thoi vàng "bút đĩnh như ý"(56), mười thoi bạc "cát khánh hữu dư"(57). Hai phần của Hình phu nhân, Vương phu nhân cũng thế, chỉ kém cái gậy, thoi như ý và tràng hạt. Giả Kính, Giả Xá, Giả Chính, mỗi phần hai bộ tân thư ngự chế, hai hộp mực quí, hai chiếc chén vàng. Còn đồ biếu khác thì cũng như trên. Chị em Bảo Thoa, Đại Ngọc, mỗi người một bộ tân thư, một cái nghiên quí, bốn thoi vàng bạc đúc kiểu mới. Bảo Ngọc, Giả Lan thì hai cái vòng bằng vàng bạc, bốn thoi vàng bạc. Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư, mỗi người bốn thoi vàng bạc, bốn thứ đồ biếu. Hai mươi bốn thứ đồ biếu, tiền năm trăm quan, thì thưởng cho bọn vú bõ và a hoàn hầu Giả mẫu và các phòng. Giả Trân, Giả Liễn, Giả Hoàn, Giả Dung đều mỗi người một thứ đồ biếu, hai thoi vàng bạc. Một trăm tấm lụa hoa, một nghìn lạng vàng bạc, rượu ngự tiếc hoa thì thì cho bọn trông nom công việc bày biện, đi lại, coi ban hát, trông đèn nến ở hai phủ Vinh, Ninh. Năm trăm quan thưởng cho những người trông nom bếp nước, chèo hát, các trò chơi, sai vặt...

Mọi người tạ ơn xong, viên thái giám chấp sự tâu: "Nay đã đến giữa giừ sửu, mời loan giá về cung".

Nguyên phi lại nước mắt giàn giụa, nhưng phải gượng cười cầm tay Giả mẫu và Vương phu nhân dặn dò nhiều lần: "Giữ lấy sức khỏe, không nên thương nhớ. Hiện giờ ơn trên rộng rãi, mỗi tháng cho vào cung thăm một lần, gặp mặt cũng dễ dàng, việc gì phải buồn rầu? Nếu sang năm ơn trên lại cho về thăm nhà, thì không nên bày vẽ xa xỉ như thế này". Giả mẫu khóc nức nở, nói không ra lời. Nguyên phi tuy không nỡ rời tay, nhưng vì theo phép tắc nhà vua, nên đành dằn lòng lên xe. Mọi người khuyên giải Giả mẫu và Vương phu nhân rồi dìu về nhà.

---------------------------------

(1). Màu xanh của núi và của cây cối chồng chất lên nhau.

(2). Núi gấm.

(3). Trại thi nhau. Hương lô: Đời Hán có người thợ khéo lắm in một cái lư hương như hình quả núi, gọi là Bắc sơn hương lô. Ở đây ý nói quả núi này đẹp hơn Bắc sơn hương lô.

(4). Nụ Chung Nam nhỏ: một quả núi ở phía nam Thiểm Tây, phía đông Hà Nam, phía tây Cam Túc, phong cảnh rất đẹp.

(5). Con đường nhỏ, quanh co, đưa đến chỗ thắng cảnh.

(6). Âu Dương Tu tự là tính Thúc, hiệu là Túy ông. Một nhà văn nổi tiếng ở đời Tống có làm hai bài ký Túy ông đình. Nay ớ Từ Huyện. tinh An Huy, còn di tích cái đình này.

(7). Quang đãng, sáng sủa.

(8). Suối chảy qua khe giữa hai quả núi.

(9). Nước chảy ra từng hạt ngọc.

(10). Nước suối ngon có thể dùng để nấu rượu.

(11). Nước đượm mùi thơm.

(12). Điển tích trong kinh Thi. Phong nhã của bên Kỳ sót lại.

(13). Di tích của vườn Thư.

(14). Có chim phượng đến múa, ý nói điềm lành trong cảnh tượng thái bình.

(15). Phạm Thành Đại, hiệu Thạch Hồ cư sĩ, một nhà văn nổi tiếng đời Cao Tông triều Nam Tống, có làm bài thơ tả phong vị nhà làm ruộng.

(16). Trên ngọn cây mận treo kỳ bài bán rượu.

(17). Cờ bán rượu trên cây hạnh trước mặt.

(18). Cửa tre dòm xuống nước, mùi lúa thơm ngào ngạt.

(19). Theo bài ký "Nguồn đào" (Đào nguyên) của Đào Tiềm đời Tấn.

(20). Nhà cũ của người đời Tần, tức là người đời Tần vào tránh loạn ở trong Đào nguyên.

(21). Bờ cỏ liễu bên hoa (cỏ liễu là một loại cỏ thơm mọc dưới nước).

(22). Gió hoa lan, sương hoa huệ.

(23). Hoa cỏ đầy sân khóc bóng chiều.

(24). Thơm mát của cỏ hành cỏ chi.

(25). Viết lên lá chuối chữ còn xanh.

(26). Chỗ này ý nói Bảo Ngọc nhớ lại giấc mộng đã nói ở trong hồi thứ năm.

(27). Xây chuối và con hạc.

(28). Màu sáng lộng lẫy dọi ra nhiều vẻ.

(29). Tùng, trúc, mai gọi là ba người bạn mùa đông.

(30). Các nữ quan trong cung.

(31). Nhờ nhân đức nhà vua.

(32). Cảnh đẹp cõi tiên.

(33). Nhà riêng về thăm cha mẹ.

(34). Vườn lớn, nhiều phong cảnh đẹp, làm cho người du lãm có một tầm mắt bao la.

(35). Trông thấy ơn vua thì nghĩ đến nghĩa lớn.

(36). Quán tên sông Tiêu, sông Tương.

(37). Màu đỏ, màu xanh cùng vui tươi.

(38). Trại giặt vải ở gần núi.

(39). Lầu trăng gấm.

(40). Thơm mùi ngó sen.

(41). Hoa súng tía.

(42). Lá ngô đồng gặp gió mùa thu.

(43). Hoa lan gặp đêm tuyết.

(44). Muôn vẻ đua sáng.

(45). Họp mọi màu sáng và chung đức điểm lành.

(46). Suối cõi tiên ở ngoài cõi trần.

(47). Ngọn ngọc mùa xuân còn đang cuốn (chỉ cây chuối).

(48). Cây sáp xanh.

(49). Ngọn đuốc không có khói mà cây sáp xanh cứ khô dần.

(50). Thầy dạy một chữ.

(51). Thơm mùi lúa.

(52). Bè từ bi độ chúng sinh trong bể khổ.

(53). Nguyên là một tên đồ dùng để gãi lưng về sau làm đồ trần ngoạn, hoặc bằng vàng, hoặc bằng ngọc, ngụ ý chúc tụng những sự tốt lành.

(54), (55), (56), (57). Đều là những danh từ chúc tụng.

Hồi thứ mười chín

Tình đằm thắm đêm khuya hoa biết nói

Ý triền miên ngày vắng ngọc thêm hương

Giả phi về cung, hôm sau vào chầu Vua tạ ơn và tâu lại về việc thăm nhà. Mặt rồng rất vui, lại phát những vàng bạc, gấm vóc trong kho thưởng cho Giả Chính và gia thuộc.

Nói về hai phủ Vinh, Ninh suốt mấy ngày làm hết hơi sức, sau đó lại phải thu xếp những đồ trần thiết trong vườn, hai ba ngày mới xong, ai cũng mỏi mệt. Phượng Thư là người bận hơn cả. Nếu như người khác còn có thể lảng tránh công việc, nhưng Phượng Thư thì không sao làm ngơ được; vả lại chị ta tính hiếu thắng, không chịu để người chê trách, nên ôm đồm hết thảy mà vẫn làm ra dáng ung dung như không bận rộn gì. Trái lại, chỉ có Bảo Ngọc là người nhàn rỗi nhất. Một buổi sáng, mẹ Tập Nhân đến hầu Giả mẫu, xin phép cho con về nhà ăn cỗ đầu năm, đến chiều mới về. Vì thế Bảo Ngọc chỉ đánh cờ, chơi đùa với lũ a hoàn. Đương lúc buồn, chợt thấy người hầu vào nói: "ông Trân bên phủ Đông mời cậu sang xem hát, đốt cây bông". Bảo Ngọc nghe nói, bảo thay quần áo. Lúc sắp đi, thì Giả phi sai người đem cho bánh sữa. Bảo Ngọc nghĩ ngay đến Tập Nhân thích ăn thứ bánh này, liền bảo để dành, rồi xin phép Giả mẫu đi xem hát.

Những trò hát bên nhà Giả Trân là "Đinh lang nhận phụ", "Hoàng Bá Ương đại bài âm hồn trận", "Tôn hành giả đại náo Thiên cung", "Khuơng thái công trảm tướng phong thần". Lúc thì quỷ thần biến ảo, lúc thì ma quái ly kỳ; phất cờ chạy đèn, dâng hương niệm phật, tiếng chuông trống, hò hét ầm ĩ, cả ngoài đường cũng nghe thấy. Người qua lại trên phố đều tán tụng: "Vui quá nhỉ? Nhà khác làm gì có trò này". Bảo Ngọc thấy phồn hoa huyên náo quá, không chịu được, ngồi một lúc rồi ra dạo chơi các nơi. Trước hết, vào nhà trong nói quấy với Vưu thị và các tỳ thiếp một lúc, rồi đi ra cửa. Vưu thị tưởng Bảo Ngọc lại ra xem hát, nên không để ý. Bọn Giả Trân, Giả Liễn, Tiết Bàn thì lăn vào đánh đố, uống rượu, giở trăm trò vui, ai nấy cứ cho là Bảo Ngọc đi vào nhà trong, nên không hỏi đến. Cả những người lớn theo hầu Bảo Ngọc cũng cho là Bảo Ngọc thế nào đến chiều mới về. Được dịp rỗi, họ họp nhau đánh bạc, hoặc đi uống rượu ở nhà họ hàng, bạn hữu. Mỗi người tản đi mỗi nơi, hẹn nhau đến chiều mới về. Bọn trẻ con thì chen nhau vào buồng xem hát.

Bảo Ngọc không thấy có người nào theo hầu, liền nghĩ: "Nhà này có một thư phòng nhỏ, trong có treo bức tranh mỹ nhân rất thần tình. Bây giờ ở đây vắng người, mỹ nhân ấy chắc cũng hiu quạnh lắm. Ta cần phải đến đó thăm hỏi xem sao". Nghĩ thế rồi đi. Đến nơi, mới vào cửa, nghe trong phòng có tiếng thở. Bảo Ngọc giật mình, nghĩ: Có lẽ mỹ nhân hiện thành người thật chăng? Rồi đánh bạo, dấp nước bọt, chọc thủng cửa sổ giấy nhìn vào, thấy mỹ nhân vẫn y nguyên ở trong tranh. Té ra Dính Yên đương đè một người con gái, ôn lại bài học của nàng tiên Cảnh ảo trước đây. Bảo Ngọc ăn không được, đạp cửa vào hét to: "Quá lắm nhỉ!" Hai người nghe động, ôm lấy áo sợ run lên.

Dính Yên trông thấy Bảo Ngọc, vội quỳ xuống kêu van. Bảo Ngọc nói:

- Đương lúc ban ngày ban mặt, mày làm trò gì thế? Nếu anh Trân biết thì mày sống hay chết?

Nhìn lại thấy người con gái, mặt mũi sạch sẽ, tuy không đẹp lắm, nhưng có vẻ dễ thương, hổ thẹn cúi đầu, đứng im không nói gì. Bảo Ngọc giậm chân nói:

- Còn không đi à?

Cô gái nghe xong chạy đi ngay. Bảo Ngọc lại theo ra nói to:

- Đừng sợ! Tao không mách ai đâu.

Dính Yên vội kêu lên:

- Ông trẻ ơi! Thế là ông mách người ta rồi còn gì?

- Con bé ấy bao nhiêu tuổi?

- Độ mười sáu mười bảy tuổi.

- Ngay tuổi nó mày cũng không hỏi, mà đã làm cái trò ấy! Thật là nó vớ uổng phải mày! Đáng thương! Đáng thương! Còn tên nó là gì?

- Nếu nói tên nó ra thì chuyện cũng dài và mới lạ lắm. Nó nói: khi sắp đẻ, mẹ nó nằm mộng thấy được một tấm gấm, trên mặt thêu hoa năm sắc hình chữ "Vạn", vì thế đặt tên nó là Vạn Nhi.

- Thế thì lạ thật, chắc sau này nó cũng khá đấy.

Nói xong, Bảo Ngọc lặng lẽ nghĩ ngợi giờ lâu.

Dính Yên hỏi:

- Hát hay thế, sao cậu không xem?

- Xem một chốc, buồn quá, chạy ra ngoài chơi thì gặp chúng bay. Bây giờ nên làm gì đây?

Dính Yên cười khì khì:

- Bây giờ không ai biết, tôi lẳng lặng đưa cậu ra ngoài thành chơi một chốc rồi sẽ về.

- Không được, cẩn thận đấy, kẻo mẹ mìn nó bắt đi. Và nếu họ biết thì lại làm ầm lên. Sao bằng đi chơi nơi nào gần đây rồi lại trở về.

- Nếu đi gần đây thì nên đến nhà ai? Kể cũng khó đấy!

- Cứ ý ta, chúng ta đến thăm chị Hoa(1) xem chị ấy ở nhà làm gì.

- Được được, nhưng tôi không nhớ nhà chị ta. Vả lại, nếu họ biết tôi dẫn cậu đi chơi nhảm, thì tôi sẽ bị đòn.

- Đã có ta.

Dính Yên nghe nói, dắt ngựa đến, rồi hai người từ cửa sau đi ra. May là nhà Tập Nhân không xa, chỉ độ nửa dặm đường thoắt đã đến cửa.

Dính Yên vào trước gọi anh Tập Nhân là Hoa Tự Phương. Bấy giờ mẹ Tập Nhân đương ăn hoa quả với Tập Nhân và mấy người cháu gái. Nghe bên ngoài có người gọi "anh Hoa", Hoa Tự Phương vội chạy ra, thấy hai thầy trò Bảo Ngọc. Hắn sợ hãi không biết có việc gì, vội vàng bế Bảo Ngọc xuống ngựa, rồi chạy vào nhà nói to: "Cậu Bảo đến đấy!" Tập Nhân nghe thấy, không biết chuyện gì, vội chạy ra đón, dắt tay Bảo Ngọc, hỏi:

- Có việc gì mà cậu đến đây?

- Buồn quá, đến xem chị làm gì thôi.

Tập Nhân nghe xong mới yên lòng, nói:

- Cậu cũng liều quá, đến đây làm gì?

Rồi hỏi Dính Yên:

- Còn có ai đi theo hầu không?

- Chẳng có ai cả.

Tập Nhân lại sợ hãi nói:

- Như thế sao được! Nếu gặp người quen, hay ông nhà hoặc ngoài đường người chen, ngựa giẫm, có việc gì xảy ra thì sao? Có phải chuyện chơi đâu? Các người quả to gan thật. Chỉ tại thằng Dính Yên bày trò ra cả. Khi về, ta mách các vú nhất định đánh cho chết thằng giặc này.

Dính Yên bĩu mỏ nói:

- Cậu mắng tôi, đánh tôi, bắt phải đưa đi, bây giờ lại đổ tội cho tôi. Tôi đã bảo đừng đến mà! Nếu thế, chúng tôi về quách.

Hoa Tự Phương khuyên can:

- Cậu đã trót đến đây rồi, nói lôi thôi mãi làm gì. Chỉ hiềm nhà tôi nhà rách, vách nát, chật hẹp, bẩn thỉu, biết mời cậu ngồi đâu được?

Mẹ Tập Nhân ra đón. Bảo Ngọc thấy trong buồng có bốn năm người con gái. Trông thấy Bảo Ngọc, họ đều cúi đầu, thẹn đỏ mặt. Mẹ con Hoa Tự Phương sợ Bảo Ngọc lạnh, mời lên ngồi trên bục, mang hoa quả, nước trà đến. Tập Nhân cười nói:

- Đừng làm cuống lên, vô ích, tôi biết cậu ấy rồi, đừng nên cho ăn nhảm.

Nói xong đem cái nệm của mình giải trên ghế, rồi dắt Bảo Ngọc ngồi xuống. Lại mang cái lồng ấp chân của mình để vào chân Bảo Ngọc. Lại lấy ở túi ra hai cái bánh mai hoa đưa cho Bảo Ngọc và đốt lồng ấp tay của mình, đậy kín lại, để vào lòng Bảo Ngọc. Rồi lại lấy chén riêng của mình pha trà mời Bảo Ngọc uống. Bấy giờ anh và mẹ Tập Nhân đã bày sẵn một mâm hoa quả. Tập Nhân thấy không có gì đáng ăn, liền cười nói:

- Cậu đã đến đây, có nhẽ nào lại về không, hãy nếm một tí gọi là lần đầu đến chơi nhà tôi.

Nói xong, lấy một ít hạt dẻ bóc sạch vỏ, đựng vào khay tay đưa cho Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc trông thấy Tập Nhân hai mắt đỏ hoe, mặt phấn hơi ướt, khẽ hỏi:

- Chị khóc gì thế?

- Ai khóc bao giờ, vì ngứa mắt, tôi dụi đấy thôi.

Rồi bỏ qua chuyện ấy. Nhân thấy Bảo Ngọc mặc áo vóc đỏ chẽn tay, thêu rồng vàng lót da cáo, ngoài khoác áo xanh lót da cừu. Tập Nhân nói:

- Khi cậu đến đây mặc áo mới, ở nhà không ai hỏi à?

- Anh Trân mời xem hát, nên mới thay mặc bộ này.

Tập Nhân gật đầu, lại nói:

- Hãy ngồi một lát rồi về. Chỗ này không phải là chỗ cậu đến đâu nhé.

- Chị nên về nhà ngay mới được. Tôi đã để phần chị một thứ ngon lắm.

- Nói khẽ chứ, người ta nghe thấy thì còn ra làm sao?

Rồi giơ tay tháo "viên ngọc thiêng" ở cổ Bảo Ngọc ra, cười nói với các chị em:

- Này hãy xem đi. Ngày thường các chị cứ phàn nàn không được trông thấy của hiếm này, bây giờ thì xem cho chán đi, có gì là lạ, chẳng qua nó cũng chỉ thế thôi.

Nói xong, Tập Nhân đưa viên ngọc cho mọi người chuyền tay nhau xem một lượt, rồi lại đeo vào cổ Bảo Ngọc.

Tập Nhân bảo người anh đi thuê xe hoặc kiệu đưa Bảo Ngọc về. Hoa Tự Phương nói:

- Để tôi đưa đi, cậu ấy cưỡi ngựa cũng được.

Tập Nhân nói:

- Không phải là không được, chỉ sợ người ta trông thấy.

Hoa Tự Phương vội đi thuê một cỗ kiệu lớn, mọi người không tiện giữ lại, đành để Bảo Ngọc ra về. Tập Nhân lại đưa một nắm quả cho Dính Yên và cho nó tiền mua pháo, rồi bảo:

- Nếu nói với ai, cả mày cũng có tội đấy.

Rồi đưa Bảo Ngọc ra cửa, lên xe, buông màn xuống. Hoa Tự Phương và Dính Yên dắt ngựa đi theo. Đến phủ Ninh, Dính Yên bảo dừng xe, rồi nói với Hoa Tự Phương:

- Tôi và cậu Hai hãy vào phủ Đông chơi một lúc sẽ về, để người ta khỏi ngờ.

Hoa Tự Phương cho là phải, vội ẵm Bảo Ngọc xuống kiệu, rồi đỡ lên ngựa. Bảo Ngọc cười:

- Làm phiền anh quá.

Liền đi về cửa sau.

Thấy Bảo Ngọc đi vắng, lũ a hoàn tha hồ chơi đùa, đánh cờ, đánh bài, vất đầy vỏ hạt dưa ra. Vú Lý chống gậy đến thăm Bảo Ngọc, thấy bọn a hoàn xúm nhau lại chơi đùa, vú rất khó chịu, thở dài:

- Dạo này ta ít đến đây, chúng bay càng làm bừa bãi quá. Các vú khác chẳng ai dám nói động đến chúng bay cả. Bảo Ngọc như cây đèn cao ngất, chỉ biết đi soi nhà người, còn nhà mình thì không hề soi đến, để cho chúng nó phá phách đến thế này, chẳng còn thể thống gì cả.

Bọn a hoàn xưa nay biết Bảo Ngọc không để ý đến những việc lặt vặt; vú Lý đã thôi việc cáo lão về nhà rồi, còn cai quản thế nào được chúng. Vì thế, mụ nói gì mặc mụ, chúng cứ việc chơi đùa. Vú Lý lại hỏi:

- Bây giờ Bảo Ngọc mỗi bữa ăn được bao nhiêu cơm? Đến giờ nào đi ngủ?

Bọn a hoàn trả lời qua loa. Có đứa còn nói: "Cái mụ già này chán thật!"

Vú Lý lại hỏi:

- Bánh sữa trong bát kia sao không đưa ta ăn?

Nói xong, vú Lý lấy ngay ra ăn. Một a hoàn bảo:

- Mụ đừng động vào! Cậu bảo là để phần chị Tập Nhân. Lát nữa cậu về là lôi thôi đấy. Má ăn thì má phải chịu lấy, đừng để rầy rà đến chúng tôi.

Vú Lý nghe xong vừa tức vừa xấu hổ, liền nói:

- Ta không ngờ cậu ấy lại xử tệ với ta như thế. Đừng nói một bát bánh sữa chứ một thứ gì quý giá hơn nữa ta ăn cũng đáng. Lẽ nào cậu ấy lại quý Tập Nhân hơn ta? Lẽ nào cậu ấy lại không nghĩ vì ai mới lớn được như thế? Vì máu ta hoá sữa cho cậu ấy bú rồi mới lớn lên. Bây giờ ta ăn một bát bánh sữa mà cậu ấy lại sinh sự với ta à? Ta cứ ăn, xem cậu ấy làm trò gì? Chúng bay có biết Tập Nhân là đứa thế nào không? Nó là một đứa a hoàn bé con, do tay ta gây dựng, chứ có quý hoá gì.

Vừa nói vừa tức, vú ăn hết cả bát bánh sữa. Một a hoàn cười nói:

- Các chị ấy vụng về, làm má tức giận. Cậu Bảo Ngọc vẫn thường biếu má thứ này thứ khác luôn, có nhẽ nào vì một bát bánh sữa mà cậu ấy không bằng lòng?

Vú Lý nói:

- Chúng mày cũng đừng nói mèo nói cáo đánh lừa ta. Mày tưởng bận trước chuyện đập chén trà của con Phiến Tuyết, ta không biết à? Ngày mai có xảy ra điều gì, ta sẽ đến nhận.

Nói xong hầm hầm đi ra.

Một lúc Bảo Ngọc về, sai người đi đón Tập Nhân, thấy Tình Văn nằm dài trên giường không dậy. Bảo Ngọc hỏi:

- Ốm hay thua bạc đấy?

Thu Văn nói:

- Nguyên là nó được bạc, nhưng vì vú Lý đến làm ồn, nó đối đáp không lại, nó tức khí đi ngủ đấy thôi.

Bảo Ngọc cười nói:

- Các chị đừng để ý đến mụ ấy, mặc kệ mụ ấy là hơn.

Ngay sau đó, Tập Nhân về, mọi người chào nhau. Tập Nhân hỏi Bảo Ngọc hôm nay ăn cơm ở đâu? Về sớm hay muộn? Lại nói mẹ và em gửi lời hỏi thăm các chị em. Rồi thay quần áo, bỏ đồ trang sức ra. Bảo Ngọc sai người lấy bánh sữa. Bọn a hoàn nói: "Vú Lý ăn cả rồi". Bảo Ngọc toan hỏi, thì Tập Nhân vội cười nói:

- Thế ra để phần cái ấy à? Cám ơn cậu lắm. Hôm nọ vì thấy ngon, tôi ăn nhiều, đâm ra đau bụng, sau phải nôn ra mới khỏi. Bà ấy ăn cho là may, nếu cứ bỏ đấy cũng phí đi thôi. Tôi chỉ thích ăn hạt dẻ, cậu bóc giùm cho mấy hạt để tôi đi thu dọn giường chiếu đây.

Bảo Ngọc nghe nói tưởng thật, không nghĩ đến chuyện bánh sữa nữa. Bèn lấy hạt dẻ đến gần đèn ngồi bóc. Nhân thấy trong buồng vắng người, Bảo Ngọc cười hỏi Tập Nhân:

- Hôm nay cái người mặc áo đỏ là bà con thế nào với chị?

- Là chị con bà dì tôi đấy.

Bảo Ngọc nghe nói thở dài mấy cái.

Tập Nhân nói:

- Việc gì mà cậu thở dài? Tôi biết bụng cậu rồi. Cậu cho là chị ấy không đáng mặc áo đỏ chứ gì?

Bảo Ngọc cười nói:

- Không phải thế, không phải thế! Người như thế không đáng mặc thì còn ai đáng? Vì tôi trông thấy chị ấy đẹp thật, làm thế nào để chị ấy đến ở với chúng ta thì hay lắm.

Tập Nhân cười nhạt:

- Một mình tôi làm tôi đòi chưa đủ, cậu muốn dắt cả bà con họ hàng tôi vào nữa hay sao? Cậu thì muốn chọn tất cả những người con gái thật đẹp đến ở nhà này ấy?

Bảo Ngọc vội cười nói:

- Chị lại hay đa nghi! Tôi bảo chị ấy đến ở nhà tôi, chứ có phải nhất định đến đây làm tôi đòi đâu; coi chị ấy như họ hàng không được à?

Tập Nhân nói:

- Đâu dám chơi trèo thế.

Bảo Ngọc không nói gì nữa, chỉ bóc hạt dẻ. Tập Nhân cười hỏi:

- Sao không nói chuyện nữa đi? Chắc vừa rồi tôi nói có điều trái ý cậu. Ngày mai tức khí cậu phí mấy lạng bạc mua họ về là được ngay chứ gì?

Bảo Ngọc cười nói:

- Nói thế còn ai biết trả lời thế nào? Chẳng qua tôi khen chị ấy đẹp, đáng lẽ phải sinh vào nơi cửa cao nhà rộng như ở đây. Trái lại chúng tôi là hạng ô trọc lại được đẻ ở nhà này!

Tập Nhân nói:

- Chị ấy tuy không được may mắn như cậu nói, nhưng cũng được nuôi nấng chiều chuộng. Dượng và dì tôi coi như viên ngọc quí vậy. Năm nay chị ấy mười bảy tuổi, các đồ tư trang đã sắm đủ cả, sang năm sẽ đi lấy chồng.

Bảo Ngọc nghe hai tiếng "lấy chồng", không nhịn được, lại thở dài, trong bụng áy náy khó chịu. Tập Nhân lại than thở:

- Trong mấy năm nay, chị em mỗi người mỗi ngả, nay tôi đang định xin về, thì họ lại sắp đi cả.

Bảo Ngọc nghe câu nói có ý tứ, giật mình, bỏ ngay hạt dẻ xuống hỏi:

- Vì cớ gì chị lại muốn về?

Tập Nhân nói:

- Hôm nay tôi thấy mẹ tôi và anh tôi bàn với nhau bảo tôi cố ở rốn lại một năm. Sang năm sẽ xin chuộc về.

Bảo Ngọc nghe nói, cuống cả lên hỏi:

- Làm sao lại chuộc chị về?

Tập Nhân nói:

- Cậu hỏi mới lạ chứ? Tôi có phải như những người khác, đời đời làm tôi đòi đâu. Cả nhà tôi ở nơi khác, chỉ có một mình tôi ở đây sao lại để mãi thế được?

- Nhưng tôi không bằng lòng thì chị cũng khó mà về được.

- Xưa nay không có nhẽ nào như thế. Đừng nói nhà cậu, ngay đến trong cung nhà vua cũng có lệ nhất định, mấy năm một lần tuyển, mấy năm một lần thải về, không có nhẽ nào giữ mãi người ta ở lại được.

Bảo Ngọc nghĩ thấy có lý, lại nói:

- Nhưng cụ không cho chị về thì sao?

Tập Nhân nói:

- Tại sao lại không cho tôi về? Nếu quả khó tìm được một người như tôi, cụ và bà Hai có bụng tiếc, cho nhà tôi thêm mấy lạng bạc nữa, giữ tôi ở lại, thì cũng có lý. Nhưng thực ra, tôi cũng chỉ là hạng tầm thường, còn rất nhiều người hơn. Khi bé, tôi theo cụ rồi hầu cô Sử mấy năm, bây giờ đến hầu cậu. Giá nhà tôi đến chuộc, có lẽ không mất tiền chuộc mà nên gia ơn cho tôi về mới phải. Còn bảo rằng tôi hầu cậu khéo, không cho về, thì không bao giờ có chuyện như vậy. Phận sự tôi là phải khéo hầu, chứ nào có công trạng gì. Tôi về thì sẽ có người hầu khéo hơn, đừng sợ vắng tôi không có người làm nổi việc.

Bảo Ngọc nghe vậy, thấy Tập Nhân chỉ muốn về chứ không muốn ở, trong bụng càng bồn chồn, liền nói:

- Chị nói thì đúng đấy, nhưng tôi cứ giữ chị lại, thế nào cụ cũng nói chuyện với bà nhà, và đưa thêm ít tiền, chắc bà cũng không nỡ đón chị về nữa.

Tập Nhân nói:

- Khi nào mẹ tôi dám cưỡng. Đừng kể đến chuyện nói tử tế và cho thêm tiền, dù chẳng bảo gì, chẳng cho đồng nào, cứ bắt tôi ở lại, mẹ tôi cũng không dám trái lệnh. Nhưng nhà ta xưa nay chẳng cậy thần thế ức hiếp bao giờ. Việc này không thể ví với các việc khác được, hễ cậu thích là bỏ nhiều tiền ra mua, người bán hàng không bị thiệt thế là được rồi. Nay vô cớ, giữ tôi lại, đã không ích gì cho cậu, lại làm cho ruột thịt nhà tôi chia lìa nhau. Việc này cụ và bà Hai có nỡ làm không?

Bảo Ngọc nghe xong nghĩ một lúc rồi nói:

- Theo lời chị nói thì chị định đi thật à?

Tập Nhân nói:

- Định đi thật.

Bảo Ngọc nghĩ bụng: "Không ngờ người thế mà lại bạc tình bạc nghĩa!" Liền than thở:

- Nếu sớm biết ai cũng định đi cả, thì mình chuốc đến đây làm gì. Có lẽ sau này chỉ còn trơ trọi một mình.

Nói xong, bực bội lên giường ngủ

Nguyên khi về nhà, Tập Nhân được tin mẹ và anh muốn chuộc mình về. Tập Nhân nhất định không chịu, nói:

- Ngày trước nhà ta không có bát ăn, chỉ có một mình tôi là đáng giá mấy lạng bạc; nếu không bán tôi đi, để mẹ chết đói, sao cho đành lòng. Bây giờ may mắn tôi được vào nơi này, ăn mặc cũng như chủ nhà, lại không bị đánh hôm chửi mai gì. Vả chăng, cha đã chết rồi, nhà ta lại gây dựng được cơ nghiệp. Ví còn nghèo túng, định chuộc tôi về để kiếm thêm ít tiền, thì đã đành rồi. Nhưng thực ra nhà ta không đến nỗi thế. Vậy định chuộc tôi về làm gì? Cư coi như tôi đã chết rồi là xong, đừng nên nghĩ đến chuyện ấy nữa.

Rồi chị ta khóc lóc một hồi.

Mẹ và anh thấy Tập Nhân cương quyết như thế, tất nhiên là không chịu về. Vả chăng, trong văn tự là bán đứt. Nhưng thấy họ Giả là một nhà từ thiện phúc đức, nếu đến xin nài, có thể không phải mất tiền chuộc. Hai là họ Giả xưa nay ân nhiều uy ít chưa từng hành hạ người nhà bao giờ, bao nhiêu con gái hầu thân trong các phòng đều được biệt đãi, ngay các cô gái nhà thường dân chưa chắc đã được quý trọng bằng. Sau đó Bảo Ngọc đến chơi, sự thân mật giữa họ làm cho hai mẹ con càng thấy rõ như ban ngày, thật là ngoài sức tưởng tượng. Từ đó mọi người yên lòng, không nghĩ đến việc chuộc nữa.

Tập Nhân từ bé thấy Bảo Ngọc tính tình khác thường, cáu kỉnh, ngang bướng khác mọi đứa trẻ. Lại có những nết xấu rất kỳ quặc, không thể nói hết. Lâu nay được bà nuông chiều, bố mẹ không dám ngăn cấm. Bảo Ngọc càng phóng túng dông dài, không thích chăm lo việc chính. Nhiều lúc, Tập Nhân muốn khuyên nhủ, nhưng biết Bảo Ngọc chẳng chịu nghe nào. May sao hôm nay nhân có dịp nhà muốn chuộc mình về, Tập Nhân nói dối để dò ý và ngăn chặn Bảo Ngọc nhụt bớt đi, rồi sẽ tìm cách khuyên răn. Thấy Bảo Ngọc lẳng lặng đi ngủ, biết rằng cậu ta không nỡ dứt tình vơi mình và lòng đang chán nản. Tập Nhân vốn không thích ăn hạt dẻ, nhưng sợ vì một bát bánh sữa mà sinh chuyện, lại như chuyện chén trà của Phiến Tuyết lần trước, nên nói dối là thích ăn, để đánh lảng câu chuyện. Sau đó, chị ta cho bọn a hoàn nhỏ đem đi ăn, rồi đến đánh thức Bảo Ngọc. Thấy Bảo Ngọc nước mắt giàn giụa, Tập Nhân nói:

- Việc gì mà phải đau buồn thế? Nếu cậu thực bụng giữ lại thì khi nào tôi đi!

Bảo Ngọc thấy câu nói ý vị, liền nói:

- Theo như chị nói, thì tôi giữ chị lại làm sao được? Và chính tôi cũng chẳng biết nói thế nào nữa.

Tập Nhân cười:

- Hai chúng ta ngày thường tử tế với nhau, cái đó không cần phải nói. Nhưng cậu muốn giữ tôi ở lại, thì không phải chỉ ở chỗ tử tế với nhau. Tôi đề ra ba việc, cậu có nghe thì mới là thực bụng giữ tôi ở lại, dù dao kề cổ cũng không khi nào tôi đi.

Bảo Ngọc cười:

- Chị nói đi! Những việc gì? Chị ơi, chẳng cứ ba việc, đến ba trăm việc tôi cũng theo; chỉ mong các chị ở đây trông nom tôi giữ gìn tôi, khi nào tôi hóa thành tro bay, nhưng tro bay cũng chưa được, vì nó còn dấu vết, còn có tri thức! Phải chờ khi nào tôi hóa thành một làn khói nhẹ, gió thổi một cái là tan ngay, các chị không trông nom được tôi, tôi cũng chẳng đoái hoài đến các chị, lúc ấy tôi cũng vậy, các chị cũng vậy, tha hồ muốn đi đâu thì đi.

Tập Nhân vội vàng bịt mồm Bảo Ngọc lại bảo:

- Khéo lắm! Tôi đang muốn ngăn đi, cậu lại mở miệng nói độc rồi.

- Từ rầy tôi không nói thế nữa.

- Đấy là điều thứ nhất cậu cần phải đổi ngay.

- Xin đổi. Nếu tôi nói nữa thì chị cứ vả vào mồm tôi! Còn việc gì nữa không?

- Còn việc thứ hai: cậu thực lòng thích học hay giả vờ cũng mặc, nhưng không nên chê bai bừa bãi trước mặt ông nhà và mọi người. Cậu nên làm ra dáng chăm học để ông nhà đỡ bực mình và nên lựa lời nói khéo lấy lòng người ta. Trong bụng ông thường nghĩ nhà ta đời đời đọc sách, không ngờ từ khi có cậu, không những biếng học, làm cho ông buồn bực, lại khi vắng mặt người ta thì cậu hay chê bai nhảm nhí. Những người đọc sách để tìm đường tiến thủ, cậu đều đặt cái tên riêng cho họ như "con mọt ăn lộc". Cậu lại nói, trừ mấy chữ "minh minh đức" ra, thì không còn sách nào nữa, toàn là do ý nghĩ nhảm nhí của người trước biên chép ra. Nói như thế tránh sao ông chả giận, chả muốn đánh cậu?

Bảo Ngọc cười nói:

- Thôi, không nói thế nữa. Đó là lúc tôi còn bé, không biết trời cao đất dày, quen miệng nói nhảm. Từ giờ tôi không dám nói những câu ấy nữa. Còn việc gì nữa không?

Tập Nhân nói:

- Cậu không được chế nhạo tăng đạo, không được chơi hoa chơi phấn. Điều cần nhất là không được ăn những sáp non đã đánh ở trên môi người ta, và những nết tính xấu như ưa thích màu hồng.

- Xin chừa hết, xin chừa hết. Còn việc gì nữa nói nết ra.

- Chẳng còn gì nữa, chỉ cần mọi việc, cậu phải suy nghĩ cẩn thận, không được làm liều là được rồi. Nếu cậu quả thực nghe theo những lời tôi khuyên, thì dù đem kiệu tám người khiêng đến, cũng không thể rước nổi tôi ra khỏi nhà này.

Bảo Ngọc cười nói:

- Chị cứ ở đây, cũng có lúc ngồi kiệu tám người khiêng.

Tập Nhân cười nhạt:

- Cái đó tôi chẳng thèm khát gì. Có phúc mà không có đức thì dù được ngồi kiệu cũng chẳng thú gì.

Hai người đương nói chuyện, thấy Thu Văn đến giục:

- Canh ba rồi, nên đi ngủ thôi. Vừa rồi cụ sai người sang hỏi, tôi trả lời cụ đã ngủ rồi.

Bảo Ngọc lấy đồng hồ xem thì kim đã trỏ giờ tý hai khắc, bấy giờ mới bắt đầu rửa mặt súc miệng, cởi áo đi nằm.

Sáng hôm sau, Tập Nhân dậy, thấy người khó chịu, đầu nhức, mắt hoa, chân tay nóng nực, lúc đầu còn cố, sau không gượng nổi, chỉ thích ngủ, bèn để nguyên cả áo nằm xoài trên giường. Bảo Ngọc vội trình Giả mẫu cho mời thầy xem mạch.

Thầy thuốc nói bị cảm lạnh, uống một vài thang phát tán sẽ khỏi. Rồi kê đơn sai người đi lấy thuốc về sắc. Bảo Ngọc dặn Tập Nhân uống xong phải trùm chăn cho ra mồ hôi. Sau đó Bảo Ngọc đến thăm Đại Ngọc.

Đại Ngọc đương nằm ngủ trưa. Bọn a hoàn đi chơi cả. Trong nhà im lặng như tờ. Bảo Ngọc vén rèm thêu vào, lay Đại Ngọc dậy, nói:

- Cô em vừa ăn xong đã đi ngủ à?

Đại Ngọc tỉnh dậy, thấy Bảo Ngọc, nói:

- Anh hãy ra ngoài chơi. Đêm qua tôi thức cả đêm, hôm nay chưa được nghỉ, đau nhừ cả người.

Bảo Ngọc nói:

- Đau mình là sự thường, chứ ăn mà ngủ ngay, thì thành bệnh to. Tôi sẽ làm cho cô em đỡ buồn, để quên ngủ thì hơn.

Đại Ngọc cứ nhắm mắt, nói:

- Tôi không ngủ, chỉ nằm nghỉ một lát, anh hãy ra ngoài chơi, chốc nữa sẽ đến.

Bảo Ngọc nói:

- Tôi đi đâu bây giờ?

Đại Ngọc phì cười, rồi nói:

- Nếu muốn ở lại đây, thì sang bên kia ngồi nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ nói chuyện.

- Tôi cũng muốn ngả lưng.

- Thì anh cứ ngả lưng.

- Nhưng không có gối. Chúng ta gối chung một gối vậy.

- Bậy nào! Ở ngoài kia chẳng có gối là gì? Mang một cái đến mà gối.

Bảo Ngọc ra bên ngoài, nhìn một lượt rồi quay vào nói:

- Cái gối kia tôi không cần, không biết đó là gối của mụ già nào mà bẩn thế!

Đại Ngọc nghe nói, trừng mắt đứng dậy nói:

- Anh thực là sao "thiên ma" trong lá số của tôi. Đây xin mời gối cái gối này.

Nói xong, Đại Ngọc đưa cái gối của mình cho Bảo Ngọc, rồi lấy cái gối khác để gối. Hai người nằm đối diện nhau.

Đại Ngọc nhìn thấy bên má trái Bảo Ngọc có một nốt đỏ bằng cái khuya áo, liền xích lại gần lấy tay xoa kỹ xem rồi nói:

- Đã bị móng tay ai cào sứt ra đây?

Bảo Ngọc nằm nghiêng lại, cười nói:

- Chẳng có ai cào cả. Có lẽ lúc nãy lọc sáp cho họ bị sáp bắn lên một giọt.

Nói xong tìm khăn để lau. Đại Ngọc lấy khăn lụa của mình lau hộ, và chép miệng:

- Anh lại làm những trò ấy à? Làm thì đã đành rồi, nhưng cũng cần phải giấu đi. Dù cậu không thấy, nhưng nếu người khác thấy thì họ cho là một việc lạ lùng quái gở, sẽ kháo ầm lên, đến tai cậu thì chẳng ai yên được đâu.

Nhưng Bảo Ngọc chẳng nghe gì cả, chỉ ngửi thấy mùi thơm ở trong tay áo Đại Ngọc đưa ra, làm Bảo Ngọc tâm hồn mê mẩn, liền kéo tay áo Đại Ngọc xem trong ấy đeo thứ hương gì. Đại Ngọc cười nói:

- Đương buổi trưa này ai đeo hương làm gì?

- Thế thì mùi thơm này ở đâu ra?

- Tôi cũng không biết, hay là mùi hương ở trong hòm áo.

Bảo Ngọc lắc đầu:

- Chưa chắc. Mùi hương này lạ lắm, không giống như mùi hương bánh, hương quả cầu và hương trong túi đâu.

Đại Ngọc cười nhạt:

- Làm gì có vị La Hán chân nhân nào đem cho tôi những mùi hương lạ ấy? Dù có chăng nữa, cũng chẳng có anh em ruột thịt nào lấy hoa, lấy nhụy, lấy sương, lấy tuyết chế ra cho tôi. Tôi chỉ có những thứ hương phàm tục thôi.

Bảo Ngọc cười nói:

- Hễ tôi nói một câu, là em lại sinh sự bắt bẻ. Nếu không trị cho em một phen đáo để thì em không biết tay, từ giờ không tha thứ nữa đâu.

Nói xong, giơ hai tay lên, lấy ngón tay cù vào hai bên cạnh sườn Đại Ngọc. Đại Ngọc có máu buồn, thấy Bảo Ngọc giơ tay muốn cù thì cười giốc lên:

- Anh Bảo Ngọc, anh đùa nữa tôi giận đấy.

Bảo Ngọc mới dừng tay lại cười hỏi:

- Còn nói thế nữa thôi?

Đại Ngọc cười nói:

- Không dám nói nữa ạ.

Rồi vén tóc cười:

- Tôi có mùi "hương lạ" thì anh có mùi "hương ấm" không?(2)

Bảo Ngọc nghe không hiểu, hỏi:

- Thế nào là "hương ấm"?

Đại Ngọc cười nói:

- Ngu quá! Anh có ngọc thì người ta có vàng để sánh đôi, thế mà người ta có "hương lạnh", anh lại không có "hương ấm" à?

Bảo Ngọc mới nghe ra, cười nói:

- Vừa mới xin lỗi, đã lại nói kháy rồi.

Nói xong, lại chực giơ tay cù.

Đại Ngọc cười:

- Anh ơi! Tôi không dám thế nữa!

Bảo Ngọc cười nói:

- Tha cho em cũng dễ thôi, nhưng phải đưa tay áo cho tôi ngửi.

Bảo Ngọc kéo tay áo Đại Ngọc trùm vào mặt ngửi mãi. Đại Ngọc giật tay nói:

- Thôi anh nên về đi.

Bảo Ngọc cười:

- Tôi không về đâu. Chúng ta cùng nằm tử tế nói chuyện với nhau.

Bảo Ngọc lại nằm ngả mình xuống. Đại Ngọc cũng nằm, lấy khăn lụa che mặt.

Bảo Ngọc thỉnh thoảng lại giở những chuyện vớ vẩn ra nói. Đại Ngọc đều không để ý. Bảo Ngọc hỏi Đại Ngọc: Khi đến kinh bao nhiêu tuổi? Đi đường thấy nhưng phong cảnh gì? Dương Châu có những cổ tích gì? Phong tục ở đấy thế nào? Đại Ngọc đều không trả lời. Bảo Ngọc chỉ sợ Đại Ngọc ngủ rồi sinh ốm, bên nói lừa:

- Ái chào! Ở trong thành Dương Châu, có một việc to lớn, em có biết không?

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc nói vẻ trịnh trọng, nghiêm nghị, tưởng là chuyện thực, bèn hỏi việc gì? Bảo Ngọc nín cười nói:

- Dương Châu có một ngọn Đại sơn, trên núi có động Lâm Tử.

Đại Ngọc cười nói:

- Đó là bày chuyện nói nhảm, xưa nay chẳng nghe thấy cái tên núi ấy bao giờ.

- Thiên hạ núi sông rất nhiều, em biết thế nào hết được, để tôi nói xong đã sẽ bình phẩm.

- Thế thì nói đi.

- Nguyên trước đây động Lâm Tử có một đàn chuột già đã thành tinh. Năm ấy vào ngày mùng bảy tháng chạp, một con chuột già lên ngồi trên cao truyền phán công việc: "Ngày mai là mồng tám tháng chạp, người ta đều nấu cháo "lạp bát". Nay trong động ta đương thiếu hoa quả, đồ ăn. Nhân dịp này chúng ta đi kiếm lấy mấy thứ. Nói rồi liền rút một cái lệnh tiễn, sai một con chuột nhỏ thạo việc đi thăm dò các nơi. Sau đó con chuột nhỏ về báo: "Đã đi thăm dò các nơi rồi, chỉ có một ngôi miếu ở dưới núi là có nhiều hoa quả và thóc gạo". Con chuột già hỏi: "Gạo, quả có mấy thứ?" Chuột nhỏ thưa: "Gạo, đậu hàng kho; quả có năm thứ: một là táo đỏ, hai là hạt dẻ, ba là lạc, bốn là củ ấu, năm là khoai thơm". Chuột già nghe nói mừng lắm, rút một cái lệnh tiễn, hỏi: "Ai đi ăn trộm gạo?" Một con nhận lệnh đi. Lại rút một cái lệnh tiễn nữa hỏi: "Ai đi ăn trộm đậu?" Con khác nhận lệnh đi. Rồi hai con nữa đều nhận lệnh tiễn đi làm việc. Còn khoai thơm, chuột già rút lệnh tiễn ra hỏi: "Ai đi ăn trộm?" Có con chuột bé nhỏ, yếu đuối nhất chạy ra xin đi. Chuột già và các chuột khác thấy nó yếu đuối, sợ không quen việc, không cho đi. Nó nói: "Tôi tuy nhỏ yếu, nhưng pháp thuật rất mầu nhiệm, ăn nói linh lợi, có mưu sâu sắc, đi chuyến này chắc tôi ăn trộm tài hơn cả". Một con khác hỏi làm thế nào mà cho là tài? Chuột con nói: "Tôi không ăn trộm đường hoàng như bọn kia. Tôi chỉ quay mình một cái biến thành củ khoai thơm, rồi lẩn vào trong đống khoai. Không ai nhận ra. Sau tôi khe khẽ khuân ra và dần dần khuân hết cả đống. Thế chẳng tài hơn bọn kia cứ trơ tráo đi ăn trộm hay sao?" Những con chuột kia đều nói: "Giỏi đấy, nhưng cách biến thế nào? Làm thử cho chúng ta xem nào?" Chuột con nghe rồi cười nói: "Việc ấy khó gì. Tôi biến cho mà xem". Nói xong nó quay mình biến ngay thành một cô con gái rất đẹp. Mấy con chuột khác vộI cười nói: "Nhầm rồi! Nhầm rồi! Trước nói biến thành củ khoai thơm, sao lại biến thành một cô gái?" Con chuột con trở lạI nguyên hình cười nói: Chúng bay không biết rõ chuyện đời! Chỉ biết củ ấy là củ khoai thơm, mà không biết cô gái nhà cụ Lâm mới chính là "ngọc thơm" đấy!"(3)

Đại Ngọc nghe nói, vùng ngay dậy, dí tay vào người Bảo Ngọc cười nói:

- Cái anh toét miệng này! Tôi biết ngay rằng anh lại đặt điều chế nhạo tôi mà!

Nói xong Đại Ngọc lại véo miệng Bảo Ngọc, Bảo Ngọc liền kêu van:

- Em ơi! tha cho tôi, tôi không dám thế nữa! Vì ngửi thấy mùi thơm của em, chợt nhớ đến chuyện cổ tích ấy.

Đại Ngọc cười nói:

- Tha hồ mắng người ta, rồi anh lại bảo là chuyện cổ tích!

Đương nói chuyện thì Bảo Thoa đến, cười hỏi:

- Ai nói chuyện cổ tích, cho tôi nghe với.

Đại Ngọc vội mời Bảo Thoa ngồi rồi cười nói:

- Chị xem đấy, còn ai nữa? Anh ấy mắng tôi, lại còn nói là chuyện cổ tích.

Bảo Thoa cười:

- A, thế ra cậu Bảo đấy à? Lạ nhỉ! Xưa nay cậu ấy nhớ rất nhiều chuyện cổ, nhưng chỉ tiếc có một điều: lúc đáng dùng điển cổ thì cậu ấy lại quên. Hôm nay nhớ được thì đêm hôm nọ làm bài thơ "ba tiêu" cũng phải nhớ chứ? Thế mà truyện ngay trước mắt cũng nghĩ mãi không ra. Lúc đó người ta thì rét run không chịu được, mà cậu ấy thì đổ mồ hôi ra. Bây giờ sao trí nhớ lại tốt thế!

Đại Ngọc cười nói:

- A di đà phật! Chị thực đáng là bậc chị của tôi! Giờ cậu Bảo mới gặp tay đối thủ. Thế mới biết rằng sự báo ứng không sai chút nào.

Họ nói chuyện đến đây, nghe thấy bên phòng Bảo Ngọc có tiếng cãi cọ ầm lên.

------------------------

(1). Tập Nhân họ Hoa (xem hồi 3).

(2). Đại Ngọc nói bóng nói gió, nhắc đến "lãnh hương hoan" của Bảo Thoa (xem hồi thứ 7) có nghĩa là "hương lạnh" nên Đại Ngọc dùng nghĩa trái là "hương ấm".

(3). Theo chữ Trung Quốc: "khoai thơm", "ngọc thơm" đều đọc giống nhau.

Hồi thứ hai mươi

Phượng Thư thẳng thắn dẹp hẳn thói ghen tuông

Đại Ngọc tinh ranh nói những câu bỡn cợt

Bảo Ngọc đang ở trong buồng Đại Ngọc nói chuyện con chuột, chợt Bảo Thoa đến chế Bảo Ngọc về việc tiết nguyên tiêu vừa rồi không nhớ điển "Lục lạp". Ba người ngồi cười đùa chế giễu lẫn nhau. Bảo Ngọc sợ Đại Ngọc ăn xong đi ngủ ngay, lỡ ra không tiêu, hoặc đêm không ngủ được sẽ sinh bệnh. May có Bảo Thoa đến chơi, cùng nhau cười đùa làm cho Đại Ngọc không buồn ngủ nữa. Bấy giờ Bảo Ngọc mới yên lòng. Chợt bên buồng Bảo Ngọc có tiếng om sòm, mọi người lắng tai nghe. Đại Ngọc cười nói:

- Thôi lại bà vú của anh cãi nhau với Tập Nhân rồi. Tập Nhân đối với bà ấy vẫn tử tế, mà bà ấy cứ quát mắng luôn, thế mới biết là già hay trái tính.

Bảo Ngọc muốn chạy về, Bảo Thoa kéo lại nói:

- Không nên lôi thôi với bà ấy, già hay lẩm cẩm, nhịn đi một tí là hơn.

- Biết rồi.

Nói xong Bảo Ngọc chạy về, thấy vú Lý đương chống gậy đứng mắng Tập Nhân:

- Con đĩ ranh này vô ơn, công tao cất nhắc mày lên, nay tao đến đây, mày lại làm bộ làm tịch, nằm ngửa trên giường, không thèm chào hỏi một câu. Mày là giống cáo thành tinh, chỉ tìm cách cám dỗ Bảo Ngọc để nó nghe mày không nhìn đến tao. Mày chẳng qua là con hầu nhỏ mua bằng mấy lạng bạc mốc đem về đây. Thế mà mày đã sinh yêu sinh quái ở nhà này! Liệu hồn đấy! Tao thì lôi cổ mày ra đem gả cho một thằng ranh con nào đấy, xem mày còn giở thói yêu tinh cám dỗ Bảo Ngọc nữa thôi!

Tập Nhân chỉ tưởng vú Lý cáu vì vú vào mà mình nằm lỳ không dậy, nên phân trần: "Vì tôi ốm, phải trùm đầu cho ra mồ hôi, nên khi u vào tôi không trông thấy". Sau nghe thấy những câu "cám dỗ Bảo Ngọc", "gả cho thằng ranh con", thì vừa xấu hổ, vừa ức, khóc òa lên.

Bảo Ngọc nghe thấy vậy, rất khó chịu nhưng không biết làm thế nào, đành phân trần hộ Tập Nhân: "Ốm đang uống thuốc... Nếu u không tin, cứ hỏi a hoàn khắc biết."

Vú Lý nghe thấy thế, lại càng làm già:

- Cậu chỉ biết bênh con ranh ấy, còn chả biết tôi là ai nữa? Tôi biết hỏi ai? Bây giờ ai chẳng vào hùa với cậu, chẳng bị con Tập Nhân nó cám dỗ? Tôi biết hết cả rồi. Tôi với cậu hãy đến phân trần trước mặt cụ và bà Hai: vì có sữa tôi, cậu mới lớn được thế này, nay không cần bú nữa, cậu gạt tôi ra một xó, dung túng bọn con hầu khinh rẻ tôi!

Vú Lý vừa nói vừa khóc.

Bấy giờ Đại Ngọc, Bảo Thoa cũng đến khuyên ngăn:

- Thôi u rộng lượng tha thứ cho họ.

Vú Lý thấy họ đến, liền kể lể hết nỗi uất ức bấy nay: nào chuyện uống nước trà, Phiến Tuyết bị đuổi, chuyện ăn bánh sữa hôm qua. Nói lải nhải mãi không dứt. May sao lúc ấy Phượng Thư đang ở trong buồng tính sổ, nghe thấy tiếng ồn ào ở phía sau, biết là vú Lý già giở chứng, gắt mắng a hoàn của Bảo Ngọc, lại gặp hôm thua bạc, cáu lây sang cả người khác. Phượng Thư liền chạy sang ngay, kéo tay vú Lý cười nói:

- U đừng nóng tính thế! Nhà vừa mới có tiệc mừng xong, cụ mới vui vẻ được ít ngày. U là bậc có tuổi, người nào làm rầm rĩ u ngăn cấm đi mới phải, lẽ nào chính u lại không giữ phép tắc la hét ầm nhà, làm cho cụ bực mình. Ai hỗn với u, tôi sẽ đánh nó cho. Bên nhà tôi mới nấu thịt chim trĩ còn nóng, mời u sang uống rượu với tôi.

Phượng Thư vừa nói vừa dắt vú Lý đi, lại gọi "Phong Nhi! Mang gậy và lấy khăn lau mặt cho vú Lý!"

Vú Lý thất thểu theo Phượng Thư đi ra, còn ngoái cổ lại:

- Tao già rồi, chẳng cần gì nữa. Hôm nay tao liều, chẳng giữ phép tắc, làm rầm rĩ một phen, dù có mất thể diện cũng còn hơn chịu tức khí với con đĩ kia!

Bảo Thoa, Đại Ngọc thấy Phượng Thư dàn xếp như thế đều vỗ tay cười:

- Nhờ có trận gió nào mới lôi được mụ ấy đi.

Bảo Ngọc lắc đầu:

- Không hiểu cái nợ ấy từ đâu đến, cứ nhè vào người hiền lành mà bắt nạt. Cũng không biết cô nào cứ hay gây chuyện, để mụ ấy làm ầm lên.

Tình Văn đứng cạnh nói:

- Ai có hóa rồ mà gây chuyện với mụ ấy? Đã gây chuyện thì có gan nhận, cần gì để liên lụy đến người khác.

Tập Nhân vừa khóc vừa kéo tay Bảo Ngọc:

- Tôi đã có lỗi với vú ấy, cậu lại vì tôi mà có lỗi với người ta. Việc này một mình tôi chịu cũng chưa đủ hay sao? Lại còn lôi người khác vào!

Bảo Ngọc thấy Tập Nhân đương ốm lại thêm buồn bực, nên cố nhịn, và an ủi Tập Nhân, bảo đi ngủ cho ra mồ hôi. Lại thấy người Tập Nhân nóng ran như lửa, Bảo Ngọc liền ngồi ghé bên cạnh khuyên giải Tập Nhân tĩnh dưỡng, không nên nghĩ vơ vẩn những việc không đâu. Tập Nhân cười nhạt:

- Vì những việc như thế mà bực tức, thì liệu có ai ở được nhà này một giờ không? Nhưng ngày tháng còn dài, nếu lúc nào cũng ầm ỹ như thế này, ai còn chịu nổi? Ngày thường tôi vẫn khuyên cậu chớ nên vì chúng tôi mà mang lỗi với người, nhưng có đôi lúc cậu không chú ý đến, thành ra họ nhớ mãi, gặp dịp sơ hở là họ nói ra những giọng khó nghe, như thế còn ra gì nữa?

Tập Nhân vừa nói vừa ứa nước mắt, nhưng lại sợ Bảo Ngọc buồn, nên phải cố nén đi. Một chốc, bà già bưng đến nước thuốc thứ hai. Bảo Ngọc thấy Tập Nhân mới ra mồ hôi, không muốn gọi dậy, tự tay mang thuốc đến cạnh gối cho uống. Rồi sai bọn a hoàn nhỏ sửa soạn giường chiếu. Tập Nhân hỏi:

- Cậu ăn cơm chưa? Hãy sang bên cụ hay bên bà ngồi chơi với chị em một chốc rồi lại về đây, cho tôi nằm nghỉ một lúc.

Bảo Ngọc nghe lời, chờ cho Tập Nhân tháo trâm vòng, nằm nghỉ, rồi mới lên nhà trên ăn cơm với Giả mẫu. Ăn xong, Giả mẫu muốn đánh bài với bọn vợ quản gia. Bảo Ngọc nhớ đến Tập Nhân, lại về buồng ngay. Thấy Tập Nhân đã ngủ say, Bảo Ngọc cũng muốn đi ngủ, nhưng trời còn sớm. Bấy giờ bọn Tình Văn, Ỷ Hà, Thu Văn, Bích Ngân đều đi tìm trò chơi với Uyên Ương và Hổ Phách. Chỉ còn trơ Xạ Nguyệt ngồi đánh bài một mình ở gian nhà ngoài. Bảo Ngọc cười hỏi:

- Sao chị không đi chơi với họ.

- Không có tiền.

- Tiền để ở dưới gầm giường, không đủ cho chị đánh à?

- Đi chơi cả, nhà để ai trông? Một người ốm nằm đấy, trên thì đến, dưới thì lửa, các bà già vất vả suốt ngày, cũng nên để cho họ đi nghỉ; bọn a hoàn nhỏ cũng phải hầu hạ cả ngày, không cho họ đi chơi một lúc hay sao? Vì thế tôi phải ở nhà.

Thật rõ ràng là lời lẽ của Tập Nhân thứ hai, Bảo Ngọc liền cười nói:

- Giờ tôi ngồi ở đây, chị cứ yên tâm đi chơi.

Xạ Nguyệt nói:

- Cậu đã ở nhà thì tôi càng không cần phải đi nữa. Hai chúng ta nói chuyện với nhau chẳng hơn ư?

Bảo Ngọc nói:

- Chúng ta làm gì bây giờ? Cũng chẳng có chuyện gì. Thôi vậy, sớm hôm nay tôi thấy chị nói ngứa đầu, bây giờ rỗi, tôi chải đầu cho chị nhé.

Xạ Nguyệt nói:

- Cũng được.

Rồi mang hộp gương đến, tháo bỏ trâm vòng. Xạ Nguyệt rũ đầu ra cho Bảo Ngọc lấy lược chải. Mới chải được mấy cái, thì Tình Văn ở đâu chạy về lấy tiền. Trông thấy thế, Tình Văn cười nhạt:

- Kìa, chưa uống rượu giao bôi đã gỡ tóc cài trâm(1) cho nhau rồi?

Bảo Ngọc cười:

- Chị lại đây tôi chải cho luôn một thể?

Tình Vănnói:

- Chả dám. Tôi kém phúc lắm.

Nói xong, lầy tiền rồi bỏ rèm xuống đi ra.

Bảo Ngọc ngồi sau Xạ Nguyệt, Xạ Nguyệt soi gương. Hai người nhìn nhau ở trong gương cùng cười. Bảo Ngọc cười nói:

- Trong nhà này, chỉ có nó là lắm điều nhất.

Xạ Nguyệt vội xua tay ở trong gương. Bảo Ngọc biết ý. Chợt nghe tiếng rèm "xoạt" một cái, Tình Văn chạy vào hỏi:

- Thế nào là lắm điều? Nói ra cho rõ?

Xạ Nguyệt cười nói:

- Thôi cút đi, lại đến đây định vặn nhau à?

Tình Văn cười nói:

- Mày lại bênh cậu ấy à? Các người giở trò ma quỷ, tưởng đây không biết hay sao? Để tôi đi đánh gỡ vốn đã, rồi trở về sẽ bảo cho.

Nói xong, chạy một mạch.

Bảo Ngọc chải đầu cho Xạ Nguyệt xong, khẽ bảo sửa soạn cho mình đi ngủ, đừng làm Tập Nhân thức dậy.

Đêm hôm ấy, Tập Nhân ra được mồ hôi. Thấy người nhẹ đi. Sáng hôm say chỉ uống nước cháo và nằm tĩnh dưỡng. Lúc đó, Bảo Ngọc mới yên lòng. Ăn cơm xong, Bảo Ngọc sang chơi bên Tiết phu nhân.

Bấy giờ vào giữa tháng giêng, nhà trường còn nghỉ học, trong khuê các còn kiêng thêu thùa may vá, nên ai cũng rỗi cả. Giả Hoàn cũng sang đấy chơi. Gặp lúc Bảo Thoa, Hương Lăng và Oanh Nhi đương đánh xúc xắc, hắn cũng muốn đánh. Ngày thường Bảo Thoa coi hắn cũng như Bảo Ngọc, không phân biệt gì; nay thấy hắn muốn đánh, nên mời chơi một chân. Mỗi cuộc mười đồng. Cuộc đầu hắn được, trong bụng hí hởn lắm; ngờ đâu về sau hắn thua luôn mấy lần, đâm cuống. Lần này đến lượt hắn gieo xúc xắc, nếu gieo con "thất" thì được cả, con "lục" cũng được, trúng con "tam" thì thua. Hắn cầm con xúc xắc gieo xuống thật mạnh, một con đã ngửa mặt "ngũ", một con nữa còn quay tít. Oanh Nhi vỗ tay nói "yêu". Giả Hoàn trừng mắt lên nói luôn: "lục", "thất", "bát". Nhưng sao con xúc xắc lại ngửa mặt "yêu". Giả Hoàn vội giơ tay nắm lấy con xúc xắc, chực vơ lấy tiền, nói là con "lục".

Oanh Nhi nói:

- Rõ ràng là con "yêu".

Bảo Thoa thấy Giả Hoàn cáu kỉnh, vội lườm Oanh Nhi một cái nói:

- Càng lớn càng không có phép tắc! Có lẽ nào các cậu lại nói dối? Sao mày không bỏ tiền xuống?

Oanh Nhi trong bụng rất ức, nhưng thấy Bảo Thoa nói thế không dám cãi lại, đành bỏ tiền xuống, càu nhàu:

- Đã là cậu mà lại còn ăn gian mấy đồng tiền của chúng tôi. Số tiền đó chúng tôi cũng chẳng coi vào đâu. Hôm nọ chơi với cậu Bảo Ngọc, cậu ấy thua mà chẳng thấy gắt gỏng gì, thừa đồng nào là đám a hoàn nhỏ cướp hết, cậu ấy cũng chỉ cười thôi.

Bảo Thoa liền ngắt lời không cho nó nói nữa.

Giả Hoàn nói:

- Tao bì thế nào được với cậu Bảo Ngọc? Chúng bay sợ cậu ấy, nên đều tử tế với cậu ấy và cho tao không phải là con đẻ của bà Hai, nên ai cũng khinh rẻ tao!

Nói xong khóc ầm lên.

Bảo Thoa vội khuyên giải:

- Em ơi! Đừng nói thế, người ta cười cho.

Rồi quay lại mắng Oanh Nhi.

Vừa lúc đó Bảo Ngọc chạy đến, trông thấy, hỏi:

- Làm sao thế?

Giả Hoàn không dám nói câu gì. Bảo Thoa xưa nay vẫn biết gia pháp nhà này, làm em thì phải sợ anh. Nhưng biết đâu Bảo Ngọc lại không muốn ai sợ mình. Trong bụng nghĩ: "Đã có bố mẹ dạy bảo, việc gì ta phải lắm chuyện khiến anh em xa nhau. Vả lại ta là con vợ cả, nó là con vợ lẽ, ta đối với nó nghiêm khắc thì người ngoài chê cười, ta còn cai quản thế nào được nó". Hơn nữa, Bảo Ngọc còn có một ý nghĩ ngây ngô. Độc giả có biết ngây ngô thế nào không? Vì Bảo Ngọc từ bé luôn luôn ở chung với đám chị em, chị em ruột thì có Nguyên Xuân, Thám Xuân; chị em thúc bá thì có Nghênh Xuân, Tính Xuân; chị em ngoại thì có Tương Vân, Đại Ngọc, Bảo Thoa; Bảo Ngọc cho rằng, người thiêng hơn cả vạn vật, bao nhiêu tinh hoa trong sạch của trời đất, đều chung đúc vào con gái, bọn con trai chỉ là hạng cặn bã bẩn đục mà thôi. Vì thế, cậu ta cho tất cả con trai là hạng thô tục có cũng được, không cũng chằng sao. Chỉ vì theo lời dạy của Khổng Tử, thánh hiền bậc nhất thời xưa, đã nói về cha, chú, anh em, một điều không thể trái ngược, nên giữa anh em với nhau, chẳng qua phải ở cho có tình có lý. Cậu ta cũng chẳng nghĩ gì mình là anh trai, phải làm gương cho lũ đàn em. Do đó Giả Hoàn không sợ Bảo Ngọc, chỉ sợ Giả mẫu không bằng lòng, nên cũng nể phần nào thôi.

Bảo Thoa lại sợ Bảo Ngọc trách mắng Giả Hoàn đâm ra cụt hứng, nên tìm cách che đậy hộ hắn. Bảo Ngọc nói:

- Đầu giêng năm mới, sao mày lại khóc? Chỗ này không thích thì mày đi chơi chỗ khác. Mày ngày nào cũng đọc sách mà còn vơ vẩn như thế. Thí dụ, cái này mày không thích, thì đã có cái kia, mày cứ bỏ cái này đi mà chơi cái kia. Tội gì mày cứ khư khư giữ mãi cái ấy? Khóc liệu có ăn thua gì? Chơi cất lấy vui, mà lại hóa ra chuốc lấy cái buồn? Sao mày không đi chỗ nào cho yên chuyện?

Giả Hoàn nghe nói đành phải bỏ về.

Dì Triệu trông thấy, hỏi dồn:

- Chắc lại bị người ta bắt nạt ở đâu rồi về đấy chứ gì?

Giả Hoàn đáp:

- Tôi chơi với chị Bảo, bị Oanh Nhi ăn gian tiền, rồi anh Bảo Ngọc đuổi tôi về.

Dì Triệu mắng:

- Ai bảo mày chơi trèo? Đồ khốn nạn! Đồ mặt dày! Chỗ nào mày chơi chả được, sau lại cứ cắm đầu sang đấy?

Đương nói, Phượng Thư đi qua ngoài cửa sổ nghe thấy, nói với vào:

- Đầu giêng năm mới, sao dì lại thế? Em nó còn trẻ, có điều gì nhầm lẫn thì dì dạy bảo, sao dì lại giở những giọng ấy ra? Dù nó thế nào chăng nữa, đã có ông và bà cai quản, sao lại ngoạc cái mồm ra mắng nó? Nó là cậu ấm, đã có người dạy bảo, việc gì đến dì? Em Hoàn, em ra đây theo ta đi chơi!

Giả Hoàn xưa nay vẫn sợ Phượng Thư hơn là sợ Vương phu nhân, nghe thấy gọi, vội chạy ra ngay. Dì Triệu cũng chẳng dám nói câu gì. Phượng Thư bảo Giả Hoàn:

- Mày là hạng người không có khí phách gì cả. Ta thường bảo mày muốn ăn, muốn uống, muốn chơi gì tùy ý, trong các anh, các chị, ưa người nào thì chơi với người ấy, mày không nghe lời, lại cứ đi nghe hạng người bậy bạ, ranh mãnh. Mình không biết tự trọng mình, chỉ theo lối hạ lưu bừa bãi, lại còn oán người ta đối đãi thiên lệch với mình. Thua có mấy đồng mà đến nỗi thế à? Thua hết bao nhiêu?

Giả Hoàn nói:

- Em thua hết một vài trăm đồng tiền.

Phượng Thư mắng:

- Cũng mang tiếng là cậu ấm, mới thua một hai trăm đồng mà đã thế à!

Rồi quay lại bảo Phong Nhi:

- Đi lấy một quan tiền ra đây. Các cô đương chơi ở đường sau kia, đưa cậu ra đấy chơi.

Lại quay bảo Giả Hoàn:

- Từ rầy mày còn giữ lối quỉ quái như thế, ta sẽ đánh trước rồi mách bên trường học cho người ta lột da ra! Vì mày không biết tự trọng, nên anh Bảo giận mày lắm. Nếu tao không can thì anh mày đã đá cho mày lòi ruột ra rồi. Thôi! Cút đi!

Giả Hoàn vâng vâng dạ dạ, theo Phong Nhi lấy tiền rồI ra chỗ bọn Nghênh Xuân chơi.

Bảo Ngọc đương ngồi chơi với Bảo Thoa, chợt thấy ngườI nói: "Cô Sử đã đến". Bảo Ngọc chực chạy đi ngay. Bảo Thoa cười nói:

- Hãy chờ một tí, chúng ta cùng đến thăm cô ta một thể.

Nói xong, xuống giường cùng Bảo Ngọc đến chỗ Giả mẫu.

Sử Tương Vân đương cười cười, nói nói, thấy họ đến, vộI đứng dậy chào.

Đại Ngọc ngồi bên cạnh, hỏi Bảo Ngọc:

- Anh ở đâu về đấy?

- Đến thăm chị Bảo về.

Đại Ngọc cười nhạt:

- Em đã nói mà, nếu không vướng mắc ở đâu thì đã bay đến ngay rồi.

- Thế tôi chỉ được ở nhà chơi đùa với cô em để cô em đỡ buồn thôi ư? Vừa mới sang bên ấy một lúc mà đã nói những câu ấy.

- Khéo vớ vẩn chưa! Đi hay không có liên can gì đến tôi? Ai khiến anh ở nhà để cho tôi đỡ buồn? Từ giờ trở đi, không cần anh để ý đến tôi nữa.

Nói xong, giận dỗi trở về buồng.

Bảo Ngọc vội chạy theo hỏi:

- Đang tử tế mà lại đâm ra giận dỗi rồi. Dù tôi có lỡ lời, em cũng nên ngồi chơi một lúc nói chuyện cho vui. Việc gì lại chuốc nỗi buồn vào người!

- Anh cấm đoán tôi à?

- Tôi nào dám cấm đoán em. Chỉ là em tự giày vò thân em đấy thôi!

- Tôi tự giày vò thân tôi! Tôi chết kệ tôi, có việc gì đến anh?

- Sao lại thế? Đầu giêng năm mới, cứ nói "chết" với "sống" mãi!

- Tôi chỉ nói "chết" thôi! Phen này tôi chết đấy! Anh sợ chết thì cứ sống đến trăm tuổi, có được không?

- Cứ rắc rối mãi thế này, tôi lại sợ chết à? Thà chết đi cho yên chuyện!

- Phải đấy, cứ rắc rối mãi thế này, thì thà chết hết đi cho yên chuyện!

- Tôi nói là tôi chết cho yên chuyện, em đừng nghe nhầm lại đổ oan cho tôi.

Hai người đương nói với nhau, thì Bảo Thoa chạy đến nói:

- Cô Sử đương chờ cậu đấy.

Rồi kéo Bảo Ngọc đi. Đại Ngọc càng tức, nhìn ra cửa sổ, nước mắt chảy ròng ròng.

Độ chừng uống cạn hai chén nước thì Bảo Ngọc trở về. Đại Ngọc trông thấy càng khóc nức nở. Bảo Ngọc thấy thế, biết rằng khó làm Đại Ngọc hồi tâm, nên cố tìm hết lời êm dịu để khuyên giải, nhưng chưa kịp mở mồm, Đại Ngọc đã nói:

- Anh còn đến đây làm gì? Sống chết kệ thây tôi! Vả chăng bây giờ đã có người chơi với anh rồi. Người ấy lại biết đọc sách, biết làm thơ, biết viết chữ, biết nói, biết cười. Họ sợ anh bực tức, mới lôi đi để cám dỗ anh. Bây giờ anh còn đến đây làm gì nữa?

Bảo Ngọc nghe nói, vội đến trước mặt Đại Ngọc khẽ nói:

- Em là người hiểu biết, có lẽ nào không biết câu "Thân bất cách sơ", "Tiên bất tiếm hậu"(2) hay sao? Anh tuy dốt nát, nhưng cũng biết nghĩa hai câu đó. Điều thứ nhất, chúng ta là anh em con cô con cậu, chị Bảo với anh là đôi con dì, với em thì còn xa hơn. Điều thứ hai, em đến đây trước, hai chúng ta từ bé đến lớn, ăn cùng một bàn, ngủ cùng một giường, chị Bảo thì mới đến, lẽ nào tôi lại vì chị ấy mà xa em?

Đại Ngọc gạt đi:

- Tôi lại bảo anh xa người ta à? Như thế tôi còn ra gì? Tôi chỉ biết bụng tôi thôi!

- Tôi cũng chỉ biết bụng tôi thôi. Có lẽ nào em biết bụng em mà không biết bụng tôi?

Đại Ngọc cúi đầu lặng im, một lúc sau mới nói:

- Anh chỉ trách người ta làm cho anh bực mình, có biết đâu chính anh đã làm cho người ta khó chịu. Xem thời tiết hôm nay, trời lạnh như thế mà anh không khoác áo bông vào?

Bảo Ngọc nói:

- sao lại không mặc? Chỉ vì thấy em bực tức, anh phát nóng cả người, nên cởi áo ra đấy thôi.

Đại Ngọc phàn nàn:

- Rồi có bị cảm lại đổ tại vì cãi nhau với em mà đâm ốm.

Hai người đương nói thì Tương Vân chạy lại cười nói:

- Anh "ái"(4) ơi, chị Lâm ơi, các người ngày nào cũng chơi đùa một chỗ với nhau, còn tôi không mấy khi đến đây, thế mà chẳng ai thèm hỏi han đến tôi cả!

Đại Ngọc cười nói:

- Đã ngọng lại còn hay nói, ngay tiếng anh Hai cũng chẳng nói nên thân, lại gọi là anh "ái", anh "ái". Lúc đánh lú cũng lại ngọng nốt, cứ luôn mồm "yêu ái tam".

Bảo Ngọc cười bảo Đại Ngọc:

- Em bắt chước quen đi rồi cũng đâm ngọng thôi!

Tương Vân nói:

- Chị ấy không chừa một ai, chỉ tìm cách trêu chọc người ta. Nếu mình quả giỏi hơn, cũng không nên gặp người nào là trêu chọc người ấy. Tôi kể một người ra đây, chị dám trêu chọc thì tôi mới phục.

Đại Ngọc hỏi là ai. Tương Vân nói:

- Chị dám trêu chọc chị Bảo Thoa, tôi mới cho là giỏi.

Đại Ngọc cười nhạt:

- Tưởng ai chứ chị ấy thì tôi đâu dám.

Bảo Ngọc không chờ nói hết, vội nói lảng ra chuyện khác.

Tương Vân cười nói:

- Hiện nay thì tôi chịu thua chị. Tôi chỉ cầu mong sau này chị lấy được người chồng cũng nói ngọng như tôi. Chị cũng có phen được nghe những tiếng ái" ấy thôi. A di đà phật! Lúc đó sẽ hiện ra trước mắt chị.

Câu nói ấy làm cho mọi người bật cười, Tương Vân vội chạy mất.

----------------------------

(1). Trong đời phong kiến Trung Quốc, theo tục mới cưới, chú rể gỡ tóc cài trâm cho cô dâu. Ở đây Tình Văn dùng câu đó để nói đùa hai người.

(2). Không vì người thân mà xa người sơ, cũng không vì người trước mà lấn người sau.

(3). Tiếng Trung Quốc, chữ "ái" đọc gần giống chữa "hai" (nhi). Ái lại có nghĩa là yêu. Tương Vân nói ngọng bị Đại Ngọc chế, Tương Vân lại dùng chữ đó để trêu Đại Ngọc.

Hồi thứ hai mươi mốt

Giả cách giận hờn, Tập Nhân răn Bảo Ngọc;

Trả lời khôn khéo, Bình Nhi cứu Giả Liễn.

Sử Tương Vân sợ Đại Ngọc đuổi theo, chạy đi ngay. Bảo Ngọc ở đằng sau nói:

- Khéo vấp ngã đấy! Em không đuổi kịp được đâu!

Đại Ngọc vừa đến cửa, Bảo Ngọc giơ tay ngáng lại, cười nói:

- Thôi em hãy tha cho người ta lần này.

Đại Ngọc giằng tay ra:

- Tha cho nó! Trừ khi tôi chết.

Tương Vân thấy Bảo Ngọc đứng ngáng cửa, biết Đại Ngọc không thể ra được, bèn dừng lại cười nói:

- Chị ơi, hãy tha cho tôi lần này.

Bảo Thoa ở đâu đến ngay sau lưng Tương Vân, cười:

- Thôi xin hai chị, nể mặt anh Bảo, hãy buông nhau ra.

Đại Ngọc nói:

- Tôi không nghe! Các người vào hùa với nhau đến trêu tôi à?

Bảo Ngọc khuyên:

- Thôi đi. ai dám trêu em? Em không nói đùa người ta, ai dám nói đến em?

Bốn người đang giằng co nhau, thì có người tới mời đi ăn cơm. Lúc lên đèn, Vương phu nhân, Lý Hoàn, Phượng Thư, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân đều qua bên phòng Giả Mẫu. Mọi người nói chuyện phiếm một lúc rồi đâu về đấy. Tương Vân về buồng Đại Ngọc ngủ.

Bảo Ngọc đưa hai người về buồng. Trời đã quá canh hai. Tập Nhân đến giục mấy lần mới chịu về. Hôm sau vừa sáng, Bảo Ngọc đã dậy, mặc áo, đi giày, sang buồng Đại Ngọc. Thấy vắng Tử Quyên, Thúy Lũ, chỉ có Đại Ngọc và Tương Vân nằm trong chăn. Đại Ngọc thì đắp kín người một cái chăn lụa đỏ, nhắm mắt ngủ say. Tương Vân thì tóc xõa ra cạnh gối, ngực quấn một cái chăn màu hồng điều, để hở ra ngoài hai cánh tay trắng muốt, trông rõ cả hai cái vòng vàng. Bảo Ngọc thấy vậy nói:

- Ngủ mà cũng không biết giữ gìn cẩn thận! Nhỡ bị cảm có đau vai mỏi cổ lại kêu.

Nói xong khẽ kéo chăn đắp hộ.

Đại Ngọc tỉnh dậy, biết có người, đoán ngay là Bảo Ngọc, quay nhìn ra nói:

- Sớm thế anh đã đến đây làm trò gì?

- Hãy còn sớm à? Em dậy mả xem!

- Anh hãy ra ngoài kia, để chúng tôi dậy đã.

Bảo Ngọc ra nhà ngoài. Đại Ngọc đánh thức Tương Vân. Hai người trở dậy mặc quần áo. Bảo Ngọc vào ngồi bên cạnh tủ gương. Tử Quyên, Thúy Lũ đến hầu rửa mặt, chải đầu. Tương Vân rửa mặt xong, Thúy Lũ toan đổ chậu nước đi, Bảo Ngọc bảo:

- Khoan đã, nhân tiện để lại cho tôi rửa, đỡ phải sang bên kia thêm tốn công.

Nói xong, khom lưng xuống vốc nước rửa.

Tử Quyên mang xà phòng thơm đến, Bảo Ngọc nói:

- Không cần, trong chậu đã có nhiều xà phòng thơm rồi.

Lại rửa lần nữa, rồi mới bảo đưa khăn mặt lau.

Thúy Lũ bĩu môi cười:

- Chứng nào vẫn tật nấy!

Bảo Ngọc không để ý đến câu ấy, vội đòi lấy muối đánh răng, súc miệng. Thấy Tương Vân chải đầu xong, Bảo Ngọc chạy lại, cười nói:

- Cô em chải đầu hộ tôi.

- Tôi không biết chải.

- Sao ngày trước cô vẫn chải hộ tôi?

- Bây giờ quên rồi.

Bảo Ngọc vật nài mãi.

- Hôm nay tôi không đi đâu, chỉ cần cô em tết mấy món tóc là đủ.

Tương Vân đành phải chải hộ.

Thường khi ở nhà, Bảo Ngọc không bao giờ đội mũ, chỉ vén tóc chung quanh, tết mấy búi nhỏ, rồi chập cả lên đỉnh đầu thành một búi to, buộc bằng dây đỏ. Trên búi tóc, giắt một chùm bốn hạt trân châu, phía dưới có cài một cái cặp bằng vàng.

Tương Vân vừa tết vừa nói:

- Sao chỉ còn ba hạt trân châu? Một hạt không đúng. Tôi nhớ anh có bốn hạt cùng một thứ kia mà, sao lại thiếu một?

- Rơi mất một hạt.

- Tất là khi anh đi ra ngoài, đánh rơi. Chi may cho kẻ nhặt được thôi.

Đại Ngọc đứng bên cười nhạt:

- Chưa biết chừng lả mất, hay lại đem nạm vào cái gì làm đồ trang sức cho người ta đeo rồi?

Bảo Ngọc không trả lời. Nhân thấy hai bên tủ gương có nhiều đồ phấn sáp, tiện tay lấy ra ngắm nghía. Khi thấy một hộp sáp bôi môi, Bảo Ngọc muốn bỏ vào miệng ăn, lại sợ Tương Vân cười. Đương lúc ngần ngừ, Tương Vân ở đằng sau giơ tay hất một cái, hộp sáp rơi xuống đất. Tương Vân nói:

- Chứng nào vẫn tật ấy, đến bao giờ anh mới chừa?

Đương nói chuyện thì Tập Nhân đến, trông thấy thế, biết là Bảo Ngọc đã rửa mặt chải đầu rồi, đành trở về. Bảo Thoa chợt đến hỏi:

- Anh Bảo đi đâu rồi?

Tập Nhân cười nhạt:

- Cậu Bảo còn có thì giờ nào ở nhà!

Bảo Thoa nghe nói hiểu ý ngay. Tập Nhân lại than:

- Chỗ anh chị em chơi đùa với nhau, cũng nên có chừng có mực, ai lại bất cứ ngày đêm, lúc nào cũng như lúc nào! Người ta khuyên răn thế nào cũng mặe, chỉ như gió thoảng ngoài tai thôi!

Bảo Thoa nghe nói, trong bụng nghĩ thầm: "Đừng nên coi thường con bé này. Nghe nó nói, xem ra cũng có chút kiến thức". Bảo Thoa liền ngồi trên bục, thong thả chuyện trò, hỏi tuổi, hỏi gia đình, quê quán, để ý xem xét lời ăn tiếng nói và tính tình con người, thấy Tập Nhân rất đáng kính yêu.

Một lúc, Bảo Ngọc về, Bảo Thoa mới đi ra, Bảo Ngọc hỏi Tập Nhân:

- Chị Bảo đương nói chuyện vui vẻ, thấy tôi về, sao lại đi ngay?

Tập Nhân không trả lời. Bảo Ngọc hỏi mãi, Tập Nhân cười nói:

- Cậu hỏi tôi đấy à? Thật tôi chẳng hiểu các người ra làm sao cả.

Bảo Ngọc thấy nét mặt Tập Nhân khác hẳn ngày thường, cười hỏi:

- Vì sao chị lại giận dỗi thế?

Tập Nhân cười nhạt:

- Khi nào tôi dám giận dỗi. Chỉ xin từ giờ trở đi cậu đừng đến buồng này nữa. Dủ sao cậu cũng đã có người hầu hạ rồi, không cần phải sai khiến đến tôi. Tôi lại trở về hầu bên cụ vậy.

Nói xong, lên bục nằm nhắm mắt lại.

Bảo Ngọc thấy quang cảnh vậy, rất lấy làm lạ, đành phải chạy lại van xin, nhưng Tập Nhân cứ nhắm mắt, mặc kệ. Bảo Ngọc không biết làm thế nào. Chợt thấy Xạ Nguyệt đến, Bảo Ngọc liền hỏi:

- Chị ấy làm sao thế?

Xạ Nguyệt nói:

- Tôi biết làm sao được! Cậu cứ tự hỏi mình khắc biết.

Bảo Ngọc nghe nói, ngẩn người một lúc, tự thấy chẳng còn thú vị gì, vùng đứng dậy nói :

- Không thèm nhìn đến tôi thì thôi, tôi đi ngủ vậy.

Nói xong vào giường nằm.

Hồi lâu, Tập Nhân thấy Bảo Ngọc nằm yên, có tiếng ngáy khò khò, biết đã ngủ rồi, bèn đứng dậy lấy áo tơi đắp cho Bảo Ngọc. Bỗng "soạt" một tiếng, áo tung ra, nhưng Bảo Ngọc vẫn nhắm mắt giả ngủ.

Tập Nhân biết ý, gật đầu cười nhạt:

- Cậu không cần phải dỗi nữa. Từ giờ trở đi, tôi chỉ như người câm thôi, không can cậu một câu nào, có được không?

Bảo Ngọc vùng ngay dậy hỏi:

- Tôi có điều gì mà chị phải khuyên ngăn? Kể ra, chị khuyên ngăn cũng được, nhưng vừa rồi tại sao chị chẳng thèm nói câu gì? Tôi về, chị không để ý đến, lại giận dỗi đi nằm. Tôi cũng chẳng rõ sao cả. Bây giờ chị lại bảo là tôi dỗi. Nào chị đã khuyên ngăn tôi câu gì đâu?

Tập Nhân nói:

- Tự cậu lại không biết, phải đợi tôi nói à?

Đương lúc ầm ĩ, thì Giả mẫu cho người gọi Bảo Ngọc đi ăn cơm. Bảo Ngọc ăn vội mấy bát rồi trở về buồng, thấy Tập Nhân nằm ở bục bên ngoài, Xạ Nguyệt ngồi bên cạnh đánh bài.

Bảo Ngọc biết hai người thân nhau, không hỏi han ai cả, mở rèm, vào ngay bên trong. Xạ Nguyệt đành phải theo vào. Bảo Ngọc đẩy ra, nói:

- Không dám phiền cô.

Xạ Nguyệt cười đi ra, gọi hai tiểu hoàn vào hầu. Bảo Ngọc lấy sách ngồi ngả người xem một lúc, nhân muốn uống nước, ngẩng trông thấy hai tiểu hoàn đứng dưới đất, đứa nọ lớn hơn đứa kia độ vài tuổi, mặt mũi cũng sáng sủa. Bảo Ngọc hỏi đứa lớn:

- Tên mày là cái gì "Hương" phải không?

- Tên tôi là Huệ Hương.

- Ai đặt tên ấy cho mày?

- Trước tôi đặt là Vân Hương, sau chị Hoa đổi cho tên ấy.

- "Hối khí"(1) thì phải, lại còn Huệ Hương cái gì! Mày có mấy chị em?

- Tôi có bốn chị em.

- Mày là thứ mấy?

- Tôi là thứ tư.

- Từ giờ trở đi cứ gọi mày là con Tư, không cần gọi Huệ với Lan nữa. Mấy ai đáng sánh với hoa này, chỉ tổ làm bẩn cả cái tên đẹp đi thôi.

Nói xong sai pha nước trà. Tập Nhân và Xạ Nguyệt ở bên ngoài nghe thấy, bĩu môi khẽ cười với nhau.

Cả ngày hôm ấy Bảo Ngọc không ra khỏi cửa, không đùa nghịch với các chị em và a hoàn, một mình buồn thiu, hết viết lại xem sách cho khuây khỏa. Có việc gì không sai bảo ai, chỉ gọi con Tư thôi. Con Tư là đứa khôn ngoan tinh quái, thấy được sai bảo luôn, bèn tim hết cách để chiều chuộng Bảo Ngọc.

Đến bữa cơm chiều, Bảo Ngọc uống vài chén rượu. Như mọi bận, sau những lúc tai nóng bừng bừng, mắt buồn ngủ ríu lại là đã có bọn Tập Nhân cười đùa vui vẻ; nhưng lần này thì vắng tanh, vắng ngắt, một mình ngồi trước ngọn đèn, chẳng thú vị gì. Nếu mình làm lành với họ, sợ họ được thể, sau càng giở giọng khuyên ngăn mãi, nhưng làm ra dáng bề trên mà lấn át họ, lại thành ra người quá vô tình. Thôi chẳng nghĩ làm gì cho bận lòng, cứ coi như họ đã chết cả rồi, thế là tự mình sống thế nào cũng xong, không bị bó buộc, lại hóa thoải mái vui vẻ.

Bảo Ngọc giở kinh Nam hoa(2) ra xem, đến Ngoại thiên Khư níp(3) có một đoạn văn:

... Cho nên bỏ hết thánh trí, trộm lớn mới thôi; phá hủy châu ngọc, trộm nhỏ sẽ hết. Đốt dấu đập ấn, dân mới thật thà; chặt đấu phá cân, dân không tranh nhau; bỏ hết pháp luật, dân mới có thể bàn bạc việc nước. Bộ sáu ống luật(4), đốt đàn sáo, lấp tai sư, Khoáng(5) thiên hạ mới không có người khoe thính tai; xóa văn chương, hủy năm sắc, sơn mắt Ly Chu(6), thiên hạ mới không có người khoe mắt sáng; bỏ mục thước, khuôn, mẫu, chặt tay Công Thùy(7), thiên hạ mới không có người khoe khéo tay vậy.

Bảo Ngọc xem đến đấy, lấy làm hứng thú lắm. Nhân lúc say rượu, cầm bút viết luôn mấy câu nối sau:

Đốt hoa, vứt xạ(8), trong khuê các mới hết lời khuyên can lôi thôi; hủy sắc đẹp cua Bảo Thoa. lấp khiếu thông minh của Đại Ngọc, dứt hết tình ý, trong khuê các mới không có kẻ xấu người đẹp chênh lệch nhau; thôi sự khuyên can, sẽ không lo nỗi sâm thương xích mích; hủy hết sắc đẹp, sẽ không còn mối luyến ái vấn vương; lấp khiếu thông minh, mới không còn vẻ tài tình quyến rũ. Kìa bọn Thoa, Ngọc, Hoa, Xạ đều là những kẻ chăng lưới, đào bẫy để cám dỗ hãm hại người vậy.

Viết xong, Bảo Ngọc quăng bút, gục đầu xuống gối, ngủ ngay một mạch, đến sáng bạch mới dậy. Giở mình trông ra, thấy Tập Nhân mặc cả áo nằm ngủ trên đệm, bao nhiêu việc hôm trước, Bảo Ngọc quên hết, bèn đẩy Tập Nhân bảo:

- Dậy thôi, ngủ thế không khéo lại bị lạnh!

Nguyên Tập Nhân thấy Bảo Ngọc không kể ngày đêm, lúc nào cũng vui đùa với bọn chị em. Nếu mình cứ lấy lời thẳng thắn khuyên ngăn, chưa chắc cậu ta đã sửa đổi, chi bằng làm ra bộ hờn dỗi nũng nịu, dù Bảo Ngọc có bực tức, rồi chỉ chốc lát sẽ lại tử tế như thường, không ngờ Bảo Ngọc vẫn không hồi tâm chuyển ý. Tập Nhân nghĩ luẩn quẩn không biết làm cách gì, thành ra suốt đêm không ngủ. Nay thấy vậy, biết là Bảo Ngọc đã nghĩ lại phần nào, nên càng cố ý lờ đi như không.

Bảo Ngọc thấy Tập Nhân không trả lời, bèn giơ tay cởi hộ áo. Một cái khuy vừa được cởi thì Tập Nhân đã hất tay ra, cài ngay khuy lại.

Bảo Ngọc không còn cách gì, đành kéo tay Tập Nhân cười nói:

- Chị vẫn làm sao thế?

Hỏi luôn mấy câu, Tập Nhân trừng mắt nói:

- Chẳng sao cả. Cậu đã dậy, thì sang ngay bên kia mà rửa mặt chải đầu, chậm sẽ không kịp đấy.

- Chị bảo tôi sang đâu?

- Cậu lại hỏi tôi, tôi biết sao được? Cậu thích sang đâu, cứ đấy mà sang. Từ giờ hai chúng ta hãy chia tay nhau ra để bớt những điều tiếng om sòm, làm trò cười cho người ta. Dù đến lúc cậu chán ở bên kia rồi, thì bên này đã có con Tư con Năm nào đấy hầu hạ. Còn thứ chúng tôi chỉ làm nhơ nhuốc cái tên đẹp họ đẹp đi thôi!

- Đến hôm nay chị vẫn còn nhớ những câu ấy à?

- Còn nhớ mãi đến trăm năm! Đâu lại như cậu, coi lời tôi như gió thoảng ngoài tai. Đêm nói, sáng dậy đã quên rồi.

Bảo Ngọc thấy dáng điệu hờn dỗi nũng nịu của Tập Nhân không thể dứt tình được, bèn lấy ngay cái trâm ngọc bên gối, bẻ ra làm đôi mà thề: "Từ giờ nếu tôi không nghe lời chị thì cũng như cái trâm này!".

Tập Nhân vội nhặt trâm nói:

- Sáng sớm ra, làm gì đã thề với bồi? Nghe hay không là tùy ở cậu, cần gì phải làm như vậy.

- Lòng tôi đang bứt rứt, chị có biết cho đâu?

- Cậu biết lòng cậu bứt rứt, thế thì lòng tôi thế nào, cậu có biết không? Thôi hãy đi rửa mặt đã.

Rồi hai người cùng đứng dậy đi rửa mặt, chải đầu.

Sau khi Bảo Ngọc lên nhà trên, thì Đại Ngọc đến. Thấy Bảo Ngọc không ở thư phòng, Đại Ngọc liền giở sách trên bàn ra xem, vừa hay giở đúng bộ Trang tử. Đọc đoạn viết nối của Bảo Ngọc, Đại Ngọc vừa tức vừa buồn cười, cầm bút viết tiếp bốn câu:

Bỗng dưng múa bút ấy kìa ai

Tập tọng Nam hoa học mấy lời:

Chẳng biết tự mình không kiến thức,

Lại đem lời xấu vội chê người.

Viết xong, Đại Ngọc lên nhà trên thăm Giả mẫu và Vương phu nhân.

Phượng Thư có đứa con gái đầu lòng là Đại Thư bị ốm. Phượng Thư rối rít cho đi mời thấy thuốc đến xem. Thầy thuốc nói:

- Em phát nóng là triệu chứng lên "tốt"(9).

Vương phu nhân và Phượng Thư vội hỏi:

- Có việc gì đáng lo không?

Thầy thuốc nói:

- Bệnh tuy nặng, nhưng không việc gì. Xin sắp sẵn cho ngay sâu dâu và đuôi lợn.

Phượng Thư vội sai quét dọn nhà cửa, đặt bàn thờ cúng "Bà chúa đậu mùa"; cấm người nhà không được dùng đồ xào rán; sai Bình Nhi xếp dọn chăn màn quần áo cho Giả Liễn sang ngủ buồng khác, lấy nhiễu điều ra cho bọn hầu thân may quần áo. Nhà ngoài được sửa soạn sạch sẽ; hai thầy thuốc được mời đến cắt lượt nhau xem mạch, bốc thuốc, suốt trong mười hai ngày liền. Giả Liễn dọn ra ngủ riêng ngoài thư phòng. Phượng Thư và Bình Nhi ngày nào cũng theo Vương phu nhân cúng lễ "Bà chúa đậu".

Giả Liễn vừa xa Phượng Thư, đã lại sinh chuyện. Mới ngủ riêng hai đêm hắn đã không nhịn được, chọn ngay một đứa hầu nhỏ sạch sẽ tạm làm trò "tiêu khiển".

Bấy giờ trong phủ Vinh có một đứa nấu bếp tên gọi Đa Quan, nghiện rượu be bét, không ra hồn người, người ta đặt cho nó cái tên là thằng "Đa hồ đồ". Từ bé, bố mẹ nó lấy cho nó một người vợ mới hai mươi tuổi, có ít nhiều nhan sắc, ai thấy cũng yêu. Nhưng chị này tính lẳng lơ, hay khêu ong gợi bướm. Thằng Đa chỉ cốt có rượu, có tiền, ngoài ra vợ cũng mặc kệ. Vì thế người trong hai phủ Vinh, Ninh phần nhiều tằng tịu với ả. Ả này dâm đãng khác thường, nên người ta đặt cho cái tên là cô "Đa"(10). Giả Liễn đương lúc ngứa ngáy, ngày thường vốn đã say mê say mệt ả này, nhưng trong thì sợ vợ, ngoài sợ bọn hầu yêu, nên không dám chờn vờn. Cô "Đa" từ lâu cũng có tình ý với Giả Liễn, nhưng chưa có dịp thuận tiện; nay thấy Giả Liễn dọn ra ngủ ngoài thư phòng, ả ta chẳng có việc gì cũng mỗi ngày lượn đi lươn lại ba bốn lần. Giả Liễn như một con chuột đói, bàn ngay với bọn hầu thân, hẹn cho vàng, lụa, lẽ nào không được; vả chăng chúng là chỗ quen sẵn với cô "Đa" nên chỉ nói một câu là xong.

Đêm ấy "Đa hồ đồ" rượu say ngủ vật ở giường. Đến trống canh hai vắng người, Giả Liễn lén sang. Vừa trông thấy ả, hắn đã hồn phách rụng rời, không kịp to nhỏ câu gì, vội cởi áo giở trò ngay. Ả này có một thú lạ trời cho; hễ khi gần con trai là khắp người nó gân cốt mềm nhũn, khiến người ta có cảm giác như nằm trên đống bông. Nó lại có cái lối khêu gợi, lẳng lơ, hơn cả bọn kỹ nữ, nên ai nấy đều chết mệt. Giả Liễn say đắm quá, đến nỗi muốn được hóa thân ngay trên người nó. Ả lại cố ý trêu cợt, nằm dưới nói:

- Em nhà lên đậu, đương cúng bà chúa, cậu phải kiêng mấy ngày, sao lại vì em làm ô uế cả thân thể? Thôi cậu xa em ra!

Giả Liễn hứng quá, thở hồng hộc:

- Em là "bà chúa", chứ còn ai là "bà chúa" nữa!

Ả càng trêu cợt, Giả Liễn càng giở hết trò xấu xa, xong đó hai người chỉ non thề biển, xoắn xuýt không nỡ rời. Từ đấy trở thành mê nhau.

Mười hai hôm sau, Đại Thư đậu bay hết, cả nhà làm lễ tiễn "Bà chúa", tế trời, cúng tổ, thắp hương tạ Phật, ăn mừng và ban thưởng cho mọi người. Giả Liễn lại dọn về buồng ngủ. Trông thấy Phượng Thư, chính như câu tục ngữ nói: "Vợ mới không bằng đi xa về". Đêm ấy hai người ân ái biết bao, không cần phải nói.

Sáng hôm sau, Phượng Thư trở dậy lên nhà trên, Bình Nhi nhặt nhạnh quần áo, chăn đệm của Giả Liễn ở bên ngoài đưa vào, không ngờ thấy ở trong lần gối thò ra một mớ tóc. Bình Nhi biết ý, vội giấu vào trong tay áo, chạy sang buồng bên, giơ mớ tóc ra cười hỏi Giả Liễn: "Cái gì thế này?" Giả Liễn trông thấy, vội chạy lại chực giằng lấy, Bình Nhi chạy đi, bị Giả Liễn kéo lại, đè lên giường cướp mớ tóc, cười nói:

- Con ranh này, mày không đưa, tao bóp gãy cổ bây giờ.

Bình Nhi cười nói:

- Cậu chẳng còn một tí lương tâm nào, tôi có bụng tốt giấu hộ và hỏi riêng cậu, cậu lại giở lối ăn hiếp ra. Cậu cứ ăn hiếp đi, tôi sẽ mách mợ cho mà xem.

Giả Liễn vội vàng van xin:

- Em ơi, em là người tốt, em thưởng cho ta vậy! Ta không dám ăn hiếp nữa.

Nói chưa dứt lời, chợt nghe tiếng Phượng Thư, Giả Liễn bấy giờ buông cũng giở, cướp lại cũng giở, đành phải nói:

- Xin em đừng mách nhé!

Bình Nhi vừa đứng dậy, Phượng Thư đã vào đến nơi, bảo Bình Nhi mở hòm tìm thứ vải mẫu cho Vương phu nhân. Trong lúc Bình Nhi đang tìm, Phượng Thư trông thấy Giả Liễn, chợt nghĩ ra bèn hỏi Bình Nhi:

- Đồ đạc hôm nọ mang ra ngoài kia đã nhặt hết về chưa?

- Nhặt hết rồi.

- Có thiếu gì không?

- Trước thiếu hai thứ, sau xem xét kỹ lưỡng, thấy không thiếu thứ gì.

- Có thừa gì không?

- Không thiếu là.may, làm gì có thừa?

Phượng Thư lại cười:

- Trong mười mấy ngày trời, khó lòng giữ được trong sạch. Có đứa nào hậu hĩ bỏ lại cái gì hoặc nhẫn, khăn mặt, túi thơm hay mớ tóc, móng tay cũng chưa biết chừng!

Giả Liễn nghe đến câu ấy, mặt xám đi, đứng sau lưng Phượng Thư, cứ lấm lét đưa mắt ra hiệu cho Bình Nhi. Bình Nhi làm ra dáng không trông thấy, cười nói:

- Sao mà bụng tôi cũng giống hệt như bụng mợ! Tôi cũng ngờ ngợ có gì khác chăng, nên đã chịu khó lục lọi từng tí một, nhưng không thấy dấu vết gì, mợ không tin cứ lục lại mà xem.

Phượng Thư cười:

- Con ngốc này! Nếu có cái gì, ai lại chịu để cho chúng ta tìm thấy?

Nói xong, mạơ những thứ vải mẫu đi ra.

Bình Nhi nhìn Giả Liễn, lắc đầu:

- Việc này cậu phải tạ tôi thế nào?

Giả Liễn mừng lắm, ngứa ngáy khắp người, chạy lại ôm lấy Bình Nhi, kêu luôn mồm "ruột gan thân yêu của ta đây". Bình Nhi giơ món tóc lên cười nói:

- Cái này tôi nắm đằng đuôi đây. Tử tế thì chớ, không thì tôi lại chìa nó ra!

Giả Liễn cười:

- Em giữ cẩn thận, nhất thiết đừng để cho mợ biết nhé.

Mồm nói thế, nhưng mắt hắn vẫn nhìn. Lừa lúc Bình Nhi sơ ý, hắn giơ tay cướp ngay lấy, cười nói:

- Em có giữ cũng chẳng làm gì, để anh đốt đi là xong chuyện.

Vừa nói vừa nhét mớ tóc vào trong ống giày.

Bình Nhi nghiến răng nói:

- Con người bất lương! Vừa qua cầu đã cất nhịp ngay! Sau này cậu đừng hòng tôi giấu giếm hộ cho nữa!

Giả Liễn thấy vẻ ẻo lả trêu người của Bình Nhi, liền ôm lấy định giở trò. Bình Nhi giật tay ra chạy. Giả Liễn tức giận nói:

- Con ranh chơi ác lắm, cứ khêu gợi người ta phát cuồng lên rồi lại bỏ chạy.

Bình Nhi đứng ngoài cửa sổ, cười:

- Tôi khêu gợi mặc tôi, ai bảo cậu phát cuồng lên? Dễ thường tôi chiều cậu để cho người ta biết lại ghen với tôi à? Giả Liễn nói:

- Không cần sợ ai, hễ nóng tiết lên là ta đập cho lọ giấm(11) ấy vỡ tan tành, bấy giờ mới biết tay ta! Nó giữ ta như giữ giặc ấy. Nó nói chuyện với trai thì được, lại cấm ta nói chuyện với gái? Hễ ta đứng gần ai là nó ngờ ngờ vực vực, còn nó thì bất kỳ chú cháu, lớn bé, cứ cười đùa bừa đi, cũng đều được cả. Từ giừ trở đi, ta không cho nó dàn mặt với đứa nảo nữa!

Bình Nhi nói:

- Người ta giữ được cậu chứ cậu không thể ghen với người ta. Người ta cử chỉ đứng đắn, chứ cậu thì phần nhiều không thẳng thắn, ngay tôi cũng không yên lòng, còn nói gì ai.

Giả Liễn nói:

- Thôi được, các người đều một duộc với nhau, đều giữ phần phải về mình, chỉ có ta là dở thôi. Có khi các người sẽ chết với ta!

Phượng Thư chạy về, thấy Bình Nhi đứng ngoài cửa sổ, hỏí:

- Muốn nói chuyện, sao không vào trong nhà, lại phải đứng ngoài cửa sổ là nghĩa làm sao?

Giả Liễn ở trong nhà nói:

- Mợ hỏi nó mà xem, hình như ở trong nhà có con cọp chực vồ người đấy!

Bình Nhi nói:

- Trong nhà ngoài cậu ra, không có ai, tôi ở đấy làm gì?

Phượng Thư cười:

- Không có ai thì càng hay chứ sao?

Bình Nhi nói:

- Mợ định nói tôi à?

- Chẳng nói cô còn nói ai?

- Đừng để tôi phải nói nữa.

Nói xong, không vén rèm cho Phượng Thư vào, vùng vằng bỏ đi chỗ khác.

Phượng Thư phải tự vén rèm lấy, miệng lẩm bẩm:

- Con Bình điên rồi, mày định cưỡi cổ cả tao, giờ xác đấy!

Giả Liễn nằm ngay xuống giường, vỗ tay cười nói:

- Không biết Bình Nhi lại đáo để thế, từ giờ trở đi, phải chịu nó đấy.

Phượng Thư nói:

- Tại cậu nuông nó, tôi chỉ trách cứ ở cậu.

Giả Liễn bĩu môi nói:

- Hai người lủng củng với nhau, lại chực gắp cả tôi vào. Tôi lánh xa các người là xong.

- Để xem cậu lánh đi đâu?

- Tự khắc có chỗ.

Nói xong đứng dậy.

Phượng Thư nói:

- Đừng đi vội, tôi còn muốn nói một câu chuyện.

Chính là:

Gái đẹp đến giờ hay giận kín,

Vợ yêu từ trước vẫn ghen ngầm.

------------------------

(1). Hối khí: nghĩa là xấu, là xúi quẩy. Ở đây dùng nghĩa bóng, ý nói mùi hôi phản lại hương là mùi thơm. Theo tiếng Trung Quốc: chữ "Hối" và chữ "Huệ" đọc giống nhau.

(2). Tên bộ sách của Trang Chu, tức Trang tử, người đời Chiến quốc.

(3). Trong kinh Nam hoa có chia làm hai phần: nội thiên cho là của Trang tử làm; ngoại thiên cho là của người sau chép vào. Khư níp: mỏ trộm cái hộp kín, là khám phá ra những lý lẽ bí ẩn.

(4). Sáu ống luật là những âm nhạc cổ.

(5). Tên một nhạc sư nước Tấn đời Xuân thu, mù mắt, rất thính tai, giỏi về âm nhạc.

(6). Tên một người mắt rất sáng ở đời cổ, có thuyết cho là Ly Lâu, người đời Hoàng Đế.

(7). Tên một người thợ khéo đời cổ.

(8). Hoa chi Tập Nhân; xạ chi Xạ Nguyệt.

(9). Tục cổ, chứng đậu mùa là chứng rất nguy hiểm, nhưng phải kiêng. Trung Ouốc gọi là "hỉ" (tin mừng), ta gọi là "tốt".

(10). Có nghĩa là đa tình.

(11). Chỉ Phượng Thư hay ghen.

Hồi thứ hai mươi hai

Nghe câu hát, Bảo Ngọc hiểu đạo thiền;

Đánh đố thơ, Giả Chính lo lời sấm.

Nghe Phượng Thư nói, Giả Liễn đứng lại hỏi việc gì. Phượng Thư nói:

- Hai mươi mốt này là ngày sinh nhật cô Bảo Thoa, cậu định làm thế nào?

- Tôi biết đâu đấy, xưa nay bao nhiêu lễ sinh nhật lớn, một mình mợ lo liệu được cả, bây giờ hỏi, tôi chẳng biết làm thế nào?

- Lễ sinh nhật lớn đã có lệ sẵn, nhưng lần này lớn không ra lớn, nhỏ không ra nhỏ, vì thế phải bàn với cậu.

Giả Liễn cúi đầu nghĩ ngợi một lúc nói:

- Mợ lẩn thẩn thật! Kể ra cũng có: lễ sinh nhật cô Lâm tức là lệ đấy. Năm ngoái mợ làm cho cô Lâm thế nào, năm nay cũng nên làm cho cô Bảo như thế.

Phượng Thư cười nhạt:

- Dễ thường tôi không biết? Tôi cũng đã nghĩ đến. Nhưng vì hôm qua bà hỏi đến sinh nhật của mọi người, nghe nói cô Bảo năm naỵmười lăm tuổi, không những là ngày sinh nhật, mà lại đến tuổi cập kê(#1) rồi. Người bảo muốn lâm lễ sinh nhật cho cô ấy, tất nhiên không giống như của cô Lâm.

- Nếu thế thì làm to hơn một chút.

- Tôi cũng nghĩ như thế, nên mới phải hỏi cậu, cứ tự tiện làm, cậu lại kêu sao không nói trước.

- Thôi, thôi! Tử tế nước bọt ấy tôi không cần. Mợ không tra hỏi tôi là được rồi, tôi còn trách mợ nữa ư?

Nói xong hắn đi một mạch.

Sử Tương Vân đã ở chơi hai ngày, muốn xin về. Giả mẫu bảo:

- Cháu hãy ở lại, đến ngày sinh nhật chị Bảo, xem hát xong sẽ về.

Tương Vân vâng lời ở lại, sai người về nhà lấy hai bức thêu của mình sang mừng Bảo Thoa.

Từ ngày Bảo Thoa đến, Giả mẫu thấy cô ta là người đứng đắn, hòa nhã, nên rất yêu. Nhân gặp ngày sinh nhật lần thứ nhất của cô ta, Giả mẫu bỏ ra hai mươi lạng bạc gọi Phượng Thư đến bảo sửa tiệc rượu, bày trò chơi.

Phượng Thư nhân lúc vui, nói pha trò:

- Bà làm lễ sinh nhật cho các cháu, thế nào không được, còn ai dám nói? Nhưng bà lại sửa cả tiệc rượu nữa kia à? Muốn cho bữa tiệc vừa vui vừa nhộn, bà cũng nên bỏ ra một số tiền nữa! Nay chỉ trơ có hai mươi lạng bạc mốc meo này chi vào tiệc rượu, ý chừng bà muốn bắt các cháu phải bù nữa chăng? Nếu quả không có tiền đã đành, nhưng vàng bạc, thoi tròn, thoi dài, để phũng cả đáy hòm, chỉ tội làm phiền cho các cháu. Bà thử nghĩ xem, ai chẳng là cháu? Sau này chẳng lẽ chỉ có một mình chú Bảo rước bà lên Ngũ Đài Sơn(#2) thôi à? Sao cái gì bà cũng ki cóp để dành cho chú ấy! Chúng cháu tuy không đáng được dùng của này, nhưng bà cũng không nên làm rầy chúng cháu. Món tiền này liệu có đủ sửa tiệc rượu và bày trò chơi không?

Nghe nói, cả nhả cười rộ lên. Giả mẫu cũng cười:

- Các người hãy nghe cái mồm nó kìa! Kể ra ta nói cũng khéo, nhưng bì thế nào được với con quái ấy! Mẹ chồng nó cũng còn chẳng dám nỏ mồm, nó lại cứ lem lém với ta à?

Phượng Thư cười:

- Mẹ chồng cháu cũng thương Bảo Ngọc như bà, cháu không có chỗ nào kêu oan! Bây giờ bà lại bảo cháu là nỏ mồm!

Giả mẫu nghe nói rất vui, lại phì cười một lần nữa.

Đến chiều, mọi người đều đến nhà Giả mẫu. Thăm hỏi xong, cả nhà, mẹ con, chị em chuyện trò vui vẻ. Giả mẫu hỏi Bảo Thoa thích nghe vở hát gì? Muốn ăn thức ăn gì? Bảo Thoa vốn biết Giả mẫu tuổi già, thích nghe những vở hát vui nhộn, thích ăn những đồ ăn nhừ, ngọt, liền chọn cái gì Giả mẫu thường thích, kể ra một lượt. Giả mẫu lại càng vui. Hôm sau Giả mẫu cho mang quần áo, đồ chơi đến mừng. Vương phu nhân, Phượng Thư, Đại Ngọc, kẻ nhiều người ít, đều mang đồ mừng sang.

Đến ngày hai mươi mốt, trong nhà Giả mẫu dựng một cái sân khấu xinh đẹp, chọn một ban hát mới có cả hai điệu côn và giặc(#3). Tiệc rượu thân mật đặt trong buồng Giả mẫu, có Tiết phu nhân, Sử Tương Vân và Bảo Thoa là khách, còn đều là người trong nhà cả.

Hôm ấy, sáng sớm dậy, Bảo Ngọc không thấy Đại Ngọc, bèn đến buồng tìm, gặp Đại Ngọc đang nằm nghiêng trên giường. Bảo Ngọc cười nói:

- Thôi dậy ăn cơm, rồi đi xem hát! Em thích nghe vở nào, anh sẽ chấm cho.

Đại Ngọc cười nhạt:

- Anh đã nói thế, phải tìm riêng một ban hát, chọn những bài nào em thích thì hát cho em nghe, chứ đi nghe nhờ thì đừng hỏi nữa.

Bảo Ngọc cười:

- Việc ấy khó gì? Ngày mai anh gọi một ban hát đến đây, thế là họ lại phải nghe nhờ chúng ta.

Nói xong kéo Đại Ngọc dậy, dắt tay nhau đi ăn cơm.

Khi chấm vở, Giả mẫu bảo Bảo Thoa chấm. Từ chối mãi không được, Bảo Thoa đành phải chấm một hồi trong vở Tây Du Ký. Giả mẫu vui lắm, lại bảo Phượng Thự Phượng Thư biết Giả mẫu thích vui, thích cười đùa, nên chấm ngay vở "Lưu Nhị đương ỳ". Giả mẫu lại càng vui, rồi lại bảo Đại Ngọc. Đại Ngọc xin nhường cho Vương phu nhân, Tiết phu nhân chấm trước.

Giả mẫu nói:

- Hôm nay ta cốt cùng các cháu bày cuộc vui. Chúng ta cứ biết chúng ta, đừng nghĩ đến các bà ấy. Nhất là bày ra tiệc rượu, ca hát có phải vì các bà ấy đâu! Các bà ấy được nghe hát, uống rượu, thế là tốt rồi, lại còn phải mời chấm vở nữa kia à!

Nghe nói cả nhà cười ầm lên.

Đại Ngọc chấm xong một vở, rồi đến Bảo Ngọc, Sử Tương Vân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân và Lý Hoàn đều chấm cả. Các vở cứ lần lượt theo thế mà diễn.

Đến lúc vào tiệc rượu, Giả mẫu lại sai Bảo Thoa chấm vở. Bảo Thoa chấm vở Lỗ Trí Thâm say rượu làm nhộn ở núi Ngũ Đài.

Bảo Ngọc hỏi Bảo Thoa:

- Chị chỉ thích nghe những vở hát ấy!

- Anh nghe hát đã mấy năm nay, vẫn không biết, vở này dàn cảnh và lời văn đều hay cả.

- Tôi sợ những vở này nhộn quá.

- Vở này mà bảo là nhộn! Anh thật không biết nghe hát! Lại đây tôi nói cho mà nghe. Đây là một điệu Bắc: Điểm giáng thần. Điệu rất du dương trầm bổng. Âm luật lại càng không cần phải nói. Về lời văn có bài Ký sinh thảo rất hay, chắc anh chưa được nghe bao giờ.

Bảo Ngọc thấy nói bài ấy văn hay, liền xích lại gần:

- Xin chị đọc cho tôi nghe.

Bảo thoa liền đọc:

Anh hùng chùi nước mắt,

Xử sĩ tiếc chi nhà.

Lạy Di đà, cắt tóc dưới tòa sen Phật.

Hết duyên pháp, chớp mắt thành ly biệt,

Trần trùi trụi, đi về không vướng víu.

Tìm đâu tá, nón mưa áo khói một mình đi?

Mặc kệ ta, giày rơm bát vỡ theo duyên đến!

Bảo Ngọc nghe xong, thích quá, vỗ đùi, lắc đầu, khen mãi. Lại khen Bảo Thoa học rộng, không sách nào không biết.

Đại Ngọc bĩu môi:

- Hãy im mà nghe, chưa hát vở Sơn môn(#4) anh lại đã muốn Trang phong(#5) rồi.

Tương Vân ngồi đó phì cười. Mọi người nghe hát đến khuya mới tan.

Giả mẫu yêu nhất hai đứa bé đóng vai nữ và vai hề, bảo người dắt chúng lên, thấy rất đáng thương. Hỏi tuổi, đứa đóng vai nữ mới mười một, đứa đóng vai hề mới lên chín. Mọi người đều than thở. Giả mẫu sai lấy đồ ăn và hai quan tiền thưởng cho chúng. Phượng Thư cười nói:

- Thằng bé này lúc đóng vai nữ trông hệt như một người, thế mà chẳng ai biết cả.

Bảo Thoa hiểu ra ngay, chỉ gật đầu không nói gì. Bảo Ngọc cũng gật đầu không dám nói. Tương Vân mau miệng nói:

- Tôi biết rồi, trông giống cô Lâm.

Nghe vậy, Bảo Ngọc vội đưa mắt ra hiệu cho Tương Vân. Mọi người để ý nhìn kỹ, rồi cười ầm lên: "Quả là giống cô Lâm thật". Một lúc tiệc tan.

Đêm về, Tương Vân sai Thúy Lũ xếp quần áo, đồ đạc. Thúy Lũ hỏi:

- Việc gì mà cô vội thế, lúc nào đi thu xếp cũng vừa.

- Sáng mai về sớm. Ở đây làm gì nữa? Mày không thấy nét mặt người ta có vẻ không ưa đấy à?

Bảo Ngọc nghe thấy, vội đến kéo Tương Vân lại:

- Em hiểu lầm tôi. Em Lâm là người hay chấp, ai cũng biết cả, nhưng không muốn nói ra, vì sợ em Lâm giận. Ngờ đâu em buột mồm nói ngay, em Lâm lại không giận à? Tôi sợ em làm mất lòng em Lâm, nên đưa mắt ra hiệu. Bây giờ em lại giận tôi, há chẳng phụ lòng tôi hay sao? Nếu phải như ai, dù có gây chuyện với mười người, tôi cũng mặc kệ chẳng liên quan gì đến tôi!

Tương Vân hất tay:

- Những giọng văn hoa ấy đừng nói với tôi - tôi bì thế nào được với cô Lâm nhà anh! Người ta nói đùa cô ấy thì được, tôi nói lại có lỗi ngaỵ Tôi vốn không đáng nói chuyện với cô ta, cô chủ nhà, tôi chỉ là hạng con hầu đầy tớ thôi!

Bảo Ngọc vội nói:

- Thế ra vì em lại thành ra tôi có lỗi với em. Nếu tôi xấu bụng, xin lập tức hóa ra tro, cho mọi người giầy xéo lên.

Tương Vân nói:

- Đầu giêng năm mới, đừng có mở miệng là nói những câu nhảm nhí. Anh có thề, cứ thề với cái người tính nết nhỏ nhen, động một tí là giận dỗi; thề với cái người cai quản được anh ấy! Đừng để cho tôi phải bực mình với anh!

Tương Vân nói xong, hầm hầm đến ngay buồng Giả mẫu nằm xoài ra.

Bảo Ngọc chán ngán, lại đến tìm Đại Ngọc. Ngờ đâu vừa bước chân vào cửa, Đại Ngọc đã đẩy ra, đóng sập cửa lại. Bảo Ngọc không hiểu ra sao, đứng ngoài cửa sổ khẽ gọi: "Em ơi! em ơi!" Đại Ngọc mặc kệ không trả lời, Bảo Ngọc buồn quá, đứng rũ đầu không nói gì. Tử Quyên biết rõ đầu đuôi câu chuyện, nhưng chắc khuyên can ngay cũng chẳng được nào. Bảo Ngọc vẫn đứng ngẩn ở ngoài.

Đại Ngọc tưởng Bảo Ngọc đã về, mở cửa ra, thấy Bảo Ngọc vẫn đứng đấy, không tiện đóng lại. Bảo Ngọc theo vào hỏi:

- Việc gì cũng phải có duyên do, cứ nói ra để cho người ta khỏi áy náy. Sao tự nhiên em lại đâm ra giận dỗi?

Đại Ngọc cười nhạt:

- Tôi ấy à! Chẳng biết ra làm sao cả. Các người định đem tôi ra đùa! Đem tôi ví với con hát để làm trò cười cho các người!

- Tôi chẳng ví em, cũng chẳng cười em bao giờ, làm sao em lại giận tôi?

- Anh còn phải ví, còn phải cười! Anh không ví, không cười, nhưng so với người ví, người cười lại độc ác hơn.

Bảo Ngọc nghe nói, chẳng biết phân trần thế nào, lặng lẽ không nói nửa lời.

Đại Ngọc lại nói:

- Điều ấy còn có thể tha thứ được. Nhưng làm sao anh lại còn đưa mắt cho con Vân? Bụng dạ anh là thế nào? Có phải anh cho rằng người ta đùa với tôi là người ta tự hạ thấp con người xuống không? Người ta là tiểu thư nhà công hầu, tôi là con nhà bình dân. Người ta đùa tôi, lỡ tôi nói lại, chẳng hóa ra làm mất giá đi hay sao? Có phải anh nghĩ thế không? Có thể là bụng anh tốt nhưng người ta không nhận cái tốt ấy, cũng lại giận anh. Anh lại đem tôi ra để lấy lòng người ta, bảo là tôi "tính nết nhỏ nhen, động một tí là giận dỗi". Anh lại sợ người ta gây chuyện với tôi để tôi giận người tạ Tôi giận người ta hoặc người ta gây chuyện với tôi thì việc gì đến anh?

Bảo Ngọc nghe thế, biết câu chuyện mình nói nhỏ với Tương Vân vừa rồi, Đại Ngọc nghe thấy cả, nghĩ bụng: "Chỉ vì mình sợ hai người giận nhau, nên ở giữa giàn xếp, không ngờ cả hai lại đều lèo nhèo trách móc mình. Đúng như kinh Nam hoa đã nói: Người khéo chỉ tổ nhọc xác, người khôn chỉ tổ lo phiền, người đần độn không cần gì cả, cứ việc ăn chơi thảnh thơi như thuyền không buộc vào cọc, lênh đênh trôi giữa dòng sông. Lại có câu: Rừng núi tự gọi kẻ cướp đến, sông ngòi tự gọi kẻ trộm đến(#6). Càng nghĩ càng thấy chẳng thú vị gì; xét cho cùng, bây giờ chỉ có vài người, mà mình không thu xếp cho êm thấm, thì sau này còn làm gì nên thân?" Nghĩ đến đó, Bảo Ngọc không buồn phân trần, liền quay về buồng. Đại Ngọc thấy vậy, biết Bảo Ngọc chán nản, bực bội bỏ đi, chẳng nói câu gì, nên càng bực mình thêm, liền nói: "Từ rày, suốt đời đừng đến đây nữa cũng xong!"

Bảo Ngọc không để ý đến câu nói ấy, về nằm sõng sượt ở giường, buồn thiu. Tập Nhân biết đầu đuôi câu chuyện, nhưng không dám nói, chỉ muốn đánh lảng ra việc khác cho khuây khỏa, nhân cười hỏi:

- Hôm nay nghe hát rồi, mai kia chắc cậu lại được nghe nữa. Thế nào cô Bảo chẳng mời lại.

Bảo Ngọc cười nhạt:

- Mời lại hay không, có việc gì đến tôi!

Tập Nhân thấy câu nói khác thường, bèn cười:

- Thế là thế nào? Năm mới tốt lành, mẹ con, chị em ai cũng vui vẻ cả, sao cậu lại thế?

- Mẹ con chị em người ta vui hay không, cũng không can gì đến tôi!

- Cả nhà vui thì cậu cũng nên vui một tí có hơn không?

- Cả nhà là thế nào? Họ có người này người nọ chứ tôi thì chỉ trần trùi trụi, chả bấu víu vào đâu cả?

Nói đến đây, Bảo Ngọc tự nhiên nhỏ nước mắt. Tập Nhân thấy quang cảnh ấy, không dám hỏi nữa. Bảo Ngọc ngẫm nghĩ câu vừa rồi, khóc òa lên, đứng phắt dậy, đến bên án thư cầm bút viết một câu kệ:

Người chứng, ta chứng(#7), lòng chứng, ý chứng. Đã không có chứng, mới gọi là chứng. Không có gì chứng, mới là chỗ đứng.

Viết xong, bản thân tuy đã hiểu, nhưng sợ người xem không hiểu, Bảo Ngọc lại viết thêm khúc "Ký sinh thảo" ở sau kệ, rồi đọc lại một lượt, trong bụng thấy khoan khoái, không vướng víu gì, liền lên giường ngủ.

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc vừa rồi đi ra một cách quả quyết, bèn lấy cớ đến hỏi thăm Tập Nhân để xem ý tứ ra sao. Tập Nhân nói:

- Cậu ấy đi ngủ rồi.

Đại Ngọc muốn về ngaỵ Tập Nhân lại nói:

- Cô hãy đứng lại xem cái giấy này trong viết những gì?

Rồi đem tờ giấy Bảo Ngọc vừa viết đưa cho Đại Ngọc xem. Biết Bảo Ngọc vì một lúc tức giận mà làm ra bài này, đáng cười lại đáng than, Đại Ngọc liền bảo Tập Nhân:

- Cậu ấy viết đùa đấy, chẳng có gì đâu.

Nói xong cầm tờ giấy về buồng.

Đến hôm sau, Đại Ngọc đưa cho Bảo Thoa, Tương Vân cùng xem. Bảo Thoa đọc lên có những câu:

Không phải ta không phải người,

Theo ai nhưng chẳng biết là ai?

Tha hồ đi lại không vướng mắc,

Vui vẻ hão huyền thôi cũng mặc.

Thân sơ ai có kể làm chi!

Trước đây lận đận bởi duyên gì?

Bây giờ nghĩ lại thật là vô vị!

Bảo Thoa đọc xong, xem lại những câu kệ, cười nói:

- Người này đã tỉnh ngộ rồi đây. Đó là lỗi ở tôi, vì hôm nọ tôi đọc cho anh ấy nghe một bài hát, thành ra gợi chuyện này. Những lời bí ẩn trong sách đạo dễ làm người ta thay đổi tính tình. Sau này anh ấy cứ cho những câu nói gàn dở là phải, lúc nào bụng cũng nghĩ vớ vẩn, há chẳng phải là tự tôi đọc một bài hát mà sinh ra lắm chuyện hay sao? Tôi thật là đầu têu việc này!

Nói xong, Bảo Thoa xé vụn tờ giấy, bảo a hoàn đốt đi. Đại Ngọc cười nói:

- Cần gì phải xé, để tôi hỏi anh tạ Chị em cứ theo tôi. Tôi sẽ làm cho anh ta chừa những ý nghĩ ngây ngô đi.

Ba người cùng sang gặp Bảo Ngọc. Đại Ngọc cười, nói:

- Anh Bảo Ngọc, tôi hỏi anh! Qúy nhất là của "bảo", bền nhất là "ngọc". Anh có gì là quý, là bền?

Bảo Ngọc không trả lời được. Ba người đều cười nói:

- Ngu ngốc như thế mà muốn "tham thiền"(#8).

Đại Ngọc nói:

- Anh nói trong kệ: không có gì chứng. mới là chỗ đứng, câu ấy cũng đúng, nhưng cứ ý tôi thì chưa đủ, nên nói thêm câu này:

Không có chỗ đứng, mới thực can tịnh(#9).

Bảo Thoa cười nói:

- Đúng đấy, như thế mới là hiểu thấu đạo Phật. Ngày trước vị tổ thứ sáu của Nam Tông là Huệ Năng đi tìm thầy, đến Thiều Châu, nghe nói có vị tổ thứ năm là Hoẵng Nhẫn ở Hoàng Mai, liền vào xin làm "hỏa đầu tăng"(#10). Tổ thứ năm muốn tìm người thừa tự đạo Phật. bảo các sư mỗi người làm một bài kệ. Sư thượng tọa là Thần Tú nói: Mình là cây bồ đề, lòng như đài gương sáng. Phải nên lau chùi luôn, đừng để cát bụi bám. Bấy giờ sư Huệ Năng đương giã gạo ở dưới bếp, nói: "Hay thì hay thực, nhưng chưa được trọn nghĩa". Nhân đọc một bài kệ: Bồ đề nào phải cây, gương sáng nào phải đài, không có vật gì cả, đâu vướng bụi trần ai. Tổ thứ năm bèn đem áo và bát(#11) truyền cho sư Huệ Năng. Câu kệ vừa rồi cũng là nghĩa ấy, nhưng mới chỉ là câu bí ẩn, chưa hoàn toàn kết thúc, không lẽ nửa chừng lại thôi hay sao?

Đại Ngọc cười nói:

- Lúc nãy không trả lời được, thế là anh ấy thua rồi; bây giờ có trả lời cũng chẳng lấy gì làm giỏi. Thôi từ nay trở đi anh không được nói chuyện đạo Phật nữa. Ngay những điều hai chúng tôi biết, anh cũng còn chưa hiểu, thế mà cũng đòi tham thiền!

Bảo Ngọc vẫn cứ cho mình là đã giác ngộ, không ngờ bị Đại Ngọc hỏi một câu không trả lời được; lại đến Bảo Thoa lôi chuyện trong Ngữ lục(#12) ra, đều là những chuyện đột ngột bất ngờ. Bảo Ngọc nghĩ bụng: "Họ hiểu biết trước ta, cũng còn chưa giác ngộ, sao ta lại tự chuốc lấy khổ não vào mình". Rồi cười nói :

- Ai tham thiền? Chẳng qua nói đùa một lúc đấy thôi.

Sau đó, bốn người lại vui vẻ như cũ.

Chợt có người báo: Nguyên phi sai người mang đến cái đèn có viết câu đố, bảo mọi người đoán xem. Đoán xong, mỗi người viết một câu dâng lên.

Bốn người nghe nói, vội chạy đến buồng Giả mẫu, thấy một thái giám nhỏ mang cái đèn lụa trắng, bốn góc bằng nhau, trên lụa đã viết sẵn câu đố. Mọi người tranh nhau đoán. Viên thái giám nhỏ nói:

- Các vị đoán xong đừng nói ra, cứ viết kín và niêm phong đệ lên để người xem ai đoán đúng.

Bảo Thoa đến gần thấy một bài thơ bốn câu bảy chữ, không có gì mới lạ, nhưng cũng khen ngợi, kêu là khó đoán lắm. Rồi giả cách như nghĩ ngợi, nhưng thực ra cô ta đã đoán được rồi. Bọn Bảo Ngọc, Đại Ngọc, Tương Vân, Thám Xuân đều đoán cả. Lại gọi bọn Giả Hoàn, Giả Lan đến đoán. Sau đó mỗi người lấy một vật gì làm thành câu đố, viết cẩn thận vào giấy và treo lên đèn.

Viên thái giám đi về, đến chiều, đưa dụ ra: "Bài của quý phi đố, các vị đều đoán đúng cả, chỉ có cô Hai và cậu Ba là đoán sai. Những câu đố của các vị tiểu thư, người đã đoán cả rồi, không biết có đúng hay không?" Hắn giở những câu Nguyên phi đoán ra, có câu đúng, cũng có câu sai, kể lại một lượt. Viên thái giám lại đem những đồ thưởng ra cho những người đoán đúng. Mỗi người được một cái ống đựng thơ do trong cung làm ra và một cái thìa lấy bã chè. Chỉ có Nghênh Xuân, Giả Hoàn là không được gì cả. Nghênh Xuân cho là trò chơi nhỏ nhặt không để ý đến, duy Giả Hoàn thì buồn bực. Viên thái giám lại nói:

- Câu đố của cậu Ba không thông, quý phi không đoán, bảo tôi mang đến hỏi cậu Ba là cái gì?

Mọi người nghe nói, đến xem, thấy hắn viết:

Anh Cả có những tám sừng,

Anh Hai chỉ có hai sừng mà thôi.

Trên giường anh Cả ngồi chơi.

Cửa buồng chồm chỗm anh Hai thích ngồi.

Xem xong, ai nấy cười ồ lên, Giả Hoàn nói với viên thái giám:

- Một câu là cái gối, một câu là đầu con thú.

Ghi xong, viên thái giám uống nước rồi về.

Giả mẫu thấy Nguyên Xuân có những trò chơi hứng thú, lại càng vui thêm, bèn sai làm một cái đèn lồng rất khéo và đẹp, để ở giữa nhà, bảo bọn chị em mỗi người viết một câu đố, dán ở ngoài đèn, rồi sửa soạn những đồ thưởng, như chè thơm, quả tươi cùng các đồ chơi khác.

Giả Chính đi chầu về, thấy Giả mẫu vui, vả lại, giữa ngày xuân, nên chiều hôm ấy ông ta cũng sang hầu để mẹ vui thêm.

Mâm trên Giả mẫu, Giả Chính và Bảo Ngọc; mâm dưới có Vương phu nhân, Bảo Thoa, Đại Ngọc và Tương Vân; dưới nữa là Nghênh Xuân, Thám Xuân và Tích Xuân. Các bà hầu già và bọn a hoàn đứng hầu xung quanh. Mâm gian trong thì Lý Cung Tài và Vương Hy Phượng.

Giả Chính hỏi:

- Sao không thấy Giả Lan đâu?

Bọn hầu vào hỏi Lý thị. Lý thị đứng dậy cười nói:

- Cháu nó không thấy ông gọi, nên không chịu đến.

Người hầu ra trình Giả Chính. Mọi người cười nói:

- Thằng cháu ương gàn quá!

Giả Chính liền bảo Giả Hoàn và người hầu gọi Giả Lan đến. Giả mẫu cho ngồi bên cạnh và cho ăn quả. Cả nhà chuyện trò vui vẻ.

Bảo Ngọc xưa nay vẫn hay nói ba hoa, nay có Giả Chính ngồi đấy, nên chỉ ngồi yên vâng vâng dạ dạ. Tương Vân tuy là con gái, vốn thích chuyện trò cười đùa, nhưng cũng khóa miệng nốt. Đại Ngọc thì hay làm vẻ không thích nói nhiều. Bảo Thoa thì hay giữ gìn cẩn thận, cũng ngồi yên không nói gì. Thành ra tiệc vui trong gia đình, nhưng vẫn thấy gò bó.

Giả mẫu biết là có Giả Chính ở đấy, nên uống hết ba tuần rượu, liền giục Giả Chính về nghỉ. Giả Chính biết ý Giả mẫu bảo mình về để cho các cháu được thoải mái, liền cười nói:

- Hôm nay được nghe bà đặt tiệc, đố đèn, nên con mang rượn và lễ vật đến xin vào hội, sao bà lại không chia sẻ lòng thương yêu các cháu cho con một chút nào?

Giả mẫu cười nói:

- Vì anh ở đây, chúng nó không dám vui cười, khiến ta buồn. Anh muốn đoán câu đố, ta ra cho một câu, nếu đoán không đúng thì phải phạt.

Giả Chính vội cười:

- Vâng, xin chịu phạt; nếu đoán đúng, xin bà thưởng cho.

- Cái ấy cố nhiên.

Rồi giả mẫu đọc luôn:

- Con khỉ lơ lửng bám trên cành (Đố tên một thứ quả).

Giả Chính biết ngay tà quả vải, nhưng cố ý đoán sai, để chịu phạt mấy thứ rồi mới đoán đúng. GIả mẫu lại thưởng cho mấy thứ. Sau Giả Chính lại đọc một câu đố để Giả mẫu đoán:

- Mình thì vuông vắn, chất thì cứng rắn, tuy không biết nói, trả lời đúng đắn. (Đố một thứ đồ dùng).

Ông ta đọc xong, rồi khẽ bảo Bảo Ngọc. Bảo Ngọc biết ý, khẽ đến gà Giả mẫu. Giả mẫu nghĩ một lúc cho là đúng, liền nói:

- Đó là cái nghiên.

Giả Chính cười nói:

- Bà đoán một lần đúng ngay.

Rồi quay lại bảo đem đồ mừng đến. Bọn hầu vâng lời mang hết khay lớn, khay nhỏ lên. Giả mẫu xem từng cái một, đều là đồ mới đẹp, để dùng vào ngày hội hoa đăng cả, trong bụng rất vui, liền bảo:

- Rót rượu cho cha mày uống.

Bảo Ngọc rót rượu, Nghênh Xuân dâng rượu. Giả mẫu bảo Giả Chính:

- Những câu viết ở trên đèn lồng đều là của chị em nó làm cả. Anh thử đoán đi cho ta nghe.

Giả Chính vâng lời, đến gần bình phong, thấy một câu của Nguyên phi viết:

Yêu ma hồn vía còn chăng,

Mình như cuốn lụa hơi đằng sấm ran.

Ai nghe thấy cũng hết hồn,

Ngoảnh đầu nhìn lại tro tàn khói bay.

(Đố một thứ đồ chơi)

Giả Chính nói:

- Đó là cái pháo.

Bảo Ngọc đáp:

- Đúng.

Giả Chính lại xem câu của Nghênh Xuân:

Trời chuyển, người xoay, lý chẳng cùng,

Người xoay trời đứng cũng không xong,

Tại vì tính toán quanh co mãi,

Mà số âm dương vẫn chửa thông!

(Đố một thứ đồ dùng).

Giả Chính nói:

- Đó là bàn tính.

Nghênh Xuân cười nói:

- Đúng.

Giả Chính lại xem câu đố của Thám Xuân:

Trẻ con ngửa mặt nhìn trời,

Thanh minh là tiết dong chơi hợp thì.

Mỏng manh một sợi du ti,

Biệt ly đừng có trách gì gió đông.

(Đố một đồ chơi)

Giả Chính nói:

- Đó là cái diều.

Thám Xuân nói:

- Đúng.

Lại xem một bài:

Kiếp trước long đong ngán phận mình,

Nghe ca không thích thích nghe kinh!

Đừng cho thân đã chìm trong bể,

Chói lọi còn nguyên chữ tính linh.

(Đố một thứ đồ dùng)

Giả Chính đoán:

- Đó là cái đèn đại hải trước cửa Phật.

Tích Xuân cười nói:

- Đúng là đèn đại hải.

Giả Chính trong lòng suy nghĩ: "Qúy phi làm bài cái pháo là một thứ nổ tan tành; Nghênh Xuân làm bài cái bàn tính là một thứ biến động lung tung; Thám Xuân đố cái diều là một thứ nhẹ bay trước gió; Tích Xuân làm cái đèn đại hải, một thứ tịch mịch cô đơn. Lúc này giữa tiết thượng nguyên, sao chúng nó lại chơi những trò quái gở ấy?" Giả Chính càng nghĩ càng buồn. Chỉ vì đứng trước Giả mẫu nên ông ta không dám lộ ra sắc mặt, đành cứ gắng gượng xem suốt lượt. Xem đến câu của Bảo Thoa là một bài thơ thất ngôn:

Áo chầu đầy khói để ai mang?

Đàn đấy, chăn đây, luống bẽ bàng,

Chú lính sớm không cần đếm thẻ,

Chị hầu đêm cũng biếng thêm hương,

Vùi đầu trải biết bao hôm sớm,

Đốt ruột không nài mấy tuyết sương,

Thấm thoát bóng xuân đà đáng tiếc,

Kể gì thay đổi cuộc tang thương.

(Đố một thứ đồ dùng)

Giả Chính xem xong, nghĩ bụng: "Vật này cũng dễ đoán thôi. Có điều người còn ít tuổi mà đã nói ra những điềm không haỵ Xem ra không phải là hạng người được hưởng phúc". Nghĩ đến đấy, ông ta cúi đầu im lặng, có vẻ thương cảm, mất hết tính tình vui vẻ lúc đầu.

Giả mẫu thấy thế, cho là Giả Chính đã mệt, lại sợ các cháu bị gò bó, không được chơi đùa tự do, liền bảo:

- Anh không cần phải ở đây nữa, về nghỉ thôi, để ta ngồi chơi với các cháu một lúc.

Giả Chính nghe nói, vâng lời, lại cố mời Giả mẫu uống thêm một tuần rượu nữa, rồi xin phép ra về. Đến buồng, ông ta ngẫm nghĩ mãi, càng thấy buồn thiu, trằn trọc không sao ngủ được.

Giả mẫu thấy Giả Chính về rồi, bảo:

- Bây giờ các cháu vui chơi đi.

Nói chưa dứt lời thì Bảo Ngọc đã như con khỉ sổ xích, chạy đến trước cái đèn lồng, chỉ đông chỉ tây, chê bai luôn mồm, câu này không hay, câu kia không đúng. Bảo Thoa liền nói:

- Cứ ngồi một chỗ mà cười nói như trước, có phải đứng đắn hơn không?

Phượng Thư ở trong nhà chạy ra nói góp:

- Hạng người như chú, thì phải bắt ở liền bên ông, không được rời đi một bước mới được. Vừa rồi quên mất, làm sao trước mặt ông lại không bắt chú làm mấy câu đố? Sợ chú lại không toát mồ hôi!

Bảo Ngọc vội nắm lấy Phượng Thư, nũng nịu một lúc. Giả mẫu cùng với Lý Cung Tài và bọn chị em cười nói một hồi, chừng đã mệt, xem đồng hồ đã canh tư, liền sai mang các thứ đồ ăn thưởng cho người nhà, rồi đứng dậy nói:

- Thôi chúng ta đi nghỉ, mai còn là ngày tết, nên dậy sớm một tí, đến chiều lại chơi.

Tiệc tan, mọi người ra về.

Chú thích:

(1-). Theo tục cổ ở Trung Quốc, con gái đến mười lăm tuổi thì cài trâm.

(2-). Tên một quả núi thuộc tỉnh Sơn tây Trung Quốc. Tương truyền nơi Phật hóa thân.

(3-). Côn sơn vả Giặc đương là hai điệu hát. Côn thuộc về nhã nhạc. Giặc thuộc về tạp hí.

(4-). Tích Lỗ Trí Thâm say rượu... nói ở trên.

(5-). Tên một khúc hát, diễn tích Uất Trì Kính Đức đời Đường giả điên. Ở đây Đại Ngọc dùng tiếng song quan để giễu Bảo Ngọc. Câu này còn có nghĩa: chưa hát "Sơn môn" anh đã giả điên.

(6-). Ý nói những chỗ rừng núi sông ngòi tự nhiên thành chỗ tụ tập của kẻ cướp kẻ trộm.

(7-). Bài kệ này viết theo giáo lý nhà Phật. Chứng là theo bằng chứng, giáo nghĩa là giáo lý. Chứng có nhiều bực, từ sắc giới đi đến không giới. Bài kệ này là theo ý bài "Ký sinh thảo" trong vở Sơn môn mà Bảo Ngọc suy rộng ra.

(8-). Hiểu theo đạo Phật.

(9-). Sạch sẽ và im lặng. Câu này theo nghĩa bài kệ trên, lên cao một bậc nữa, tức là thoát hẳn ra "không giới".

(10-). Sư nấu bếp.

(11-). Áo là áo cà sa, bát lả bát khất thực (xin ăn). Theo tục lệ đạo Phật ngày trước, các tín đồ nuôi các sư, đến bữa vác bát đi lấy cơm, gọi là khất thực, nhà sư tùy thân chỉ có cái áo và cái bát, sư thầy truyền đạo cho người thừa tự, gọi là "truyền y bát".

(12-). Sách chép những triết học, tư tưởng và ngôn luận của các danh tăng.

Hồi thứ hai mươi ba

Mượn câu văn Tây Sương ký, giở giọng giỡn đùa;

Nghe khúc hát Mẫu đơn đình, chạnh lòng hờn tủi.

Nguyên phi sau khi từ vườn Đại quan về cung, sai Thám Xuân chép lại tất cả những bài vịnh hôm ấy, rồi tự tay xếp thứ tự hơn kém, truyền dựng bia ở trong vườn để ghi lại một cuộc chơi phong nhã hiếm có xưa nay. Giả Chính liền sai người đi các chợ tìm thợ khéo đến vườn mài đá, khắc chữ. Giả Trân sai bọn Giả Dung, Giả Bình trông nom công việc. Giả Tường vì bận về trông nom bọn con hát và các đồ diễn tuồng, nên không được rỗi. Giả Trân lại gọi thêm bọn Giả Xương, Giả Lăng đến trông coi giúp, công cuộc bắt đầu vào việc nấu sáp, đục đá.

Nói đến mười hai sa ni và mười hai đạo cô ở miếu Ngọc Hoàng và am Đạt Ma dọn ra bên ngoài, không ở trong vườn nữa, Giả Chính muốn phân họ đi các nơi. Chu thị là mẹ Giả Cần ở phố sau, đang muốn xin với Giả Chính cho con việc làm để lấy tiền tiêu. May sao nghe có việc này, liền đi xe đến nhờ Phượng Thư.

Phượng Thư biết Chu thị xưa nay không hay cậy thần cậy thế mấy, liền nhận lời. Nghĩ ngợi một lúc, Phượng Thư sang trình Vương phu nhân:

- Không nên cho bọn ni cô và đạo cô đi ở nơi khác. Bất thần Quí phi ra chơi, cần đến họ sẽ có ngay. Nếu cho họ đi, khi cần đến, phải mất nhiều thì giờ, tốn công sức. Cứ như ý con, nên cho họ ở cả vào chùa Thiết Hạm, hàng tháng cho một người đem vài lạng bạc đến mua gạo củi cho họ là được rỗi. Khi cần, ta chỉ gọi một tiếng là có, không mất công gì cả.

Vương phu nhân đến bàn với Giả Chính. Giả Chính cười nói:

- Bây giờ nhắc đến, tôi mới nhớ, vậy cứ thế mà làm.

Rồi lập tức cho gọi Giả Liễn.

Giả Liễn đương ăn cơm với Phượng Thư, thấy gọi, liền bỏ cơm xuống, đứng dậy ngay, Phượng Thư níu lại cười nói:

- Hãy khoan đã, tôi bảo câu này! Việc khác thì tôi không cần, nhưng nếu là việc bọn ni cô và đạo cô, thì thế nào cũng phải theo tôi dặn mà nói.

Rồi dặn Giả Liễn mấy câu. Giả Liễn lắc đầu cười:

- Có giỏi mợ đi mà nói, tôi mặc kệ.

Phượng Thư ngẩng cổ lên, bỏ đũa xuống, vẻ mặt nửa cười nửa không, lườm Giả Liễn:

- Cậu nói thực hay nói đùa đấy?.

Giả Liễn cười nói:

- Con chị Năm ở phòng phía tây là Giả Vân đã xin với tôi hai ba lần. Tôi bảo nó hãy chờ, chẳng mấy khi có việc này, mợ lại định cướp mất.

Phượng Thư cười :

- Cậu cứ yên tâm, Quí phi đã dặn trồng nhiều tùng, bách về phía đông bắc trong vườn và hoa cỏ ở trước lầu. Khi nào khởi công, tôi sẽ cho cháu Vân trông nom việc ấy.

Giả Liễn nói:

- Thôi được. Nhưng tại sao đêm hôm qua tôi muốn "đổi lối mới" mợ lại cứ vùng vằng hất chân hất tay tôi ra.

Phượng Thư nghe nói, nhoẻn cười, phì vào Giả Liễn một cái, rồi cúi đầu ăn cơm.

Giả Liễn cười rồi chạy một mạch đến hầu Giả Chính, thì quả là việc các ni cô. Giả Liễn cứ theo lời Phượng Thư dặn, nói:

- Xem ra cháu Cần đã thông thạo, có thể giao cho nó trông nom, cứ theo thường lệ, mỗi tháng chỉ việc chi và lĩnh tiền là xong.

Giả Chính xưa nay vẫn không nhìn đến những việc nhỏ nhặt, nghe Giả Liễn nói, bằng lòng ngay.

Giả Liễn về nhà bảo Phượng Thư. Phượng Thư sai người bảo ngay Chu thị. Giả Cần đến, cảm ơn vợ chồng GIả Liễn. Phượng Thư lại muốn tỏ ra thân thiết, bảo hắn viết giấy nhận trước ba tháng lương. Giả Liễn đóng dấu, phát thẻ cho hắn đi lĩnh. Kho bạc cứ theo số lương phát cho ba trăm lạng bạc trắng xóa. Giả Cần đưa biếu người cân một lạng để uống nước, rồi sai đứa hầu nhỏ đem về nhà. Hắn bàn với mẹ xong, lập tức thuê mấy cỗ xe đến cửa nách phủ Vinh, gọi hai mươi bốn người ra, ngồi cả lên xe, đi một mạch đến chùa Thiết Hạm.

Nói về Nguyên phi ở trong cung đã xếp xong thứ tự những bài đề vịnh vườn Đại Quan rồi. Chợt nghĩ đến phong cảnh trong vườn, sau lần ra chơi, chắc là Giả Chính bắt đóng khóa cẩn thận, không cho ai đi lại, như thế chẳng hóa phụ cái đẹp ấy lắm sao? Vả chăng đám chị em trong nhà đều là người biết đề vịnh cả, sao ta không bảo họ sang đấy, để đến nỗi người tài buồn tẻ, hoa liễu kém tươi! Lại nghĩ đến Bảo Ngọc không như các anh em khác, từ bé đến lớn vẫn ở luôn với đám chị em; nếu không cho sang đây, sẽ làm cho cậu ta buồn, mà Giả mẫu và Vương phu nhân cũng không được vui. Vậy nên cho Bảo Ngọc ở luôn đấy mới phải.

Nguyên phi liền sai thái giám là Hạ Trung đem một đạo dụ đến phủ Vinh truyền cho bọn Bảo Thoa vào ở trong vườn, không được đóng khóa như trước, Bảo Ngọc cũng được đến ở đấy đọc sách.

Giả Chính và Vương phu nhân nhận được dụ, đến trình Giả mẫu, rồi sai người vào trong vườn dọn dẹp sắp đặt giường ghế, treo rèm màn. Bảo Ngọc nghe tin, khôn xiết vui mừng. Đương lúc vòi vĩnh Giả mẫu, đòi cái nọ, đòi cái kia, thì có a hoàn đến nói: "Ông sai gọi cậu Bảo".

Bảo Ngọc sa sầm nét mặt, mất vui, ngồi ngẩn ra một lúc, rồi uốn éo níu chặt lấy Giả mẫu, không chịu đi.

Giả Mẫu an ủi:

- Của quí của bà này! Cháu cứ đi, đã có bà. Cha cháu không dám làm rầy rà cháu đâu. Vả cháu vừa làm được những bài thơ hay, nên chị cháu muốn cho cháu vào trong vườn ở. Cha cháu sợ cháu vào trong ấy hay quấy rầy, nên gọi đến dặn bảo mấy câu đấy thôi. Hễ cha bảo câu gì, cháu cứ vâng lời ngay là xong.

Giả mẫu nói xong, gọi hai bà già đến dặn: "Đưa cậu Bảo sang, và chớ để ông làm cho cậu ấy sợ". Bà già vâng lời đi.

Bảo Ngọc chầm chậm bước đi, mãi mới đến nơi. Giả Chính đương ở buồng Vương phu nhân bàn tính công việc. Bọn Kim xuyến, Thái Vân, Thái Phượng, Tú Loan, Tú Phượng đương đứng ở dưới thềm, trông thấy Bảo Ngọc, đều nhoẻn miệng cười. Kim Xuyến nắm Bảo Ngọc lại khẽ bảo:

- Môi tôi vừa bôi nhiều sáp thơm và ngọt lắm, cậu có thích ăn không?

Thái Vân đẩy Kim Xuyến ra cười nói:

- Người ta đương ruột rối bời bời, mày còn trêu chọc mãi! Lúc này ông bà đang vui đấy, cậu đi vào đi.

Bảo Ngọc đẩy cửa vào. Giả Chính và Vương phu nhân ở cả trong buồng. Dì Triệu vén rèm, Bảo Ngọc vào, thấy Giả Chính và Vương phu nhân đương ngồi trên giường nói chuyện. Bọn Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, Giả Hoàn đều ngồi ghế dưới. Thấy Bảo Ngọc vào, Thám Xuân, Tích Xuân và Giả Hoàn đều đứng dậy.

Giả Chính ngước mắt nhìn, thấy Bảo Ngọc dáng điệu thanh nhã, vẻ mặt tuấn tú, ngoảnh lại nhìn Giả Hoàn, thì diện mạo ươn hèn, đi đứng thô lỗ, khiến ông ta lại nhớ ngay đến Giả Châu. Nghĩ đến Vương phu nhân chỉ còn có một đứa con đẻ, yêu quí như ngọc, mà mình thì đầu đã hoa râm, bỗng lòng ghét Bảo Ngọc của ông ta đã bớt đi nhiều. Liền nói:

- Quí phi bảo mày suốt ngày đi chơi, không chịu học hành; nay bắt mày ở trong vườn đọc sách với các chị em. Mày phải cố học, nếu còn lêu lổng thì liệu hồn đấy!

Bảo Ngọc vâng lia lịa, Vương phu nhân dắt lại cho ngồi bên cạnh. Các chị em cũng đâu ngồi đấy. Vương phu nhân sờ cổ Bảo Ngọc hỏi:

- Những viên thuốc hôm nọ uống hết chưa?

- Còn một viên ạ.

- Ngày mai lại lấy mười viên nữa. Mỗi đêm trước khi đi ngủ, bảo Tập Nhân cho uống một viên.

- Vâng. Trước khi đi ngủ, Tập Nhân vẫn cho con uống.

Giả Chính hỏi:

- Tập Nhân là ai?

Vương phu nhân đáp:

- Là một a hoàn.

- A hoàn thì gọi tên gì không được. Đứa tai quái nào đã đặt cho nó cái tên ấy?

Vương phu nhân thấy Giả Chính không thích, liền giấu hộ Bảo Ngọc, nói:

- Đó là bà đặt cho nó đấy.

Giả Chính nói:

- Bà hiểu đâu những chữ ấy. Nhất định lại thằng Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc biết không giấu nổi, đứng dậy thưa:

- Vì thường đọc thơ, con nhớ có câu: Hoa khí tập nhân tri trú noãn(1). Nó là họ Hoa, nên tiện miệng con đặt cho cái tên ấy.

Vương phu nhân vội bảo Bảo Ngọc:

- Về đổi ngay cái tên ấy đi.

Và quay sang nói với Giả Chính:

- Ông cũng không nên để tâm về việc nhỏ này.

Giả Chính nói:

- Kể ra cũng chẳng hại gì, không cần phải đổi. Nhưng xem thế đủ biết nó không chăm lo việc chính, chỉ thích những lời văn trai lơ phù phiếm thôi.

Ông ta quát to một tiếng:

- Đồ súc sinh, sao không bước đi!

Vương phu nhân vội nói:

- Thôi về đi, có lẽ bà đương chờ con đấy.

Bảo Ngọc vâng lời, thong thả đi ra, nhìn Kim Xuyến lè lưỡi cười, rồi theo hai vú già chạy một mạch về nhà. Lúc này Tập Nhân đang dựa cửa, thấy Bảo Ngọc về được êm thấm, cười hỏi:

- Ông gọi cậu đến làm gì?

- Chẳng có việc gì cả. Ông sợ tôi vào ở đấy quấy rối, dặn bảo mấy câu thôi.

Nói xong Bảo Ngọc chạy sang bên Giả mẫu trình hết đầu đuôi. Khi ấy Đại Ngọc ở đấy, Bảo Ngọc liền hỏi:

- Cô thích ở chỗ nào?

Đại Ngọc đương tính toán việc ấy, thấy Bảo Ngọc hỏi, liền cười nói:

- Tôi thích ở quán Tiêu Tương. Ở đấy có mấy khóm trúc, quanh co một dãy bao lan, tĩnh mịch hơn chỗ khác.

Bảo Ngọc vỗ tay cười nói:

- Thực đúng ý tôi! Tôi cũng muốn cô ở đấy. Tôi ở viện Di Hồng. Hai chúng ta lại được gần nhau, và đều được yên lặng.

Hai người đương bàn định, thì Giả Chính sai người đến trình Giả mẫu:

- Đến hai mươi hai tháng hai này tốt ngày, xin cho các cậu các cô dọn vào ở trong vườn.

Trong mấy ngày ấy, người nhà chia nhau vào vườn dọn dẹp. Bảo Thoa ở Hành Vu uyển, Đại Ngọc ở quán Tiêu Tương, Nghênh Xuân ở lầu Xuyết Cẩm, Thám Xuân ở Thu Sảng trai, Tích Xuân ở hiên Lục Phong, Lý Hoàn ở thôn Đạo Hương, Bảo Ngọc ở viện Di Hồng. Mỗi nơi phái thêm hai bà già, bốn a hoàn. Ngoài bà vú và các người hầu cận, còn có nhiều người chuyên giữ việc dọn dẹp quét rửa. Đến ngày hai mươi hai, đâu đấy đều dọn sạch sẽ cả. Bấy giờ trong vườn phút đã hoa chào đai gấm, liễu đón gió thơm, không còn vắng vẻ như khi trước nữa.

Bảo Ngọc từ khi vào ở trong vườn, lòng đầy vui thích, chẳng mong gì khác nữa. Ngày nào cậu ta cũng chỉ cùng chị em và bọn a hoàn họp mặt một chỗ, hoặc đọc sách, hoặc viết lách, gẩy đàn, đánh cờ, học vẽ, làm thơ, thêu loan, trổ phượng, chọi cỏ, hái hoa, ngâm thơ, hát lẩy, đố chữ, đoán múi quả, tha hồ chơi bời thỏa thích. Bảo Ngọc có bốn bài tức cảnh bốn mùa, tuy không hay lắm, nhưng cũng tả được tình cảnh chân thực:

TỨC CẢNH ĐÊM XUÂN

Trướng ráng màn mây sắp sẵn rồi,

Ngõ ngoài tiếng ếch thoáng bên tai.

Gối vương hơi lạnh mưa ngoài cửa,

Mắt ngắm màu xuân, mộng gặp người.

Cây nến khóc ai giàn gụa mãi!

Bông hoa hờn khách ủ ê hoài!

A hoàn chẳng biết lười hay nũng?

Vẫn cứ ôm chăn, vẫn nói cười.

TỨC CẢNH ĐÊM HÈ

Thêu khuya ai mới ngủ say,

Trong lồng, anh vũ gọi ngay pha chè.

Gương xạ nguyệt rọi song the,

Đào vân ngào ngạt, hương chè vua ban.

Móc sen cốc ngọc đầy tràn,

Ngả nghiêng gió liễu bên giàn pha lê.

Trên đình phe phẩy quạt hè,

Lầu son trang điểm rèm che cuốn liền.

TỨC CẢNH ĐÊM THU

Trong Giáng Vân hiên vắng tiếng người,

Màn the nhấp nhánh bóng trăng trôi.

Hạc nồng giấc điệp trên rêu đá,

Quạ đẫm suơng ngô cạnh giếng khơi.

Hầu đến giải chăn, đàn phượng múa,

Người về tựa cửa, cánh hoa rơi(2)

Quá say trằn trọc đêm còn khát,

Quạt nước pha trà hãy uống chơi.

TỨC CẢNH ĐÊM ĐÔNG

Mơ màng mai trúc trống ba rồi,

Đệm ấm chăn lồng vẫn tỉnh hoài.

Sân rợp bóng thông chim hạc đứng,

Oanh im giọng hát, tuyết hoa rơi.

Ai trùm áo thúy, hồn thơ lạnh,

Đây khoác da điêu, sức rượu lười.

Cô gái hầu trà xem đã thạo,

Lấy ngay tuyết mới thử pha chơi.

Thấy mấy bài thơ này là của một công tử mười hai mười ba tuổi ở phủ Vinh làm ra, những bọn xu phụ thế lợi lúc ấy tranh nhau biên chép truyền tụng khắp nơi. Những bạn trẻ lãng mạn, thích câu trai lơ khêu gợi, cũng viết vào quạt, hoặc đề lên tường, để thỉnh thoảng ngâm nga. Vì thế có nhiều người đến xin chữ, xin thơ, xin vẽ, xin đề, Bảo Ngọc thành ra đắc ý, ngày nào cũng bận về việc thù ứng. Không ngờ, tĩnh quá hóa động; một hôm, Bảo Ngọc thấy buồn rầu khó chịu, nhìn cái này không đẹp, cái kia không hay, ra vào lên xuống, chỉ thấy bực mình. Trong vườn, phần đông là bọn con gái đang còn tính nết ngây thơ, cười nói hồn nhiên, ăn ở đứng ngồi gặp đâu hay đấy, thì biết thế nào được tâm sự của Bảo Ngọc?

Bảo Ngọc khó chịu, không thích ở trong vườn, chỉ muốn ra ngoài phóng túng cho rộng cẳng, nhưng lại ngớ ngẩn, không nói ra được cái sở thích của mình. Dính Yên thấy thế, muốn bày trò vui, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, cái gì Bảo Ngọc cũng chơi chán rồi, khó có trò vui, chỉ còn một thứ là chưa trông thấy. Nó liền đi đến các hàng sách, tìm tòi những truyện như: Phi Yến, Hợp Đức, Võ Tắc Thiên, Dương Quý Phi và các truyện thần kỳ khác, mua mấy bộ đem về biếu Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc chưa được xem sách này bao giờ, quả nhiên thích lắm, như là bắt được của báu. Dính Yên lại dặn:

- Cậu không nên đem vào trong vườn, nếu để cho người ta trông thấy, thì tôi sẽ bị ăn đòn!

Nhưng Bảo Ngọc khi nào lại chịu nghe? Cứ tính quanh tính quẩn hai ba lần, rồi chọn những bộ nào lời văn hơi thanh nhã, để ở trên giường, chờ khi vắng người mới đem ra xem; còn những bộ tục quá thì giấu ở buồng sách bên ngoài.

Một hôm, vào trung tuần tháng ba. Cơm sáng xong, Bảo Ngọc đến ngồi trên hòn đá dưới cây đào, cạnh cầu Thấm Phương, giở cuốn Hội Chân ký(*) ra xem. Khi đến chương "Lạc hồng thành trận"(3) chợt cơn gió lướt qua, hoa đào trên cây rụng xuống hàng đấu đầy cả người, cả sách, cả trên mặt đất. Bảo Ngọc muốn rũ đi, nhưng lại sợ chân giẫm phải, đành hứng lấy hoa, đem thả xuống ao. Những cánh hoa ấy cứ lênh đênh nổi trên mặt nước, rồi qua đập Thấm Phương trôi đi.

Bảo Ngọc quay lại, thấy trên mặt đất vẫn còn nhiều cánh hoa. Đương lúc dùng dằng, chợt nghe đằng sau có người hỏi: "Anh ở đây làm gì thế?" Bảo Ngọc quay lại, thấy Đại Ngọc vai vác cái cuốc, đeo cái túi the, tay cầm cái chổi quét hoa. Bảo Ngọc cười nói:

- Tốt lắm. Bây giờ cô hãy đi quét hết những cánh hoa còn lại kia đem thả xuống nước. Tôi vừa thả xuống đấy nhiều lắm.

Đại Ngọc nói:

- Thả xuống nước không được đâu. Anh tưởng nước ở đây sạch à? Khi chảy đến những chỗ gần nhà người ta ở, thì nước chứa đủ hôi thối, vẫn làm hoa dơ bẩn. Ở gò đằng kia tôi đã đào một cái mả để chôn hoa. Nay ta quét hết, bỏ vào cái túi này, đem đến đấy chôn. Hoa lâu ngày hóa ra đất, như thế chẳng sạch hay sao?

Bảo Ngọc nghe vậy mừng lắm, cười:

- Để tôi bỏ sách xuống, cùng đi nhặt với cô.

Đại Ngọc hỏi:

- Sách gì đấy?

Bảo Ngọc vội giấu đi rồi nói:

- Chẳng qua những sách "Đại học, Trung dung" thôi.

- Anh còn giở trò ma quỉ giấu tôi à? Muốn tốt, anh đưa ngay cho tôi xem.

- Cho cô xem, tôi chẳng sợ gì. Nhưng xem xong, cô đừng kể lại cho ai biết. Truyện này văn viết hay lắm, nếu cô xem nó, thì quên cả ăn.

Nói xong đưa sách cho Đại Ngọc.

Đại Ngọc bỏ các đồ nhặt hoa xuống, cầm lấy sách, càng xem càng thích, chừng chưa ăn xong bữa cơm, đã xem hết cả mười sáu hồi. Thấy lời văn rung động, trong miệng nhường có mùi thơm, Đại Ngọc chăm chú đọc xong đứng ngẩn người ra, cố nhẩm cho nhớ.

Bảo Ngọc cười:

.

- Cô xem có hay không.

Đại Ngọc gật đầu cười:

- Xem thú thật!

Bảo Ngọc cười nói:

- Tôi là người nhiều sầu, nhiều bệnh, cô là trang nghiêng nước nghiêng thành.(5)

Đại Ngọc nghe thấy câu ấy, mặt và tai đỏ bừng lên, lập tức dựng ngược lông mày, như cau lại mà không phải là cau, trố hai con mắt, như trợn mà không phải là trợn. Má đào nổi giận, mặt phấn ngậm hờn, trỏ vào mặt Bảo Ngọc:

- Anh nói bậy muốn chết đấy! Dám đem những lời lẳng lơ suồng sã lăng nhăng để khinh nhờn tôi! Tôi về mách cậu mợ đấy.

Nói đến hai chữ "khinh nhờn", mặt Đại Ngọc đỏ ngầu lên, nguây nguẩy chạy đi ngay.

Bảo Ngọc vội đứng ngăn lại, nói:

- Xin cô hãy tha cho tôi lần này, nếu tôi có bụng khinh nhờn cô, sau này tôi ngã xuống ao, bị giải ăn thịt, hóa ra con rùa. Khi nào cô làm bà nhất phẩm phu nhân, già ốm về chầu Phật, tôi sẽ đến mộ đội bia cho cô suốt đời.

Câu ấy làm cho Đại Ngọc phì cười, dụi mắt nói:

- Hơi một tý đã sợ run lên. Thế mà anh hay nói bậy! Thôi chẳng qua Tốt mã mà đoảng, bề ngoài giáp bạc, cốt trong sáp vàng!(6)

Bảo Ngọc nghe vậy, cười nói:

- Cô nói gì đấy? Cô nói chuyện Tây sương đấy à? Tôi cũng đi mách đấy.

Đại Ngọc cười:

- Anh bảo anh liếc mắt qua cũng thuộc, có lẽ tôi không nhìn một cái được mười dòng ư?

Bảo Ngọc vừa cất sách đi, vừa cười nói:

- Thôi, đừng nói đến chuyện ấy nữa, chúng ta đi chôn hoa đi.

Rồi hai người cùng đi nhặt và chôn hoa. Vừa xong thì Tập Nhân chạy đến nói:

- Tôi tìm cậu khắp nơi, chẳng thấy đâu cả. Cậu mò đến đây làm gì thế? Ông Cả ở bên kia khó ở, các cô sang thăm cả rồi, cụ bảo tôi đi tìm cậu sang thăm. Cậu về thay quần áo ngay đi.

Bảo Ngọc liền cầm lấy sách, từ biệt Đại Ngọc, cùng Tập Nhân quay về.

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc đi rồi, các chị em lại không có ai ở đây, một mình thui thủi về buồng. Vừa đi đến góc tường viện Lê Hương, thì nghe ở trong nhà có tiếng sáo, tiếng hát trầm bổng dịu dàng. Đại Ngọc biết ngay là bọn mười hai con hát nhỏ đương tập diễn tuồng. Đại Ngọc không để ý nghe, nhưng cũng có hai câu lọt vào tai, rõ ràng không sót chữ nào:

Trước sao hồng tía đua chen,

Giờ sao giếng lấp tường nghiêng thế này!

Nghe xong, Đại Ngọc rất là thương cảm, đứng dừng lắng tai nghe, lại thấy hát:

Ngày xuân cảnh đẹp đã qua,

Niềm vui rộn rã ở nhà nào đây?

Đại Ngọc gật đầu khen ngợi, nghĩ bụng: "Thế ra trong vở hát cũng có nhiều câu văn hay, tiếc rằng người đời chỉ biết nghe, chưa chắc đã thưởng thức được những cái hay trong đó", chợt lại hối không nên nghĩ nhảm, bỏ nhỡ những khúc hát, Đại Ngọc lại lắng tai nghe nữa, thấy hát câu:

Chỉ vì nàng người đẹp như hoa,

Tuổi trôi như nước...(7)

Nghe cây này, tâm thần Đại Ngọc choáng váng; sau lại thấy những câu: Thương mình ở chốn thâm khuê... lại càng như say như dại, không đứng vững được, Đại Ngọc ngồi trên hòn đá ngẫm nghĩ ý vị tám chữ: Người đẹp như hoa, tuổi trôi như nước. Chợt nhớ đến cổ nhân có câu: Nước chảy hoa tàn khéo hững hờ, mà trong từ khúc này lại có câu: Nước chảy hoa trôi xuân đã hết, trên đời cõi tục... Vả lại trong Tây Sương ký lại có câu:

Hoa rơi dòng nước đỏ ngòm,

Muôn sầu vơ vẩn héo hon lòng này.

Bao nhiêu ý nghĩ dồn lại, làm Đại Ngọc đắn đo suy nghĩ, bất giác tâm thần ngơ ngẩn, nước mắt tràn quanh. Đương lúc phiền não, chưa tìm được cách khuây khỏa, bỗng có người đập một cái vào sau lưng:

Thật là:

Sớm phấn đêm thêu nào nghĩ đến;

Nhìn trăng hứng gió lại buồn thêm.

---------------------------------------

(1). Mùi thơm của hoa ngát xung quanh người, biết là ban ngày trời ấm.

(2). Nguyên văn câu này: Khi người tựa cửa quay về thì hoa tuyết rơi đầy.

(3). Tức truyện Tây sương, Nguyên Chẩn đời Đường làm ra.

(4). Hoa đỏ rụng thành từng trận.

(5). Chữ trong Tây sương ký.

(6). Câu này trích trong vở Mẫu đơn đình, Thang Hiển Tổ đời Minh soạn ra.

(7). Cũng chữ trong Tây sương ký.

Hồi thứ hai mươi bốn

Kim Cương say rượu, tính hào hiệp tiền bạc coi khinh;

Cô gái si tình, rơi khăn lụa mơ màng nhớ bạn.

Đại Ngọc đương lúc tình tứ triền miên, nghĩ ngợi vơ vẩn, chợt có người vỗ vào lưng nói:

- Cô ngồi đây một mình làm gì?

Đại Ngọc giật mình ngoảnh lại, nhìn thấy Hương Lăng. Đại Ngọc nói:

- Con quái này làm người ta giật mình! Mày ở đâu đến đây?

Hương Lăng cười hì hì nói:

- Tôi đi tìm cô tôi, chẳng thấy đâu cả. Chị Tử Quyên cũng đương tìm cô, và nói là mợ Liễn cho người đưa biếu chè. Chúng ta về thôi.

Hương Lăng nói xong dắt Đại Ngọc về quán Tiêu Tương, thấy có hai bình chè của Phượng Thư đưa sang. Đại Ngọc và Hương Lăng ngồi xuống nói chuyện, chẳng qua: Người này thêu đẹp người kia thêu khéo, cùng nhau đánh cờ, xem sách một lúc, rồi Hương Lăng ra về.

Uyên Ương đang ngồi ghé trên giường xem đường kim thêu của Tập Nhân. Thấy Bảo Ngọc về, Uyên Ương hỏi:

- Cậu đi đâu về thế? Cụ đương chờ, bảo cậu sang thăm ông Cả. Cậu về thay quần áo ngay đi!

Tập Nhân vào buồng lấy quần áo ra.

Bảo Ngọc ngồi ở mép giường, bỏ giày ra, đang chờ mang ủng đến, ngoảnh thấy Uyên Ương mặc áo lụa đỏ, vai khoác đoạn xanh, cổ quàng khăn nhiễu tía, dưới đi đôi bít tất màu da ngà, đôi giày thêu đỏ, đương cúi xuống xem bức thêu. Bảo Ngọc ghé mặt gần vào cổ Uyên Ương, ngửi thấy mùi thơm, liền giơ tay xoa, thấy da trắng mịn, chẳng kém gì Tập Nhân, liền chồm lại gần, có vẻ thèm thuồng cười nói:

- Cho tôi nếm một ít sáp ở môi chị!

Nói xong, Bảo Ngọc bám chặt vào người Uyên ương. Uyên Ương kêu ầm lên:

- Chị Tập Nhân ra đây mà xem! Chị ở liền với cậu ấy bao nhiêu lâu, chẳng biết khuyên ngăn, cứ để mãi thế này à?

Tập Nhân mang quần áo ra, nhìn Bảo Ngọc nói:

- Nay khuyên mai khuyên, tật nào vẫn chứng ấy. Cậu làm cái trò gì vậy? Cứ thế mãi tôi cũng khó lòng mà ở yên được.

Tập Nhân giục Bảo Ngọc thay quần áo, rồi cùng Uyên Ương ra đi. Sau khi chào Giả mẫu xong, Bảo Ngọc ra ngoài, người và ngựa đã sắp đủ cả. Bảo Ngọc đang lên ngựa, gặp Giả Liễn đi thăm bệnh trở về. Trông thấy, Bảo Ngọc xuống ngựa chạy lại. Hai người nói chuyện được mấy câu. Chợt có người đi đến bên nói: "Xin chào chú Bảo".

Bảo Ngọc thấy người ấy nét mặt dễ coi, người dong dỏng cao, chừng mười tám, mười chín tuổi, rất nho nhã lịch sự. Bảo Ngọc nhìn mặt quen quen, nhưng không biết con cái nhà ai, tên là gì. Giả Liễn cười nói:

- Sao chú đứng ngẩn ra thế? Không nhận được nó à? Nó là cháu Vân, con chị Năm ở bên cạnh đấy.

Bảo Ngọc cười nói:

- Phải rồi. Thế mà tôi quên mất.

Rồi hỏi:

- Mẹ cháu có được mạnh không? Nay cháu làm việc gì?

Giả Vân trỏ vào Giả Liễn nói:

- Cháu đi tìm chú Hai nói câu chuyện.

Bảo Ngọc cười :

- Bây giờ cháu đã hơn trước nhiều, trông giống như con của chú!

Giả Liễn cười nói:

- Khéo nói, không biết ngượng! Người ta hơn mình đến năm sáu tuổi, mà lại muốn nhận làm con?

Bảo Ngọc cười hỏi:

- Cháu bao nhiêu tuổi rồi?

Giả Vân nói:

- Cháu mười tám tuổi.

Giả Vân là người nhanh nhẹn láu lỉnh, nghe thấy Bảo Ngọc nói thế, liền cười nói:

- Tục ngữ nói đúng lắm, "ông còn ngồi lỏn trong nôi, cháu đã lụ khụ chống gậy". Cháu tuy nhiều tuổi, nhưng "núi cao không che nổi mặt trời". Từ khi cha cháu mất đi, cháu không có người trông nom. Nếu chú Bảo không cho cháu là hạng người ngu xuẩn, nhận cho làm con, thì thực phúc cho cháu lắm.

Giả Liễn cười nói:

- Chú nghe chưa? Nếu nhận nó là con thì không thể bỏ liều nó được đâu.

Nói xong, cười rồi bỏ đi.

Bảo Ngọc cười nói:

- Ngày mai rỗi, cháu đến thăm chú, đừng có thậm thậm thụt thụt với bọn họ. Bây giờ chú bận. Ngày mai cháu cứ đến thư phòng, chúng ta sẽ nói chuyện nhiều. Rồi chú sẽ đưa cháu đi chơi vườn.

Nói xong, lên ngựa sang nhà Giả Xá. Thấy Giả Xá chỉ cảm xoàng thôi, Bảo Ngọc nói lại lời hỏi thăm của Giả mẫu, sau mới đến lượt mình. Giả Xá đứng dậy cảm tạ lời Giả mẫu, rồi sai người: "đưa cháu Bảo vào ngồi chơi trong buồng bà".

Bảo Ngọc đi về phía sau, vào buồng trên. Hình phu nhân trông thấy, đứng dậy hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu, Bảo Ngọc chào hỏi xong. Hình phu nhân dắt lên bục ngồi, hỏi han mọi người, rồi sai pha nước. Đương uống nước, Giả Tôn chạy đến chào Bảo Ngọc. Hình phu nhân nói:

- Thằng khỉ kia chạy nhông đâu về thế! Vú bõ của mày chết cả rồi à! Sao không ai trông nom, để cho mày mặt mũi nhem nhuốc thế kia, xem có còn ra dáng con nhà gia thế thư hương nữa không?

Vừa lúc ấy hai chú cháu Giả Hoàn, Giả lan đến thăm. Hình phu nhân bảo hai người ngồi vào ghế. Giả Hoàn trông thấy Bảo Ngọc cùng ngồi trên nệm với Hình phu nhân, lại được Hình phu nhân vồn vã vỗ về đủ cách, trong bụng lấy làm khó chịu, ngồi một lúc, đưa mắt cho Giả Lan bảo về. Giả Lan phải nghe theo, cũng đứng dậy xin về.

Bảo Ngọc thấy chúng về, cũng muốn về một thể. Hình phu nhân nói:

- Cháu hãy ngồi lại đây, bác còn muốn nói chuyện với cháu.

Bảo Ngọc đành phải ngồi nán lại. Hình phu nhân ngoảnh lại bảo Giả Hoàn, Giả Lan:

- Các cháu về nói với mẹ các cháu rằng ta có lời hỏi thăm. Các cô các chị ở cả bên này, nhộn lắm, làm ta nhức cả đầu! Hôm nay ta không thể giữ các cháu ở lại ăn cơm được.

Bọn Giả Hoàn chào rồi đi ra.

Bảo Ngọc cười:

- Thế ra các chị em ở cả bên này? Sao cháu không thấy?

Hình phu nhân nói:

- Lúc nãy họ ngồi ở đây, vừa mới ra cả phía sau, không biết chừng họ đã vào nhà nào rồi.

- Lúc nãy bác bảo cần nói câu chuyện, vậy thì chuyện gì ạ?

- Có chuyện gì đâu, chỉ muốn bảo cháu ở lại ăn cơm với các chị em đấy thôi. Rồi bác sẽ cho cháu cái này mang về mà chơi.

Đương nói chuyện, đã đến bữa cơm chiều. Bọn chị em đều đến đấy cả. Bàn ghế, bát đĩa được bày ra. Mọi người cùng ngồi ăn. Ăn xong, Bảo Ngọc cáo từ Giả Xá, cùng bọn chị em về trình Giả mẫu và Vương phu nhân, rồi đâu về đấy.

Giả Vân, hôm ấy đến thăm Giả Liễn, nhân tiện hỏi xem đã có việc gì làm chưa? Giả Liễn nói:

- Hôm nọ có một việc, nhưng thím cháu cố xin cho cháu Cần. Thím cháu có hứa với ta: nay mai trong vườn có mấy chỗ cần trồng cây, trồng hoa. Khi nào khởi công, nhất định để cháu làm.

Giả Vân nghĩ một lúc, nói:

- Nếu thế, cháu đành chờ vậy. Nhưng xin chú đừng nói với thím là hôm nay cháu đến đây hỏi dò, khi nào việc tới nơi, cháu nói cũng chưa muộn.

Giả Liễn nói:

- Chú nói làm gì! Thì giờ đâu nói những chuyện hão ấy? Sáng sớm mai chú phải đi sang ấp Hưng, nội nhật sẽ về. Tối mai cháu hãy lại, chứ đến sớm chú không rỗi đâu.

Nói xong, hắn vào nhà trong mặc quần áo rồi đi.

Giả Vân ở phủ Vinh về, đi đường nảy ra một ý nghĩ, liền đến ngay nhà cậu là Bốc Thế Nhân. Bốc Thế Nhân có một cửa hiệu bán hương liệu(1). Khi ở hiệu về, Bốc trông thấy Giả Vân, liền hỏi:

- Cháu đến đây làm gì?

- Cháu có việc muốn đến nhờ cậu giúp cho. Xin cậu bán chịu cho cháu ít băng phiến, xạ hương, mỗi thứ bốn lạng, đến tháng tám cháu sẽ trả đủ số tiền.

Bốc Thế Nhân cười nhạt:

- Thôi cháu đừng nói chuyện mua chịu nữa! Độ trước có một anh buôn chung với ta, mua hàng cho bà con, chịu mấy lạng bạc đến nay vẫn chưa trả. Vì thế mọi người phải chia nhau mà bù, rồi giao ước với nhau: không ai được bán chịu cho bạn bè, nếu phạm điều này phải phạt hai mươi lạng. Vả chăng những thứ hàng này đang hiếm, cháu đem tiền mặt đi mua cũng khó mà tìm được, chỉ vác tiền đi vác tiền về thêm tốn công thôi. Đó là một việc. Hai là cháu chẳng có việc gì đáng cần đến, chẳng qua mua chịu về rồi làm phí phạm đi. Cháu cứ phàn nàn rằng: gặp cậu lúc nào là bị mắng lúc ấy, vì cháu còn trẻ tuổi, chưa biết điều hay lẽ phải. Cháu cũng nên nghĩ cách lập thân, kiếm tiền mà ăn mà mặc, thì cậu trông thấy mới vui lòng.

Giả Vân cười nói:

- Cậu nói đúng. Khi cha cháu chết, cháu hãy còn bé, chả hiểu gì cả; chỉ nghe mẹ cháu nói lại, là việc chôn cất cha cháu, đều nhờ cậu đứng ra lo liệu cả. Cậu cũng biết đấy, cháu chỉ còn có một mẫu ruộng và hai gian nhà, có phải tự tay cháu phung phá hết đâu? "Đàn bà dù giỏi dang đến đâu, nếu không có gạo cũng khó lòng thổi ra được cơm". Thế thì bây giờ cậu bảo cháu làm thế nào? Ấy là cháu đấy, chứ những đứa mặt dày mày dạn, cứ vài ba ngày lại đến vòi vĩnh cậu, nay ba thưng gạo, mai vài thưng đậu, thì cậu cũng đành chịu chứ biết làm sao.

Bốc Thế Nhân nói:

- Cháu ơi! Nếu cậu giàu có, thì còn nói gì? Cậu thường nói với mợ cháu, chỉ buồn là cháu không biết lo tính. Giá cháu biết nghĩ cách lập thân, cứ đến các nhà lớn trong họ, dầu không gặp được các ông trên, thì chịu khó nhũn nhặn niềm nở với những người quản gia, cũng dễ tìm được công việc. Hôm nọ cậu ra phố, gặp anh Tư ở phòng thứ ba, ngồi chễm chệ trên một cái xe sang trọng, đằng sau có bốn năm cỗ xe chở một bận bốn năm mươi ni cô, đạo cô ra ngoài miếu. Nếu anh ta không giỏi dang, làm gì lại được trông nom việc ấy.

Giả Vân thấy cậu nói lôi thôi khó chịu, liền đứng dậy xin về. Bốc Thế Nhân nói:

- Làm gì mà vội thế? Cháu ở lại ăn cơm đã.

Bà vợ ở trong nhà nghe vậy nói:

- Ông mới lẩm cẩm chứ! Vừa kêu hết gạo, đã phải mua cho nửa cân mì mà ăn, ông lại còn giả cách phong lưu! Ông giữ cháu ở lại để nhịn đói à?

Bốc Thế Nhân nói:

- Mua thêm nửa cân nữa cũng được.

Bà ta liền gọi con gái:

- Con Ngân đâu! Mày sang bên nhà bà Vương trước cửa hỏi xem có tiền thì vay mấy chục đồng, sáng mai sẽ trả.

Giả Vân vội gạt ngay: "Xin đừng làm phiền nữa". Rồi chạy đi mất hút!

Giả Vân ở nhà cậu ra, trong lòng buồn bực, vừa nghĩ vừa cắm đầu chạy, không ngờ chạm ngay phải một người say rượu. Người kia mắng: "Con mẹ mày! Mù à, dám đâm cả vào tao!"

Giả Vân sợ giật nảy người, định lánh đi, nhưng bị người kia nắm được, nhìn kỹ, té ra Nghê Nhị, ở liền ngay bên xóm.

Nghê Nhị là một kẻ vô lại, làm nghề cho vay lãi, cho tiền đầu ở trong sòng bạc, thích uống rượu và đánh nhau. Bấy giờ hắn đi đòi nợ về, đã say khướt rồi, không ngờ Giả Vân chạy đâm sầm vào. Hắn giơ tay chực đánh, Giả Vân kêu lên:

- Ông Hai ơi! Hãy dừng tay! Tôi trót lỡ chạm phải ông!

Nghê Nhị nghe tiếng quen quen, trừng mắt nhìn, biết là Giả Vân, vội buông tay ra. Hắn đi lảo đảo, cười nói:

- Thế ra cậu hai Giả đấy à? Cậu ở đâu về đấy?

- Không thể nói hết được, vừa rồi tự nhiên tôi vấp phải một việc rất khó chịu!

- Không cần! Có việc gì bất bình cậu cứ nói lên, tôi sẽ trả thù cho. Ở đây ba làng bảy xóm, bất chấp thằng nào, cứ chạm đến người hàng xóm láng giềng của "tay thần rượu" này thì phải biết, thân tan nhà nát ngay!

- Xin ông đừng vội nóng, để tôi nói đầu đuôi cho ông nghe.

Rồi hắn kể lại việc Bốc Thế Nhân. Nghê Nhị nghe xong, giận nói:

- Nếu không phải bà con của cậu, đây sẽ mắng cho một trận. Việc này làm người ta tức chết được! Nhưng thôi, cậu đừng buồn. Có mấy lạng bạc đây, nếu cần, cậu mang về mà tiêu. Có một điều, tôi với cậu là chỗ hàng xóm láng giềng với nhau, đã bao lâu nay, tôi có tiếng là người cho vay nợ lãi ở ngoài, mà cậu chưa hề hé mồm hỏi tôi lần nào; có lẽ cậu sợ mất danh giá, hay sợ lãi nặng không dám chơi với tôi chăng? Nếu sợ lãi nặng, thì tiền đây, tôi không cần một đồng lãi và cũng không bắt cậu viết văn tự nữa. Nếu cậu sợ mất danh giá thì thôi, tôi không cho vay nữa. Cậu đi đằng cậu, tôi đi đằng tôi.

Vừa nói hắn vừa mở gói bạc ở trong túi ra.

Giả Vân nghĩ bụng: "Nghê Nhị xưa nay tuy là đứa vô lại, nhưng biết giúp người nghèo khổ, cũng có chút lòng nghĩa hiệp. Nếu ta không nhận, lỡ hắn nóng lên, lại xảy chuyện không hay; chi bằng ta cứ nhận, rồi sẽ trả gấp đôi là được". Liền cười nói:

- Thưa ông! Ông thực là bực hào hiệp. Tôi vẫn định đến hỏi vay ông. Nhưng thấy ông chơi bời toàn là với những người có tai tiếng, còn hạng chúng tôi bất tài bất lực, chắc ông chả đếm xỉa gì. Dù có hỏi, ông cũng chả cho vay nào. Nay ông đã có bụng tốt, tôi không dám từ chối; về nhà, tôi sẽ làm văn tự đem đến nộp ông.

Nghê Nhị cười khanh khách:

- Cậu nói khéo thật, tôi chưa nghe thấy bao giờ. Đã là bạn thân với nhau, thì cho vay lấy lãi làm gì. Đã cho vay lấy lãi, thì còn gì là bạn thân nữa? Thôi đừng nên dài lời. Cậu đã có lòng nghĩ đến, thì đây, món tiền mười lăm lạng ba đồng cân, cậu cầm lấy mà tiêu. Nếu làm văn tự, thì xin trả lại tiền, đây cho người có tai tiếng vay vậy.

Giả Vân cầm tiền, nói:

- Sao ông vội nóng thế? Tôi xin nghe theo lời ông là được rồi.

- Thế mới phải chứ! Bây giờ trời tối rồi, tôi không mời cậu đi uống rượu nữa. Cậu về thôi. Tôi còn phải đi có chút việc. Nhân tiện nhờ cậu bảo người nhà tôi cứ đóng cửa đi ngủ. Đêm nay tôi không về. Nếu có việc gì, bảo con cháu gái sáng mai đến nhà lái ngựa Vương thọt chân tìm tôi.

Hắn vừa nói, vừa lảo đảo đi.

Giả Vân may gặp được việc này, sung sướng lắm, không ngờ Nghê Nhị đối với mình lại tốt đến thế. Nhưng sau lại nghĩ: "Nghê Nhị lúc say thì hào phóng. nhưng mai tỉnh rượu, nó lại sang bắt ta giả gấp đôi thì làm thế nào?" Rồi lại nghĩ: "Không cần, đợi việc kia xong, ta cũng có thể giả gấp đôi được". Hắn liền chạy đến hàng bạc cân lại, đúng mười lăm lạng ba tiền bốn phân hai ly, không sai một tý nào, trong bụng càng mừng.

Về đến nơi, Giả Vân sang báo tin ngay cho vợ Nghê Nhị biết, rồi mới vào nhà. Bà mẹ đương ngồi trên bục xe chỉ, hỏi: "Mày đi đâu suốt ngày thế?"

Giả Vân sợ mẹ giận, không dám kể lại chuyện Bốc Thế Nhân, chỉ nói:

- Con phải ở lại chờ chú Liễn bên phủ tây. Mẹ đã ăn cơm chưa?

Bà mẹ trả lời:

- Ăn rồi, có để phần con đấy.

Rồi bảo thằng bé con lấy cơm ra cho Giả Vân ăn. Bấy giờ trời mới tối thật, đã lên đèn.

Giả Vân ăn cơm xong, xếp dọn đi ngủ. Hôm sau hắn dậy rửa mặt, rồi ra cửa phía nam vào hàng hương mua băng phiến và xạ hương đem đến phủ Vinh. Dò biết Giả Liễn đi vắng, hắn lẻn vào cửa sau, đến trước nhà Giả Liễn, thấy mấy đứa hầu nhỏ đang quét sân. Chợt nghe tiếng vợ Chu Thụy ở trong nhà ra bảo: "Đừng quét vội, mợ sắp ra đấy".

Giả Vân vội đến cười hỏi:

- Mợ sắp đi đâu thế?

Vợ Chu Thụy nói:

- Cụ gọi, chắc hỏi việc may quần áo gì đó.

Họ đương nói chuyện thì một đám người đưa Phượng Thư ra. Giả Vân biết Phượng Thư ưa nịnh, liền khép nép kính cẩn chạy đến chào. Phượng Thư cứ việc đi, mắt không thèm nhìn, chỉ hỏi:

- Mẹ cháu có được khỏe không, sao không thấy sang chơi?

- Mẹ cháu nhớ thím luôn. Chỉ vì người không được khỏe, nên không sang được.

- Sao khéo nói dối thế. Nếu thím không nhắc, thì cháu cũng chẳng nhớ gì đến thím.

- Cháu không sợ trời đánh hay sao, mà đứng trước bề trên, dám bày chuyện nói dối? Ngay chiều hôm qua, mẹ cháu còn nhắc đến: thím người yếu lại nhiều việc, được cái là sáng suốt, sắp xếp công việc đâu vào đấy. Nếu không, chỉ sai một ly, chưa biết sẽ xảy ra bao nhiêu chuyện lôi thôi.

Phượng Thư nghe đến câu ấy, mặt vui hẳn lên, đứng dừng lại hỏi:

- Làm sao tự nhiên vắng thím mà mẹ con cháu lại giở chuyện ấy ra nói?

Giả Vân cười nói:

- Vì cháu có người bạn thân mở một cửa hàng bán hương liệu. Sau nó quyên chức thông phán, được bổ đi một nơi trong tỉnh Vân Nam. Nó mang cả gia quyến đi. Hiệu ấy đóng cửa, nó xếp dọn hết hàng hóa, cái gì đáng bán rẻ thì bán, cái gì đáng cho thì cho, thứ gì quý giá thì đem tặng bạn thân, nên cháu mới được một ít băng phiến và xạ hương. Cháu về bàn với mẹ cháu, nếu đem bán đi, không những không đủ vốn, cũng chả ai có tiền mua. Ngay nhà có tiền, cũng chỉ bỏ ra vài đồng là đã rụt tay rồi. Nhược bằng đưa cho ai, cũng chẳng ai đáng dùng, lại đành bán rẻ bán rúng, của mười được một thôi. Sực nhớ năm ngoái thím phải mang một bọc bạc tướng đi mua những thứ này; chưa nói năm nay trong cung Quí phi cần dùng đã đành mà đến tiết Đoan dương, nhất định phải đắt gấp mười, gấp trăm, vì thế cháu nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có đem biếu thím là đúng hơn hết.

Hắn vừa nói vừa đưa cái hộp gấm ra.

Phượng Thư đương sắm đồ tết, cần dùng các thứ hương, thấy vậy, vừa đắc ý, vừa mừng, liền bảo Phong Nhi: "Cháu Vân đã cho thì nhận lấy đem về đưa cho Bình Nhi". Rồi lại nói:

- Xem cháu cũng biết điều đấy, không trách chú cháu thường bảo cháu là người tốt, nói chuyện thẳng thắn, biết lời ăn lẽ ở.

Giả Vân thấy mình nói đã được đắt lời, lại rán hỏi thêm nữa:

- Thế ra chú cháu thường nhắc đến cháu?

Phượng Thư thấy hỏi, muốn hứa cho hắn làm một việc, sau lại nghĩ: "Nó mới đưa các thứ hương đến, ta đã hứa cho việc làm ngay, sợ nó coi thường mình".

Vì vậy Phượng Thư chưa nhắc đến việc trồng cây trồng hoa vội, chỉ nói một vài câu chuyện suông, rồi sang bên Giả mẫu.

Giả Vân tất nhiên không tiện nhắc đến việc ấy, đành phải đi về. Nhân hôm trước Bảo Ngọc dặn đến đợi ở thư phòng, nên ăn cơm xong, hắn lại sang đấy ngay. Đến trước thư phòng Ỷ Tán Trai gặp Bồi Dính cùng Sừ Dược đánh cờ, đang cãi nhau vì tranh nhau con xe. Lại có bọn Dẫn Tuyền, Tảo Hoa, Khiêu Vân, Bạn Hạc, bốn năm a hoàn đương bắt chim sẻ trên nóc nhà. Giả Vân đứng đằng sau, giẫm chân một cái, nói:

- Thằng khỉ con, lại nghịch gì đấy. Tao đến đây.

Bọn a hoàn trông thấy Giả Vân, liền tản ra, mỗi người đi mỗi ngả.

Giả Vân vào ngồi trên một cái ghế trong thư phòng, hỏi:

- Chú Bảo có xuống đây không?

Bồi Dính nói:

- Hôm nay chưa xuống, cậu có việc gì, để tôi đi dò hộ xem.

Nói xong đi ra.

Giả Vân ở đấy xem tranh và đồ cổ, Một lúc lâu, không thấy Bồi Dính về, muốn tìm người hầu khác để hỏi, nhưng chúng đều đi chơi cả. Đương lúc ngồi buồn, nghe ngoài cửa sổ có tiếng thỏ thẻ: "Anh ơi!". Giả Vân nhìn ra, thấy một a hoàn độ mười lăm, mười sáu tuổi, vẻ người xinh xắn. Trông thấy Giả Vân, a hoàn ấy quay mình chực tránh. Vừa lúc Bồi Dính về, thấy nó đứng ở cửa, liền nói:

- May quá, đương tìm không được người nào vào trình.

Giả Vân thấy Bồi Dính, chạy ngay lại hỏi: "Thế nào?" Bồi Dính nói:

- Chờ lâu lắm cũng chẳng gặp người nào. May gặp cô này là người trong nhà cậu Bảo. - Nhân nói: - Nhờ cô vào báo, có cậu Hai bên kia sang chơi.

A hoàn nghe nói, biết là người trong họ, không lẩn tránh như trước nữa, cứ dán hai mắt nhìn chòng chọc vào mặt Giả Vân.

Giả Vân cười nói:

- Thôi đừng nói bên kia bên này nữa, cứ nói có Giả Vân là được rồi.

Một chốc a hoàn ra dáng đon đả nói:

- Cứ ý tôi, mời cậu hãy về, ngày mai sẽ đến. Tối hôm nay rỗi, tôi sẽ nói giúp.

Bồi Dính hỏi:

- Thế là thế nào?

A hoàn nói:

- Hôm nay cậu Bảo không nghỉ trưa, chắc bữa cơm chiều ăn sớm, rồi đi nghỉ ngay, không xuống thư phòng nữa đâu. Bảo cậu Hai chờ ở đây để nhịn đói à? Chi bằng cứ về, ngày mai cậu hãy đến là hơn. Ngay bây giờ có đưa tin vào, cậu ấy cũng chỉ ừ hử cho xong chuyện, không ăn thua đâu.

Giả Vân thấy a hoàn ấy nói năng rành rọt, dịu dàng, muốn biết tên, nhưng vì là người trong phòng Bảo Ngọc nên không tiện hỏi, chỉ nói:

- Cô ấy nói phải đấy, ngày mai tôi sẽ lại.

Nói xong đi ra.

Bồi Dính nói:

- Để tôi pha trà cậu xơi đã.

Giả Vân vừa đi vừa ngoảnh lại nói:

- Thôi không cần, tôi còn vội đi có việc.

Mồm nói, mắt hắn vẫn liếc nhìn a hoàn.

Hôm sau, Giả Vân lại đến, vừa gặp lúc Phượng Thư đi ra.Mới lên xe, Phượng Thư trông thấy Giả Vân liền bảo người gọi lại, và ở trong cửa xe nói ra:

- Cháu Vân, cháu lại cả gan giở trò ma mãnh trước mặt ta! Té ra cháu muốn xin việc, mới đem các thứ tới biếu ta. Hôm nọ chú cháu vừa mới mách ta, cháu muốn xin chú ấy một việc.

Giả Vân nói:

- Xin thím đừng nhắc đến việc cháu nhờ chú nữa. Cháu đương hối hận đây. Nếu biết thế này, lúc đầu cháu nhờ ngay thím, thì việc xong từ bao giờ rồi. Ai ngờ chú lại chẳng giúp cháu được việc gì.

Phượng Thư cười nói:

- Đằng ấy chẳng giúp được việc, nên hôm qua mới tìm đến ta chứ gì?

Giả Vân nói:

- Thím chẳng xét cho lòng thành của cháu. Cháu không bao giờ có ý ấy. Nếu có ý ấy thì hôm qua cháu đã chả đến cầu xin với thím. Nay thím biết rồi, cháu xin thôi không nhờ chú nữa. Cháu trông nhờ vào thím, xin thím thương cho!

Phượng Thư cười nhạt:

- Các cháu chỉ chọn công xa mà đi thôi. Nếu nói với ta sớm, dù việc to lớn thế nào, cũng chẳng để nhỡ nhàng đến tận bây giờ! Trong vườn này cần trồng cây trồng hoa, ta đương tìm người. Nói sớm thì việc cháu xong rồi.

Giả Vân cười:

- Nếu thế, sáng mai thím cho cháu đi làm ngay.

Một lúc sau Phượng Thư nói:

- Ta xem việc này không ăn thua gì đâu. Chờ đến tháng giêng sang năm, ta sẽ cho cháu thầu món dầu đèn, chẳng tốt hơn ư?

Giả Vân nói:

- Xin thím cứ cho cháu nhận việc này. Nếu làm được, thím lại giao cho cháu việc kia.

Phượng Thư cười nói:

- Cháu lại định "thả dây câu dài để bắt con cá lớn"(2) chứ gì? Nếu chú không nói hộ thì thím cũng thây kệ. Cơm xong, thím sẽ về ngay. Vào khoảng quá trưa, cháu đến lĩnh tiền. Ngày mai thì bắt đầu trồng hoa.

Nói xong lên xe đi.

Giả Vân mừng cuống lên, lại đến Ỷ Tán Trai tìm Bảo Ngọc. Nhưng từ sớm, Bảo Ngọc đã đi sang phủ Bắc Tĩnh vương rồi. Giả Vân ngồi chờ đến trưa. Khi nghe Phượng Thư về, hắn vội đến để viết giấy lĩnh đối bài. Đến nhà ngoài, nhờ người vào trình. Thái Minh ra mang phiếu lĩnh vào, ghi số tiền và ngày tháng, rồi mang cả phiếu và đối bài ra trao cho Giả Vân. Giả Vân cầm lấy xem, thấy được lĩnh hai trăm lạng bạc, mừng quá, chạy vụt ngay đến kho lĩnh, rồi về nhà nói với mẹ, mẹ con đều mừng rỡ hớn hở. Sáng hôm sau, canh năm Giả Vân đã đem tiền đến giả Nghê Nhị, rồi mang năm mươi lạng ra cửa Tây, đến nhà Phương Thung là thợ trồng hoa mua các thứ cây.

Hôm trước, Bảo Ngọc có hẹn Giả Vân đến chơi. Câu nói ấy chẳng qua là câu khách sáo của bọn con nhà phú quí, nói rồi quên ngay, khi nào còn để ý đến.

Chiều hôm ấy Bảo Ngọc ở phủ Bắc Tĩnh vương về, vào thăm Giả mẫu, Vương phu nhân, rồi về thay quần áo, định đi tắm. Lúc này Tập Nhân đang bận xe dây ở nhà Bảo Thoa; Thu Văn, Bích Ngân thì đi quảy nước; Đàn Vân thì về nhà mừng ngày sinh nhật mẹ; Xạ Nguyệt thì ốm nằm trong nhà, chỉ còn vài a hoàn ở đó sai vặt. Chúng chắc là không ai gọi đến, nên ra chơi đùa với nhau. Bấy giờ chỉ có một mình Bảo Ngọc ở nhà, muốn uống nước, gọi hai ba lần, mới thấy hai bà già đến. Bảo Ngọc trông thấy liền xua tay:

- Thôi, thôi, không cần nữa.

Bọn bà già đều phải lui ra.

Bảo Ngọc đi tìm lấy chén để rót nước. Chợt đằng sau có người nói: "Thưa cậu, không khéo bỏng tay, để tôi rót". Vừa nói nó vừa chạy đến cầm lấy chén. Bảo Ngọc giật mình hỏi:

- Cô ở đâu đến? Làm ta giật mình.

A hoàn ấy vừa cười vừa nói:

- Tôi ở nhà phía sau. Vừa mới ở cửa sau lên, cậu không nghe thấy tiếng chân đi à?

Bảo Ngọc vừa uống nước vừa ngắm nghía, thấy a hoàn ấy mặc bộ quần áo dung dúc, mái tóc vén lên đen nhánh, gương mặt thon thon, thân hình óng ả, trông rất xinh xắn tươi tỉnh. Liền cười hỏi:

- Cô cũng là người trong nhà này à?

- Vâng.

- Người trong nhà sao ta lại không biết?

- Còn nhiều người cậu không biết, nào phải có một mình tôi! Xưa nay tôi không pha nước, không mang thứ nọ thứ kia, không làm một việc gì ở trước mặt cậu, thì cậu làm sao biết được?

- Tại sao cô lại không làm việc gì trước mặt ta?

- Chuyện ấy tôi cũng khó nói. Nay chỉ thưa cậu một việc: Hôm qua có cậu nào tên là cậu Vân đến thăm. Tôi đoán cậu bận, nên nhờ Bồi Dính bảo cậu ấy hôm nay đến, không ngờ cậu lại sang bên phủ Bắc chơi.

Đương nói thì Thu Văn và Bích Ngân cười khanh khách chạy đến. Hai người khiêng một thùng nước, tay vén quần áo, loạng choạng bước thấp bước cao. A hoàn này vội ra đỡ lấy. Thu Văn và Bích Ngân đang gắt nhau, người này kêu "mày làm ướt quần áo tao", người kia kêu "mày giẫm lên giày tao". Chợt trông thấy một người đến đỡ lấy nước, nhìn kỹ thì chính là Tiểu Hồng.

Hai người lấy làm lạ, bỏ thùng nước xuống, vội chạy vào trong nhà xem có ai nữa không, chỉ thấy có một mình Bảo Ngọc. Hai người đều khó chịu, nhưng còn phải sắp sửa đồ tắm. Chờ Bảo Ngọc cới quần áo xong, hai người khép cửa lại rồi chạy sang buồng bên cạnh tìm Tiểu Hồng, hỏi: "Mày vừa ở trong nhà làm gì?"

Tiểu Hồng nói:

- Tôi có ở trong nhà đâu? Tôi đương đi tìm cái khăn lụa của tôi ở phía sau, không ngờ cậu Hai muốn uống nước, gọi các chị, chẳng có ai ở nhà. Tôi vừa mới lên rót nước thì các chị về.

Thu Văn vênh mặt nhổ toẹt một cái mắng:

- Đồ mặt dày! Lẽ ra mày phải đi khiêng nước, mày kêu bận, chúng tao phải đi thay, mày vớ lấy dịp may chực một bước nhảy tót lên cao hay sao? Mày cho chúng tao không bằng mày à? Lấy gương mà soi xem, cái mặt ấy đã đáng rót nước chưa?

Bích Ngân nói:

- Thôi ngày mai ta bảo nhau, bao nhiêu việc lấy chè, lấy nước, cùng các thứ, đừng ai động đến, cứ để cho một mình nó làm tất.

Thu Văn nói:

- Chi bằng chúng ta đi hết cả, cứ để cho một mình nó ở nhà này xem sao?

Hai người đương lời qua tiếng lại, thì có một bà già đến truyền lời của Phượng Thư:

- Ngày mai có người đem thợ đến trồng cây, trồng hoa, các cô phải cẩn thận, không được phơi quần áo bừa bãi. Chỗ núi đất đều che màn kín xung quanh, không ai được chạy lung tung.

Thu Văn liền hỏi:

- Không biết ngày mai ai đến trông nom đám thợ?

Bà già nói:

- Hình như là cậu Vân ở nhà phía sau.

Thu Văn và Bích Ngân không biết là ai, cứ hỏi lẫn nhau. Duy Tiểu Hồng biết rõ là người đã gặp ở thư phòng hôm trước.

Nguyên Tiểu Hồng họ Lâm, tên là Hồng Ngọc. Vì chữ "Ngọc" trùng với tên Bảo Ngọc và Đại Ngọc, nên đổi là Tiểu Hồng. Nhà ấy mấy đời làm đầy tớ trong phủ Vinh. Cha Hồng Ngọc hiện giữ việc thu quản ruộng đất nhà cửa các nơi. Hồng Ngọc năm nay mới mười sáu tuổi. Khi chia người đến vườn Đại Quan, Hồng Ngọc được đến ở viện Di Hồng, chỗ này rất thanh nhã và tĩnh mịch. Sau ngày các chị em vào ở trong vườn, thì viện Di Hồng lại là nhà ở của Bảo Ngọc.

Hồng Ngọc tuy là a hoàn chưa hiểu mấy việc đời, nhưng vì có đôi phần nhan sắc, nên cũng mơ tưởng được vươn mình lên cao, lúc nào cũng muốn khoe khoang trước mặt Bảo Ngọc. Nhưng bên cạnh Bảo Ngọc biết bao nhiêu người lanh lợi sắc sảo, nên khó có chỗ mà lọt vào được. Ngờ đâu hôm nay nó mới có dịp này, thì lại bị bọn Thu Văn mắng cho một trận nên thân, trong lòng nguội đi quá nửa. Đang lúc bực mình, chợt nghe bà già nói đến Giả Vân, tự nhiên lòng thấy nao nao, nó lủi thủi về buồng, âm thầm nghĩ ngợi, một mình trằn trọc bâng khuâng như mất vật gì, ngủ đi lúc nào không biết. Bỗng nghe tiếng gọi khe khẽ ngoài cửa sổ: "Hồng Ngọc! Khăn lụa của em ta nhặt được đây này". Hồng Ngọc vội chạy ra xem, thì chính là Giả Vân. Mặt liền đỏ bừng lên, có dáng bẽn lẽn, hỏi:

- Cậu Hai nhặt được khăn ấy ở đâu?

Giả Vân cười nói:

- Em lại đây, anh sẽ bảo.

Vừa nói vừa kéo lấy áo, Hồng Ngọc đỏ mặt quay mình chạy, vướng phải bực cửa, ngã lăn ra.

---------------------------------------

(1). Các chất thơm như bạch đàn, băng phiến, xạ hương, v.v..

(2). Ý nói tham muốn ăn to.

Hồi thứ hai mươi lăm

Mắc phải thuật năm con quỷ, chị em hóa điên rồ;

Nhờ được phép hai vị tiên, ngọc thiêng hết mờ ám.

Hồng Ngọc đương lúc tâm thần hoảng hốt, tình tứ triền miên, ngủ đi lúc nào không biết, chợt thấy Giả Vân nắm lấy, vội quay người chạy, vướng phải bực cửa, giật mình thức dậy, biết mình chiêm bao. Vì thế nghĩ quanh nghĩ quẩn, cả đêm không ngủ. Sáng hôm sau nó trở dậy, có mấy a hoàn đến rủ đi quét nhà cửa, múc nước rửa mặt. Hồng Ngọc không trang điểm gì, chỉ soi gương vén mái tóc qua loa, rửa tay xong thắt lưng rồi đi quét nhà.

Hôm trước Bảo Ngọc trông thấy Hồng Ngọc, đã để ý tới, muốn gọi thẳng đến để sai bảo, nhưng một là sợ bọn Tập Nhân hay ngờ vực, hai là chưa biết tính nết Hồng Ngọc thế nào, khá ra thì chớ, lỡ có làm sao phải trả về cũng khó coi, nên trong lòng hơi buồn. Sáng ngày trở dậy, Bảo Ngọc chẳng rửa ráy gì, cứ ngồi nghĩ vơ vẩn. Một chốc mở cửa sổ, ở trong màn the trông ra ngoài rõ mồn một, thấy bọn a hoàn đương quét sân, ai cũng đánh phấn tô son, cài trâm giắt hoa lịch sự lắm, chỉ thiếu có một cô hôm trước. Bảo Ngọc liền xỏ giày, ra ngoài, ra dáng đi ngắm hoa, ngửa mặt lên nhìn ngược nhìn xuôi, khắp một lượt.

Bỗng thấy ở góc hàng hiên phía nam có một người đương đứng tựa lan can, nhưng lại bị cành hải đường che khuất, trông không được rõ. Lại gần nhìn kỹ, thì chính là a hoàn hôm trước đương ngẩn người đứng đấy. Bảo Ngọc muốn đến tận nơi, lại sợ không tiện. Chợt thấy Bích Ngân lại mời đi rửa mặt, đành phải quay về.

Hồng Ngọc đương lúc đứng thẫn thơ, thấy Tập Nhân vẫy tay gọi, cũng phải chạy lên. Tập Nhân cười nói:

- Ống nhổ của nhà chưa nhặt nhạnh được, em đến chỗ cô Lâm mượn một cái.

Hồng Ngọc chạy ngay đến quán Tiêu Tương. Đi đến cầu Thúy Yên, ngẩng nhìn lên, thấy trên sườn núi đều che màn, biết ngày hôm nay có thợ đến trồng cây. Đằng xa, có một đám người đào đất. Giả Vân cũng đương ngồi trên hòn đá. Hồng Ngọc muốn đi qua đấy, nhưng lại sợ, đành len lén đến quán Tiêu Tương mượn ống nhổ, rồi lủi thủi về buồng nằm. Mọi người cho là cô ta mệt, chẳng ai để ý đến.

Hôm sau, ngày sinh nhật bà Vương Tử Đằng, có sai người đến mời Giả mẫu và Vương phu nhân sang dự tiệc. Thấy Giả mẫu không đi, Vương phu nhân cũng không đi. Tiết phu nhân, Phượng Thư, ba chị em Nghênh Xuân, Bảo Thoa và Bảo Ngọc đều sang cả, đến chiều mới về.

Vương phu nhân sang ngồi chơi nhà Tiết phu nhân, thấy Giả Hoàn đi học về, liền sai nó sao bản kinh Kim Cương chú(1). Giả Hoàn leo ngay lên giường Vương phu nhân, sai người thắp đèn, ngồi chễm chệ viết, trông ra dáng lắm. Nó lúc sai Thái Hà pha nước, lúc sai Ngọc Xuyến cắt hoa đèn, lúc sai Kim Xuyến che đèn cho khỏi chói. Bọn a hoàn xưa nay vẫn ghét nó, chẳng ai thèm bắt lời. Cbỉ có Thái Hà là chiều chuộng, đi pha nước cho nó uống. Nhân thấy Vương phu nhân đang nói chuyện, Thái Hà khẽ bảo nó: "Sao không biết thân biết phận, cứ làm cho người ta chán ghét".

Giả Hoàn nói:

- Cô đừng lòe tôi. Cô chỉ thích Bảo Ngọc thôi, không thèm nhìn đến tôi, tôi biết cả rồi.

Thái Hà nghiến răng lại, lấy ngón tay dí vào đầu Giả Hoàn một cái nói:

- Không còn tí lương tâm nào! Chó cắn cả Lã Động Tân(2), chẳng biết phân biệt hay dở gì cả.

Hai người đương nói thì Phượng Thư về trình Vương phu nhân. Vương phu nhân hỏi lẩn mẩn: Hôm nay có mấy vị khách đàn bà? Vở hát có hay không? Tiệc rượu bày biện thế nào? Một lúc Bảo Ngọc cũng đến; trông thấy Vương phu nhân, lễ phép nói mấy câu, rồi sai người bỏ khăn che đầu, cởi áo, tháo giày, lăn nhào vào lòng Vương phu nhân. Vương phu nhân lấy tay vỗ về. Bảo Ngọc giơ tay víu lấy cổ Vương phu nhân nũng nịu mấy câu. Vương phu nhân nói:

- Con tôi uống nhiều rượu rồi, mặt đỏ chín lên mà vẫn còn cứ nghịch. Lát nữa hơi rượu sẽ bốc lên đấy! Thôi con hãy đi nằm một lúc đi.

Nói xong sai người lấy gối đến.

Bảo Ngọc nằm sau Vương phu nhân, bảo Thái Hà vỗ lưng. Bảo Ngọc cười cợt, nhưng Thái Hà lờ đi, không để ý đến, cứ hai mắt nhìn chòng chọc vào Giả Hoàn. Bảo Ngọc liền kéo tay Thái Hà nói:

- Chị ơi! Chị để ý đến tôi một tí.

Thái Hà giật tay lại và nói:

- Hễ đùa nữa tôi kêu ầm lên đấy!

Những câu hai người cãi nhau, Giả Hoàn đều nghe rõ cả. Xưa nay hắn vẫn ghét Bảo Ngọc, nay thấy Bảo Ngọc trêu cợt Thái Hà, trong bụng tức quá không thể nhịn được. Tuy không nói ra nhưng hắn vẫn ngấm ngầm tìm kế hãm hại. Nhân tiện ngồi gần đó, hắn làm ra bộ nhỡ tay, hắt cả đĩa dầu đương cháy vào mặt Bảo Ngọc, Bảo Ngọc kêu lên một tiếng, cả nhà trong nhà ngoài giật mình đổ xô lại, cầm ba bốn cây đến đến soi, thấy mặt Bảo Ngọc đầy dầu. Vương phu nhân vừa giận vừa nóng, vội sai người lau mặt cho Bảo Ngọc, rồi mắng Giả Hoàn. Phượng Thư lật đật lên bục, chạy chữa cho Bảo Ngọc rồi nói:

- Thằng Ba là đồ cục súc. Tao đã bảo mày không đáng là bậc cao quý! Dì Triệu ngày thường cũng phải dạy bảo nó chứ!

Câu nói ấy nhắc cho Vương phu nhân nhớ ra, liền gọi dì Triệu đến mắng: "Đẻ ra những giống khốn nạn ấy mà không biết dạy! Đã mấy phen tao không thèm chấp, chúng bay đắc ý càng làm già!"

Dì Triệu ngày thường vẫn đem lòng ghen ghét, bực bội với Phượng Thư và Bảo Ngọc, nhưng không dám nói. Nay thấy Giả Hoàn gây chuyện, bị mắng một trận, đành nín thin thít, chạy lại thu xếp cho Bảo Ngọc. Bấy giờ thấy má bên trái Bảo Ngọc có một nết bỏng, may không vào mắt.

Vương phu nhân thấy thế đau ruột lắm, lại sợ Giả mẫu hỏi thì không biết nói ra sao. Cáu quá, Vương phu nhân lại mắng dì Triệu một trận nữa. Rồi yên ủi và lấy thuốc bôi lên má cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc nói:

- Đau chút ít thôi, không việc gì đâu. Ngày mai bà hỏi, cứ nói là con vô ý làm bỏng, thế là được.

Phượng Thư nói:

- Dầu nói là tự mình làm bỏng, bà cũng mắng người nhà không trông nom cẩn thận. Muốn gì thì gì, bà cũng nổi bực cho mà xem.

Vương phu nhân sai người đưa Bảo Ngọc về phòng. Bọn Tập Nhân thấy thế rối rít cả lên.

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc hôm ấy đi vắng cả ngày, trong bụng buồn buồn. Chiều đến, cho người sang hỏi hai ba lần, mới biết là Bảo Ngọc bị bỏng, liền sang tận nơi hỏi thăm. Thấy Bảo Ngọc đương soi gương, má bên trái lem luốc những thuốc, Đại Ngọc tưởng vết bỏng nguy hiểm, liền đứng nhích lại nhìn. Bảo Ngọc che má lại rồi xua tay bảo Đại Ngọc đi ra ngoài, vì biết Đại Ngọc xưa nay ưa sạch sẽ, nên không dám cho xem. Đại Ngọc cũng biết mình có tính ấy, Bảo Ngọc sợ bẩn không cho xem, liền cười nói:

- Tôi xem bỏng chỗ nào, làm gì mà phải giấu!

Rồi nghển cổ lên nhìn và hỏi Bảo Ngọc đau thế nào. Bảo Ngọc nói:

- Không đau lắm, chỉ chữa vài ngày là khỏi thôi.

Đại Ngọc ngồi một lúc, buồn rầu ra về.

Hôm sau Bảo Ngọc sang thăm Giả mẫu. Tuy đã nhận là tự mình vô ý làm bỏng, nhưng Giả mẫu vẫn cứ mắng những người hầu.

Ngày sau nữa, có Mã đạo bà là mẹ nuôi bán khoán của Bảo Ngọc đến chơi, trông thấy Bảo Ngọc bỏng, bà ta giật mình hỏi đầu đuôi, gật đầu thở dài rồi lấy tay vạch mấy vạch vào má Bảo Ngọc, mồm lẩm bẩm đọc mấy câu chú và nói: "Đó là tai bay vạ gió đấy thôi, thế nào cũng khỏi". Lại hỏi Giả mẫu:

- Lạy cụ, lạy đức Phật sống, người có biết đâu trong kinh Phật nói rất ghê gớm? Bao nhiêu con cháu nhà vương công, khanh tướng, khi mới đẻ ra, lũ ma xó đã lẩn quất bên mình, cứ sểnh ra là nó tìm cách trêu quấy. Có lúc vặn người, véo thịt, hoặc đương ăn làm cho rơi bát, đương đi đổ xô cho ngã. Vì thế nhiều người khó nuôi đến lớn được.

- Thế có phép nào cứu chữa được không?

- Cái ấy dễ thôi, chỉ làm nhiều điều từ thiện là được. Trong kinh Phật lại nói: phương tây có vị bồ tát Đại Quang Minh Phổ Chiếu, chuyên giữ việc soi xét ma quỷ lẩn quất, nếu thiện nam tín nữ thành tâm thờ cúng người, thì con cháu được bình yên lâu dài, không còn có tai vạ tà ma ám ảnh nữa.

- Không biết thờ cúng vị ấy bằng gì?

- Chẳng tốn kém gì mấy; ngoài việc đèn hương ra, mỗi ngày thêm độ mấy cân dầu thắp đèn đại hải. Đèn này tức là hiện thân của đức Phật ngày đêm không bao giờ tắt.

- Một ngày một đêm thắp hết độ bao nhiêu dầu? Ta sẽ cúng.

- Không cần nhiều, tùy chủ thành tâm cúng thế nào thì cúng. Nhà tôi cũng có mấy bà vương phi mệnh phụ cúng lễ, như bà Nam An quận vương cúng một ngày bốn mươi tám cân dầu, một cân bấc đèn, để thắp một đèn đại hải to gần như cái vại; bà Cẩm Điền hầu cúng một ngày hai mươi bốn cân; còn mấy nhà nữa mỗi nhà hoặc năm cân, ba cân, một cân. Nhà nghèo dù tám lạng nửa cân tôi cũng vẫn thắp cho cả.

Giả mẫu gật đầu nghĩ ngợi. Mã đạo bà nói:

- Còn một việc nữa, nếu là cúng cho bố mẹ và bề trên, nhiều cũng chẳng sao; nhưng cụ cúng cho cậu Bảo, nhiều quá sợ cậu ấy gánh không nổi, lại hóa tổn phúc, không nên. Vì vậy chỉ cúng độ năm bảy cân là đủ.

- Nếu thế thì mỗi ngày ta cúng năm cân, hàng tháng đưa cả một lần.

- A dì đà Phật, từ bi đại bồ tát!

Giả mẫu lại dặn các người hầu:

- Từ giờ cậu Bảo Ngọc đi chơi đâu, sẽ đưa mấy quan tiền giao cho bọn theo hầu, hễ gặp những người tăng đạo nghèo khổ thì bố thí cho người ta.

Sau đấy Mã đạo bà đi thăm hỏi các phòng. Một chốc đến phòng dì Triệu. Chào nhau xong, dì Triệu sai a hoàn pha nước mời uống. Bấy giờ dì Triệu đương khâu giày. Mã đạo bà thấy trên giường có những mảnh lụa lặt vặt, liền nói:

- Tôi hiện không có gì làm mũi giày, bà dì cho mấy mảnh, màu gì cũng được.

Dì Triệu thở dài:

- Bà xem ở đây còn có mảnh nào ra hồn nữa. Nếu là của tốt, khi nào lại đến nơi tôi? Bà xem mảnh nào dùng được, chọn lấy vài mảnh mà dùng.

Mã đạo bà chọn lấy mấy mảnh đút vào tay áo.

Dì Triệu lại hỏi:

- Hôm nọ tôi có cho mang năm trăm đồng tiền đến cúng đức Dược Vương, bà đã cúng hộ chưa?

- Cúng rồi.

- A di đà Phật! Nếu tôi được rộng lưng một chút, thì đến cúng luôn, khốn nỗi lòng nhiều mà của ít.

- Bà cứ yên tâm, sau này cậu Hoàn lớn lên, được đi làm quan, lúc bấy giờ tha hồ mà cúng.

- Thôi, thôi, đừng nhắc đến chuyện ấy nữa. Nay việc đã rõ rành rành: Mẹ con tôi thì bằng ai trong nhà này? Bảo Ngọc là đứa bé con, được cái mặt mũi sáng sủa, bộ dạng dễ thương, người trên yêu quý nó, thôi cũng đành vậy; tôi chỉ tức con mẹ chủ non nhà này!

Vừa nói dì Triệu vừa giơ hai ngón tay. Mã đạo bà biết ý, liền hỏi:

- Có phải mợ hai Liễn không?

Dì Triệu giật mình xua tay ngay, đứng dậy vén rèm ra xem thấy không có ai, mới quay vào bảo đạo bà:

- Hễ nói đến con chủ non ấy là tôi không thể chịu được! Một phần gia tư nhà này, nó không chuyển về nhà cha mẹ nó, thì tôi không phải giống người!

Mã đạo bà nghe thấy thế, liền dò ý:

- Dễ tôi phải đợi bà nói mới rõ à? Chả lẽ cả nhà lại không ai biết hay sao? Thôi bà cứ mặc kệ người ta, đừng để ý đến, như thế lại xong.

Dì Triệu nói;

- Mẹ ơi! Chẳng mặc kệ thì làm gì được nó?

- Tôi nói câu này không phải là gây tai gây ác gì đâu: Chỉ tại các người không có gan, còn trách gì ai. Nếu công khai không làm hại nổi, thì tìm cách hại ngầm, lẽ nào lại chịu để đến bây giờ?

Dì Triệu nghe câu ấy có ngụ ý riêng, trong bụng mừng thầm, liền hỏi:

- Cách hại ngầm làm thế nào? Tôi vẫn định bụng thế, nhưng chưa tìm ra được người giỏi giang giúp cho đấy thôi. Xin bà bảo ban cho, xong việc tôi sẽ hậu tạ.

Mã đạo bà thấy đã ăn ý, lại tìm cách nói lảng:

- A di đà Phật, bà đừng hỏi tôi, tôi biết thế nào được việc ấy. Nói ra phải tội!

Dì Triệu nói:

- Bà cứ khéo đắn đo! Xưa nay bà là người hay cứu giúp kẻ khốn khó, có lẽ nào người ta đang tìm cách làm hại mẹ con tôi mà bà lại cứ giương mắt ngồi nhìn? Hay là bà bảo tôi không tạ được bà?

Đạo bà cười nói:

- Bà lầm rồi! Bảo tôi không nỡ ngồi nhìn mẹ con bà bị người ta ức hiếp thì được! Chứ tạ hay không thì tôi không nghĩ đến chuyện ấy đâu. Bà còn có cái gì đáng tạ nữa?

Dì Triệu nghe vậy, lòng đã nhẹ nhàng đôi chút, liền nói:

- Bà là người hiểu việc, sao lại còn nói lẩn thẩn thế? Nếu phép của bà mầu nhiệm, làm được cho hai đứa ấy chết đi, tài sản nhà này không về tay mẹ con tôi hay sao? Bấy giờ bà muốn gì mà chẳng được?

Mã đạo bà cúi đầu một lúc, rồi nói:

- Đến khi ấy công việc xong xuôi cả, không có bằng cớ gì, bà còn nghĩ gì đến tôi!

- Điều ấy có khó gì? Bây giờ tôi hãy đưa cho bà mấy lạng bạc, một ít quần áo và đồ trang sức, bà cầm lấy trước; tôi lại viết thêm một bức văn tự nợ, đến bấy giờ tôi sẽ theo đủ số tiền trả cho bà.

- Có thật thế không?

- Khi nào tôi nói dối.

Dì Triệu gọi bà già tin cẩn đến, ghé vào tai thì thầm mấy câu. Bà kia đi một lúc trở về, đem theo bức văn tự vay năm trăm lạng bạc. Dì Triệu điểm chỉ, rồi vào mở hòm lấy những đồ trang sức, tiền bạc riêng của mình đưa cho Mã đạo bà và nói:

- Bà hãy cầm trước cái món này về mua hương nến cúng dâng có được không?

Mã đạo bà thấy đống bạc trắng phau, lại có văn tự nợ, liền bất cần đen trắng, nhận lời ngay. Mụ quờ tay cầm lấy món tiền, rồi đến văn tự. Sau đó mụ rút trong người ra mười con quỷ cắt bằng giấy, mặt xanh nanh vàng, cùng hai hình nhân đưa cho dì Triệu, khẽ dặn:

- Viết tên tuổi hai người ấy vào hai hình nhân này và đặt năm con quỷ này ở đầu giường mỗi người là được. Tôi trở về làm phép sẽ có hiệu nghiệm. Bà phải hết sức cẩn thận, đừng sợ gì hết.

Chợt có a hoàn bên Vương phu nhân đến tìm: "Mã đạo bà có đấy không? Bà Hai đang đợi đấy". Hai người liền từ biệt nhau.

Từ khi Bảo Ngọc bị bỏng, không đi chơi đâu, Đại Ngọc cũng chỉ ở nhà chuyện trò với chị em. Một hôm ăn cơm xong, Đại Ngọc ngồi xem sách, thấy buồn thiu, liền đi thêu thùa với bọn Tử Quyên, cũng vẫn không thấy khoan khoái. Đại Ngọc tựa cửa nhìn ra ngoài, một lúc đủng đỉnh ra sân xem mấy cái măng mới mọc. Ra khỏi cửa, nhìn vào vườn, chẳng thấy một ai, chỉ trơ hoa nở đầu cành, chim kêu bên suối, liền rảo bước sang viện Di Hồng, thấy mấy a hoàn xách nước, đương đứng ở hiên xem chim họa mi tắm. Nghe thấy trong buồng có tiếng cười, Đại Ngọc bước vào, thì ra Lý Hoàn, Phượng Thư và Bảo Thoa đang ở đấy. Trông thấy Đại Ngọc vào, họ cười nói:

- Kìa! Chẳng lại thêm một người nữa đến kia!

Đại Ngọc cười hỏi:

- Hôm nay ai mời mà các người đến đông thế này?

Phượng Thư nói:

- Hôm nọ tôi cho mang hai bao chè sang biếu, cô đi đâu không có nhà?

Đại Ngọc nói:

- Thế mà tôi quên mất đấy, xin cảm ơn chị.

Phượng Thư nói:

- Uống có ngon không?

Bảo Ngọc đỡ lời ngay:

- Chẳng biết người khác uống thế nào, chứ tôi thì không thấy ngon gì.

Bảo Thoa nói:

- Chè ấy sắc không đẹp, nhưng vị cũng ngon đấy.

Phượng Thư nói:

- Đó là chè của nước Xiêm La đem cống, tôi uống cũng chẳng thấy ngon, không bằng chè của chúng ta thường dùng.

Đại Ngọc nói:

- Chẳng biết tì vị các người ra sao, còn tôi uống thì thấy ngon.

Bảo Ngọc nói:

- Cô cho là ngon thì mang cả chè ở bên tôi về mà uống.

Phượng Thư nói:

- Bên tôi cũng hãy còn nhiều.

Đại Ngọc nói:

- Có còn thật không, để tôi cho người sang lấy.

Phượng Thư nói:

- Không cần. Ngày mai tôi muốn nhờ cô một việc, tôi sẽ cho người mang sang một thể?

Đại Ngọc cười nói:

- Chị em nghe đấy, mới được một ít chè, mà chị ấy đã lại định sai phái rồi.

Phượng Thư cười nói:

- Mới nói nhờ một tý, cô đã giở chuyện chè với nước ra. Đã uống nước chè của nhà người ta, mà lại không chịu làm con dâu nhà người ta à?

Mọi người cười rộ lên. Đại Ngọc đỏ mặt quay đầu đi chỗ khác, không nói một câu. Lý Hoàn cười nói với Bảo Thoa:

- Câu khôi hài của thím Hai hay đấy.

Đại Ngọc nói:

- Khôi hài gì! Chẳng qua là những giọng lưỡi bần tiện làm cho người ta chối cả tai.

Nói xong nhổ toẹt một cái.

Phượng Thư cười nói:

- Khéo mơ hồ! Cô làm dâu nhà này không đáng hay sao?

Rồi trỏ vào Bảo Ngọc nói:

- Cô thử xem, con người không xứng đáng sao? Dòng họ không xứng đáng sao? Nề nếp và gia tư không xứng đáng sao? Có cái gì làm cô đáng xấu hổ nào?

Đại Ngọc đứng dậy chạy ra. Bảo Thoa gọi lại:

- Cô Tần đâm cuống rồi! Không trở lại à! Bỏ đi thì còn ra làm sao nữa.

Nói xong đứng dậy kéo Đại Ngọc lại.

Hai người vừa trở về đến cửa, gặp dì Triệu và dì Chu đến thăm Bảo Ngọc. Bảo Ngọc và mọi người đều đứng dậy mời ngồi, duy Thượng Thư vẫn cười đùa với Đại Ngọc không để ý đến.

Bảo Thoa đương muốn nói thêm, thì có a hoàn bên Vương phu nhân đến nói:

- Bà mợ sang chơi đấy, mời các mợ các cô về chào.

Lý Hoàn vội gọi Phượng Thư đi ra. Dì Triệu và dì Chu cũng ra. Bảo Ngọc nói:

- Tôi không thể đi được, xin chị em đừng để mợ sang đây. Cô Lâm hãy ngồi lại một tí, tôi có câu chuyện muốn nói.

Phượng Thư quay lại bảo Đại Ngọc:

- Có người đang muốn nói chuyện với cô đấy, hãy trở lại đã.

Rồi đẩy Đại Ngọc một cái và cùng Lý Hoàn cười đi ra.

Bảo Ngọc kéo tay áo Đại Ngọc lại, nhưng chỉ cười khì khì, muốn nói không nói ra được. Đại Ngọc đỏ bừng mặt lên, giật ra định chạy. Bỗng Bảo Ngọc kêu: "Trời ơi, nhức đầu lắm!"

Đại Ngọc nói:

- A di đà Phật! Đáng lắm!

Bảo Ngọc kêu to một tiếng: "Tôi chết mất". Rồi nhảy vọt lên cách mặt đất độ ba bốn thước, mồm nói lảm nhảm. Đại Ngọc và bọn a hoàn sợ quá, vội đi báo Vương phu nhân và Giả mẫu. Bấy giờ bà Vương Tử Đằng đương ở đấy, cũng chạy sang xem, Bảo Ngọc cầm dao, múa gậy, liều sống liều chết làm dậy trời dậy đất. Giả mẫu, Vương phu nhân thấy thế, run sợ cầm cập, cứ gọi: "Con tôi ơi", "máu mủ của tôi", "cháu ơi", và khóc ầm lên, làm kinh động cả mọi người. Giả Xá, Hình phu nhân, Giả Trân, Giả Chính, Giả Liễn, Giả Hoàn, Giả Dung, Giả Vân, Giả Bình, Tiết phu nhân, Tiết Bàn, vợ Chu Thụy cùng bọn vú bõ a hoàn từ trên chí dưới, cả nội lẫn ngoại, lũ lượt chạy vào vườn xem, bấy giờ tình hình thật là rối beng.

Đương lúc chưa ai biết định liệu ra sao, thì Phượng Thư lại tay cầm một con dao sáng loáng, xăm xăm chạy vào vườn, gặp gà chém gà, gặp chó chém chó, gặp người cũng trợn mặt lên chực chém, ai nấy đều sợ hết vía. Vợ Chu Thụy dẫn mấy người đàn bà lực lưỡng, can đảm, đến ôm chặt, giật lấy dao và đỡ về buồng. Bọn Bình Nhi, Phong Nhi kêu trời đất, khóc lóc ầm ĩ.

Giả Chính càng thêm bối rối, nhìn được phía này, bỏ mất phía kia. Mọi người càng hoang mang tợn. Duy có Tiết Bàn là bận rộn hơn cả: sợ mẹ bị người ta chen ngã, sợ Bảo Thoa bị người ta nhìn thấy, sợ Hương Lăng bị người ta trêu chòng. Vì hắn biết bọn Giả Trân vốn hay lẩn vào đám đàn bà con gái. Chợt liếc nhìn thấy Đại Ngọc phong nhã, dịu dàng, hắn đã say mê say mệt. Bấy giờ người nói nên tiễn ma, người nói nên phụ đồng, người nói nên mời Trương đạo sĩ đến trừ tà, mỗi người một phách, nhốn nháo suốt ngày, cầu cúng chạy chữa đủ vẻ cũng chẳng ăn thua gì. Trời dần xế chiều, bà Vương Tử Đằng cáo từ đi về.

Hôm sau, Vương Tử Đằng đến hỏi thăm. Tiếp đó bà con Tiểu Sử Hầu và anh em Hình phu nhân cùng họ hàng nội ngoại đều lại hỏi thăm; người đưa nước thải đến, người bảo đi mời tăng đạo, người mách thầy mách thuốc. Phượng Thư và Bảo Ngọc càng ngày càng mê mẩn, nằm vật vã trên giường, người nóng như lửa, nói lảm nhảm chẳng biết tý gì. Đêm đến bọn vú bõ, a hoàn không ai dám lại gần, phải cáng lên nằm ở buồng trên của Vương phu nhân, rồi sai bọn Giả Vân cắt lượt nhau trông nom.

Giả mẫu, Vương phu nhân, Hình phu nhân và Tiết phu nhân không rời bước nào, cứ ngồi quanh đấy mà khóc.

Giả Chính, Giả Xá sợ Giả mẫu khóc lóc sinh ốm, vừa tốn công lại mất của. Cả nhà nhốn nháo không biết làm thế nào. Giả Xá đi các nơi tìm thầy chạy chữa. Thấy chẳng ăn thua gì, Giả Chính càng thêm buồn rầu, ngăn lại nói:

- Số chúng nó như thế cũng là mệnh trời, sức người không thể cưỡng được. Hai cháu mắc bệnh bất ngờ, tìm hết cách chữa rồi mà vẫn chưa khỏi, tưởng cũng là lòng trời như thế, nên để mặc chúng nó.

Giả Xá không nghe, vẫn cứ cuống lên.

Đến ngày thứ ba, Phượng Thư, Bảo Ngọc nằm trên giường, hơi thở yếu dần. Cả nhà lo rối lên, không còn tí hy vọng gì, vội vàng sắm sửa đồ làm ma. Giả mẫu, Vương phu nhân, Giả Liễn, Bình Nhi, Tập Nhân đều khóc lóc rũ rượi, chết đi đống lại. Chỉ có dì Triệu ngoài mặt giả cách lo buồn, nhưng trong bụng rất là thỏa thích.

Đến sáng ngày thứ tư, bọn Giả mẫu đang ngồi khóc lóc, bỗng thấy Bảo Ngọc trợn mắt lên nói:

- Từ giờ trở đi, ta không ở nhà này nữa. Thôi thu xếp mau để cho ta đi.

Giả mẫu nghe câu nói ấy, ruột đau như cắt. Dì Triệu ở bên cạnh khuyên:

- Xin cụ không nên thương xót quá, bệnh anh ấy không thể chữa được nữa rồi, chi bằng mặc quần áo tử tế cho anh ấy, để anh ấy được chóng giải thoát, đỡ phải chịu đau đớn; nếu cứ thương tiếc mãi, anh ấy đi không dứt, sống thoi sống thóp lúc nào, lại càng khổ lúc ấy.

Dì Triệu nói chưa dứt câu, Giả mẫu đã nhổ toẹt vào mặt mắng:

- Đốt mồm đốt miệng con gái già nói nhảm kia! Ai xui mày mở mồm mở miệng vậy? Thế nào là càng sống lúc nào càng khổ lúc ấy? Mày đã biết không chữa được à? Nó chết thì mày được cái gì? Mày đừng có chiêm bao! Nó mà chết thì tao phải bắt chúng mày đền mạng! Cũng chỉ vì ngày thường chúng bay xúi bẩy, ton hót, bắt nó học cho nhiều, viết cho lắm vào, làm nó sợ vỡ mật, hễ trông thấy cha nó là nó len lét như chuột thấy mèo. Thế không phải là vì lũ đàn bà ranh con chúng mày xúi bẩy hay sao? Bây giờ nó chết đi, chắc chúng bay hả lòng hả dạ lắm! Coi chừng đấy! Tao chẳng tha một đứa nào đâu!

Vừa khóc Giả mẫu vừa mắng luôn miệng.

Giả Chính ở bên cạnh, nghe thấy những câu ấy, càng thêm bối rối, liền đuổi dì Triệu đi, rồi liệu lời khuyên giải Giả mẫu. Chợt có người vào trình: "Đâ làm xong hai cỗ áo quan, mời ông ra xem". Giả mẫu nghe thấy, như dao cắt ruột, lại khóc lại mắng, rồi hỏi:

- Ai bảo chúng bay làm? Lôi ngay thằng làm áo quan ra đánh chết đi!

Đang lúc nhốn nháo, bỗng từ xa văng vẳng có tiếng mõ đưa lại, rồi nghe thấy đọc mấy câu:

- Nam mô giải oan giải kết bồ tát! Có ai đau ốm, cửa nhà không yên, bị ma ám, gặp điềm dữ, ta sẽ chữa cho.

Giả mẫu và Vương phu nhân nghe thấy, liền cho người ra phố tìm. Giả Chính không dám trái lời, nghĩ bụng: "Nhà mình cổng kín tường cao thế này, làm sao lại nghe được rõ những lời như vậy". Trong lòng lấy làm lạ, liền cho người mời vào. Khi tới nơi, mọi người nhìn thấy một nhà sư chốc đầu, một đạo sĩ khiễng chân. Hình dáng hòa thượng như sau:

Một cặp mày dài sống mũi cao,

Mắt trông như ngọc, sáng như sao.

Lang thang áo rách giày đan cỏ,

Người bẩn còn thêm nỗi chốc đầu.

Hình dáng đạo nhân như sau:

Một chân thấp lại một chân cao,

Nước bẩn bùn nhơ vướng cả vào,

Ướm hỏi nhà người đâu đấy nhỉ,

Non Bồng nước Nhược biết nơi nào?

Giả Chính liền sai người mời vào hỏi:

- Hai vị tu ở núi nào?

Nhà sư cười nói:

- Trưởng quan không cần hỏi nhiều, vì thấy trong quý phủ có người đau ốm, nên chúng tôi đến đây để chữa.

Giả Chính nói:

- Có hai cháu bị ma quấy, không biết người có phương thuốc tiên nào chữa khỏi được không?

Vị đạo nhân cười nói:

- Hiện nhà người có thứ hiếm lạ, còn cần gì thuốc tiên của chúng tôi!

Giả Chính nghe nói có ngụ ý, liền nhớ ra, nói:

- Con tôi khi mới đẻ, có ngậm một viên ngọc, trên mặt có khắc chữ "trừ được ma quỷ" nhưng xưa nay chưa thấy hiệu nghiệm gì cả.

Nhà sư nói:

- Trưởng quan không biết đấy thôi. Viên ngọc ấy rất thiêng, nhưng vì bị tiếng hát, sắc đẹp và tiền của làm mê muội đi, nên không thiêng nữa. Xin đem viên ngọc ấy ra đây, để tôi tụng niệm, tự nhiên nó lại linh thiêng như cũ.

Giả Chính liền lấy viên ngọc ở trong cổ Bảo Ngọc ra, đưa cho hai người. Vị hòa thượng cầm lấy viên ngọc, đặt trên bàn tay, thở dài:

- Từ khi ở núi Thanh Ngạnh đến nav, thấm thoắt đã mười ba năm rồi! Đời người như bóng hồ qua cửa, đầy rẫy trần duyên, rồi cũng trong nháy mắt! Khá khen chỗ đáng quý của ngươi lúc bấy giờ:

Dọc đất ngang trời vẫn đứng đây,

Buồn vui nào bận chút lòng này.

Chỉ vì tôi luyện thành linh vật,

Đem đến cho đời chuyện dở hay!

Và đáng tiếc cuộc lăn lộn của người như ngày nay:

Ngọc sáng đem giây vết phấn son,

Buồn khuya mài miệt chuyện vuông tròn.

Thôi thôi tỉnh dây đừng mê nữa.

Nợ trả xong rồi cuộc cũng tan!

Đọc xong, nhà sư xoa viên ngọc một lúc, lại nói mấy câu điên rồ, rồi trả lại cho Giả Chính, nói:

- Viên ngọc này lại thiêng rồi, không nên coi thường nó, phải treo nó ở trên xà nhà, ngay chỗ giường nằm. Trừ người thân ra, đừng cho đàn bà con gái đến gần. Sau ba mươi ngày, bệnh cậu ấy thế nào cũng khỏi.

Giả Chính sai người pha nước mời và định tạ lễ, nhưng họ đã đi mất hút. Giả mẫu cho người chạy theo cũng không tìm thấy; đành cứ theo đúng lời dặn, đặt hai người vào buồng Vương phu nhân, rồi treo hòn ngọc lên xà nhà, Vương phu nhân ngồi canh, không cho ai qua lại. Đến tối, quả nhiên Phượng Thư và Bảo Ngọc dần dần tỉnh dậy và đã biết đói. Giả mẫu, Vương phu nhân như bắt được của báu, đi nấu cháo cho hai người ăn. Dần dần hai người tỉnh hẳn ra, ma quỷ biến đâu hết, cả nhà mới yên lòng. Đám chị em Lý Hoàn, Bảo thoa, Đại Ngọc, Bình Nhi, Tập Nhân ở ngoài lắng nghe rõ tin tức, thấy họ đã ăn được cháo, người đã tỉnh hẳn. Đại Ngọc liền niệm Phật ngay, Bảo Thoa ngoảnh lại nhìn lúc lâu, rồi phì cười. Mọi người không ai để ý. Tích Xuân hỏi:

- Chị Bảo cười gì thế?

Bảo Thoa nói:

- Tôi cười đức Phật Như Lai bận hơn người trần nhiều, nào là giảng kinh, nào là siêu độ chúng sinh; khi anh Bảo, chị Phượng ốm, đốt hương cầu khấn, lại phải trị bệnh trừ tà, đến nay mới khỏi. Rồi lại phải trông nom cả việc hôn nhân cho cô Lâm nữa. Chị bảo thế có bận không? Có đáng buồn cười không?

Đại Ngọc đỏ mặt lên, nói:

- Các chị đều không phải là người tốt, không chịu học những người tử tế, chỉ theo cái giọng lưỡi của kẻ bần tiện nào ấy! Chẳng biết lúc chết rồi sẽ ra sao.

Nói xong đẩy rèm đi ra.

--------------------------------------

(1). Những bài chú trong kinh Kim Cương của đạo Phật.

(2). Lã Động Tân, người đời Đường, tu ớ núi Chung Nam, tương truyền là một vi tiên trong Bát tiên. Câu này ý nói không phân biệt người hay người dở.

Hồi thứ hai mươi sáu

Cầu Phong Yêu, nói lóng đưa tình kín,

Quán Tiêu Tương xuân buồn tỏ nỗi riêng.

Sau ba mươi ngày tĩnh dưỡng, Bảo Ngọc không những người đã khỏe, mà vết thương trên mặt cũng khỏi hẳn, lại về ở vườn Đại Quan.

Gần đây, khi Bảo Ngọc ốm, Giả Vân đem người nhà đến trông nom, ngày đêm ở luôn đấy. Hồng Ngọc cùng bọn a hoàn cũng đến ở đấy trông nom Bảo Ngọc. Hai bên ngày ngày trông thấy nhau, lâu dần thành quen. Hồng Ngọc thấy Giả Vân tay cầm cái khăn lụa giống hệt khăn của mình đánh mất ngày trước, muốn hỏi nhưng sợ không tiện. Từ ngày hòa thượng và đạo sĩ đến, không cần nhiều đàn ông hầu nữ, Giả Vân lại đi trồng cây. Việc này Hồng Ngọc muốn bỏ khuây đi, nhưng không sao bỏ nổi, muốn hỏi lại sợ người ngờ vực. Đương lúc dùng dằng suy nghĩ, tâm trí bàng hoàng, bỗng nghe ngoài cửa sổ có người hỏi: "Chị Hồng có ở nhà không?"

Hồng Ngọc nghe hỏi, đứng trong cửa sổ trông ra, té ra Giai Huệ, một a hoàn nhỏ cùng ở trong nhà này, liền trả lời: "Có nhà, em vào đây".

Giai Huệ chạy vào, ngồi ngay lên giường, cười nói:

- Thực may quá! Em đang ở trong nhà rửa đồ đạc, thì cậu Bảo sai đưa chè sang cho cô Lâm, chị Hoa giao cho em mang đi. May gặp lúc cụ cũng sai người đưa tiền sang cho cô Lâm, và đang chia cho các chị bên ấy. Thấy em đến, cô Lâm bốc hai nắm cho em, không biết bao nhiêu, chị giữ hộ em.

Nó giở khăn lụa, đổ tiền ra. Hồng Ngọc đếm rành rọt số tiền, rồi cất đi.

Giai Huệ hỏi:

- Mấy hôm nay trong bụng chị thế nào? Cứ như ý em, chị nên về nhà ở vài ngày, mời thầy lang đến xem, uống vài thang thuốc thì khỏi đấy.

Hồng Ngọc nói:

- Em nói gì thế? Chị vẫn khỏe, về nhà làm gì?

- Em nghĩ ra rồi, cô Lâm thường ốm yếu, hay uống thuốc, chị nên xin thuốc của cô ấy mà uống cũng được.

- Em nói nhảm! Thuốc có phải là của uống bừa được đâu?

- Chị nghĩ như vậy không phải là cách lâu dài, cứ lười uống thuốc sau này sẽ nguy đấy!

- Sợ gì? Thà chết sớm đi cho rảnh.

- Đang yên lành sao lại nói những câu ấy?

- Em biết đâu tâm sự của chị!

Giai Huệ gật đầu nghĩ một lúc rồi nói:

- Chẳng trách được, chỗ này khó ở lắm. Hôm nọ cụ bảo, mấy ngày cậu Bảo ốm, người hầu đều vất vả cả. Bây giờ cậu ấy đã khỏi, đi lễ tạ các nơi rồi, nên thưởng tiền cho các người phục dịch. Như em còn bé, không được thưởng, cũng chẳng oán trách gì. Còn chị sao lại không được liệt vào hạng thưởng? Em chẳng phục tí nào. Như chị Tập Nhân dù được thưởng cả mười phần cũng đáng, chẳng nên tức bực làm gì. Nói thẳng ra, ai bì được với chị ấy? Chưa nói ngày thường chị ấy hết lòng phục dịch cậu Bảo, mà nếu chẳng phục dịch, cũng không bỏ được chị ấy. Đáng tức là bọn Tình Văn, Ỷ Hà lại được liệt vào hạng thưởng phần thứ nhất, chỉ vì chúng nó có vai có vế, nên mọi người đều tâng bốc chúng nó lên. Chị tính thế có đáng tức không?

- Việc gì mà phải tức. Tục ngữ nói "Rạp dù làm dài đến nghìn dặm, cũng không có tiệc nào là tiệc không tàn". Có ai ăn đời ở đời với nhau mãi đâu? Chẳng qua độ dăm ba năm, mỗi người đi mỗi ngả, còn ai nhìn ngó đến ai nữa?

Mấy câu này làm cho Giai Huệ lòng rất cảm động, mắt đỏ ngầu lên, nhưng vô cớ mà khóc cũng không tiện, nó đành phải gượng cười nói:

- Chị nói rất phải. Thế mả hôm nọ cậu Bảo còn bảo: nào là thu xếp buồng ở, nào là may quần áo mới, như là câu chuyện còn đầm ấm lâu dài hàng mấy trăm năm nữa!

Hồng Ngọc nghe xong cười nhạt, đương muốn nói nữa, thì một a hoàn chưa để tóc(1) chạy lại, tay cầm các mẩu hoa và hai tờ giấy, nói:

- Chị vẽ kiểu hoa này vào giấy giúp em.

Nói xong nó vứt cho Hồng Ngọc, rồi quay người chạy đi ngay. Hồng Ngọc gọi với, hỏi:

- Ai bảo mày mang đến đây? Chưa nói đã chạy! Ai nướng bánh chờ mày, mà mày vội vàng thế! Mày sợ bánh nguội đi chăng?

A hoàn nhỏ ở ngoài cửa sổ nói với một câu:

- Chị Ỷ Hà bảo mang đến cho chị đấy.

Nó lúng búng nói những gì rồi rảo cẳng chạy đi ngay.

Hồng Ngọc bực mình, ném mẩu hoa vào một chỗ, rồi mở ngăn kéo tìm bút. Tìm mãi, chỉ thấy toàn những bút cùn, liền nói:

- Có cái bút mới hôm trước vứt đâu mất rồi? Sao nghĩ mãi không ra? - Vừa nói, Hồng Ngọc vừa để ý ngẫm nghĩ, rồi cười nói: - Phải rồi, chiều hôm nọ Oanh Nhi mang về.

Rồi bảo Giai Huệ:

- Em đi lấy hộ chị nhé.

- Chị Hoa còn đương chờ em đi lấy cái hòm cho chị ấy, thôi chị đi mà lấy vậy.

- Chị ấy chờ em mà từ lúc nãy đến giờ em vẫn còn ngồi nói chuyện lau láu đấy à? Nếu chị không bảo em đi, làm gì có chuyện chị Hoa chờ em? Con ranh này hư lắm!

Nói xong, Hồng Ngọc đi ngay ra viện Di Hồng, đến thẳng phòng Bảo Thoa. Vừa đến cạnh đình Thấm Phương, thấy vú Lý của Bảo Ngọc đi đến. Hồng Ngọc đứng lại cười nói:

- Vú Lý! Vú ở đâu đến đây? Sao lại đến chỗ này?

Vú Lý đứng lại vỗ tay nói:

- Này xem, bỗng dưng vô cớ lại vẩn vơ nghĩ đến cậu Vân, cậu "Vũ" nào đó, bắt tao phải đi tìm ngay. Ngày mai mà trên nhà biết, thì còn ra gì nữa?

Hồng Ngọc cười nói:

- Vậy vú cũng theo lời cậu ấy mà đi gọi người ta sao?

- Không theo lời thì làm thế nào?

- Nếu người ấy biết điều đừng đến là phải.

- Nó không phải là đứa ngốc, việc gì nó chẳng đến?

- Nếu người ấy đến thật, thì vú đừng nên cùng đi với người ta; để mặc một mình hắn ta lại đây xem sao!

- Tao đến bảo hắn thôi, chứ hơi đâu cùng đi với hắn! Tao về sai một đứa a hoàn nhỏ hay một bà già nào đưa hắn đến là đủ rồi.

Nói xong, chống gậy đi ngay.

Hồng Ngọc nghe nói đứng ngẩn ra một lúc, chạy vội đi lấy bút.

Một chốc, một a hoàn nhỏ chạy đến, trông thấy Hồng Ngọc đứng đấy, liền hỏi:

- Chị Lâm đứng đây làm gì thế?

Hồng Ngọc ngẩng lên, thấy a hoàn nhỏ tên là Trụy Nhi, liền hỏi:

- Mày đi đâu đấy?

- Tôi đưa cậu Vân đến đây.

Nói xong, nó chạy đi ngay.

Hồng Ngọc vừa mới đi đến trước cầu Phong Yêu, thấy Trụy Nhi dẫn Giả Vân đến. Giả Vân vừa đi vừa đưa mắt nhìn Hồng Ngọc. Hồng Ngọc giả làm bộ nói chuyện với Trụy Nhi, nhưng mắt vẫn liếc nhìn Giả Vân. Bốn mắt thình lình gặp nhau, Hồng Ngọc đỏ mặt lên, né mình vào một chỗ, rồi đi đến Hành Vu uyển.

Bấy giờ Giả Vân theo Trụy Nhi đi quanh co đến viện Di Hồng. Trụy Nhi vào trình trước, rồi mới dẫn Giả Vân vào. Giả Vân nhìn lên, thấy trong sân lơ thơ có mấy ngọn núi đá, trên trồng chuối, có hai con hạc đứng rỉa cánh ở dưới gốc cây thông. Trên thềm treo mấy cái lồng đẹp, trong có nhiều thứ chim lạ, xung quanh có năm gian nhà nhỏ, cánh cửa chạm các thứ hoa mới đẹp, trên treo một cái biển có bốn chữ lớn: "Di hồng khoái lục". Hắn nghĩ bụng: "Vì có bốn chữ này, thảo nào mới gọi là "viện Di Hồng". Đương nghĩ thì phía trong bức lụa che cửa sổ có tiếng cười nói: "Mời vào. Hai ba tháng nay ta quên bẵng cháu!" Giả Vân nghe đúng là tiếng Bảo Ngọc, vội vàng chạy vào, ngẩng đầu nhìn thấy vàng ngọc, tranh ảnh chói lọi rực rỡ, nhưng không thấy Bảo Ngọc ở đâu. Ngoảnh lại thấy bên trái có một cái giá gương, một đôi a hoàn độ mười lăm, mười sáu tuổi ở đằng sau gương đi ra nói: "Mời cậu Hai vào ngồi chơi nhà trong".

Giả Vân vội vã đáp lời, mắt không dám nhìn thẳng, đến gần một cái tủ che bằng lụa biếc, có cái giường nhỏ vẽ sơn, trên giăng cái màn màu đỏ thêu hoa vàng. Bảo Ngọc mặc quần áo thường, chân đi giày, ngồi tựa trên giường xem sách. Thấy Giả Vân vào, Bảo Ngọc bỏ sách xuống cười đứng dậy. Giả Vân vội chạy lại hỏi thăm sức khỏe. Bảo Ngọc mời ngồi trên ghế, cười hỏi:

- Tháng trước gặp cháu, ta hẹn đến thư phòng chơi, nhưng bận việc luôn, thành ra quên mất.

Giả Vân cười nói:

- Thật là không may cho cháu, lại gặp lúc chú khó ở, bây giờ chú đã khỏe hẳn chưa?

- Khỏe lắm rồi. Chú nghe nói mấy hôm đó cháu cũng vất vả lắm!

- Phận sự cháu đáng phải vất vả, nay chú được khỏe, thực phúc cho cả nhà ta.

Một a hoàn bưng nước trà lại mời uống. Giả Vân mồm nói chuyện với Bảo Ngọc, mắt cứ lấm lét nhìn trộm a hoàn. Người này dáng dong dỏng cao, mặt trái xoan, mặc cái áo màu hồng nhạt, vai khoác khăn lụa xanh, quần nhiễu trắng. Chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Tập Nhân. Khi Bảo Ngọc ốm, Giả Vân đến ở đây phục dịch luôn mấy ngày, nên đã nhớ được một nửa tên những người ở trong nhà. Hắn cũng biết Tập Nhân được coi thân hơn so với tất cả những người hầu trong buồng Bảo Ngọc. Nay thấy chị ta pha trà đưa lên mời, lại có Bảo Ngọc ngồi bên cạnh, hắn liền đứng dậy cười nói:

- Sao chị lại pha nước cho tôi uống? Tôi đến nhà chú không phải là khách, để tôi rót lấy cũng được.

Bảo Ngọc nói:

- Cháu cứ ngồi yên đấy. Bọn a hoàn ở đây chỉ cốt có việc ấy thôi.

Giả Vân cười nói:

- Tuy chú nói thế, nhưng đối với các chị ở trong nhà chú đây, khi nào cháu dám vô lễ?

Nói xong hắn ngồi xuống uống nước.

Bảo Ngọc cùng Giả Vân nói mấy câu chuyện phiếm, nào con hát nhà ai hát hay, vườn hoa nhà ai đẹp, a hoàn nhà ai lịch sự, tiệc tùng nhà ai linh đình, nhà ai có của báu, nhà ai có vật lạ. Giả Vân chỉ lựa lời nói xuôi chiều mà thôi. Nói chuyện một lúc, thấy Bảo Ngọc có vẻ uể oải, hắn liền xin về. Bảo Ngọc giữ lại qua loa một tí rồi nói:

- Hôm nào rỗi cháu cứ đến chơi.

Rồi lại sai a hoàn là Trụy Nhì đưa ra.

Giả Vân đi ra khỏi viện Di Hồng, thấy xung quanh không có ai, liền đi thong thả, tiếng nhỏ tiếng to, hỏi chuyện Trụy Nhi:

- Em bao nhiêu tuổi? Tên họ là gì? Cha mẹ em làm gì? Em ở nhà chú Bảo được mấy năm rồi? Một tháng được bao nhiêu tiền lương? Trong nhà chú Bảo có tất cả bao nhiêu a hoàn?

Trụy Nhi cứ theo từng câu hỏi một trả lời. Giả Vân lại hỏi:

- Người vừa nói chuyện với em có phải là Tiểu Hồng không?

- Đúng tên chị ấy là Tiểu Hồng đấy. Cậu hỏi làm gì?

- Vừa rồi nghe chị ấy hỏi em chiếc khăn lụa nào đó. Ta có nhặt được một chiếc.

- Mấy lần chị ấy hỏi em có trông thấy chiếc khăn lụa không. Em không có hơi đâu mà nghĩ đến chuyện ấy. Hôm nay chị ấy lại hỏi, lại bảo em cố tìm được, chị ấy sẽ tạ ơn. Vừa rồi, chị ấy nói ở trước cửa Hành Vu Uyển, cậu cũng nghe thấy đấy. Không phải em nói dối cậu đâu. Cậu ơi, cậu đã nhặt được thì cho lại em, để xem chị ấy tạ ơn em thế nào.

Nguyên tháng trước Giả Vân đến đây trồng cây, có nhặt được chiếc khăn lụa, biết là người trong vườn này đánh rơi, nhưng không rõ của ai. Nay nghe Hồng Ngọc hỏi Trụy Nhi, Giả Vân biết là khăn của cô ta, trong lòng xiết bao mừng rỡ. Bây giờ lại thấy Trụy Nhi hỏi xin, Giả Vân nghĩ ngay một kế, liền rút cái khăn ở trong tay áo ra đưa cho Trụy Nhi và bảo:

- Tôi cho em, nếu em được tạ ơn thì không nên giấu tôi.

Trụy Nhi vâng lời, cầm lấy khăn, đưa Giả Vân ra, rối về tìm Hồng Ngọc.

Sau khi tiễn Giả Vân về, Bảo Ngọc có vẻ mỏi mệt, lơ mơ nằm nghiêng trên giường. Tập Nhân chạy lại, ngồi bên cạnh giường, lay Bảo Ngọc nói:

- Lại chực ngủ đấy à? Nếu buồn, cậu đi ra ngoài chơi có hơn không?

Bảo Ngọc cầm lấy tay Tập Nhân cười nói:

- Tôi muốn đi chơi, nhưng không thể xa em được.

- Dậy đi thôi.

Tập Nhân vừa nói vừa kéo tay Bảo Ngọc. Bảo Ngọc nói:

- Đi chơi chỗ nào bây giờ? Buồn lắm!

- Cậu cứ đi ra ngoài chơi tự khắc vui, chứ cứ nghĩ những chuyện vụn vặt càng thêm buồn thôi.

Bảo Ngọc buồn rầu, đành phải nghe lời Tập Nhân, ra khỏi cửa phòng, đứng trên hành lang ngắm chim một lúc, rồi ra ngoài sân. Đến khe Thấm Phương, xem đàn cá vàng. Lại thấy sườn núi bên kia có hai con hươu nhỏ chạy rất nhanh, Bảo Ngọc không thể hiểu ra sao. Đương lúc thơ thẩn, thấy Giả Lan ở đằng sau, tay cầm cái cung nhỏ chạy đến. Trông thấy Bảo Ngọc, Giả Lan đứng lại, cười nói:

- Thế ra chú ở nhà, cháu cứ tưởng chú đi chơi rồi.

- Mày lại nghịch dại rồi. Tự nhiên vô cớ bắn nó làm gì?

- Hôm nay cháu không học, ngồi rỗi biết làm gì? Vì thế cháu tập bắn cung.

- Coi chừng đấy, có ngã gãy răng, đến lúc ấy mới kinh.

Bảo Ngọc nói xong, luôn chân đi đến trước cửa một ngôi nhà, thấy đuôi phượng ve vẩy, sáo rồng vi vu(2). Ngước mắt nhìn lên, đó là quán Tiêu Tương. Tiện bước chạy vào, trông thấy rèm tương rủ xuống, tiếng người vắng tanh. Đến trước cửa sổ, thấy ở trong màn the thoảng ra một mùi hương êm dịu. Bảo Ngọc ghé mắt sát vào cửa sổ nhìn, nghe tiếng thở dài khe khẽ và hát câu: Suốt ngày mê mẩn bồi hồi, tình riêng chán ngắt...(3). Bảo Ngọc nghe xong, tự nhiên trong lòng rạo rực, nhìn kỹ thì Đại Ngọc đương nằm ngả lưng trên giường. Bảo Ngọc ở ngoài cửa sổ cười nói:

- Sao lại hát câu ấy?

Rồi vén rèm đi vào.

Đại Ngọc biết mình vô ý, tự nhiên mặt đỏ bừng lên, liền lấy tay áo che, rồi quay vào phía trong giả cách ngủ. Bảo Ngọc đến định lay gọi Đại Ngọc, thấy bà vú và hai bà già chạy đến nói:

- Cô tôi đương ngủ, chốc nữa tỉnh dậy cậu hãy đến.

Vừa nói xong thì Đại Ngọc quay mình lại ngồi dậy cười nói:

- Nào ai ngủ?

Bọn bà già thấy Đại Ngọc dậy, cười nói:

- Thế mà chúng tôi tưởng cô đã ngủ rồi.

Và gọi Tử Quyên:

- Cô dậy rồi, đi lên hầu.

Đại Ngọc ngồi trên giường, giơ tay sửa lại tóc, rồi cười hỏi Bảo Ngọc:

- Người ta đương ngủ, anh đến đây làm gì?

Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc mắt hơi lim dim, mặt hơi đỏ, tâm thần tự nhiên xiêu xiêu, ngồi ngả trên cái ghế tựa cười nói:

- Vừa rồi cô nói gì thế?

- Tôi có nói gì đâu?

- Tôi lại cho cô một cái "búng"(4) bây giờ! Tôi nghe hết cả rồi.

Hai người đương nói chuyện thì Tử Quyên đến, Bảo Ngọc cười nói:

- Mang thứ trà ngon của nhà chị ra đây pha cho tôi uống.

Tử Quyên nói:

- Nhà chúng tôi đây làm gì có trà ngon, muốn uống trà ngon thì chờ chị Tập Nhân đến.

Đại Ngọc nói:

- Mặc kệ anh ấy, em hãy đi múc nước cho tôi đã.

Tử Quyên nói:

- Cậu ấy là khách, nên pha nước cho cậu ấy uống trước đã rồi hãy đi múc nước.

Nói xong đi pha nước, Bảo Ngọc cười nói:

- Chị a hoàn này tốt đây! "Nếu tôi được cùng tiểu thư đa tình sum vầy phượng loan, quyết chẳng để chị trải nện quạt màn"(5).

Đại Ngọc nổi ngay cơn giận lên, cúi gằm mặt xuống hỏi:

- Anh Hai, anh nói gì thế?

- Tôi có nói gì đâu!

Đại Ngọc liền khóc nói:

- Bây giờ anh lại giở trò, đi ra ngoài học những câu đầu đường xó chợ, rồi đem về lặp lại cho tôi nghe. Anh xem những tiểu thuyết nhảm nhí, rồi đem tôi ra làm trò cười. Tôi là một cái đồ chơi giải buồn cho các người à!

Vừa khóc vừa nhảy xuống giường, chực chạy ra ngoài.

Bảo Ngọc sợ quá, vội cản lại nói:

- Em ơi, anh lỡ lời đáng chết, xin em đừng mách ai. Nếu anh còn dám nói câu ấy nữa, mồm sẽ lên đinh râu và sẽ thối lưỡi.

Giữa lúc ấy, Tập Nhân chạy đến nói:

- Ông gọi cậu đấy, về mặc quần áo ngay đi.

Bảo Ngọc nghe nói, như sét đánh bên tai, không nghĩ gì đến việc khác nữa, cắm đầu cắm cổ chạy về thay quần áo.

Ra khỏi vườn, thấy Bồi Dính chực ở cửa ngoài, Bảo Ngọc hỏi:

- Ông gọi tao có việc gì, mày có biết không?

Bồi Dính nói:

- Cậu đi mau lên, đến đó sẽ biết.

Vừa nói vừa giục Bảo Ngọc.

Đi qua buồng khách, trong bụng Bảo Ngọc vẫn nghi ngờ, bỗng nghe thấy bên góc tường có tiếng cười khanh khách, ngoảnh lại thấy Tiết Bàn vỗ tay nhảy xổ lại cười nói:

- Nếu không nói là dượng gọi thì khi nào anh lại chịu ra ngay.

Bồi Dính cũng cười, rồi quì xuống. Bảo Ngọc đứng ngẩn người một lúc, mới biết là Tiết Bàn đánh lừa mình. Tiết Bàn vội vái chào nhận lỗi và nói:

- Xin đừng quở phạt thằng bé này. Việc này là do tôi nhờ nó đi đấy.

Bảo Ngọc đành chịu, không biết làm thế nào, chỉ cười hỏi:

- Anh đánh lừa tôi cũng được, nhưng việc gì phải mượn tiếng cha tôi? Tôi sẽ đến mách dì, để người xử cho việc này, liệu có nên không?

Tiết Bàn vội nói:

- Vì tôi muốn anh đến mau, nên quên hẳn những câu kiêng kỵ, sau này anh muốn đánh lừa tôi, cũng lại mượn tiếng cha tôi, thế là xong chuyện.

- Ối chà, nói câu ấy lại càng đáng chết nữa!

Rồi Bảo Ngọc quay sang Bồi Dính bảo:

- Giống phản chủ này còn quì mãi làm gì đây?

Bồi Dính vội đứng dậy lạy tạ.

Tiết Bàn nói;

- Nếu không phải việc cần, tôi không dám làm phiền anh như thế. Chỉ vì ngày mai, mồng ba tháng năm, là ngày sinh của tôi, không biết lão Trình Nhật Hưng ở hàng bán đồ cổ tìm đâu được những ngó sen tươi vừa to vừa dài, lại trắng muốt; những quả dưa hấu rất to; một con cá tươi rất dài và con lợn Xiêm đã được xông hương cây bách là của nước Xiêm La đem đến cống(6). Anh xem, bốn thứ này đã dễ tìm đâu cho ra? Cá và lợn tuy là món quí, chỉ khó tìm thôi, còn ngó sen và dưa hấu, không biết họ làm thế nào mà có được! Trước hết tôi đem dâng mẹ tôi, rồi cho đem biếu bà và dì, bác. Còn để lại một ít, nếu tôi ăn một mình sợ tổn phúc. Nghĩ đi nghĩ lại, ngoài tôi ra chỉ có anh là đáng ăn thôi. Vì thế, tôi đặc biệt đến mời anh. May sao lại có một phường hát mới đến, chúng ta cùng chơi vui một hôm, anh nghĩ thế nào?

Hai người vừa nói vừa đi vào thư phòng, thấy bọn Thiềm Quang, Trình Nhật Hưng, Hồ Tư Lai, Đan Sính Nhân và phường hát đều đã ở đấy rồi. Thấy Bảo Ngọc vào, mọi người đứng dậy chào hỏi một lượt. Uống nước trà xong, Tiết Bàn sai bày tiệc rượu. Bọn hầu trai vội vàng đi bày tiệc rồi mọi người vào ngồi.

Bảo Ngọc trông thấy dưa hấu và ngó sen đều là của lạ, cười nói với Tiết Bàn:

- Tôi chưa có gì mừng anh mà lại đến quấy thế à?

- Thế ngày mai anh định mang thứ gì đến mừng?

- Tôi chẳng mang cái gì cả. Nói đến tiền bạc hay đồ ăn đồ mặc, thì toàn không phải là của tôi. Chỉ có một tờ giấy viết chữ hay là một bức vẽ mới đúng là của tôi đáng đem đến mừng.

- Anh nói đến bức vẽ, tôi lại nhớ tới hôm nọ ở một nhà kia, có bức vẽ xuân cung rất đẹp, trên có viết nhiều chữ, nhưng tôi không xem kỹ, chỉ thấy chỗ lạc khoản hình như chữ canh hoàng gì ấy, trông đẹp quá chừng.

Bảo Ngọc nghe xong, trong bụng ngờ ngợ, liền nói:

- Những bức vẽ xưa nay tôi đều đã được xem qua, chẳng có nhà danh họa nào tên là Canh Hoàng cả.

Nghĩ một lúc, phì cười lên, sai người lấy bút viết hai chữ vào lòng bàn tay rồi hỏi Tiết Bàn:

- Anh chắc hai chữ ấy là canh hoàng đấy chứ?

- Sao lại không chắc?

Bảo Ngọc xòe bàn tay ra cho hắn xem và nói:

- Có phải hai chữ này không? Thực ra hai chữ này không khác chữ canh hoàng là mấy.

Mọi người xem thì ra hai chữ Đường Dần(7), đều cười nói:

- Chắc là hai chữ này rồi, lúc đó cậu Tiết có lẽ mắt hoa nên không thấy rõ, cũng chưa biết chừng.

Tiết Bàn nghĩ thấy cụt hứng, cười nói:

- Nào ai biết nó là "đường" hay là "kẹo".

Đương nói chuyện thì đứa hầu nhỏ vào trình: "Cậu Phùng lại chơi". Bảo Ngọc biết ngay là Phùng Tử Anh, con quan Thần Vũ tướng quân Phùng Đường. Bọn Tiết Bàn bảo mời vào. Nói chưa dứt lời, đã thấy Phùng Tử Anh tươi cười bước vào. Mọi người vội đứng dậy mời ngồi. Phùng Tử Anh nói:

- Tốt lắm! Chả cần phải đi đâu nữa, cứ ở nhà vui thú với nhau là được.

Bảo Ngọc, Tiết Bàn đều cười, nói:

- Lâu lắm không gặp được anh. Bác nhà có được mạnh khỏe không?

Tử Anh đáp:

- Cha tôi vẫn khỏe mạnh, chỉ có mẹ tôi gần đây bị phong hàn, có nhọc vài hôm.

Tiết Bàn thấy trên mặt Tử Anh có vết thương hơi tím, cười hỏi:

- Lại đánh nhau với ai mà có vết thương trên mặt?

Phùng Tử Anh cười nói:

- Từ khi đánh con ông đô úy họ Cừu bị thương, tôi đã hối hận và nhớ mãi việc ấy, không dám nóng nẩy, thì còn đánh nhau với ai? Vết thương ở trên mặt là tại hôm nọ tôi đi săn ở núi Thiết Võng, bị con chim ưng đập cánh trúng đấy.

Bảo Ngọc hỏi:

- Bao giờ thế?

- Đi từ hôm hai mươi tám tháng ba đến hôm qua mới về.

- Thảo nào hôm mồng ba mồng tư vừa rồi tôi đến dự tiệc nhà anh Thẩm không thấy anh. Tôi định hỏi, nhưng lại quên mất. Anh đi một mình hay cả bác cũng đi?

- Vì cha tôi đi, tôi không thể từ chối được, nên phải cùng đi Chứ tôi có phải hóa rồ đâu. ở nhà mấy anh em cùng nhau uống rượu nghe hát, chẳng vui hơn sao, tội gì mà lại chuốc lấy sự bực tức vất vả vào người. Chuyến đi này trong sự không may lại gặp sự rất may.

Bọn Tiết Bàn thấy hắn uống nước rồi, đều nói: "Xin mời vào tiệc, có chuyện gì sẽ nói sau". Tử Anh nghe xong đứng dậy nói:

- Cứ lẽ ra, tôi phải ở lại hầu rượu các anh là đúng, nhưng hiện giờ có việc rất cần, tôi phải đi, xong đó quay về trình cha tôi ngay, thực không thể ở lại được.

Tiết Bàn, Bảo Ngọc khi nào chịu nghe, cố sống cố chết giữ lại không cho đi. Tử Anh cười nói:

- Lạ quá, chúng ta sống với nhau trong bấy nhiêu năm, khi nào lại có cái đối xử với nhau như thế? Thực tôi không thể theo lời được. Nếu nhất định giữ tôi, xin mang cốc lớn ra đây tôi uống hết hai cốc là được.

Mọi người nghe nói, đành thôi không nài nữa. Tiết Bàn cầm chai, Bảo Ngọc cầm cốc, rót đầy hai cốc to. Tử Anh đứng dậy uống một hơi hết. Bảo Ngọc nói:

- Anh hãy nói hết cái chuyện "không may lại gặp may" cho chúng tôi nghe đã, rồi mới được đi.

Tử Anh cười nói:

- Bây giờ không thể nào nói hết được. Cũng vì việc ấy, tôi muốn sửa một bữa tiệc, mời các anh đến chơi nói chuyện và còn có việc nhờ đến các anh nữa.

Nói xong, chắp tay chào rồi đi.

Tiết Bàn nói:

- Càng nói càng làm cho người ta sốt ruột lên, không thể nhịn được! Bao giờ anh mới nói rõ cho người ta đỡ mong.

Tử Anh nói:

- Lâu thì mười ngày, chóng thì tám ngày nữa.

Vừa nói vừa chạy ra ngoài cửa, cưỡi ngựa đi.

Mọi người trở về, theo thứ tự ngồi lại uống rượn, một lúc mới tan tiệc.

Bảo Ngọc về trong vườn, Tập Nhân ở nhà đương băn khoăn không biết Bảo Ngọc sang hầu Giả Chính, lành dữ ra sao. Bỗng thấy Bảo Ngọc về, say lướt khướt, hỏi duyên cớ, Bảo Ngọc kể hết đầu đuôi. Tập Nhân nói:

- Người ta đương sốt lòng sốt ruột chờ đợi. Cậu cứ mải vui, chẳng nghĩ gì cả. Cậu cũng nên sai người về báo tin mới phải!

Bảo Ngọc nói:

- Tôi vẫn định cho người về báo tin, nhưng gặp anh Phùng Tử Anh đến, nên trót quên mất.

Nói xong thấy Bảo Thoa chạy đến cười nói:

- Anh ăn trước những thứ gì ngon lạ ở bên nhà tôi đấy?

Bảo Ngọc cười nới:

- Nhà chị có thứ gì ngon lạ, tất nhiên là để dành cho chúng tôi trước.

Bảo Thoa lắc đầu cười nói:

- Hôm qua anh tôi mời riêng tôi, tôi không ăn, bảo để dành lại biếu người khác. Tôi tự nghĩ mình kém phúc, không đáng ăn những thứ ấy.

Nói xong a hoàn pha nước uống, rồi nói chuyện phiếm.

Đại Ngọc nghe nói Giả Chính gọi Bảo Ngọc, suốt ngày không thấy về, trong bụng cũng áy náy lo thay cho cậu ta. Sau bữa cơm chiều, nghe nói Bảo Ngọc đã về, Đại Ngọc định đến hỏi xem có xảy việc gì không? Đang lững thững đi, thấy Bảo Thoa cũng đi vào vườn. Đại Ngọc liền chạy theo sau. Vừa đến cầu Thấm Phương, thấy các giống thủy cầm(8) đương tắm trong ao, không nhận ra được giống gì, toàn những màu sắc lóng lánh, trông đẹp lạ thường. Đại Ngọc đứng dừng lại xem một lúc rồi đi đến viện Di Hồng, thì cửa đã đóng, Đại Ngọc liền gõ cửa.

Không ngờ Tình Văn và Bích Ngân đương cãi nhau. Thấy Bảo Thoa đến, Tình Văn liền giận lây cả cô ta, lủng bủng nói ở trong nhà: "Lúc bận cũng như lúc rỗi, cứ đến ngồi lì ra đấy, làm cho người ta mãi nửa đêm gà gáy cũng chưa được đi ngủ". Chợt lại nghe có tiếng người gõ cửa, Tình Văn lại càng cáu lên, chẳng hỏi là ai, nói ngay:

- Ngủ cả rồi, ngày mai hãy đến.

Đại Ngọc xưa nay vẫn biết thói quen của đám a hoàn hay mải chơi, có lẽ chúng nó không nhận được tiếng của mình, cho là đứa a hoàn nào gọi, nên không mở cửa. Vì thế lại gọi to:

- Tôi đây! Sao không mở cửa ngay?

Tình Văn vẫn không nghe rõ, lại gắt lên:

- Chị là ai cũng mặc kệ, cậu Bảo đã dặn tôi nhất thiết không để người nào vào!

Đại Ngọc nghe nói, đứng ở ngoài cửa tức lắm, định quát to nhưng lại nén giận, tự nghĩ: "Tuy nhà cậu cũng như nhà mình, nhưng mình vẫn là khách. Bây giờ bố mẹ chết rồi, không có chỗ nương tựa, mình phải đến ở nhờ đây, có giận cũng vô ích". Đại Ngọc nghĩ vậy, nước mắt chảy xuống ròng ròng, về không tiện, đứng cũng không tiện. Đương lúc phân vân, nghe ở trong nhà có tiếng cười nói, lắng tai mãi thì ra tiếng Bảo Ngọc và Bảo Thoa. Đại Ngọc càng giận, nghĩ quanh nghĩ quẩn, sực nhớ tới việc sáng hôm nay: "Có lẽ vì anh ấy giận ta, cho là ta đi mách anh ấy. Nhưng khi nào ta lại mách! Anh ấy không chịu nghe ngóng kỹ, lại giận ta đến nỗi này à! Hôm nay không cho ta vào, liệu ngày mai không gặp mặt được sao?" Càng nghĩ càng đau xót, thôi thì mặc kệ rêu xanh sương lạnh, đường hoa gió lùa, một mình thơ thẩn, đứng dưới bóng cây bên góc tường, rầu rầu thổn thức, nức nở nghẹn ngào!

Đại Ngọc vẫn sẵn dáng điệu tuyệt vời, nhan sắc hiếm có. Ngờ đâu trận khóc này làm chim chóc đương đậu trên cành liễu, khóm hoa gần đấy, cũng xào xạc bay xa, không nỡ nghe những tiếng khóc than ai oán. Thực là:

Hoa choáng hồn lên buồn tẻ bấy;

Chim bừng mắt dậy ngẩn ngơ đâu!

Vậy có bài ca rằng:

Cô Tần tài sắc tuyệt vời,

Một mình hiu quạnh ra ngoài buồng thêu.

Giọng than chưa ngớt nghẹn ngào,

Hoa tơi bời rụng, chim xào xạc bay.

Đại Ngọc đương lúc than khóc, chợt nghe thấy kẹt một tiếng, cánh cửa mở, có một người đi ra.

---------------------------------

(1). Đời Thanh con gái còn nhỏ thì cạo quanh đầu, chỉ để chỏm giữa. Đến khi lớn mới để tóc.

(2). Đuôi phượng là hình dung lá trúc, sáo rồng là hình dung tiếng gió thổi qua lá trúc.

(3). Câu ớ Tây Sương Ký.

(4). Ngày xưa người Trung Quốc trai gái đùa nhau, thường lấy ngón tay cái và ngón tay giữa nhíp lại, xát nhau cho bựt ra thành tiếng.

(5). Mượn lời trong truyện Tây Sương, Trương Sinh nói với Tiểu Hồng là đầy tớ của Thôi Oanh Oanh.

(6). Sự thực chỗ này chưa rõ, xin dịch đúng nguyên văn, đợi nghiên cứu sau.

(7). Tên một nhà danh họa đời Minh, cũng hơi gíống như chữ "canh hoàng". Tiết Bàn vì dốt nên đọc sai.

(8). Thủy cầm: như các giống vịt, ngỗng, le, cốc v.v... thích ở dưới nước.

Hồi thứ hai mươi bảy

Đình Trích Thúy, Dương Phi đùa bướm trắng;

Mộ Mai Hương, Phi Yến khóc hoa tàn.

Đại Ngọc đương lúc than khóc, chợt cửa mở, Bảo Thoa ở trong bước ra, bọn Bảo Ngọc, Tập Nhân đều tiễn ra cửa. Đại Ngọc muốn chạy đến hỏi Bảo Ngọc, nhưng lại sợ người ta biết, làm cho Bảo Ngọc xấu hổ, vì thế Đại Ngọc đứng né ra một bên để cho Bảo Thoa đi. Đợi Bảo Ngọc đóng cửa rồi, Đại Ngọc mới trở lại nhìn vào cửa gạt nước mắt, cảm thấy không còn thú vị gì, liền lủi thủi quay về cởi đồ trang sức ra.

Ngày thường, bọn Tử Quyên, Tuyết Nhạn vẫn biết tính nết Đại Ngọc; lúc rỗi ngồi buồn, không cau mày cũng thở dài, nhiều khi bỗng đang yên lành, không biết vì sao cũng rơm rớm nước mắt. Trước còn có người khuyên ngăn, hoặc cho là cô ta nhớ bố mẹ, nhớ quê hương hay bị oan ức điều gì, nên họ tìm lời an ủi. Nhưng sau hàng năm hàng tháng lúc nào cũng thế, mọi người lâu dần cũng quen đi, chẳng ai để ý đến nữa, vì thế họ mặc kệ cho cô ta ngồi buồn một mình, cứ lẻn ra ngoài chơi.

Đại Ngọc tựa vào bao lan giường, hai tay ôm lấy đầu gối, nước mắt giàn giụa, ngồi ngây như một pho tượng, mãi đến canh hai mới đi nằm.

Hôm sau là ngày hai mươi sáu tháng tư, đến giờ mùi, là sang tiết Mang chủng. Theo tục cổ, đến ngày này, các nơi bày lễ vật cúng tiễn hoa thần. Vì rằng sau đó sang mùa hạ, các thứ hoa đều tàn, thần hoa lui về, nên phải làm lễ tiễn, nhất là trong khuê các lại càng náo nức hơn. Vì thế các người ở trong vườn Đại Quan ai nấy đều dậy sớm. Bọn con gái nhỏ hoặc lấy bông hoa cành liễu bện thành kiệu, ngựa, hoặc dùng gấm vóc, the lụa xếp thành cờ quạt tàn lọng, cái nào cũng buộc bằng chỉ ngũ sắc, treo trên từng ngọn cây, từng cành hoa. Trong vườn giải thêu phất phới, cành hoa chờn vờn. Các chị em đều tô son điểm phấn, làm cho đào thẹn hạnh nhường, yến ghen oanh tủi, vẻ tươi đẹp không thể tả hết được. Bấy giờ chị em bọn Bảo Thoa, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, Lý Hoàn, Phượng Thư và cháu Đại Thư, Hương Lăng cùng bọn a hoàn đều đến chơi đùa cả ở trong vườn, riêng Đại Ngọc không thấy đâu cả. Nghênh Xuân hỏi:

- Sao không thấy em Lâm? Cô bé này lười quá! Bây giờ hãy còn ngủ à?

Bảo Thoa nói:

- Chị em hãy ngời chờ đây, để tôi đi bắt cô ấy đến.

Nói xong rẽ mọi người ra, đi thẳng đến quán Tiêu Tương.

Trong khi đi, gặp bọn Văn Quan tất cả mười hai cô bé cùng đi đến, bèn đứng lại chào hỏi, nói mấy câu chuyện rồi đi. Bảo Thoa quay lại bảo:

- Họ đang ở trong kia kìa, đến đấy mà tìm. Ta đi tìm cô Lâm rồi về ngay.

Nói xong đi quanh đến quán Tiêu Tương. Ngẩng đầu nhìn, thấy Bảo Ngọc đi tới. Bảo Thoa đứng lại cúi đầu ngẫm nghĩ: "Bảo Ngọc và Đại Ngọc từ bé cùng ở một nơi, anh em họ nhiều lúc không biết tránh sự hiềm nghi, cười đùa không giữ ý, vui giận bất thường; vả chăng Đại Ngọc tính nết nhỏ nhen, lại hay ghen ghét, bây giờ mình đến đấy, một là không tiện cho Bảo Ngọc, hai là Đại Ngọc sinh ngờ, chi bằng ta trở về là hơn". Nghĩ xong, Bảo Thoa định quay đi tìm chị em khác, thì trước mặt có một đôi bướm trắng to bằng cái quạt, con xuống con lên, theo gió bay lượn, rất là đẹp mắt. Bảo Thoa muốn bắt để chơi, liền lấy cái quạt ở trong tay áo ra, định đập xuống đất. Không ngờ đôi bướm cứ lên lên xuống xuống, lượn lượn bay bay, rồi chúng luồn qua khe hoa, khóm liễu, chờn vờn định bay qua sông, làm cho Bảo Thoa cứ rón rén đuổi theo mãi đến đình Trích Thúy ở bên ao. Bấy giờ mồ hôi đầm đìa, hơi thở hổn hển, Bảo Thoa đành thôi không đuổi nữa. Quay về, nghe trong đình có tiếng người nói rì rầm. Nguyên cái đình này xây ở trong hồ, bốn mặt đều có lan can chạm trổ, chung quanh dán giấy kín. Bảo Thoa đứng lại, lắng tai nghe, thấy nói:

- Chị xem cái khăn lụa này nếu quả là của chị đánh rơi, thì chị giữ lấy; nếu không phải, tôi sẽ đem trả lại cậu Vân.

- Sao lại không phải của tôi! Đưa đây cho tôi xin.

- Thế thì chị thưởng cho tôi cái gì nào? Lẽ nào tôi lại đưa không cho chị?

- Tôi đã hứa với em, không khi nào tôi lại đánh lừa em.

- Tôi đưa giả chị, chị tạ ơn tôi đã đành rồi, còn người bắt được, chị không tạ người ta à?

- Em đừng nói nhảm, người ta là chủ nhà, bắt được cái gì của chúng ta thì phải trả lại, còn đòi tạ ơn à?

- Nếu chị không tạ, thì tôi trả lời người ta thế nào? Vả chăng, cậu ấy dặn tôi ba bốn lần, nếu chị không tạ ơn thì không được lấy khăn lại.

- Thôi được, cầm cái này về cho người ta, tức là tôi tạ ơn đấy. Nhưng phải thề đi, em có nói chuyện này với ai không?

- Tôi mà nói với ai thì mồm sẽ lên đinh, ngày sau sẽ chết điêu chết đứng.

Lại nghe có người nói:

- Chúng ta cứ mải nói chuyện, khéo không ở ngoài có người nghe trộm đấy. Chi bằng mở toang cửa sổ ra, có ai trông thấy chúng ta ở trong này, họ sẽ cho là chúng ta nói chuyện tếu với nhau thôi. Khi họ đến gần đây, chúng ta trông thấy sẽ thôi không nói nữa.

Bảo Thoa đứng ngoài nghe vậy, giật mình nghĩ bụng: "Xưa nay những đứa gian dâm trộm cướp, bụng dạ đều ra trò cả! Nếu mở cửa, thấy ta ở đây, lẽ nào chúng nó không hổ thẹn? Vả lại nghe tiếng hệt như tiếng con Hồng ở phòng Bảo Ngọc, nó xưa nay vẫn to gan, không coi ai ra gì. Nó là đứa a hoàn điêu ngoa, quỉ quái bực nhất. "Người cùng làm phản, chó cùng nhảy qua tường". Nay ta biết được sự xấu xa của nó, nếu không cẩn thận, không những thêm chuyện, mà ta cũng chẳng hay ho gì. Bây giờ lánh đi một nơi thì không kịp, chi bằng dùng lối "kim thiền thoát xác"(1) mới được". Bỗng nghe kẹt một tiếng, Bảo Thoa liền cố ý đi nặng bước, cười hỏi:

- Chị Tần, tôi xem chị trốn đi đâu nào?

Vừa nói vừa cố ý đi rảo bước.

Hồng Ngọc và Trụy Nhi ở trong đình, vừa mở cửa sổ ra, đã thấy Bảo Thoa nói thế, rồi rảo bước đi lên, hai người đều sợ hãi. Bảo Thoa ngoảnh lại cười hỏi:

- Các chị giấu cô Lâm ở đâu?

Trụy Nhi nói:

- Tôi có thấy cô Lâm đâu.

Bảo Thoa nói:

- Tôi vừa mới ở bên kia hồ, trông thấy cô Lâm ngồi đấy quấy nước chơi, tôi muốn lẳng lặng đến để cô ấy giật mình, nhưng chưa tới nới, cô ấy đã trông thấy, liền đi rẽ sang phía đông rồi mất hút. Có lẽ cô ấy nấp ở trong này?

Bảo Thoa cố ý vào tìm, lại quay ra, miệng lẩm bẩm:

- Nhất định cô ta nấp ở trong hang núi này. Nếu gặp phải rắn nó cắn cho một cái thì xong đời.

Vừa nói vừa đi, trong bụng cười thầm: "Thế là ta nói quanh che giấu đã trôi, chẳng biết chúng nó nghĩ thế nào".

Hồng Ngọc nghe vậy, tin là thực, đợi Bảo Thoa đi xa, liền kéo tay Trụy Nhi lại bảo:

- Thôi hỏng rồi ! Cô Lâm núp ở trong này, nhất định nghe thấy những câu chuyện của chúng ta.

Trụy Nhi nghe nói ngồi thừ ra một lúc, Hồng Ngọc lại hỏi:

- Thế thì bây giờ làm thế nảo?

- Nghe thấy thì nghe, chứ có động chạm gì đến ai! Người nào lo việc người ấy là xong.

- Cô Bảo nghe thấy chẳng sao, chứ cô Lâm miệng hay xoi bói, bụng hay khe khắt, nghe thấy mà đi nói tung ra thì làm thế nào?

Đương nói chuyện, thấy bọn Văn Quan, Hương Lăng, Tư Kỳ, Thị Thư đi đến. Hai người nói lảng ra chuyện khác rồi cười đùa với bọn này.

Phượng Thư ở bên kia sườn núi vẫy tay gọi. Hồng Ngọc vội vàng bỏ mọi người chạy đến, cười hỏi:

- Mợ gọi cháu có việc gì?

Phượng Thư ngắm nghía một lúc, thấy Hồng Ngọc sạch sẽ nhanh nhẹn, ăn nói có duyên, liền cười hỏi:

- Hôm nay bọn a hoàn của ta không đi theo hầu. Ta nhớ ra một việc, muốn sai mày đi, không biết mày có làm nổi không? Nói năng có được rành mạch không?

- Mợ có việc gì xin cứ bảo, nếu cháu nói không rành mạch, làm hỏng việc, mợ cứ trách phạt.

- Mày ở nhà cô nào? Để khi ta sai đi, có ai đến tìm, ta sẽ nói hộ.

- Cháu ở nhà cậu Bảo.

- Thế ra mày ở nhà cậu Bảo đấy à? Thảo nào! Thôi được, nếu cậu ấy đến hỏi thì ta nói hộ. Mày về nhà ta bảo chị Bình: dưới cái giá mâm sứ Nhữ Châu để trên cái bàn ở nhà ngoài, có một gói bạc một trăm hai mươi lạng, là để trả tiền công thợ thêu. Khi nào vợ Trương Tài đến thì cân ngay trước mặt, đưa cho chị ta mang đi. Lại còn việc nữa: lấy cái túi nhỏ ở đầu giường mang đến đây cho ta.

Hồng Ngọc nghe xong, vâng lời đi ngay. Một lúc trở lại, không gặp Phượng Thư ở trên sườn núi nữa. Thấy Tư Kỳ ở trong hang núi ra, đương đứng thắt lưng, Hồng Ngọc chạy lại hỏi:

- Chị có biết mợ Hai ở đâu không?

- Tao không biết.

Hồng Ngọc quanh đi tìm các nơi, gặp Thám Xuân, Bảo Thoa đang ngồi xem cá ở bên hồ. Hồng Ngọc lại gần cười nói:

- Thưa hai cô, có biết mợ Hai đi đâu không?

Thám Xuân nói:

- Đến nhà mợ Cả mà tìm.

Hồng Ngọc đến thôn Đạo Hương, thấy bọn Tình Văn, Ỷ Hà, Bích Ngân, Tử Tiêu, Xạ Nguyệt, Thị Thư, Nhập Họa, Oanh Nhi cùng đi lại. Tình Văn trông thấy Hồng Ngọc nói ngay:

- Con này động điên sao? Không tưới hoa ngoài sân, không cho chim ăn, không pha trà, chỉ chạy nhông thôi.

Hồng Ngọc nói:

- Hôm qua cậu Hai bảo: sáng nay không cần tưới hoa nữa, cứ cách một ngày tưới một lần. Chim thì tôi cho ăn lúc chị còn đương ngủ kia.

Bích Ngân nói:

- Còn nước trà thì sao?

Hồng Ngọc nói:

- Hôm nay không phải phiên của tôi, có trà hay không, đừng hỏi đến tôi.

Ỷ Hà nói:

- Chị nghe miệng nó nói đấy! Thôi các chị đừng hỏi nữa, mặc kệ cho nó đi chơi.

Hồng Ngọc nói:

- Các chị thử hỏi xem, tôi có đi chơi không? Mợ Hai vừa bảo tôi đi lấy cái này đây.

Nói xong, nó đưa cái túi cho mọi người xem, ai nấy nín lặng, không nói gì nữa, rồi bỏ đi cả.

Tình Văn cười nhạt:

- Thảo nào! Thế ra nó đã trèo lên được cành cao, nên mới coi thường chúng ta. Không biết nó đã ăn đã nói được những câu gì? Đã ai biết tên biết tuổi nó là gì, mà nó vênh mặt lên như thế? Lần này không hề gì, chứ lần sau thì liệu đấy! Thôi từ nay trở đi nó có giỏi thì ra khỏi cái vườn này, cứ ngồi được mãi ở trên cành cao ấy,mới cho là tài.

Tình Văn vừa nói vừa đi.

Hồng Ngọc nghe nói, không tiện cãi lại, chỉ cố nén giận đi tìm Phượng Thư. Đến buồng họ Lý, quả gặp Phượng Thư đương ngồi nói chuyện ở đấy. Hồng Ngọc vào trình:

- Chị Bình nói: khi mợ đi, chị ấy đã cất gói bạc rồi. Vợ Trương Tài đến lấy, chị ấy đã cân trước mặt và giao cho mang đi rồi.

Hồng Ngọc lại đưa cái túi ra, thưa:

- Chị Bình bảo tôi đến trình mợ: Vừa rồi Lai Vượng đến hỏi xem mợ có truyền bảo gì, để nó còn phải sang bên kia; chị Bình đã theo ý mợ bảo nó đi rồi.

Phượng Thư cười nói:

- Nó theo ý ta như thế nào mà bảo Lai Vượng đi?

- Chị Bình bảo: mợ tôi nhắn lời hỏi thăm mợ bên ấy. Cậu Hai không có ở nhà. Dù có chậm vài hôm, xin mợ cứ yên lòng. Khi nào mợ Năm khỏe, mợ tôi sẽ cùng mợ Năm sang thăm. Hôm trước mợ Năm sai người đến nói: bà mợ có nhắn tin hỏi thăm sức khỏe của mợ, lại muốn nhờ cô bên ấy tìm hộ mấy viên thuốc "duyên niên thần nghiệm vạn toàn đan". Nếu có thì mợ sai người mang đến đưa cho mợ tôi. Sau có người đi, sẽ tiện đường đem sang cho bà mợ.

Hồng Ngọc nói chưa dứt lời, Lý Hoàn cười nói:

- Ô chà! Tao không hiểu mày nói gì, cứ "mợ, mợ, "cậu, cậu" lôi ra một tràng.

Phượng Thư cười nói:

- Chả trách chị không hiểu là phải. Đó là câu chuyện bốn năm gia đình khác nhau.

Rồi quay lại Hồng Ngọc cười nói:

- Con bé này khá đấy, mày nói cũng rành mạch, chứ không như những đứa khác cứ ấp a ấp úng, nói lý nhí như muỗi kêu ấy. Chị không biết, bây giờ trừ mấy a hoàn và bà già hầu tôi ra, tôi không muốn nói với ai cả: Một câu nói của mình, họ kéo dài ra làm hai ba đoạn, đứt quãng từng chữ từng câu, lai nhai ấp úng, chỉ tổ làm cho mình nóng tiết lên, chứ họ có biết gì đâu. Bình Nhi nhà tôi trước cũng thế đấy. Tôi thường bảo nó có phải nói như tiếng muỗi mới gọi là mỹ nhân đâu? Tôi dạy nó nhiều lần, nên bây giờ nó mới khá đấy.

Lý Hoàn cười nói:

- Có phải ai cũng láu lỉnh như thím đâu!

Phượng Thư nói:

- Con bé này cũng khá đấy. Vừa rồi hai lần nói chuyện, tuy không nhiều mấy, nhưng lời nói cũng gãy gọn.

Nói xong quay lại Hồng Ngọc cười bảo:

- Ngày mai mày sang hầu tao, tao sẽ nhận làm con nuôi, tao trông nom cho, sau này mày sẽ nên người.

Hồng Ngọc nghe nói bật cười. Phượng Thư nói:

- Mày cười gì? Mày cho tao còn trẻ, hơn mày mấy tuổi, lại chực làm mẹ mày à? Mày mơ ngủ hay sao! Mày xem có những người lớn hơn mày nhiều, cứ chực gọi tao là mẹ, tao cũng chẳng thèm nhìn. Thế này là tao cất nhắc mày đấy!

Hồng Ngọc cười nói:

- Không phải cháu cười thế đâu. Cháu cười là cười mợ nhận nhầm thứ bậc đấy thôi. Mẹ cháu đã là con nuôi mợ rồi, bây giờ mợ lại nhận cháu làm con nuôi.

Phượng Thư nói:

- Mẹ mày là ai?

Lý Hoàn cười nói:

- Thím không nhận được nó à? Nó là con gái Lâm Chi Hiếu đấy.

Phượng Thư nghe xong rất lấy làm lạ, nói:

- Thế ra con gái nó đấy à? - Lại cười nói: - Hai vợ chồng Lâm Chi Hiếu đần độn thế, suốt ngày không ai cạy mồm nó nói một câu. Ngày thường tôi vẫn bảo: hai người này lấy nhau thực là tốt đôi, một người điếc, một người câm. Ai ngờ lại đẻ ra được đứa con sắc sảo nhanh nhẹn thế này! Mày mười mấy tuổi?

- Cháu mười bảy tuổi.

- Tên là gì?

- Nguyên trước là Hồng Ngọc, vì trùng tên với cậu Bảo, nên đổi là Tiểu Hồng.

Phượng Thư nghe nói, cau mày lại, ngoảy đầu một cái rồi bảo:

- Rõ chán thật! Được ngọc có lẽ sướng lắm hay sao, người này cũng "ngọc", người kia cũng "ngọc".

Rồi quay sang nói với Lý Hoàn:

- Chị không biết, tôi đã bảo mẹ nó: vợ Lại Đại bây giờ lắm việc, chẳng còn biết ai với ai trong phủ này nữa. Tôi nhờ mụ ấy tìm hộ hai a hoàn, mụ ấy chỉ nhận lời cho xong, rồi không những không đi tìm, lại còn đưa con đi hầu chỗ khác. Hay là con nó đến hầu tôi không được tử tế chăng?

Lý Hoàn cười nói:

- Thím đa nghi lắm. Con người ta đi hầu đã lâu rồi, đến giờ thím mới bảo, thì còn trách gì mẹ nó?

Phượng Thư cười nói:

- Đã thế thì ngày mai tôi sẽ nói với chú Bảo tìm người khác thay cho con bé này đến ở với tôi. Nhưng liệu mày có bằng lòng không?

Hồng Ngọc cười nói:

- Bằng lòng hay không, cháu không dám nói. Nhưng nếu được hầu mợ thì cháu học được cách ăn ở lui tới, học được việc lớn việc nhỏ, sẽ khôn biết ra nhiều.

Bỗng có a hoàn của Vương phu nhân lại mời, Phượng Thư cáo từ Lý Hoàn ra về. Hồng Ngọc cũng về viện Di Hồng.

Đêm qua về, Đại Ngọc ngủ không được, sáng nay dậy muộn, nghe nói chị em ở trong vườn đương mở hội tiễn hoa. Sợ người ta cười là lười, Đại Ngọc rửa mặt chải đầu xong, vội vàng đi ngay. Mới ra ngoài sân, thấy Bảo Ngọc đi vào cười nói:

- Hôm qua em có mách gì việc anh không? Anh áy náy cả đêm.

Đại Ngọc liền quay đầu lại bảo Tử Quyên:

- Dọn nhà đi, buông cửa sổ xuống, xem con chim yến đã về chưa, bỏ rèm xuống, chận cái đôn đá sư tử lại, đốt lò hương rồi đậy nắp lại.

Nói xong đi ra.

Bảo Ngọc thấy quang cảnh ấy, chỉ cho là vì việc trưa hôm qua, có biết đâu lại còn cả cái tội buổi tối nữa? Bảo Ngọc cứ đứng chắp tay vái chào. Đại Ngọc vẫn không thèm nhìn, bỏ đi ra, tìm các chị em.

Bảo Ngọc buồn bực, nghĩ bụng:

- Cứ xem bộ dạng này, thì không phải là vì việc buổi trưa hôm qua. Nhưng buổi chiều ta về nhà đã muộn, không gặp cô ta, còn va chạm với cô ấy vào lúc nào?

Vừa nghĩ vừa đi theo sau.

Thấy Bảo Thoa và Thám Xuân ngồi xem hạc múa, Đại Ngọc cũng đến đó. Ba người cùng đứng nói chuyện. Sau thấy Bảo Ngọc đến, Thám Xuân cười nói:

- Anh Bảo có khỏe không? Suốt ba hôm nay em không được gặp.

Bảo Ngọc cười hỏi:

- Em có được mạnh không? Hôm nọ anh gặp chị Cả, có hỏi thăm em.

Thám Xuân nói:

- Anh lại đây, em hỏi chuyện.

Bảo Ngọc nghe nói, từ giã Bảo Thoa và Đại Ngọc đến ngồi ở dưới cây thạch lựu. Thám Xuân hỏi:

- Mấy hôm nay cha có gọi anh không?

- Không gọi.

- Hôm nọ em thoáng nghe như cha gọi anh.

- Chắc người ta nghe nhầm đấy, cha có gọi anh đâu.

- Mấy tháng nay em có dành dụm được mười quan tiền, anh cầm lấy, khi nào ra chơi phố, thấy có bức chữ hay vẽ đẹp, hoặc đồ chơi xinh xắn, anh mua hộ mang về cho em.

- Thỉnh thoảng anh cũng có đi qua các nhà, các miếu ở trong thành, ngoài thành, chẳng thấy cái gì mới lạ, xinh xắn cả, chỉ có những đồ vàng, ngọc, đồng, sứ, và những thứ đồ cổ không có chỗ vất; rồi đến các thứ vóc, nhiễu và các đồ ăn thức mặc thôi.

- Ai cần gì đến những thứ ấy! Như lần trước anh mua cái lẵng hoa bằng cành liễu, hộp phấn bằng rễ trúc, cái lồng ấp bằng đất thó, trông rất đẹp, em thích lắm. Mà chị em ai cũng thích cả. Họ coi những thứ này như của báu, có cái nào là cướp mất cái ấy.

- Nếu em thích những cái ấy, thì chẳng đáng mấy đồng tiền, cứ cho người nhà mang mấy quan tiền đi, sẽ mua được hàng xe.

- Bọn người nhà biết gì? Anh đi chọn lấy cái gì mộc mạc mà không tục, thì mua nhiều về cho em. Em sẽ thêu cho anh một đôi giày như lần trước mà còn tỉ mỉ kỹ càng hơn, anh nghĩ có được không?

Bảo Ngọc cười nôi:

- Em nói đến đôi giày, anh lại nhớ câu chuyện trước. Có lần anh đi đôi giày ấy, gặp cha, người lấy làm khó chịu, hỏi giày này ai thêu cho. Anh không dám nói là em thêu, chỉ nói mợ cho trong dịp sinh nhật anh. Cha thấy thế, không nói gì, một lúc mới phàn nàn: "Tội gì mả hao tốn sức người, phí phạm nhiễu lụa, để thêu cái thứ ấy!" Sau về anh nói chuyện với Tập Nhân, Tập Nhân nói: "Như thế đã đành, dì Triệu lại còn oán là khác. Dì ấy bảo, anh em ruột giày rách đằng giày, tất rách đằng tất, chẳng ai thèm nhìn đến, lại đi thêu những thứ ấy!"

Thám Xuân nghe nói, sa sầm nét mặt xuống, nói:

- Anh xem, câu nói hồ đồ biết chừng nào! Em có phải lả hạng người chỉ để thêu giày đâu. Em Hoàn không có phần riêng của nó sao? Áo quần có phần áo quần, giày tất có phần giày tất, gái hầu, bà già cũng đầy cả nhà, sao lại thở ra những câu oán trách ấy? Định nói cho ai nghe đấy! Chẳng qua lúc rỗi em muốn thêu một đôi chơi, trong đám anh em, thích ai thì cho; đó là tùy bụng em, chứ ai bắt buộc? Thực là dì ấy ghen quàng!

Bảo Ngọc gật đầu cười nói:

- Em không biết, bụng người ta lại nghĩ khác kia.

Thám Xuân nghe nói, càng cáu lên, ngoảy đầu nói:

- Anh cũng hồ đồ nốt. Dì ấy nghĩ thế đấy, nhưng chẳng qua là ý nghĩ của hạng người hèn mọn mà thôi. Mặc dì ấy, muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, chứ em chỉ biết bà và cha thôi, ngoài ra em không cần ai hết. Ngay trong đám anh chị em, ai tốt với em, thì em tốt giả, bất cứ là con nàng hầu, vợ lẽ. Đáng ra em không nên nói dì ấy, nhưng vì dì ấy u mê quá chừng! Lại có một chuyện đáng buồn cười nữa: lần trước em đưa tiền nhờ anh mua đồ chơi hộ em, vài hôm sau gặp em, dì ấy kêu túng kêu thiếu. Em mặc kệ, chẳng để ý đến. Sau khi bọn a hoàn ra rồi, dì ấy quay lại trách móc em, bảo em để dành tiền chỉ đưa cho anh thôi, không đưa cho thằng Hoàn. Nghe dì ấy nói thế, vừa buồn cười vừa bực mình, em chạy ngay đến chỗ mẹ.

Đương nói thì Bảo Thoa ở đằng kia cười nói:

- Chuyện xong chưa, lại đây. Thế mới rõ ra là anh em với nhau bỏ hết cả mọi người, đem nhau đi nói chuyện riêng, chúng tôi nghe không được hay sao?

Thám Xuân, Bảo Ngọc đều cười chạy lại.

Không thấy Đại Ngọc ở đấy, Bảo Ngọc biết ngay là cô ta tránh đi chỗ khác. Rồi nghĩ: "Hãy để chậm vài hôm, chờ cô ta bớt giận, mình sẽ đến". Nhân cúi đầu nhìn thấy nhiều thứ hoa phượng tiên, thạch lựu, như nền gấm giải rụng từng chùm xuống đất, Bảo Ngọc than thở:

- Hẳn là cô ta trong bụng còn tức giận, nên không nhặt những hoa rụng này. Để ta nhặt đi, ngày mai sẽ lại hỏi cô ấy.

Bảo Thoa rủ cả bọn đi về phía sau chơi. Bảo Ngọc nói:

- Tôi sẽ đến sau.

Chờ cho hai người đi xa, Bảo Ngọc mới nhặt những hoa rụng, rồi trèo non lội nước, qua cây luồn hoa, đi đến chỗ cùng Đại Ngọc chôn hoa đào hôm trước. Gần đến nơi, còn ở bên kia dốc núi, đã nghe tiếng nghẹn ngào, khóc than kể lể, ai nghe cũng phải đau lòng. Bảo Ngọc nghĩ bụng: "Không biết a hoàn nhà ai có điều gì oan ức, lại chạy đến đây mà khóc thế?" Vừa nghĩ vừa dừng bước lại, nghe thấy những lời than khóc như sau:

Hoa bay hoa rụng ngập trời,

Hồng phai hương lạt ai người thương hoa?

Đài xuân tơ rủ la đà,

Rèm thêu bông khẽ đập qua bên ngoài.

Kìa trong khuê các có người,

Tiếc xuân lòng những ngậm ngùi vẩn vơ.

Vác mai rảo bước bước ra,

Lòng nào nỡ giẫm lên hoa thế này?

Vỏ du tơ liễu đẹp thay,

Mặc cho đào rụng, lý bay đó mà.

Sang năm đào lý trổ hoa,

Sang năm buồng gấm biết là còn ai?

Tháng ba tổ đã xây rồi,

Trên xà hỏi én quen người hay không?

Sang năm hoa lại đâm bông,

Biết đâu người vắng, lầu hồng còn trơ?

Ba năm sáu chục thoi đưa,

Gươm sương dao gió những chờ đâu đây.

Tốt tươi xuân được mấy ngày,

Chốc đà phiêu dạt, bèo mây thêm sầu.

Nở rồi lại rụng đi đâu,

Người chôn hoa nhĩmg rầu rầu đòi cơn.

Cầm mai lệ lại ngầm tuôn,

Dây trên cành trụi hãy còn máu rơi.

Chiều hôm quyên lặng tiếng rồi,

Vác mai về đóng cửa ngoài buồn tênh!

Ngả người trước ngọn đèn xanh,

Ngoài song mưa tạt, bên mình chăn đơn.

Mình sao vơ vẩn từng cơn?

Thương xuân chi nữa lại hờn xuân chi?

Thương khi đến, hờn khi đi,

Đến lừ đừ đến, đi lỳ lỳ đi.

Ngoài sân tiếng khóc rầm rì,

Chẳng hồn hoa đấy, cũng thì hồn chim.

Hồn kia lảng vảng khôn tìm,

Chim càng lặng lẽ, hoa thêm sượng sùng.

Thân này muốn vẫy vùng đôi cánh,

Nơi chân trời liệng cảnh hoa chơi!

Nào đâu là chỗ chân trời,

Nào đâu là chỗ có đồi chôn hoa?

Sẵn túi gấm đành ta nhặt lấy,

Chọn nơi cao che đậy hương tàn.

Thân kia trong sạch muôn vàn,

Đừng cho rơi xuống ngập tràn bùn nhơ.

Giờ hoa rụng có ta chôn cất,

Chôn thân ta chưa biết bao giờ.

Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ,

Sau này ta chết, ai là người chôn?

Ngẫm khi xuân muộn hoa tàn,

Cũng là khi khách hồng nhan về già.

Hồng nhan thấm thoắt xuân qua,

Hoa tàn người vắng ai mà biết ai!

Bảo Ngọc nghe xong, bất giác đứng ngẩn người ra, ngã vật xuống đất.

----------------------------------

(1). Con ve lột xác, nghĩa là biến đổi thân hình mình để người khác không trông thấy.

Hồi thứ hai mươi tám

Ngọc Hàm tặng thắt lưng, gợi được mối tình;

Bảo Thoa cởi chuỗi thơm, lộ ra vẻ thẹn.

Chỉ vì việc tối hôm trước, Tình Văn không chịu mở cửa, Đại Ngọc ngờ rằng chủ ý của Bảo Ngọc. Hôm sau lại gặp ngay kỳ "tiễn hoa", đương lúc tâm hồn u uất, chưa thoát ra được, lại thêm gợi lòng thương xuân, mối buồn rười rượi, vì thế cô ta nhặt lấy tất cả những cánh hoa rơi rụng, đem đi chôn cất để cám cảnh cho hoa và thương xót cho mình. Đại Ngọc khóc lên mấy tiếng, rồi ngâm luôn mấy câu thơ. Không ngờ Bảo Ngọc đứng bên kia nghe thấy, lúc đầu chỉ gật đầu than thở, sau nghe rõ bốn câu:

Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ,

Sau này ta chết ai là người chôn?

...Hồng nhan thấm thoắt xuân qua,

Hoa tàn nguời vắng ai mà biết ai!

Bảo Ngọc thương cảm quá, thình lình ngã vật trên sườn núi, bao nhiêu hoa rụng nhặt được ở trong tay rơi vãi cả ra đất. Bảo Ngọc nghĩ ngay đến Đại Ngọc sắc đẹp như hoa, mặt trong như trăng, sau này ắt cũng có lúc không thể tìm thấy nữa, lẽ nào chả đứt ruột nát gan! Đại Ngọc đã có lúc không thể tìm thấy, cứ thế suy ra, những người như Bảo Thoa, Hương Lăng, Tập Nhân, cũng đều thế cả. Bọn Bảo Thoa đã vậy thì thân mình sẽ ở đâu? Thân mình còn chả biết ở đâu, đi đâu, thì nơi này, vườn này, hoa này, liễu này, biết thuộc về ai? Bảo Ngọc suy nghĩ miên man hết chuyện này sang chuyện khác, không biết đến giờ phút ấy, muốn làm vật xuẩn ngốc, không hiểu một tí gì, trốn vòng tạo hóa, thoát khỏi lưới trần, liệu có thể gỡ nổi mối đau thương ấy không. Thực là:

Bóng hoa đâu vẫn bên mình,

Tiếng chim đâu vẫn rành rành bên tai.

Đại Ngọc đương lúc thương cảm, chợt nghe sườn núi bên có tiếng than khóc, trong bụng nghĩ: "Ai cũng cười ta có bệnh si, chăng lẽ lại có người si nữa hay sao?" Ngẩng đầu nhìn thì ra Bảo Ngọc. Đại Ngọc liền phỉ thui nói:

- Hừ? Ngỡ ai, hóa ra lại là anh chàng thâm độc chết non!

Vừa nói đến hai tiếng "chết non", Đại Ngọc bưng miệng thở dài, rồi chạy biến đi mất.

Bảo Ngọc đương khi đau xót, thấy Đại Ngọc chạy, biết cô ta trông thấy mình rồi trốn đì. Nghĩ nông nỗi thật buồn tênh, Bảo Ngọc lom khom trở dậy, xuống núi theo đường cũ trở về viện Di Hồng. May sao trông thấy Đại Ngọc chạy đằng trước, Bảo Ngọc vội vàng đuổi theo, nói:

- Cô hãy đứng lại, tôi biết rằng bây giờ cô không thèm nhìn đến tôi nữa. Nhưng tôi xin nói một câu rồi chúng ta sẽ chia tay.

Đại Ngọc ngoảnh lại, thấy Bảo Ngọc, định kệ thây, nhưng lại nghe: "Chỉ xin nói một câu rồi sẽ chia tay", Đại Ngọc đành phải đứng lại:

- Câu gì xin anh cứ nói.

- Xin cho vài câu, cô có thèm nghe hay không?

Đại Ngọc liền quay đầu chạy, Bảo Ngọc theo sau than:

- Biết nông nỗi ngày nay, thì thà đừng gặp nhau từ trước.

Đại Ngọc nghe vậy, đành phải đứng lại, hỏi:

- Trước là thế nào? Mà nay là thế nào?

Bảo Ngọc nói:

- Ái chà! Khi cô mới đến đây, có phải ngày ngày chúng ta cùng chơi đùa với nhau không? Thứ gì tôi thích, cô cũng thích, thì cô cứ việc lấy đi; thứ gì tôi thích ăn, thấy cô cũng thích ăn, tôi cất cẩn thận để phần cô. Hai đứa ăn một bàn, ngủ một giường. Cái gì bọn a hoàn chưa nghĩ chu đáo, tôi sợ cô giận, nên đều tính trước hộ bọn họ. Tôi cho rằng: anh em ta từ nhỏ đến lớn, gần gụi nhau, thân thiết nhau, thì cũng nên hòa thuận với nhau hơn hẳn các người mới phải. Ngờ đâu cô lớn lên lòng khác hẳn, không coi tôi vào đâu, ba ngày chẳng thèm nhìn, bốn ngày chẳng thèm gặp, chỉ để ý những người xa lắc xa lơ, như chị Bảo, chị Phượng gì đó. Tôi chẳng có anh chị em ruột thịt nào cả. Tuy có đấy, nhưng cô đã chẳng biết là con khác mẹ hay sao? Tôi với cô đều là con một, chắc chúng ta cũng cùng một ý nghĩ, ngờ đâu phí cả tấm lòng, thật là có oan khôn đường bày tỏ?

Nói xong, nước mắt ròng ròng nhỏ xuống.

Đại Ngọc tai nghe mắt thấy trước câu nói và quang cảnh ấy, bất giác lòng dịu hẳn đi, nước mắt tự nhiên nhỏ xuống ròng ròng, cúi đầu không nói gì. Bảo Ngọc thấy tình thế như vậy, nói luôn:

- Tôi biết rồi, giờ tôi cũng chẳng tốt gì! Nhưng dù sao, tôi cũng không dám có điều gì lầm lỗi với cô. Nếu có, cô cũng nên bảo tôi, răn tôi, hoặc mắng tôi mấy câu, đánh tôi mấy cái, tôi không dám mủi lòng. Ngờ đâu cô không thèm nhìn đến tôi, để tôi nghĩ mãi, chẳng biết đầu đuôi ra sao, lắm phen phải kinh hồn mất vía! Nếu tôi chết đi, cũng là con quỉ chết oan, dù nhờ các vị cao tăng, cao đạo đọc kinh sám hối, cũng chẳng có thể siêu sinh được; chỉ có cô, nói rõ ngành ngọn cho, may ra tôi mới được hóa kiếp!

Đại Ngọc nghe xong, câu chuyện tối qua tự nhiên bay đâu hết sạch, liền nói:

- Anh đã nói thế, thì tại sao tối hôm qua tôi đến, anh lại không cho a hoàn mở cửa?

Bảo Ngọc kinh ngạc nói:

- Chuyện ấy ở đâu mà ra? Nếu tôi có làm thế thì tôi chết ngay!

Đại Ngọc phỉ thui:

- Vừa mới sáng sớm đã nói chết với sống, không kiêng à! Có nói là nói, không nói là không, việc gì mà anh phải thề.

Bảo Ngọc nói:

- Tối hôm qua, thực không thấy em đến, chỉ có chị Bảo Thoa đến một lúc rồi về thôi.

Đại Ngọc nghĩ một lúc, cười nói:

- Phải rồi. Chắc là bọn a hoàn lười không muốn dậy, đâm ra nói bừa, gắt bậy. Chuyện ấy cũng có thể có được.

- Chắc thế, để anh về hỏi xem đứa nào, phải răn bảo chúng mới được.

- Anh cũng nên răn bảo các cô ấy, cứ lẽ ra tôi không đáng nói. Nhưng lần này có lỗi với tôi là chuyện nhỏ, chứ lần sau không may có lỗi với cô Bảo, cô "Bối" nào đấy, tất xảy chuyện to.

Nói xong, nhoẻn miệng cười. Bảo Ngọc nghe xong, nghiến răng bực bội, sau lại cười phá lên.

Hai người đương nói chuyện, thấy a hoàn đến mời đi ăn cơm, họ liền đi ngay. Vương phu nhân thấy Đại Ngọc, hỏi:

- Cô Lâm uống thuốc của ông lang họ Bảo có khá không?

Đại Ngọc thưa:

- Cũng vẫn thế thôi. Bà còn bảo cháu uống thuốc của thầy lang họ Vương nữa.

Bảo Ngọc thưa:

- Mẹ không biết bệnh cô Lâm là chứng nội thương, tiên thiên kém lắm, không chịu nổi sương gió! Chỉ nên uống vài thang sơ tán phong hàn, rồi uống thuốc viên mới tốt.

Vương phu nhân nói:

- Hôm nọ thầy thuốc có nói tên một thứ thuốc viên, nhưng ta quên mất.

Bảo Ngọc thưa:

- Con biết rồi. Thuốc ấy gọi là nhân sâm dưỡng vinh hoàn.

- Không phải.

- Hay là bát trân ích mẫu hoàn, tả qui, hữu qui, nếu không phải thì lại là bát vị địa hoàng hoàn.

- Đều không phải cả. Ta nhớ có hai chữ "kim cương" gì ấy.

Bảo Ngọc vỗ tay cười nói:

- Xưa nay chưa nghe thấy có tên "kim cương hoàn" bao giờ. Nếu có kim cương hoàn tất nhiên phải có bồ tát hoàn.

Câu ấy làm cả nhà cười ầm lên. Bảo Thoa mỉm cười:

Có lẽ là thiên vương bổ tâm đan thì đúng hơn.

Vương phu nhân cười nói:

- Chính là tên ấy đấy, bây giờ ta đâm ra hồ đồ! Bảo Ngọc nói:

- Mẹ không hồ đồ đâu, chỉ tại người gọi là kim cương hay là bồ tát làm cho mẹ hồ đồ đấy thôi.

- Mày định chọc cả mẹ mày à? Coi chừng cha mày lại cho mày ăn đòn đấy.

- Chắc cha con cũng không vì việc ấy mà đánh con đâu!

Vương phu nhân lại nói:

- Đã có thứ thuốc ấy, ngày mai bảo đi mua một ít về mà uống.

Bảo Ngọc nói:

- Thuốc ấy chẳng ăn thua gì đâu. Mẹ cứ cho con ba trăm sáu mươi lạng bạc, con sẽ làm cho cô ấy một tễ thuốc viên, chắc nhắn chưa uống hết tễ thuốc bệnh sẽ khỏi.

- Mày chỉ nói bậy. Thuốc gì mà đắt đến thế?

- Thật thế, thuốc ấy khác hẳn các thuốc khác. Tên thuốc này rất lạ, nói một lúc không thể hết được. Chỉ nói nhau đàn bà đẻ con so, nhân sâm có lá ba trăm sáu mươi lạng cũng chưa đủ. Lại còn hà thủ ô lớn như con rùa, phục linh đởm ở rễ cây tùng nghìn năm; những thứ thuốc như thế cũng chưa lấy gì làm lạ, còn phải chọn thứ thuốc đầu vị nữa. Nói ra làm người ta phải rùng mình. Trước kia anh Tiết Bàn có xin con đơn thuốc ấy, hai ba năm sau con mới cho, anh ấy mang đi tìm đến hai ba năm nữa, tốn hết hơn một nghìn lạng bạc mới chế xong. Mẹ không tin, cứ hỏi chị Bảo sẽ biết.

Bảo Thoa cười, xua tay nói:

- Tôi không biết, tôi cũng chẳng nghe thấy ai nói chuyện ấy bao giờ. Anh đừng bảo dì hỏi tôi.

Vương phu nhân cười nói:

- Con bé Bảo tốt đấy, nó không hay nói dối.

Bảo Ngọc nghe vậy quay ngay lại, vỗ tay nói:

- Con nói thực đấy, thế mà mẹ lại bảo con nói dối. Nói xong, Bảo Ngọc ngoảnh lại nhìn, thấy Đại Ngọc đương ngồi ở sau lưng Bảo Thoa mỉm cười, rồi lấy ngón tay vẽ vào mặt ra hiệu chế diễu Bảo Ngọc.

Phượng Thư đương ở nhà trong, trông nom người bày bàn, nghe vậy, liền chạy lại cười nói:

- Việc này có thật đấy. Chú Bảo không nói dối đâu. Hôm nọ, anh Tiết có đến nhờ con tìm hộ hạt trân châu, con hỏi, anh ấy nói là để chế thuốc. Anh ấy còn phàn nàn: "Thà chẳng chế cho xong, biết đâu lại có nhiều chuyện rắc rối!" Con hỏi thuốc gì, anh ấy nói là đơn thuốc của chú Bảo cho. Anh ấy còn nói nhiều thứ nữa kia, con không nhớ hết, anh ấy lại nói: "Nếu không thì tôi mua ở đâu chả được mấy hạt trân châu, chỉ vì cần những hạt đã giắt ở trên đầu, nên phải đến đây tìm thím, không có thì lấy những hạt đính ở cành hoa cũng được. Sau này tôi sẽ đem những hạt khác tốt hơn giả lại thím". Con đành phải lấy hai hạt đương cài trên đầu đưa cho anh ấy. Lại còn phải dùng một đoạn lụa hồng dài ba thước, rồi lấy bát sữa nghiền nhỏ, đem trộn với bột mới được.

Phượng Thư nói một câu, Bảo Ngọc niệm Phật một câu. Sau đó nói: "Có mặt trời chứng giám". Phượng Thư nói xong, Bảo Ngọc lại nói:

- Bây giờ mẹ nghĩ xem, chẳng qua là làm gượng đấy thôi, cứ theo đúng cách thức trong đơn, thì phải lấy những châu ngọc ở trong ngôi mộ của những người giàu sang cài đầu ngày xưa khi chết đem chôn theo mới hay. Nhưng bây giờ không lẽ vì đơn thuốc lại đi đào bới người ta lên sao tiện. Vì thế chỉ dùng những thứ của người sống đeo cũng được.

Vương phu nhân nghe rồi nói:

- A di đà Phật! Ai nỡ làm thế! Người ta chết mấy trăm năm rồi, lại còn đào thây bới xương lên để làm thuốc, thì còn linh nghiệm gì.

Bảo Ngọc quay lại nói với Đại Ngọc:

- Em có nghe không? Lẽ nào chị Phượng cũng theo anh mà nói dối em à?

Bảo Ngọc ngoảnh mặt lại hỏi Đại Ngọc, nhưng mắt lại liếc sang bên Bảo Thoa.

Đại Ngọc liền kéo Vương phu nhân nói:

- Mợ xem, chị Bảo không chịu vào hùa với anh ấy, thành ra anh ấy lại đi hỏi cháu.

Vương phu nhân nói:

- Bảo Ngọc cứ hay bắt nạt em mày.

Bảo Ngọc cười nói:

- Mẹ không biết nguyên do việc này. Chị Bảo khi trước ở nhà, anh Tiết làm việc gì chị ấy cũng không biết. Bây giờ lại sang ở bên này, tất nhiên càng không biết nữa. Cô Lâm ngồi ở đằng sau, cho là con bịa chuyện ra nói dối, nên cười giễu con.

Đương nói chuyện thì a hoàn ở buồng Giả mẫu đến mời Bảo Ngọc và Đại Ngọc về ăn cơm. Đại Ngọc không đợi Bảo Ngọc, liền đứng dậy kéo a hoàn đi. A hoàn nói:

- Hãy chờ cậu Bảo cùng đi một thể.

- Anh ấy không ăn đâu. Chúng ta đi thôi. Tôi đi trước đây.

Nói xong, Đại Ngọc đi ra ngay.

Bảo Ngọc nói:

- Hôm nay con ăn cơm với mẹ.

Vương phu nhân nói:

- Thôi, thôi, hôm nay ta ăn chay, con về bên ấy mà ăn.

- Con cũng ăn chay.

Nói xong Bảo Ngọc bảo a hoàn đi về rồi chạy đến ngồi vào bàn ăn. Vương phu nhân cười bảo bọn Bảo Thoa:

- Các cháu cứ đi ăn, mặc kệ nó.

Bảo Thoa cười nói:

- Ăn hay không, anh cũng nên đi với cô Lâm mới phải; bụng cô ta đang khó chịu đấy.

Bảo Ngọc nói:

- Mặc kệ cô ta, chốc nữa là xong hết.

Ăn xong, Bảo Ngọc phần thì sợ Giả mẫu mong, phần cũng nhớ Đại Ngọc, vội vàng bảo lấy nước súc miệng. Thám Xuân, Tích Xuân đều cười:

- Anh Hai sao lúc nào cũng vội vã thế? Ăn uống mà cũng lật đật như vậy.

Bảo Thoa cười nói:

- Anh ấy ăn xong rồi còn phải đi thăm cô Lâm, chứ ở đây làm gì?

Bảo Ngọc uống nước xong, sang ngay nhà phía tây. Đi đến phòng Phượng Thư, thấy Phượng Thư đang đứng ghếch chân trên ngưỡng cửa cầm cái ngoáy tai gợi răng và trông mười đứa hầu nhỏ vần mấy chậu hoa. Thấy Bảo Ngọc đến, Phượng Thư cười nói:

- May quá, chú lại viết hộ chị mấy chữ.

Bảo Ngọc đành phải theo vào buồng. Phượng Thư sai người đem bút giấy ra nói:

- Chú viết: Bốn mươi tấm đoạn trơn màu đỏ, bốn mươi tấm đoạn thêu rồng, một trăm tấm the hạng tốt đủ các màu, vòng cổ bằng vàng bốn chiếc.

- Thế nào? Không phải sổ mua bán, cũng không phải là giấy kê đồ lễ, viết thế này để làm gì?

- Chú cứ viết, miễn sao chị hiểu là được.

Bảo Ngọc nghe nói, đành phải viết vậy.

Phượng Thư vừa cầm tờ giấy, vừa cười nói:

- Còn điều này nữa, không biết chú có bằng lòng không? Bên nhà chú có con a hoàn tên là Hồng Ngọc, tôi muốn lấy nó sang đây, ngày mai tôi sẽ cho đứa khác sang thay nó, liệu có được không?

- Bên nhà tôi nhiều người lắm, chị thích đứa nào, cứ việc lấy, cần gì phải hỏi tôi.

- Nếu thế thì tôi gọi nó về nhé.

- Được, chị cứ việc gọi.

Nói xong, Bảo Ngọc chực đi ngay. Phượng Thư nói:

- Chú hãy đứng lại, tôi còn nói câu này nữa.

- Bà đang gọi tôi, có việc gì khi về sẽ hay.

Bảo Ngọc sang bên phòng Giả mẫu, đã thấy ăn xong cả rồi. Giả mẫu hỏi:

- Ăn cơm bên mẹ cháu có gì ngon không?

- Chả có gì ngon cả, nhưng cháu lại ăn thêm được một bát.

Rồi hỏi:

- Cô Lâm ở đâu?

Giả mẫu nói:

- Ở trong nhà kia kìa.

Bảo Ngọc đi vào, thấy một a hoàn đương ngồi dưới đất quạt bàn là, hai a hoàn ngồi trên giường xe chỉ, Đại Ngọc đang cúi xuống cầm kéo cắt cái gì. Bảo Ngọc chạy đến cười nói:

- Ái chà! Em làm gì đấy, vừa ăn xong đã cúi gằm đầu xuống, khéo lại nhức đầu thôi.

Đại Ngọc không trả lời, cứ ngồi may. Bỗng có một a hoàn nói:

- Góc miếng lụa này còn nhăn, phải là lại mới được.

Đại Ngọc vứt kéo xuống nói:

- Mặc kệ nó, một chốc nữa là xong.

Bảo Ngọc nghe nói, sinh ra buồn rầu. Bỗng bọn Bảo thoa, Thám Xuân đến, nói chuyện với Giả mẫu. Một lúc, Bảo Thoa vào nhà trong, hỏi: "Em làm gì đấy?". Thấy Đại Ngọc đương cắt may, Bảo Thoa cười nói:

- Giỏi quá nhỉ. Em biết cả việc may cắt rồi đấy.

Đại Ngọc cười nói:

- Đó chẳng qua là câu chuyện lừa dối người thôi.

Bảo Thoa cười nói:

- Tôi kể cho cô nghe câu chuyện buồn cười: Vừa rồi chỉ vì tôi bảo không biết gì đến việc thuốc, nên anh Bảo cũng lấy làm khó chịu đấy.

Đại Ngọc nói:

- Mặc kệ anh ấy, một chốc là xong hết.

Bảo Ngọc gọi Bảo Thoa:

- Bà muốn đánh xúc xắc, không có ai, chị ra mà đánh vậy.

- Thế ra tôi chỉ vì đánh xúc xắc mà đến đây à?

Nói xong Bảo Thoa đi ngay.

Đại Ngọc nói:

- Thôi anh cũng đi đi, ở đây có con hùm, khéo nó cắn cho đấy.

Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc vẫn cúi xuống cắt, không để ý đến mình, đành phải cười nói:

- Em nên ra đi dạo chơi, rồi về khâu cũng chưa muộn.

Đại Ngọc vẫn không trả lời. Bảo Ngọc liền hỏi đám a hoàn:

- Ai bảo cô ấy khâu thế?

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc hỏi bọn a hoàn, liền nói:

- Ai bảo tôi khâu thì mặc tôi, việc gì đến cậu Hai!

Bảo Ngọc muốn nói nữa, thấy có người đến báo: "Bên ngoài có người mời cậu", liền đứng dậy ra ngay.

Đại Ngọc ngoảnh ra ngoài nói:

A di đà Phật! Khi anh trở về, tôi có chết cũng xong.

Bảo Ngọc ra ngoài, thấy Bồi Dính chạy lại nói:

- Người nhà cậu Phùng đến mời.

Bảo Ngọc biết ngay là câu chuyện hôm nọ, liền bảo: "Mang quần áo ra đây". Rồi quay vào thư phòng.

Bồi Dính vào ngay cửa thứ hai đứng đợi người hầu. Thấy một bà già đi ra. Bồi Dính nói:

- Cậu Bảo đương ở thư phòng, chờ lấy quần áo đi chơi, bà về đưa tin ngay cho họ biết.

- Con mẹ mày! Cậu Bảo đứng ở ngoài vườn, những người hầu đều theo ra đó cả, mày lại vào đây đưa tin à?

- Bà mắng là phải, tôi thực là hồ đồ.

Bồi Dính chạy vào cửa thứ hai phía đông, gặp bọn hầu nhỏ đương đá cầu ở con đường trước cửa. Bồi Dính báo cho chúng biết. Một đứa chạy ngay đi, một chốc mang bọc quần áo đến, đưa cho Bồi Dính đem về thư phòng.

Bảo Ngọc thay quần áo xong, sai người thắng ngựa và cho bốn đứa tiểu đồng là Bồi Dính, Sừ Dược, Song Thụy, Song Thọ theo hầu. Họ đi thẳng đến nhà Phùng Tử Anh. Có người vào báo, Tử Anh ra cửa mời vào. Tiết Bàn cũng đã đến đấy từ lâu Lại có cả bọn con hát nhỏ và người hay đóng vai nữ là Tưởng Ngọc Hàm cùng kỹ nữ ở viện Cẩm Hương là Vân Nhi nữa. Chào nhau xong, mọi người ngồi uống nước.

Bảo Ngọc cầm chén nước trà cười nói:

- Hôm nọ anh nói việc "may trong không may" làm cho tôi ngày đêm nghĩ ngợi, không biết là việc gì? Hôm nay cho gọi, tôi phải đến ngay.

Phùng Tử Anh cười nói:

- Các anh thực thà quá. Chẳng qua tôi đặt lời ra đấy thôi. Nguyên tôi thành tâm sửa một tiệc rượu mời các anh, nhưng sợ các anh từ chối, nên tôi bịa ra như thế, ngờ đâu các anh lại tin là thực.

Mọi người nghe xong cười ầm lên. Tiệc bày ra theo thứ tự mời ngồi. Phùng Tử Anh trước hết bảo bọn con hát trẻ đến rót rượu, rồi bảo Vân Nhi mời ba chén.

Tiết Bàn mới uống mấy chén, bụng đã xiêu xiêu, cầm tay Vân Nhi nói:

- Cô có khúc nào mới lạ, hát cho tôi nghe, tôi sẽ uống hết một vò rượu, thế có được không?

Vân Nhi nghe nói, gẩy đàn tì bà rồi hát:

Oan nghiệt đôi nhà, khó mà gỡ ra, nhớ khi đi khỏi, vẫn áy náy đến người xa. Trai lơ sắc sảo, ai mà vẽ hệt được dáng điệu đôi ta. Nhớ đêm trước thì thào ở dưới rặng hoa trà, chị thì lấm lét, anh cố lân la, trước tam tào đem ra tra, thôi chối sao được mà!

Hát xong cười nói:

- Tôi hát xong rồi, cậu uống cả vò đi.

Tiết Bàn cười nói:

- Chưa đáng uống. Hát bài nào hay hơn kia!

Bảo Ngọc cười nói:

- Hãy nghe tôi nói đã: cứ uống bừa đi như thế, dễ say mà chẳng có thú gì. Tôi uống trước một chén lớn, rồi ra một cái lệnh mới, hễ ai không theo, phải phạt mười chén lớn, đuổi ra ngoài tiệc, bắt rót rượu mời mọi người.

Phùng Tử Anh và Tưởng Ngọc Hàm đều nói:

- Phải đấy, phải đấy!

Bảo Ngọc cầm ngay chén lớn uống một hơi hết, rồi nói:

- Bây giờ phải nói bốn chữ: "bi", "sầu", "hỉ", "lạc"(1), nhưng phải tả ra thân phận người con gái, và nói rõ cớ gì mà có bốn chữ ấy. Xong rồi uống một chén rượu. Khi uống, phải hát một bài mới, đến cuối, phải tức khắc đọc một câu gì, hoặc là câu sẵn có ở trong tứ thư, ngũ kinh, hoặc là câu thơ câu đối cũ.

Tiết Bàn không chờ nói hết, đứng ngay dậy, gạt đi:

- Tôi không dự cuộc ấy đâu, đừng có tính vào đấy. Các anh định đùa tôi chứ gì!

Vân Nhi đứng dậy đẩy hắn ngồi xuống, cười nói:

- Sợ cái gì? Ngày ngày cậu chỉ biết rượu chè thôi, chẳng lẽ lại thua cả tôi nữa à? Tôi cứ việc nói. Nói phải thì thôi, không phải, chịu phạt mấy chén là cùng, có say đã chết ai? Bây giờ cậu trái lệnh, phải uống mười chén lớn rồi đành chịu đi rót rượu mời người ta à?

Mọi người đều vỗ tay khen hay quá! Tiết Bàn không làm thế nào được, đành phải ngồi xuống, nghe Bảo Ngọc nói:

Gái này thương, buổi đương xuân, trơ trọi trong buồng;

Gái này buồn, tham hầu, chàng phải xa vắng luôn!

Gái này mừng, buổi sớm soi gương đẹp quá chừng;

Gái này vui, áo xuân mỏng mảnh đánh đu chơi.

Mọi người nghe đều khen "hay"! Chỉ có Tiết Bàn vênh mặt lắc đầu:

- Không hay, đáng phạt!

Mọi người hỏi:

- Sao lại đáng phạt?

Tiết Bàn nói:

- Anh ấy nói tôi chẳng hiểu gì cả, sao lại không đáng phạt?

Vân Nhi liền dúi Tiết Bàn một cái, cười nói:

- Cứ ngồi yên, nghĩ sẵn câu của mình đi. Đến lượt mà không nói được thì phải phạt đấy.

Rồi Vân Nhi gẩy đàn theo, Bảo Ngọc hát:

Bao giờ hết, giọt lệ tương tư rơi đỏ ngòm,

Bao giờ nở, xuân về hoa liễu trước lầu son,

Nằm trằn trọc, song the, mưa gió buổi hoàng hôn.

Nghĩ vẩn vơ, mối sầu mới cũ cùng đổ dồn!

Nuốt không trôi, rượu vàng gạo ngọc nào biết ngon,

Soi không rõ, đứng trước gương lăng mặt héo hon!

Nét ngài cau cau lại, giọt đồng hồ dồn dập hơn.

Chao ôi! Nào khác gì: trôi đi, nước biếc dòng man mác,

Dừng lại, non xanh bóng chập chờn.

Hát xong, mọi người khen hay, chỉ có Tiết Bàn nói:

- Chẳng hay gì cả.

Bảo Ngọc uống chén rượu đầu, rồi cầm miếng lê và đọc một câu: Hoa lẽ mưa đẫm cửa cài then. Thế là xong một lệnh.

Đến lượt Phùng Tử Anh nói:

Gái này thương, chàng mắc bệnh nặng nằm trên giường,

Gái này sầu, gió thổi lầu tranh sập đổ nhào.

Gái này mừng, đầu lòng sinh đôi sướng quá chừng,

Gái này vui, lẻn bước ra vườn đào để chơi.

Nói xong cầm chén rượn hát:

Mình là hạng thông minh,

Mình là kẻ đa tình,

Mình là giống ma quỉ kỳ quái yêu tinh.

Mình là bậc thần tiên, nhưng phép không linh.

Đây bảo mình, mình cứ làm thinh,

Thấy nói đến nơi nào vắng vẻ, dò xét cho rành.

Mới biết là đây thương hay không thương mình!

Hát xong, uống chén rượn, rồi đọc câu: "Trăng tỏ lều tranh nhộn tiếng gà". Thế là xong lệnh.

Rồi đến lượt Vân Nhi nói:

Gái này thương, sau này nào biết chốn tựa nương?

Tiết Bàn cười nói:

- Con ơi! Đã có bố Tiết mày đây, sợ gì?

Mọi người đều nói:

- Đừng phá đám! Đừng phá đám!

Vân Nhi lại nói:

Gái này buồn, cái mụ dầu kia đánh mắng luôn!

Tiết Bàn nói:

- Hôm nọ tao gặp mẹ mày, tao đã bảo mụ ấy không được đánh mắng mày kia mà.

Mọi người đều nói:

- Còn nói nữa, sẽ phạt mười chén rượu.

Tiết Bàn vội tự vả vào mồm, nói:

- Không có tai à! Cấm không được nói nữa!

Vân Nhi lại nói:

Gái này mừng, trong nhà ở với bạn tình chung,

Gái này vui, buông tay tiêu sáo gảy đàn chơi.

Nói xong liền hát:

Tháng ba đậu mới trồi hoa,

Sâu kia đâu đã lân la đục rồi.

Đục vào cũng uổng công thôi,

Trên hoa tấp tểnh lên ngồi đánh đu.

Khen cho mi cũng gan to,

Ta không nở nữa, đục rau được nào?

Hát xong uống chén rượu, rồi đọc câu: "Hoa đào mơn mởn". Thế là xong lệnh.

Đến lượt Tiết Bàn. Hắn nói:

- Giờ tôi nói này: Gái này thương...

Rồi ngừng lại, không nói được. Phùng Tử Anh cười nói:

- Thương cái gì? Nói nhanh lên.

Tiết Bàn mắt trợn tròn nói:

- Gái này thương...

Rồi cứ ho gằn mãi mới nói được một câu:

- Gái này thương, thân này lấy phải anh chàng "rùa đen"(2).

Mọi người nghe xong, cười ầm lên. Tiết Bàn nói:

- Cười cái gì? Tôi nói thế không phải à? Người con gái lấy phải thằng chồng mất dạy, thì chả đau ruột hay sao?

Mọi người cười rũ rượi:

- Anh nói phải đấy, thôi đọc câu dưới đi.

Tiết Bàn lại trợn mắt nói:

- Gái này buồn... - rồi tắc tị, không nói được.

Mọi người hỏi:

- Buồn cái gì?

Tiết Bàn đọc tiếp:

- Gái này buồn, phòng thêu gấu ngựa nó luồn chạy ra.

Mọi người cười ầm lên:

- Đáng phạt, đáng phạt! Câu trước còn có thể tha được, câu này không thông một tí nào.

Nói xong toan rót rượu phạt.

Bảo Ngọc nói:

- Nhưng mà ghép vần cũng khá đấy.

Tiết Bàn nói:

- Quan giữ lệnh đã cho được rồi, các anh còn nhắng lên gì!

Mọi người nghe thấy mới thôi.

Vân Nhi cười nói:

- Đến hai câu dưới càng khó đấy, tôi nói hộ cậu nhé.

Tiết Bàn đáp:

- Bậy nào! Thế ra ta không mở miệng được à? Nghe này: Gái này mừng, đuốc hoa trời đã sáng trưng còn nằm.

Mọi người nghe đọc, đều lấy làm lạ hỏi nhau:

- Sao câu này lại nhã thế?

Tiết Bàn lại nói:

- Gái này vui, con cu nghí ngoáy định chui ngay vào.

Mọi người nghe xong, đều quay đầu nói:

- Đáng chết, đáng chết! Thôi hát đi!

Tiết Bàn liền hát:

- Một con muỗi kêu vo vo vo.

Mọi người đều ngơ ngác nói:

- Khúc hát gì đấy?

Tiết Bàn lại hát:

- Hai con nhặng kêu vù vù vù.

Mọi người đều nói:

- Thôi, thôi đi!

Tiết Bàn nói:

- Các anh thích nghe không, đó là khúc mới đấy, gọi là khúc hát vo vo. Nếu các anh không buồn nghe thì cả lượt cuối cũng xin miễn.

Mọi người đều nói:

- Thôi tha cho, đừng làm nhỡ cả người khác.

Rồi đến Tưởng Ngọc Hàm đọc:

Gái này thương, xa nhau biền biệt mong chàng về ngay,

Gái này buồn, muốn mua dầu quế, nhưng còn tiền đâu.

Gái này mừng, nhụy hoa đèn đã nối chằng vào nhau,

Gáí này vui, xướng tùy giờ đã sánh đôi thuận hòa.

Nói xong hát:

Khen thay vẻ đẹp trời sinh,

Khác nào tiên ở bồng doanh xuống trần.

Tuổi này vừa độ thanh xuân.

Phượng loan tìm bạn, trăm phần khéo khôn.

Ối chà! Sông Ngân dọi, trống canh dồn,

Khêu đèn ta khẽ màn loan cùng vào.

Hát xong uống chén rượu, cười nói:

- Thơ từ tôi không biết mấy, may hóm nọ thấy đôi câu đối, tôi chỉ nhớ được một vế, nay gặp trên bàn tiệc này cũng có vật ấy.

Nói xong, uống cạn chén rượn, cầm cái hoa quế lên đọc: Mùi hoa buổi sớm ấm ran cả người(3).

Mọi người đều cho là được. Thế là xong lệnh.

Tiết Bàn nhảy lên la hét ầm ĩ:

- Không được, không được! Phải phạt! Phải phạt! Trong tiệc này làm gì có bảo bối, sao lại nói đến bảo bối?

Tưởng Ngọc Hàm ngơ ngác nói:

- Có bảo bối nào đâu?

Tiết Bàn nói:

- Anh còn chối à! Thử nói lại xem.

Tưởng Ngọc Hàm đọc lại một lần nữa. Tiết Bàn nói:

- Hai chữ "tập nhân" không phải "bảo bối" là gì? Các anh không tin, thử hỏi anh ấy xem.

Nói xong giơ tay trỏ vào Bảo Ngọc. Bảo Ngọc rất khó chịu, đứng dậy nói:

- Anh Tiết đáng phạt bao nhiêu?

Tiết Bàn nói "đáng phạt, đáng phạt!". Sau đó cầm chén rượu uống một hơi hết.

Phùng Tử Anh và Tưởng Ngọc Hàm hỏi duyên cớ vì sao. Vân Nhi liền nói cho họ biết. Tưởng Ngọc Hàm vội đứng dậy nhận lỗi. Mọi người đều nói:

- Người không biết thì không bắt lỗi.

Một chốc, Bảo Ngọc ra ngoài đi giải, Tưởng Ngọc Hàm theo ra. Hai người đứng ở dưới thềm, Tưởng Ngọc Hàm lại xin lỗi một lần nữa. Bảo Ngọc thấy hắn mềm mại nhu mì, liền nắm chặt lấy tay nói:

- Lúc nào rỗi sang chơi tôi nhé. Tôi muốn hỏi một điều, trong ban hát ta có một người tên là Kỳ Quan, nổi tiếng nhất thiên hạ, tiếc tôi vô duyên, không được gặp.

Ngọc Hàm cười đáp:

- Đó là tên tục của tôi đấy.

Bảo Ngọc mừng lắm, giậm chân cười nói:

- Thực là may, thực là may! Quả nhiên tiếng đồn không sai. Giờ mới gặp lần đầu, biết làm thế nào đây.

Nghĩ một lúc rồi lấy cái quạt ở trong tay áo ra, cởi viên ngọc ở dây quạt đưa cho Kỳ Quan và nói:

- Vật nhỏ này không đáng bao nhiêu, gọi là tỏ mối tình ngày hôm nay.

Kỳ Quan cầm lấy, cười nói:

- Tôi không có công gì, đâu đáng nhận đồ tặng. Nhưng thôi, tôi cũng có một vật lạ, sáng hôm nay mới thắt vào người, hãy còn mới nguyên, xin tặng lại cậu, để tỏ lòng quý mến của tôi.

Nói xong hắn vén áo lên, cởi cái thắt lưng lụa màu hồng, thắt trong áo lót, đưa tặng Bảo Ngọc và nói:

- Cái thắt lưng này là đồ cống của nữ quốc vương nước Phiến Hương, mùa hè thắt vào, da thịt thơm nức, không có mồ hôi. Hôm nọ Bắc Tĩnh vương cho, tôi vừa mới thắt vào người. Tôi không bao giờ định tặng ai. Xin cậu cởi cái thắt lưng của cậu ra cho tôi.

Bảo Ngọc nghe nói mừng quá, vội nhận ngay, và cởi thắt lưng màu hoa tùng của mình đưa cho Kỳ Quan. Hai người vừa thắt xong, nghe thấy tiếng kêu to: "Ta bắt được rồi".

Tiết Bàn ở đâu nhảy ra kéo hai người lại nói:

- Hai người này bỏ rượu không uống, trốn tiệc ra ngoài, định làm trò gì đây? Đưa ngay ra đây cho ta xem!.

Hai người đều chối không có cái gì cả. Tiết Bàn không nghe. Phùng Tử Anh thấy vậy ra can mới thôi. Mọi người về chỗ, uống rượu đến chiều mới tan.

Bảo Ngọc về đến trong vườn, cởi áo, uống nước. Tập Nhân thấy mất viên ngọc đeo ở quạt, liền hỏi:

- Vứt đâu mất rồi?

- Đi ngựa đánh rơi mất.

Tập Nhân cũng không hỏi lại nữa. Đến lúc đi ngủ, thấy Bảo Ngọc thắt cái thắt lưng đỏ như máu, Tập Nhân đã đoán ra được tám chín phần, bèn nói:

- Cậu có cái thắt lưng đẹp nhỉ. Thôi, giả cái thắt lưng của tôi đây.

Bảo Ngọc nghe nói mới nhớ ngay cái thắt lưng trước là của Tập Nhân, đáng ra không nên đem cho người khác mới phải, bụng rất hối hận, nhưng không tiện nói ra, đành phải tươi cười:

- Thôi tôi xin đền chị cái khác vậy.

Tập Nhân nghe nói, cúi đầu than thở:

- Tôi biết cậu vẫn hay giở trò ấy. Từ nay, cậu không nên lấy cái của tôi đem cho bọn đốn mạt nào. Cậu thật chẳng suy nghĩ gì cả.

Tập Nhân muốn nói mấy câu nữa, nhưng lại sợ Bảo Ngọc đương say phát cáu, nên đành phải đi ngủ.

Hôm sau dậy, Bảo Ngọc cười nói:

- Đêm qua chị mất trộm mà không biết, thử nhìn xuống quần xem.

Tập Nhân cúi đầu, thấy cái thắt lưng của Bảo Ngọc tự nhiên lại thắt vào mình. Tập Nhân biết rằng ban đêm Bảo Ngọc đánh tráo, vội vàng cởi ngay ra và nói:

- Tôi không thèm cái này, vứt ngay nó đi.

Bảo Ngọc thấy thế, liền dịu dàng khuyên giải. Tập Nhân không biết làm thế nào, đành phải thắt vậy. Sau đó Bảo Ngọc đi ra ngoài, Tập Nhân mới cởi ra, vứt vào cái hòm không, rồi lại thắt cái thắt lưng của mình.

Bảo Ngọc cũng không để ý đến việc ấy nữa. Nhân hỏi:

- Hôm qua ở nhà có việc gì không?

Tập Nhân nói:

- Mợ Hai sai người đến gọi Hồng Ngọc sang bên ấy. Nó muốn chờ cậu về, nhưng tôi nghĩ việc này cũng không quan trọng, nên đã cho nó sang rồi.

- Thôi cũng được. Việc ấy tôi đã biết rồi, không cần phải chờ tôi nữa.

- Hôm qua Quý phi cho Hạ thái giám đem một trăm hai mươi lạng bạc về, bảo phải đến quán Thanh Hư làm lễ cầu an trong ba ngày, từ mồng một đến mồng ba và bảo ông Trân dẫn cả nhà ra đấy dâng hương lễ Phật. Lại còn đồ thưởng về tết Đoan ngọ nữa.

Nói xong, sai đứa hầu bé đem các đồ vật ra; một đôi quạt hạng nhất trong cung, hai chuỗi hạt châu xạ hương, hai tấm là, một bức mành phù dung.

Bảo Ngọc thấy những vật ấy thích lắm, hỏi Tập Nhân:

- Những người khác cũng được thế này chứ?

- Cụ được thêm một cây như ý thơm, một cái gối mã não. Bà và dì Tiết mỗi người được thêm một cây như ý. Cậu với cô Bảo bằng nhau. Cô Lâm và cô Hai, cô Ba, cô Tư mỗi cô được một cái quạt và vài hạt châu, không có gì nữa. Mợ Cả, mợ Hai mỗi người hai tấm the, hai tấm lụa, hai cái túi thơm, hai thoi thuốc.

- Thế là nghĩa làm sao? Sao lại không cho cô Lâm mà cho cô Bảo bằng tôi? Hay là nghe nhầm đấy?

- Hôm qua mang ra xem, phần nào phần nấy có biên thẻ cả, sao lại nhầm được? Phần cậu gởi ở phòng cụ, để tôi đến lấy. Cụ dặn đến sớm mai, trống canh năm, cậu phải vào tạ ơn.

- Phải vào mới được chứ.

Nói xong Bảo Ngọc bảo Tử Quyên:

- Chị mang những cái này đưa cho cô lâm, bảo là phần của tôi đấy, cô ấy thích cái gì, cứ để lại mà dùng.

Tử Quyên đem đi, một chốc về nói:

- Cô Lâm bảo hôm qua cô ấy cũng đã có phần rồi, cậu cứ để lại mà dùng.

Bảo Ngọc nghe nói, sai người cất những thứ ấy đi. Rửa mặt xong, Bảo Ngọc sang chào Giả mẫu, thấy Đại Ngọc từ đầu kia đi lại. Bảo Ngọc chạy ngay lại cười nói:

- Anh bảo em chọn lấy những thứ của anh mà dùng, sao em không lấy?

Đại Ngọc quên hết những chuyện hờn giận Bảo Ngọc hôm nọ, chỉ nghĩ đến việc lúc này thôi, liền nói:

- Nhà em ít phúc, không đáng dùng những thứ ấy. Chúng em chẳng qua chỉ là hạng cỏ rác thôi, so đâu được với cô Bảo là người "vàng" người "ngọc".

Nghe thấy Đại Ngọc nhắc đến hai chữ "vàng", "ngọc", Bảo Ngọc đâm ra ngờ, liền nói:

- Người ngoài nói "vàng, "ngọc" thế nào mặc họ, chứ bụng anh mà nghĩ đến điều ấy, thì trời tru đất diệt, muôn kiếp không được làm người!

Đại Ngọc nghe vậy, biết ngay là Bảo Ngọc có ý nghi ngờ, vội cười nói:

- Thật chán chưa! Cứ thề với bồi? Ai để ý đến "vàng", "ngọc" làm gì?

- Khó nói cho em biết tâm sự của anh, sau này em sẽ hiểu. Anh xin thề rằng, trừ bà và cha mẹ anh ra, thì em là người thứ tư của anh đấy. Không còn có người thứ năm nảo nữa.

- Anh không cần phải thề, em biết bụng anh vẫn nghĩ đến "cô em", nhưng khi nào gặp "cô chị" lại quên khuấy "cô em" đi.

- Em hay đa nghi, anh không phải hạng người thế đâu.

- Hôm nọ cô Bảo không hùa theo những câu nói dối của anh, vì cớ gì anh lại quay sang hỏi em? Nếu phải là em, thì không biết anh đối xử như thế nào?

Đương nói chuyện thì Bảo Thoa từ phía trước đi đến, hai người mới rời nhau ra, Bảo Thoa trông thấy rõ ràng, nhưng giả lờ như không, cứ cúi đầu đi qua. Bảo Thoa sang bên Vương phu nhân ngồi một lúc, rồi sang bên Giả mẫu, đã thấy Bảo Ngọc ngồi đấy rồi.

Bảo Thoa nhớ lại trước kia mẹ mình nói chuyện với Vương phu nhân về việc vị sư cho cái khóa vàng, bảo chờ ngày sau ai có ngọc mới kết hôn, vì thế chỉ muốn tìm cách tránh xa Bảo Ngọc. Hôm nọ Nguyên Xuân lại cho các thứ cũng như Bảo Ngọc, trong lòng càng thêm áy náy khó nghĩ. May sao Bảo Ngọc lại hay quấn quít với Đại Ngọc, lúc nảo cũng tâm tâm niệm niệm đến Đại Ngọc, nên Bảo Thoa cũng không để ý đến việc ấy Chợt đâu Bảo Ngọc cười nói: "Chị Bảo cho tôi xem cái chuỗi hột thơm của chị nào?" Lúc này Bảo Thoa đang đeo chuỗi hột thơm ở cánh tay bên trái, thấy Bảo Ngọc hỏi, đành phải tháo ra.

Nhưng vì Bảo Thoa da thịt nõn nà, mập mạp, tháo mãi không được. Bảo Ngọc đứng bên cạnh thấy bắp thịt trắng muốt, đâm ra thèm muốn, nghĩ thầm: "Nếu cái bắp tay này mà ở vào người cô Lâm, may ra có lúc được mó một cái; nhưng lại ở vào tay cô Bảo thì ta thực là kém phúc". Chợt nghĩ đến chuyện vàng và ngọc, Bảo Ngọc ngắm nghía đến dáng điệu Bảo Thoa, thấy da mặt nõn nà, khóe mắt long lanh, không đánh sáp mà làn môi vẫn đỏ, không kẻ mày mà nét ngài vẫn xanh, so với Đại Ngọc lại có vẻ phong lưu thùy mị riêng, Bảo Ngọc bất giác đứng ngẩn người ra. Đến khi Bảo Thoa đưa chuỗi hạt, Bảo Ngọc quên đi không buồn cầm lấy.

Bảo Thoa thấy thế, cảm thấy ngượng ngùng, liền vứt chuỗi hạt xuống, toan quay người đi, thấy Đại Ngọc đứng ở bực cửa, ngậm cái khăn lụa cười. Bảo Thoa nói:

- Chị không chịu được gió, sao lại ra đứng trước ngọn gió làm gì?

Đại Ngọc cười nói:

- Tôi mới ở trong buồng ra đấy, chỉ vì nghe thấy trên trời có tiếng chim kêu, chạy ra nhìn, thì ra là "con nhạn ngớ ngẩn"(4).

Bảo Thoa nói:

- "Con nhạn ngớ ngẩn" ở đâu? Cho tôi xem với.

Đại Ngọc nới:

- Tôi vừa đến nơi, nó vụt bay mất.

Nói xong cầm cái khăn ném thẳng vào mặt Bảo Ngọc. Bảo Ngọc không biết, tự nhiên thấy khăn tay tạt vào mặt, liền kêu "ái chà" một tiếng.

----------------------------

(1). Thương, buồn, mừng, vui.

(2). Dùng để chế anh chồng cho vợ đi ngoại tình.

(3). Nguyên văn là "hoa khí tập nhân tri trú noãn". Hai chữ "tập nhân" trùng với tên Tập Nhân, a hoàn của Bảo Ngọc, nên Tiết Bàn mới lấy đó để chế nhạo Bảo Ngọc.

(4). Dùng để chế giễu người ngốc.

Hồi thứ hai mươi chín

Người hưởng phúc, phúc nhiều, còn cầu xin thêm phúc,

Gái si tình, tình nặng, càng luẩn quẩn vì tình.

Bảo Ngọc đương ngơ ngẩn đứng nhìn, chợt Đại Ngọc ném khăn vào mặt, giật mình hỏi "Ai thế?", Đại Ngọc lắc đầu cười nói:

- Xin lỗi! Vì chị Bảo muốn xem "con nhạn ngớ ngẩn", tôi ra hiệu cho chị ấy, không ngờ lỡ tay ném phải anh.

Bảo Ngọc dụi mắt, định nói nữa, nhưng không tiện.

Một lúc Phượng Thư đến nói: "Mồng một này sê làm chay ở quán Thanh Hư". Và hẹn bọn Bảo Thoa, Bảo Ngọc, Đại Ngọc đến xem hát. Bảo Thoa cười nói:

- Thôi, thôi! Trời nóng thế này, vở hát gì cũng xem cả rồi, tôi không đi đâu.

Phượng Thư nói:

- Chỗ ấy cũng mát, hai bên lại có lầu. Chúng ta định đi xem, thì trước đó vài hôm, tôi sai người đến bảo bọn đạo sĩ dời đi chỗ khác, rồi quét lầu sạch sẽ, che thêm rèm, không cho người ngoài vào miếu, như thế cũng tốt đấy! Việc này tôi đã trình mẹ rồi, nếu các cô không đi, một mình tôi cũng đi. Mấy hôm nay buồn chết đi được. Ở nhà có hát tôi cũng chẳng được thư thái ngồi xem.

Giả mẫu cười nói:

- Đã thế thì ta cũng đi xem với cháu.

Phượng Thư cười nói:

- Bà đi càng hay. Nhưng cháu lại không được thoải mái.

- Hôm ấy ta sẽ ngồi ở lầu giữa, cháu ngồi ở lầu bên. Cháu không cần phải giữ phép tắc đứng bên cạnh ta, như thế có được không?

- Nếu thế thì thật là bà thương cháu quá.

Giả mẫu lại dặn Bảo Thoa:

- Hôm ấy cháu cũng nên đi, bảo cả mẹ cháu đi nữa. Ngày dài nhàn rỗi thế này ở nhà cũng chỉ ngủ thôi.

Bảo Thoa đành phải vâng lời.

Giả mẫu lại sai gọi người đi mời Tiết phu nhân, tiện đường đến thưa với Vương phu nhân cho cả bọn chị em cùng đi một thể. Vương phu nhân một là người không được khỏe, hai là sửa soạn tiếp đãi người của Nguyên Xuân sai ra, nên đã cáo trước không đi. Nay nghe Giả mẫu bảo thế, cười nói:

- Bà đã cao hứng, thì cứ sai người vào trong vườn bảo ai muốn đi chơi thì đi.

Tin đó truyền ra, người khác không nói, chứ bọn a hoàn hàng tháng không được ra khỏi cửa, nghe vậy ai mà chẳng muốn đi, dù chủ có lười, họ cũng tìm hết cách giục đi cho được. Vì thế bọn Lý Hoàn đều nhận lời cả. Giả mẫu lại càng vui, liền sai người đi quét dọn sắp xếp công việc.

Đến mồng một, trước cửa phủ Vinh, xe kiệu nhộn nhịp, người ngựa tấp nập, những người giữ việc trong phủ biết là Quí phi làm lễ cầu phúc, Giả mẫu thân hành đến lễ Phật, vả lại mồng một đầu tháng, lại sắp đến tết Đoan dương, nên các đồ đạc cần dùng đều được sắp đặt gọn gàng đâu đấy, khác hẳn ngày thường.

Một lúc, bọn Giả mẫu đi ra. Giả mẫu ngồi một cái kiệu tám người khiêng; Lý Hoàn, Phượng Thư, Tiết phu nhân, mỗi người ngồi một kiệu bốn người khiêng; Bảo Thoa, Đại Ngọc ngồi chung một cái xe bát bảo, cho che tàn xanh, chung quanh đính chân chỉ hạt bột; Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân ngồi chung cái xe bánh sơn đỏ, có che tàn hoa. Rồi đến bọn a hoàn của Giả mẫu: Uyên Ương, Anh Vũ, Hổ Phách, Trân Châu; a hoàn của Đại Ngọc là Tử Uyên, Tuyết Nhạn, Anh Kha; a hoàn của Bảo Thoa là Oanh Nhi, Văn Hạnh; a hoàn của Nghênh Xuân là Tư Kỳ, Tư Quất; a hoàn của Thám Xuân là Thị Thư, Thúy Mặc; a hoàn của Tích Xuân là Nhập Họa, Thái Bình; a hoàn của Tiết phu nhân là Đồng Hỷ, Đồng Quý; lại mang theo cả Hương Lăng và a hoàn là Trân Nhi; a hoàn của Lý Hoàn là Tô Văn, Bích Nguyệt; a hoàn của Phượng Thư là Bình Nhi, Phong Nhi, Tiểu Hồng. Hai a hoàn của Vương phu nhân là Kim Xuyến, Thái Vân cũng theo đến đó. Người vú ẵm Đại Thư ngồi riêng một xe. Lại còn bọn a hoàn làm việc nặng và đám vú già cùng bọn đàn bà theo hầu. Xe đỗ đặc nghịt cả quãng đường.

Kiệu Giả mẫu đã đi quãng xa, đằng sau vẫn chưa ngồi xong. Người nọ nói: "Tao không đi chung với mày". Người kia nói: "Mày ngồi bẹp cả túi của mẹ tao". Xe này người nói: "Cái hoa của tôi rơi đâu mất". Xe kia người kêu: "Cái quạt của tôi gẫy rồi". Cười cười nói nói ầm ĩ cả lên.

Vợ Chu Thụy thấy vậy, chạy đi chạy lại nói:

- Các cô! Ở ngoài đường phải coi chừng, người ta cười cho đấy.

Nói hai ba lần họ mới chịu im.

Phía trước, các đồ chấp sự bày đến quán Thanh Hư. Bảo Ngọc cưỡi ngựa đi trước kiệu Giả mẫu để dẫn đường. Người trên phố đều đứng hai bên xem. Gần đến quán, tiếng chiêng tiếng trống nổi lên, đạo sĩ họ Trương mặc lễ phục, cầm hương dẫn các đạo sĩ đứng bên đường đón tiếp. Vừa đến cửa, nhìn thấy la liệt những tượng bản thổ, thành hoàng, Giả mẫu liền xuống kiệu. Giả Trân dẫn con cháu đến đón. Phượng Thư đến từ trước cũng mang bọn Uyên Ương ra đón. Thấy Giả mẫu xuống kiệu, Phượng Thư vội chạy lại đỡ. Chợt có một đạo sĩ nhỏ độ mười hai, mười ba tuổi, cầm cái kéo cắt nến, muốn nhân dịp lẩn đi chỗ khác, không ngờ đâm vào người Phượng Thư. Phượng Thư giơ tay tát nó một cái, làm thằng bé ngã lộn nhào, Phượng Thư mắng:

- Giống khốn nạn này, mày chạy đi đâu?

Đạo sĩ nhỏ không kịp nhặt kéo, định tháo chạy, lại gặp ngay bọn Bảo Thoa xuống xe, những vú già và người nhà vây kín xung quanh. Khi đạo sĩ nhỏ chạy ra, mọi người đều hét ầm lên "Bắt! Bắt! Đánh Đánh!". Giả mẫu nghe vậy hỏi việc gì. Giả Trân vội vàng lại hỏi. Phượng Thư đi lên đỡ Giả mẫu và nói:

- Có một đạo sĩ nhỏ đi cắt tàn nến, không chịu tránh ra chỗ khác, cứ đâm bừa vào người.

Giả mẫu nghe nói liền bảo:

- Dẫn nó lại đây, đừng làm thằng bé sợ. Nó là con nhà thường dân, xưa nay được nuông chiều quen, đã bao giờ trông thấy những cảnh rầm rộ như thế này? Nếu làm nó sợ thì thật đáng thương! Cha mẹ nó thấy thế, lẽ nào không đau xót.

Nói xong, bảo Giả Trân dắt đứa bé ấy lại. Thấy nó tay cầm cải kéo cắt tàn nến quì xuống đất run lẩy bẩy, Giả mẫu sai Giả Trân đỡ nó dậy, bảo đừng sợ, rồi hỏi nó bao nhiêu tuổi. Đứa bé không nói ra lời. Giả mẫu nói: "Thằng bé thực đáng thương!" Lại bảo Giả Trân: "Cháu dẫn nó ra cho nó ít tiền ăn quà và đừng ai nạt nộ nó!" Giả Trân vâng lời dẫn nó ra.

Giả mẫu dẫn mọi người đi lễ, lần lượt xem phong cảnh các nơi. Đám hầu nhỏ đứng ngoài, thấy bọn Giả mẫu đi vào cửa thứ hai, lại thấy Giả Trân gọi người dẫn đạo sĩ nhỏ ra, cho nó mấy trăm đồng tiền, dặn không được dọa nạt nó. Người nhà nghe vậy liền dắt nó đi.

Giả Trân đứng ở bên thềm hỏi: "Quản gia đâu?" Bọn hầu nhỏ gọi ra ngoài: "Gọi quản gia!" Lâm Chi Hiếu lập tức sửa lại mũ, chạy lên, đứng trước mặt Giả Trân. Giả Trân bảo:

- Nơi này rộng rãi, hôm nay lại có nhiều người. Những anh cần sai đến thì cho họ vào cả trong nhà. Người nào không cần thì cho sang ở nhà bên kia. Anh cho mấy đứa bé đứng chực sẵn ở cửa thứ hai và cửa nách hai bên, để chờ xem có cần truyền bảo gì, đã nghe ra chưa? Hôm nay các cô các mợ đều chơi ở đây, không được cho một người ngoài nào vào cả.

Lâm Chi Hiếu vâng vâng dạ dạ luôn mồm.

Giả Trân nói:

- Thôi cho lui.

Lại hỏi:

- Thằng Dung đâu sao không thấy?

Nói chưa dứt lời, đã thấy Giả Dung tay cài khuy áo, ở trong gác chuông chạy ra. Giả Trân nói:

- Mày xem tao ở đây không thấy nóng, mà mày lại đi hóng mát à.

Rồi truyền cho người nhà mắng Giả Dung.

Biết Giả Trân là người khó tính, không thể trái ý được, một đứa hầu nhỏ chạy ngay lên xì vào mặt Giả Dung. Nhưng thấy Giả Trân trừng mắt nhìn, nên lại phải mắng Giả Dung lần nữa:

- Ông còn chả sợ nóng, nữa là cậu, lại dám đi hóng mát à?

Giả Dung đành cứ buông thõng tay đứng yên, không dám nói một câu nào. Trông thấy thế, không những bọn Giả Vân, Giả Bình, Giả Cần run lên; ngay đến bọn Giả Liễn, Giả Biền, Giả Huỳnh cũng đều sợ hãi. Người nào cũng lẻn vào mé tường, lần lượt chuồn đi hết.

Giả Trân quay lại bảo Giả Dung:

- Mày còn đứng làm gì đấy? Sao không lấy ngựa về nhà bảo mẹ con nhà mày rằng: cụ và các cô, các mợ đã đến cả rồi, phải đến hầu ngay.

Giả Dung nghe nói, chạy ra gọi luôn mấy tiếng: "Đem ngựa lại đây". Rồi lẩm bẩm: "Sáng sớm ra chẳng chịu làm gì, bây giờ lại cứ hạch sách mình!" Lại quay mắng đứa hầu: "Tay mày bị trói đấy à? Sao không dắt ngựa lại?" Hắn muốn sai đứa hầu nhỏ đi, nhưng lại sợ có ai mách chăng, nên đành phải tự mình đi lấy.

Giả Trân sắp đi, thấy Trương đạo sĩ đứng ở bên cạnh cười nói:

- Cứ lẽ ra, tôi không như người khác, phải ở trong nhà hầu hạ là phải; nhưng vì trời nóng, các vị tiểu thư đều đến đấy cả, tôi không dám thiện tiện vào, xin ông cho phép. Nếu cụ hỏi đến, hoặc người muốn đi xem chỗ nào, đã có tôi đứng chờ sẵn ở đây.

Giả Trân biết Trương đạo sĩ là người thế mạng(1) của Vinh Quốc công ngày trước, lại được đức tiên hoàng gọi là "Đại Ảo tiên nhân", giờ đang giữ ấn ty Đạo lục, được phong là "Chung liễu chân nhân". Các vị vương công, các quan phiên trấn đều tôn là thần tiên, không ai dám khinh nhờn. Vả chăng ông ta thường đi lại trong hai phủ, các bà các cô đều biết cả. Thấy ông ta nói thế, Giả Trân cười bảo:

- Chúng ta là chỗ người nhà với nhau, sao ông lại như vậy. Nếu ông còn nói nữa, tôi sẽ vặt râu đấy. Thôi, hãy đi theo tôi.

Trương đạo sĩ cười ha hả, theo Giả Trân đi lên.

Đến trước Giả mẫu, Giả Trân nghiêng mình cười nói:

- Cụ Trương vào hầu bà.

Giả mẫu nghe nói vội bảo "mời vào". Giả Trân dắt Trương đạo sĩ vào. Trương đào sĩ cười ha hả nói:

- Đức Phật sống lâu! Người vẫn mạnh khỏe bình yên đấy chứ? Xin chúc các mợ, các cô vui mạnh luôn. Đã lâu không được vào phủ thăm, nay xem khí sắc cụ hơn trước nhiều.

Giả mẫu cười nói:

- Lão thần tiên, người có được mạnh khỏe không?

- Nhờ phúc lộc của cụ, tiểu đạo vẫn được mạnh khỏe. Người khác không kể, riêng chỉ nhớ cậu Hai thôi. Không biết lâu nay cậu ấy có được khỏe luôn không? Hôm hai mươi sáu tháng tư, ở đây có làm lễ thánh đản Già thiên đại vương. Người đến lễ không đông lắm, nên các thứ đều giữ được sạch sẽ, tôi có cho người mời cậu ấy đến ngoạn cảnh, sao lại bảo cậu ấy không có ở nhà?

- Cháu nó không có ở nhà thực.

Rồi Giả mẫu quay lại gọi Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc vừa đi giải vào, vội chạy đến chào Trương đạo sĩ. Trương đạo sĩ ôm lấy, hỏi han, rồi quay lại Giả mẫu cười nói:

- Cậu Hai xem ra càng ngày càng phát phúc.

Giả mẫu nói:

- Bề ngoài thì khỏe, nhưng trong người nó vẫn phiền vì nỗi cha nó cứ bắt nó học nhiều, làm thằng bé càng ốm thêm.

Trương đạo sĩ nói:

- Hôm nọ tôi qua thăm mấy nơi, thấy chữ cậu ấy viết rất tốt, thơ làm rất hay, sao ông nhà lại còn phàn nàn là cậu ấy lười học? Cứ ý tiểu đạo này thì đừng nên bắt cậu ấy học quá sức

Trương đạo sĩ lại than thở:

- Tôi xem cậu ấy bóng dáng, nói năng, đi đứng, giống hệt đức Quốc công nhà ta ngày trước vậy.

Nói xong hai mắt rưng rưng. Giả mẫu cũng nước mắt ròng ròng, nói:

- Thật thế, bao nhiêu con cháu nhà này chẳng được đứa nào giống ông cháu cả, chỉ có cháu Ngọc là giống thôi.

Trương đạo sĩ lại quay sang Giả Trân nói:

- Bóng dáng đức Quốc công nhà ta ngày trước, các cậu không biết đã đành đi rồi, có lẽ ngay ông Cả, ông Hai cũng không nhớ rõ thì phải.

Ông ta lại cười ha hả:

- Hôm nọ tôi đến chơi một nhà, thấy một vị tiểu thư năm nay độ mười lăm tuổi, dáng điệu rất đẹp. Tôi nghĩ cậu em cũng nên dạm vợ đi thôi. Nói đến cô ta, người đẹp, tư chất thông minh, lại con nhà gia thế, thực là xứng đôi. Không biết ý cụ nghĩ thế nào? Tiểu đạo này không dám đường đột. Mong người cho biết mới dám nói đến.

Giả mẫu nói:

- Trước kia có một nhà sư bảo số thằng bé này không nên lấy vợ sớm, chờ lớn lên hãy hay. Người cứ thăm dò hộ xem, không cần nhà giàu sang, cốt tìm đứa có dung mạo là được. Có thế nào người đến nói cho tôi biết. Dù nhà họ có nghèo, thì giúp cho ít bạc là xong. Chỉ có dáng dấp và tính nết con người là khó tìm thôi.

Phượng Thư cười nói:

- Cụ Trương, cụ chưa đổi bùa cho con cháu tôi à? Thế mà hôm nọ cụ còn trâng tráo cho người đến xin tấm đoạn vàng? Tôi không đưa lại sợ mất thể diện.

Trương đạo sĩ cười vang lên nói:

- Xem kìa, mắt tôi mờ rồi, không trông thấy mợ ở đây, nên không cám ơn. Bùa ký danh đã có sẵn rồi. Hôm nọ định mang đến, không ngờ có các lệnh bà đến đây làm lễ cầu phúc, nên tôi quên mất. Đạo bùa vẫn đặt ở trước bàn thờ Phật kia, để tôi lại lấy.

Nói xong Trương đạo sĩ chạy lên điện chính, một lúc bưng cái khay xuống, trên có đặt một cái túi vóc đỏ. Trương đạo sĩ rút bùa ra đưa cho vú nuôi của Đại Thư. Trương đạo sĩ chực bế Đại Thư, Phượng Thư cười nói:

- Người cầm bùa đưa cũng được, việc gì phải đặt lên khay?

Trương đạo sĩ nói:

- Tay không được sạch, cầm sao được? Đặt vào khay thì thanh tịnh hơn.

Phượng Thư cười nói:

- Người bưng cái khay ra, làm tôi giật mình. Tôi không biết là người đưa bùa, cứ tưởng người đến xin bố thí!

Mọi người nghe nói cười ầm lên. Giả Liễn cũng không nhịn được cười. Giả mẫu quay lại bảo:

- Con khỉ kia, mày không sợ sa xuống địa ngục phải cắt lưỡi à?

Phượng Thư cười nói:

- Chỗ ông cháu với nhau không hề gì. Vì sao ông ấy cứ thường bảo cháu lo gom góp âm công, nếu chậm thì sẽ chết non?

Trương đạo sĩ cũng cười nói:

- Tôi mang cái khay ra là có ý dùng cả hai việc, không phải để nhận bố thí, mà muốn mượn viên ngọc của cậu Hai đặt vào đó đem ra cho chúng bạn và con cháu học trò ở xa đến xem.

Giả mẫu nói:

- Việc gì người phải lật đật chạy đi chạy lại, cứ dắt cháu Bảo ra ngoài ấy cho người ta xem, rồi bảo nó vào cũng được.

Trương đạo sĩ nói:

- Cụ không biết: tiểu đạo đã hơn tám mươi tuổi, nhờ phúc dư của cụ, vẫn còn khỏe mạnh; ở ngoài ấy nhiều người hôi hám khó chịu, vả lại trời nóng nực, cậu ấy không chịu quen, lỡ ra bị cảm thì phiền lắm.

Giả mẫu nghe nói, liền bảo Bảo Ngọc tháo viên ngọc "thông linh" ra, đặt vào khay. Trương đạo sĩ cẩn thận bỏ trong túi vóc bưng ra.

Giả mẫu đưa mọi người đi ngoạn cảnh các nơi rồi lên lầu. Giả Trân trình:

- Trương đạo sĩ đã mang ngọc về.

Trương đạo sĩ bưng cái khay bước lên lầu cười nói:

- Nhờ có tiểu đạo này, mọi người mới được xem ngọc của cậu Hai, thực là hiếm có. Họ không có gì kính biếu, gọi có mấy đồ pháp giới của họ đem đến làm lễ mừng. Tuy nó không quí hóa gì, nhưng cậu cũng có thể giữ lấy mà chơi, hoặc thưởng cho người khác cũng được.

Giả mẫu nghe nói, nhìn vào khay, thấy có bốn năm mươi thứ, cái là ngọc hoàng, cái là ngọc quyết, cái thì khắc sự sự như ý, cái thì khắc tuế tuế bình an, đều nạm giát bằng châu báu vàng ngọc cả, liền nói:

- Người khéo bày vẽ, họ là những người xuất gia, ở đâu có cái này. Sao lại làm như thế? Tôi không thể nhận được.

Trương đạo sĩ cười nói:

- Đó là lòng thành của họ, tiểu đạo này không thể ngăn được Nếu cụ không nhận, thì họ cho tiểu đạo này là hạng hèn hạ, không phải môn hạ của quí phủ.

Giả mẫu đành bảo người nhận. Bảo Ngọc cười nói:

- Thưa bà, cụ Trương đã nói thế, không tiện từ chối, nhưng cháu cũng không dùng những thứ này, chi bằng đưa cho người hầu của cháu, phân phát cho những người nghèo túng.

Giả mẫu cười nói:

- Phải đấy.

Trương đạo sĩ vội ngăn lại:

- Cậu Hai muốn làm phúc đấy, nhưng thứ này dầu chẳng đáng quí báu gì, chỉ là đồ dùng thôi. Nếu phân phát cho người nghèo, họ không biết dùng, cũng vô ích, sẽ làm hư phí đi. Cậu muốn giúp đỡ người nghèo, sao không phát tiền cho họ?

Bảo Ngọc nghe nói liền sai cất đi, và dặn mang tiền đến phát cho người nghèo.

Nói chuyện xong, Trương đạo sĩ đi ra.

Giả mẫu cùng mọi người lên lầu, ngồi ở gian giữa. Bọn Phượng Thư ngồi ở gian phía đông. Bọn a hoàn đứng hầu ở gian phía tây. Một lúc Giả Trân lên trình: "Đã gắp thăm trước bàn thờ thần, vở thứ nhất là Bạch xà ký".

Giả mẫu hỏi:

- Là tích gì?

- Tích vua Cao Tổ nhà Hán chém rắn trắng nước khi khởi binh(2). Vở thứ hai là "Hốt đầy giường"(3).

Giả mẫu gật đầu nói:

- Hát vở thứ hai cũng được. Ý Phật đã thế, chúng ta đành phải theo.

Lại hỏi đến vở thứ ba. Giả Trân nói:

- Vở "Nam kha mộng"(4).

Giả mẫu yên lặng không nói gì. Giả Trân lui xuống, đi ra ngoài đốt sớ, đốt vàng mã, rồi bắt đầu hát.

Bảo Ngọc ngồi cạnh Giả mẫu, sai đứa bé bưng cái khay lúc nãy lại, đeo viên ngọc vào người rồi lục tìm các thứ, đưa từng cái cho Giả mẫu xem. Giả mẫu thấy một con kỳ lân bằng vàng, trên đầu có đính lông chìm trả, liền cầm lấy cười nói:

- Hình như ta đã trông thấy con cái nhà ai đeo con này rồi.

Bảo Thoa cười nói:

- Cô Sử có một con, nhưng bé hơn.

Giả mẫu nói:

- Thế ra cháu Vân cũng có à?

Bảo Ngọc nói:

- Khi cô ấy đến, sao cháu không trông thấy.

Thám Xuân cười nói:

- Chị Bảo thực hay để ý, cái gì cũng nhớ được.

Đại Ngọc cười nhạt:

- Việc khác thì chị ấy để ý ít thôi, chỉ có vật người ta đeo trên người là chị ấy để ý đến nhiều.

Bảo Thoa nghe nói ngoảnh đi, vờ như không nghe thấy.

Nghe nói Sử Tương Vân cũng có vật này, Bảo Ngọc liền cầm con kỳ lân giấu vào trong người. Sau lại nghĩ: "người ta sẽ cho mình biết cô Sử có, nên mới giữ lại vật này". Bảo Ngọc tay cầm con kỳ lân, mắt vẫn lấm lét nhìn xung quanh. Mọi người không để ý đến, chỉ có Đại Ngọc liếc mắt nhìn rồi gật đầu, như có ý khen ngợi. Thấy vậy, Bảo Ngọc bối rối khó chịu, liền bỏ con kỳ lân ra, nhìn Đại Ngọc cười nói:

- Con này đẹp đấy, tôi lấy hộ em. Khi về em sẽ lấy dây đeo nó có được không?

Đại Ngọc lắc đầu:

- Tôi không thích.

- Em không thích thì tôi lấy vậy.

Nói xong Bảo Ngọc lại cầm lấy. Ngay lúc đó Vưu thị là vợ Giả Trân, Hồ thị là vợ kế Giả Dung, hai mẹ chồng, nàng dâu cũng đến chào Giả mẫu. Giả mẫu nói:

- Các cháu đến đây làm gì? Ta rỗi việc nên đi chơi một lúc thôi.

Bỗng thấy một người vào báo: "Người nhà Phùng tướng quân đến".

Nghe tin phủ Giả ra miếu làm chay, Phùng Tử Anh sai người sắm sửa các thứ dê, lợn, chè, hương đến lễ. Phượng Thư vội vàng sang lầu giữa vỗ tay cười nói:

- Ái chà! Cháu không dè chừng việc nây. Chỉ nghĩ là bà cháu ta rỗi việc đến đây chơi thôi. Thế mà người ta lại cho là làm chay, đưa đồ lễ đến. Việc này là tại bà cả. Cháu có mang sẵn tiền thưởng gì đâu?

Nói xong thấy hai người đàn bà nhà họ Phùng trèo lên lầu. Hai người này chưa đi, lại có người nhà quan thị lang họ Triệu mang lễ đến. Thế rồi hết nhà nọ đến nhà kia, nghe nói đàn bà con gái phủ Giả ra miếu làm chay, họ xa, bạn gần đi lại xưa nay, đều đưa lễ đến cả.

Giả mẫu bấy giờ mới thấy băn khoăn, nói:

- Chẳng qua rỗi, ta đi chơi, chứ có phải trai tiếu gì đâu, lại làm phiền cho mọi người.

Giả mẫu xem hát đến chiều thì về. Hôm sau không muốn đi nữa.

Phượng Thư nói:

- "Đã trót thì phải trét"(5), đã làm kinh động người ta, thì ngày mai lại cứ đi chơi cho vui.

Bảo Ngọc từ lúc nghe Trương đạo sĩ nói với Giả mẫu về chuyện mách mối vợ, trong lòng rất khó chịu. Về nhà đâm ra cáu kỉnh, bực bội, nói luôn miệng: "Từ giờ trở đi, không thèm nhìn mặt lão Trương nữa". Mọi người không biết duyên cớ vì sao. Đại Ngọc lại bị cảm nắng. Vì hai lẽ đó nên hôm sau Giả mẫu không đi. Phượng Thư dẫn mọi người cùng đi.

Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc ốm, trong bụng không yên, cơm cũng biếng ăn. Thỉnh thoảng lại đến hỏi thăm, chỉ lo Đại Ngọc không biết lành dữ thế nào. Đại Ngọc nói:

- Anh đi mà xem hát, ở nhà làm gì?

Bảo Ngọc nhân việc hôm qua Trương đạo sĩ mách mối, bụng đã khó chịu. Giờ thấy Đại Ngọc nói thế, lại nghĩ: "Người khác không biết bụng ta còn có thể tha thứ được. Không ngờ cả Đại Ngọc cũng hắt hủi mình!" Vì thế càng bực tức bội phần. Nếu như ngày thường, ai nói câu ấy cũng không đến nỗi nào, nhưng nay chính Đại Ngọc nói, lại có một ý nghĩa khác. Thế là Bảo Ngọc sa sầm nét mặt, nói:

- Tôi thật đã nhận nhầm cô! Thôi, thôi!

Đại Ngọc cười nhạt nói:

- Anh nhận nhầm gì tôi? Tôi có gì đáng sánh với người ta.

Bảo Ngọc chạy ngay đến tận mặt Đại Ngọc nói:

- Cô nói gì? Thế là cô đành lòng rủa tôi bị trời tru đất diệt rồi.

Đại Ngọc chưa hiểu ra sao, Bảo Ngọc lại nói:

- Hôm nọ chỉ vì việc ấy mà tôi phải thề. Hôm nay cô lại cho tôi một câu nữa. Nếu tôi bị trời tru đất diệt thì liệu có ích gì cho cô không?

Đại Ngọc nghe đến đây, mới nhớ hôm trước, mình đã lỡ lời, vừa tức vừa thẹn, liền nức nở khóc và nói:

- Nếu tôi nỡ lòng rủa anh thì tôi cũng bị trời tru đất diệt!... Vì đâu có câu chuyện này? Tôi biết hôm qua Trương đạo sĩ nói đến chuyện dạm vợ, anh sợ tôi làm ngăn trở mối duyên lành của anh, trong bụng anh bực tức, nên mang tôi ra giày vò.

Nguyên Bảo Ngọc từ bé vẫn có chứng si tình hẹp hòi, lại luôn luôn ở bên cạnh Đại Ngọc, hai bên gần nhau, kẽ tóc chân tơ, tâm tình tương đắc. Bây giờ Bảo Ngọc đã hơi biết mùi đời, được xem nhiều sách nhảm nhí, được gặp nhiều cô gái phong lưu trong các nhà bạn thân và họ hàng xa, đều không ai bằng Đại Ngọc cả. Vì thế Bảo Ngọc đã ôm sẵn nỗi niềm tâm sự, nhưng chưa tiện nói ra, nên mỗi khi Đại Ngọc hoặc mừng, hoặc giận, Bảo Ngọc đều tìm hết cách thăm dò kín đáo. Đại Ngọc cũng có bệnh si tình ấy, lại cũng dùng lối vờ vẫn để thăm dò: "Vì nếu anh đã tìm cách che giấu nỗi lòng chân thật của anh thì tôi cũng tìm cách che giấu nỗi lòng chân thực của tôi". Hai bên cứ vờ vẫn thăm dò nhau. Như vậy hai cái giả gặp nhau, nhất định sẽ lòi cái thực. Ngoài ra, còn những việc lặt vặt xảy ra không tránh khỏi lời qua tiếng lại.

Lúc này Bảo Ngọc nghĩ bụng: "Người khác không biết bụng mình còn có thể tha thứ được, lẽ nào Đại Ngọc lại không biết trong lòng ta, trong mắt ta lại chỉ có có ấy thôi à? Cô ấy không gỡ nỗi buồn cho ta thì chớ, lại còn đưa ra những câu lấp họng ta, lòng ta giờ nào, phút nào cũng nghĩ đến cô ấy, nhưng có bao giờ cô ấy nghĩ đến ta đâu". Bảo Ngọc nghĩ vậy, nhưng không nói được ra lời. Đại Ngọc thì nghĩ: "Vẫn biết bụng anh bao giờ cũng để ý đến tôi, tuy có câu "vàng ngọc sánh đôi", nhưng khi nào anh lại tin lời nhảm nhí ấy mà không yêu quí tôi? Tôi dù có nhắc đến chuyện "vàng và ngọc", anh cũng nên lờ đi như không nghe thấy, thế mới thực là anh yêu quí tôi, không có mảy may gì giả dối cả. Nhưng mỗi khi tôi gợi đến chuyện "vàng và ngọc", anh lại cứ cuống cuồng lên, đủ biết bụng anh lúc nào cũng nghĩ đến chuyện "vàng và ngọc". Anh sợ tôi ngờ vực, cố ý làm ra vẻ sửng sốt để đánh lừa tôi".

Xem ra, hai người vốn một ý nghĩ, nhưng có những khía cạnh khác nhau.

Trong bụng Bảo Ngọc lại nghĩ: "Tôi thì thế nào cũng được, chỉ cần cô vui thôi, dầu vì cô mà phải chết ngay tôi cũng bằng lòng. Điều này cô biết hay không cũng mặc, chỉ cốt ở lòng tôi thôi. Như thế mới là cô gần tôi, không phải xa tôi".

Đại Ngọc lại nghĩ: "Anh chỉ nên lo phần anh là hơn. Anh tốt tự nhiên tôi cũng tốt. Cớ gì anh lại vì tôi mà mang lỗi. Có biết đâu lỗi ở anh chính là lỗi ở tôi. Thế là anh không muốn cho tôi gần anh, mà lại có ý làm cho tôi phải xa anh đấy".

Như vậy họ muốn gần nhau lại hóa ra xa nhau. Những ý nghĩ riêng tây ấy ấp ủ trong người họ từ lâu khó mà nói hết, chẳng qua chỉ hình dung bên ngoài mà thôi.

Bảo Ngọc lại nghe thấy Đại Ngọc nói đến ba chữ "mối duyên lành", trái hẳn ý nghĩ của mình, lại càng héo hon trong dạ, nói chẳng ra lời, liền cáu tiết, dứt viên "ngọc thiêng" ở cổ ra, nghiến răng vứt phăng xuống đất, nói:

- Cái đồ chết tiệt này! Tao đập tan mày đi là xong chuyện.

Nhưng viên ngọc này rắn chắc lạ thường, vứt thế nào nó cũng vẫn y nguyên không hề gì. Bảo Ngọc thấy không vỡ, định quay lại tìm cái đập. Đại Ngọc thấy thế, liền khóc:

- Làm gì lại đem đập cái của câm ấy? Anh đập nó, chẳng thà đập tôi còn hơn!

Thấy hai người cãi nhau, bọn Tử Quyên, Tuyết Nhạn vội lại khuyên ngăn. Sau thấy Bảo Ngọc cố sống cố chết đập viên ngọc, liền chạy lại cướp lấy, nhưng không cướp được.

Thấy trận cãi nhau này kịch liệt hơn mọi lần trước nhiều, chúng đành phải đi gọi Tập Nhân. Tập Nhân vội vàng chạy đến, cướp lấy viên ngọc. Bảo Ngọc cười nhạt:

- Tôi đập cái của tôi, việc gì đến các chị?

Tập Nhân thấy Bảo Ngọc mặt xám lại, mắt đỏ ngầu lên, chưa bao giờ giận đến như thế, liền kéo tay lại cười nói:

- Cậu cãi nhau với cô ấy, việc gì mà lại đập viên ngọc ra. Nếu nó vỡ thì cô ấy đành lòng thế nào được.

Đại Ngọc đương khóc, nghe thấy câu nói đúng đáy lòng mình, liền cho rằng Bảo Ngọc còn kém cả Tập Nhân, lại càng đau lòng khóc to lên. Vì buồn bực quá đỗi, nên nước thuốc hương nhu giải thử vừa mới uống vào, đã không cầm được, ọe một cái, nôn ra hết. Tử Quyên vội chạy đến, lấy cái khăn lụa đỡ lấy, Đại Ngọc ọe luôn mấy lần, thuốc thấm hết cả cái khăn. Tuyết Nhạn vội đến vuốt ngực. Tử Quyên nói:

- Dù tức giận đến thế nào nữa, cô cũng nên giữ gìn sức khỏe. Vừa mới uống được một nước thuốc, giờ vì cãi nhau với cậu Bảo, nôn ra hết cả, nếu sinh ốm, liệu cậu Bảo có đành tâm được không?

Bảo Ngọc nghe câu nói trúng tim đen mình, lại cho Đại Ngọc không bằng Tử Quyên. Đại Ngọc khi ấy mặt đỏ nhừ, đầu nặng trĩu, vừa khóc vừa thở, nước mắt, mồ hôi chảy xuống đầm đìa, người càng ẻo lả. Bảo Ngọc thấy thế hối hận: "Mình không nên bắt bẻ cô ấy. Bây giờ xảy ra nông nỗi này, mình lại không thể chịu thay cho cô ấy được." Trong bụng nghĩ thế, nước mắt cũng tự nhiên nhỏ xuống.

Tập Nhân đương trông nom Bảo Ngọc, thấy hai người đều khóc, trong bụng cũng đâm ra chua xót, liền nắm lấy tay Bảo Ngọc, thấy lạnh như tiền, muốn khuyên Bảo Ngọc đừng khóc, nhưng một là sợ Bảo Ngọc có điều gì uất ức trong lòng, hai là sợ phật lòng Đại Ngọc, không bằng cùng khóc cả là họ sẽ buông tha nhau. Vì vậy, Tập Nhân cũng chảy nước mắt khóc theo. Tử Quyên vừa thu dọn những nước thuốc, vừa khe khẽ quạt cho Đại Ngọc. Thấy cả ba người đều khóc, chẳng nói chẳng rằng, Tử Quyên đâm ra thương cảm, cũng lấy khăn lụa chùi nước mắt.

Bốn người ngồi nhìn nhau khóc, chẳng nói năng gì. Sau Tập Nhân gượng cười bảo Bảo Ngọc:

- Cậu không cần nhìn cái gì khác, cứ nhìn cái dây đeo ngọc, thì cũng không nên cãi nhau với cô Lâm nữa.

Đại Ngọc nghe nói, không nghĩ gì đến mình đương ốm, chạy ngay lại cướp lấy cái dây, tiện tay cầm kéo cắt nát ra. Tập Nhân và Tử Quyên muốn giật lại, nhưng đã đứt làm mấy đoạn rồi.

Đại Ngọc khóc:

- Ta thực uổng công, anh ấy không cần đâu, đã có người khác đeo cho cái dây đẹp hơn kia.

Tập Nhân vội cầm lấy viên ngọc nói:

- Làm gì như thế? Đây cũng là lỗi tự tôi hay bép xép.

Bảo Ngọc bảo Đại Ngọc:

- Cô cứ việc cắt đi, tôi không đeo ngọc cũng chẳng sao.

Mấy người chỉ lo cãi nhau ở trong nhà, ngờ đâu bọn bà già thấy Đại Ngọc nôn mửa, khóc ầm lên. Bảo Ngọc lại đập viên ngọc, không biết sinh chuyện đến thế nào. Họ vội vàng sang trình Giả mẫu và Vương phu nhân. Giả mẫu và Vương phu nhân đều không biết vì duyên cớ gì, liền cùng nhau sang vườn xem. Thấy thế, Tập Nhân thì oán Tử Quyên tại sao lại cho cụ và bà lo sợ. Tử Quyên thì oán Tập Nhân cho là tự Tập Nhân sai người đi trình.

Giả mẫu và Vương phu nhân đến nơi, thấy Bảo Ngọc và Đại Ngọc đều chẳng nói năng gì, hỏi ra cũng chẳng có chuyện gì cả, liền buộc tội cho Tập Nhân và Tử Quyên:

- Tại sao chúng mày không hầu hạ cẩn thận, bây giờ xảy ra chuyện cãi nhau ầm ĩ như thế, chúng mày lại bỏ mặc đấy à?

Rồi răn mắng một trận. Hai người chỉ đành đứng im không dám nói lại một câu. Giả mẫu dắt Bảo Ngọc đi ra, mới êm chuyện.

Đến hôm sau, mồng ba là ngày sinh nhật của Tiết Bàn. Trong nhà bày rượu chè hát xướng. Mọi người trong phủ Giả đều đến cả. Bảo Ngọc từ ngày xẩy chuyện với Đại Ngọc, chưa lúc nào giáp mặt nhau, đâm ra hối hận, buồn rầu, còn bụng dạ nào đi xem hát nữa. Nên cáo ốm không đi.

Hôm trước Đại Ngọc bị trúng nắng qua loa thôi, không đến nỗi nặng, nay nghe thấy Bảo Ngọc không đi, nghĩ bụng "Anh ấy xưa nay là người thích uống rượu nghe hát, thế mà hôm nay lại không đi, chắc vì hôm trước giận ta. Nếu không phải thế thì chắc là anh ấy thấy ta không đi, nên cũng không có bụng dạ nào đi một mình. Hôm nọ ta cắt cái dây đeo ngọc, thật không nên tí nào. Chắc là anh ấy không đeo ngọc nữa, ta phải xâu lại, anh ấy mới chịu đeo". Nghĩ thế trong bụng Đại Ngọc lại hối hận trăm phần.

Giả mẫu thấy hai người giận nhau, cho là hôm nay đi xem hát, chúng gặp nhau, thế là xong chuyện. Không ngờ cả hai người đều không đi cả. Giả mẫu liền than thở: "Già này chẳng hiểu vì oan nghiệt từ đời nào để lại, sinh ra hai đứa oan gia ngớ ngẩn kia, không ngày nào là chúng không làm cho ta phải bận lòng. Tục ngữ nói rất đúng: "Không phải oan gia không họp mặt". Bao giờ ta nhắm mắt tắt hơi, tha hồ cho hai đứa chúng mày cãi nhau, khi đó mắt ta không trông thấy, lòng ta không biết buồn rầu, thế là xong chuyện. Nhưng nào nó đã tắt hơi cho đâu!"

Giả mẫu tự trách mình rồi khóc.

Chuyện này không ngờ đến tai Bảo Ngọc và Đại Ngọc. Xưa nay hai người chưa từng nghe câu tục ngữ "không phải oan gia không họp mặt" bao giờ. Nay nghe thấy, họ đều như người được ngộ đạo, đều cúi đầu nghiền ngẫm ý nghĩa câu ấy, rồi nước mắt lã chã lưng tròng. Hai người tuy không gặp mặt, nhưng một ở quán Tiêu Tương, đứng trước gió gạt lệ, một ở viện Di Hồng, ngắm mặt trăng thở dài! Thực là "người ở hai nơi, tình chung một mối".

Tập Nhân khuyên Bảo Ngọc:

- Bao nhiêu chuyện không phải, đều tự cậu cả. Ngày thường ở trong nhà, bọn hầu trai có cãi cọ với các chị em, hoặc là hai bên tranh giành điều gì, hễ nghe thấy, cậu mắng ngay bọn họ là ngu xuẩn, không biết thể tất bụng dạ người con gái. Thế mà bây giờ cậu lại tự mình gây chuyện như thế? Ngày mai là tết mồng năm, nếu cậu và cô Lâm đối với nhau còn như kẻ thù, thì cụ càng thêm buồn, nhất định cả nhà không được yên. Theo ý tôi, cậu nên nuốt giận đi, đến xin lỗi cô ấy, rồi lại đối xử với nhau như trước, như vậy chẳng tốt hay sao?

----------------------------------

(1). Ngày xưa. những người quan quí không tự mình đi tu được, kiếm người khác tu thay, để được phúc hoặc chuộc tội. Người ấy gọi là thế mạng.

(2). Lưu Bang trước khi khởi nghĩa, chém chết con rắn trắng. Đêm ấy có người đàn bà đến khóc: "Con rắn trắng này là con Bạch Đế, bị con Xích Đế (tức Lưu Bang) chém chết". Sau quả nhiên Lưu Bang giết được Hạng Vũ, lên làm vua tức vua Cao Đế nhà Hán.

(3). Hốt bầy đầy giường; chép chuyện Quách Tử Nghi đời Đuờng, có bảy con trai và tám chàng rể đều làm quan cao và sống lâu.

(4). Tên vở kịch do Thang Hiển Tổ đời Minh soạn, tả việc Thuần Vu Phần, đời nhà Đường. Thuần nhân ngày sinh nhật, uống rượu say nằm ngủ ở dưới cây hòe, về bên phía Nam cạnh nhà, mộng thấy đến nước Đại Hòe An lấy công chúa, làm quan thái thú quận Nam Kha hai mươi năm. đẻ được năm trai hai gái, đều hiển quí cả, sau đánh nhau với giặc bị thua, phải cách chức, công chúa đã chết. Lúc tỉnh dậy, mặt trời chưa lặn. chén rượu hãy còn nguyên ở bàn. Khi ra gốc cây hòe, thấy có tổ kiến, ông ta cảm thấy cuộc đời phút chốc, công danh cũng như giấc mộng vậy, liền bỏ nhà lên núi học đạo, chẳng thiết gì việc đời nữa.

(5). Nguyên văn: "Đắp tường phải lễ thổ thần" nghĩa cũng như trên.

Hồi thứ ba mươi

Bảo Thoa mượn cái quạt, nói cạnh cả hai bên;

Linh Quan vạch chữ "tường", làm ngây người ngoài cuộc.

Đại Ngọc từ hôm cãi nhau với Bảo Ngọc, trong bụng hối hận, nhưng không lẽ tự mình đến làm lành trước, vì thế ngày đêm buồn rầu, bâng khuâng như mất cái gì, Tử Quyên đoán biết tâm lý ấy, liền khuyên nhủ:

- Việc hôm nọ là tự cô nóng nảy quá. Người khác không biết rõ tính nết cậu Bảo, chứ chúng ta lẽ nào lại cũng không biết hay sao? Chỉ vì viên ngọc, đến nỗi cãi nhau mấy lần rồi.

Đại Ngọc gắt:

- Thôi! Mày lại đến đây bới móc tội của ta hộ người à? Thế nào là ta nóng nảy?

Tử Quyên cười nói:

- Tự nhiên vô cớ, sao cô lại cắt cái dây đeo ngọc đi? Thế chả phải lỗi cậu Bảo chỉ có ba phần, mà lỗi cô những bảy phần hay sao? Tôi xem ngày thường cậu ấy đối với cô rất tốt, chỉ vì cô khó tính thường vặn vẹo cậu ấy, nên đến nỗi vậy.

Đại Ngọc muốn nói lại, chợt ngoài sân có tiếng gọi cửa, Tử Quyên lắng tai nghe, cười nói:

- Thôi tiếng cậu Bảo rồi, chắc lại đến xin lỗi đấy.

Đại Ngọc bảo không được mở cửa. Tử Quyên nói:

- Cô lại không phải rồi. Trời nóng nực thế này, không mở cửa, để cậu ấy đứng bêu mãi ngoài nắng thì chịu thế nào được?

Nói xong liền ra mở cửa, thì quả là Bảo Ngọc. Tử Quyên vừa mời vào vừa cười nói:

- Tôi cứ tưởng là cậu không thèm đến nhà này nữa, ai ngờ bây giờ lại đến.

Bảo Ngọc cười nói:

- Việc bé mà các chị lại cứ xé ra to, ngại gì mà ta chẳng đến? Ta có chết chăng nữa, hồn ta một ngày ít ra cũng đến đây trăm lần! Thế nào? Cô em đã khỏe hẳn chưa?

- Người khỏe đấy, nhưng bụng vẫn bực tức khó chịu.

- Ta biết rồi, việc gì mà phải bực tức!

Bảo Ngọc cười đi vào, thấy Đại Ngọc đương ngồi trên giường khóc.

Đại Ngọc trước vẫn không khóc. Từ lúc thấy Bảo Ngọc đến, trong bụng đâm ra thương cảm, không thể cầm được nước mắt. Bảo Ngọc đến gần giường cười nói:

- Em ơi! Người đã khá chưa?

Đại Ngọc chỉ gạt nước mắt, không trả lời.

Bảo Ngọc liền ngồi ghé vào cạnh giường cười nói:

- Anh vẫn biết rằng em không giận anh, nhưng nếu anh không đến, người ta thấy thế, sẽ cho anh em ta lại cãi nhau. Nếu phải chờ họ đến khuyên giải thì chẳng hóa ra anh em ta không có tình thân mật hay sao? Chi bằng, ngay bây giờ em muốn đánh, muốn mắng anh thế nào tùy em, nhưng chỉ thiết tha xin em đừng lờ anh đi thôi.

Nói xong lại gọi "em ơi" mấy tiếng.

Trong bụng Đại Ngọc vẫn định bỏ lờ Bảo Ngọc đi, nhưng bấy giờ nghe thấy câu: "Nếu để người ngoài biết là chúng ta cãi nhau thì chẳng hóa ra anh em ta không có tình thân mật" mới thấy rõ mình với Bảo Ngọc thân hơn người khác. Vì thế Đại Ngọc không nhịn được, liền khóc:

- Anh không cần phải lừa tôi! Từ giờ trở đi, tôi không dám thân cận với cậu Hai nữa. Xin cứ coi như tôi đã ra khỏi nhà này rồi.

- Thế em định đi đâu?.

- Tôi về nhà tôi.

- Anh cũng đi theo.

- Thế ngộ tôi chết thì sao?

- Em mà chết thì anh đi tu.

Đại Ngọc vừa nghe thấy câu ấy, mặt sầm ngay lại hỏi:

- Anh muốn chết à? Sao nói dại thế? Nhà anh có bao nhiêu chị em, một ngày kia họ đều chết cả, liệu thân anh xẻ ra làm mấy mảnh để đi tu? Mai đây tôi sẽ mang câu này kể lại cho người ta biết, để xem họ nói ra làm sao!

Bảo Ngọc tự biết mình nói câu ấy hấp tấp quá, hối không kịp, mặt đỏ bừng lên, cúi đầu không dám nói gì.

Khi đó trong nhà không có ai. Đại Ngọc hai mắt trừng trừng nhìn Bảo Ngọc một lúc, tức quá, hừ một tiếng, rồi không nói được câu gì. Thấy mặt Bảo Ngọc tím bầm lại, Đại Ngọc liền nghiến răng, lấy ngón tay dí vào trán Bảo Ngọc một cái, nói:

- Anh thật là...

Chỉ nói lên được hai tiếng, liền thở dài một cái, lại lấy khăn lụa, lau nước mắt.

Bảo Ngọc lúc bấy giờ nỗi lòng chan chứa, vì trót lỡ lời, nên trong bụng rất là hối hận. Sau thấy Đại Ngọc dí một cái, không nói ra lời, đành chỉ ngậm ngùi than khóc. Trong bụng thương cảm, Bảo Ngọc lại nước mắt ròng ròng chảy xuống, muốn lấy khăn lau nước mắt, nhưng lại quên không mang đi, liền lấy ống tay áo lau.

Đại Ngọc đương khóc, thấy Bảo Ngọc lấy vạt áo the cải hoa sen mới toanh ra lau nước mắt, liền vừa lau nước mắt, vừa quay đi lấy khăn lụa ở trên gối vứt vào lòng Bảo Ngọc, không nói một câu, rồi lại che mặt khóc. Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc vứt cho cái khăn, liền cầm lấy chùi nước mắt rồi xích lại gần, giơ tay kéo một tay Đại Ngọc cười nói:

- Ruột gan anh nát nhừ ra cả rồi, em còn cứ khóc làm gì mãi? Thôi đi đi, chúng ta cùng đến thăm bà.

Đại Ngọc hất tay ra nói:

- Ai kéo co với anh! Bây giờ lớn rồi, anh cứ giở cái thói cợt nhả ấy ra, không biết điều gì cả.

Nói chưa dứt lời, đã thấy có tiếng the thé ở ngoài: "Khá nhỉ!" Trong lúc bất ngờ, hai người đều giật nẩy mình, quay lại nhìn, thấy Phượng Thư đã đến, cười nói:

- Bà đương kêu trời kêu đất kia kìa, bảo chị lại xem các em đã làm lành với nhau chưa? Chị bảo không cần, chỉ độ vài hôm là họ lại tử tế với nhau đấy thôi. Bà mắng chị, bảo chị lười. Bây giờ chị đến, quả nhiên đúng như lời chị nói. Chị chẳng thấy các em có điều gì đáng cãi nhau cả, thế mà cứ ba ngày yêu quí nhau, lại hai ngày giận dỗi nhau, càng lớn càng quá trẻ con. Bây giờ cầm tay nhau mà khóc, thế thì hôm nọ tại sao lại như hai con gà chọi ấy? Thôi các em hãy theo chị sang thăm bà để cụ già được yên tâm.

Phượng Thư liền kéo Đại Ngọc đi.

Đại Ngọc quay lại gọi bọn a hoàn, nhưng chẳng thấy người nào.

Phượng Thư nói:

- Lại gọi chúng nó làm gì? Đã có tôi hầu cô đây.

Liền kéo Đại Ngọc đi. Bảo Ngọc chạy theo sau.

Họ ra khỏi vườn, đến thẳng nhà Giả mẫu, Phượng Thư cười nói:

- Cháu đã bảo không cần phải lo nghĩ hộ họ, tự họ sẽ tử tế với nhau. Bà không tin, nhất định bắt cháu phải đi dàn hòa, khi cháu đến nơi, đã thấy hai người ngồi xúm lại một chỗ, xin lỗi lẫn nhau, họ giữ chặt lấy nhau như móng chân diều hâu quắp gà con vậy. Thế thì còn cần ai đến dàn hòa nữa?

Câu nói ấy làm cho cả nhà cười ầm lên.

Bấy giờ Bảo Thoa đương ngồi đấy. Đại Ngọc không nói một câu gì, ngồi nhích lại gần Giả mẫu. Bảo Ngọc cũng không biết nói gì, liền quay lại nói với Bảo Thoa:

- Hôm sinh nhật anh Cả, tôi không được khỏe, lại không có gì đem đến mừng, cả đến cúi đầu chào cũng không có. Anh Tiết không biết tôi ốm, lại tưởng tôi tìm cớ thoái thác. Chị có gặp anh ấy, nhờ nói hộ cho tôi.

Bảo Thoa cười nói:

- Khéo hay vẽ chuyện. Dù anh có đến được cũng không dám làm phiền, huống chi người anh lại không được khỏe? Chỗ anh em cùng ở với nhau mà lại cứ để bụng những việc vặt ấy, thành ra xa nhau mất.

- Chị thể tất cho tôi được như thế là tốt rồi. Sao chị không ở lại nghe hát?

- Tôi sợ nóng, nghe được hai khúc, muốn đi ra, nhưng khách vẫn còn ngồi đông, nên tôi phải kiếu ốm, rồi đi ngay.

Bảo Ngọc nghe nói, tự nhiên thấy hơi ngượng, vội buột miệng cười nói:

- Chị người đẫy đả, thảo nào họ cứ ví chị với Dương quí phi.

Bảo Thoa nghe nói, bực lắm, định nói lại, nhưng không tiện; nghĩ một chốc, mặt đỏ bừng lên, liền cười nhạt:

- Tôi giống Dương quí phi, nhưng không có người anh em nào giỏi, có thể làm được Dương Quốc Trung.

Đương nói thì đứa hầu nhỏ là Tĩnh Nhi tìm không thấy cái quạt, cười hỏi Bảo Thoa:

- Chắc là cô giấu cái quạt của cháu, xin cô cho lại cháu.

Bảo Thoa trỏ vào mặt đứa hầu, quát mắng:

- Mày liệu hồn đấy! Mày đã thấy tao đùa với ai chưa? Mày hãy đi mà hỏi những cô nào ngày thường cứ hay tí toét cười đùa với mày ấy!

Tĩnh Nhi nghe xong, chạy mất.

Bảo Ngọc biết mình lại nói lỡ lời, bấy giờ đứng trước mặt nhiều người, càng thấy trơ trẽn, khó coi hơn là lúc va chạm với Đại Ngọc, liền lảng ra bắt chuyện với người khác.

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc chế giễu Bảo Thoa, trong bụng lấy làm đắc ý, muốn nhân đó nói châm vào cho buồn cười, không ngờ Tĩnh Nhi tìm quạt, bị Bảo Thoa mắng cho mấy câu, Đại Ngọc liền đổi giọng hỏi:

- Chị Bảo, chị nghe hai khúc hát gì thế?

Bảo Thoa trông thấy Đại Ngọc ra vẻ đắc ý, đoán ngay là vừa rồi Đại Ngọc thích chí thấy Bảo Ngọc chế giễu mình, liền cười đáp:

- Tôi xem vở Lý Quì mắng Tống Giang, sau lại đến xin lỗi.

Bảo Ngọc cười nói:

- Chị học rộng, chuyện cũ, chuyện mới hiểu nhiều, sao vở này chị lại không biết, nói ra một tràng như thế? Vở này gọi là vở Phụ kinh thỉnh tội(1) đấy.

Bảo Thoa cười nói:

- Thế ra vở này là Phụ kinh thỉnh tội à? Các người học rộng mới biết Phụ kinh thỉnh tội, chứ tôi thì biết sao được?

Bảo Ngọc và Đại Ngọc có tật giật mình, nghe chưa hết câu, mặt đã đỏ bừng lên.

Phượng Thư tuy không hiểu tại sao, thấy nét mặt ba người, cũng đã đoán được một phần, liền cười nói:

- Trời nóng thế này, ai lại ăn gừng sống thế?

Mọi người không hiểu, nói:

- Có ai ăn gừng sống đâu.

Phượng Thư cố ý lấy tay sờ lên má, tỏ vẻ ngơ ngác:

- Không ai ăn gừng sống, làm sao lại nóng ran thế này?

Bảo Ngọc, Đại Ngọc nghe thấy lại càng khó chịu. Bảo Thoa còn muốn nói nữa, nhưng thấy Bảo Ngọc đổi hẳn nét mặt, xem ra quá hổ thẹn, nên không tiện nói thêm, đành chỉ cười xòa một cái cho xong chuyện. Những người khác không hiểu ý bốn người này nói chuyện gì, cũng đều cười theo.

Một lúc, Bảo Thoa và Phượng Thư đi rồi, Đại Ngọc nói với Bảo Ngọc:

- Anh lại đụng phải con người ghê gớm hơn tôi rồi. Có ai dốt nát vụng về như tôi, cứ tha hồ cho người ta nói?

Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa hay để ý, bụng đã khó chịu rồi, giờ lại thấy Đại Ngọc cũng hay chấp nhặt, nên đành nín nhịn, buồn rầu đi ra.

Lúc này trời nóng, lại vừa ăn cơm sáng xong, các nơi cả thầy lẫn tớ đều thấy mỏi mệt trong quãng ngày dài. Riêng có Bảo Ngọc cứ chắp tay sau lưng đi loanh quanh, đến nơi nào cũng thấy lặng lẽ không một tiếng động. Từ nhà Giả mẫu ra, Bảo Ngọc rẽ sang phía tây, đi qua xuyên đường, đến sân nhà Phượng Thư. Thấy cửa ngoài đóng, biết là thói quen của Phượng Thư, hễ đến mùa nực, buổi trưa là phải nghỉ một lúc, nên không tiện đi vào, Bảo Ngọc rẽ sang cửa bên, vào buồng Vương phu nhân, thấy mấy đứa a hoàn đương cầm kim chỉ ngủ gật. Vương phu nhân thì đang nằm ngủ ở giường mát trong nhà; Kim Xuyến ngồi bên cạnh bóp đùi cho bà ta, mắt cũng đang lim dim. Bảo Ngọc rón rén đi đến trước mặt nó, nắm cái hạt châu đeo tai và giật nhẹ một cái. Kim Xuyến mở bừng mắt nhìn. Bảo Ngọc khẽ cười hỏi:

- Buồn ngủ quá thế kia à?

Kim Xuyến mím môi cười, hất tay Bảo Ngọc ra, lại nhắm mắt lại. Bảo Ngọc trông thấy Kim Xuyến, có ý quyến luyến không muốn rời, liền ngoái đầu nhìn Vương phu nhân, thấy vẫn nhắm mắt. Bảo Ngọc mở cái túi ở trong mình, lấy một viên thuốc hương huyết nhuận tân(2) ra, đút vào mồm Kim Xuyến. Kim Xuyến cũng không mở mắt, ngậm mồm lại.

Bảo Ngọc lại gần nắm lấy tay Kim Xuyến khẽ cười nói:

- Ta sẽ nói với bà xin chị về để chúng ta cùng ở chung với nhau.

Kim Xuyến không trả lời. Bảo Ngọc lại nói:

- Chờ bà dậy, ta sẽ nói.

Kim Xuyến mở mắt đẩy Bảo Ngọc một cái, cười nói:

- Việc gì mà phải vội thế. Tục ngữ có câu: "Cái trâm vàng rơi xuống giếng, đã về ai thì chỉ là của người ấy thôi". Chả lẽ cậu còn chưa hiểu sao? Tôi bảo cậu việc này hay hơn: cậu đi sang nhà bên đông mà bắt cậu Hoàn và chị Thái Vân.

Bảo Ngọc cười nói:

- Họ làm gì mặc họ. Chúng ta chỉ nói việc chúng ta thôi.

Bỗng Vương phu nhân trở mình dậy, tát vào mặt Kim Xuyến một cái và mắng:

- Con đĩ hèn hạ này! Các cậu nhà này đều bị chúng mày làm hư hỏng cả!

Bảo Ngọc thấy Vương phu nhân dậy, chạy biến mất.

Kim Xuyến một bên má đỏ ửng lên, không dám nói câu gì. Bọn a hoàn thấy Vương phu nhân dậy, đều chạy đến.

Vương phu nhân liền gọi Ngọc Xuyến đến bảo:

- Gọi mẹ mày đến mang chị mày về.

Kim Xuyến nghe thấy nói thế, vội quì xuống khóc:

- Từ rày con không dám thế nữa, xin bà cứ việc đánh, cứ việc chửi, nhưng đừng đuổi con như thế, thì con đội ơn bà như trời như bể. Con theo hầu bà đã mười năm nay, bây giờ bà đuổi con về, con còn mặt mũi nào trông thấy người ta nữa?

Vương phu nhân vốn người hiền lành, chưa từng đánh a hoàn bao giờ, nay thấy Kim Xuyến làm việc vô sỉ, giận quá, không nén được, liền tát nó một cái, mắng nó mấy câu. Kim Xuyến van xin cũng không cho ở lại, cuối cùng bắt mẹ nó là bà già họ Bạch mang nó về. Kim Xuyến đành phải ngậm hờn nuốt tủi đi ra.

Bảo Ngọc thấy Vương phu nhân dậy, cụt hứng, chạy về vườn Đại Quan, thấy ánh nắng chói trời, bóng cây rợp đất, chung quanh im lặng, chỉ nghe tiếng ve kêu mà thôi. Đi đến dưới giàn tường vi, có tiếng người thổn thức, Bảo Ngọc nghi hoặc, đứng lại lắng nghe, quả nhiên thấy một người ngồi đó. Bấy giờ khoảng giữa tháng năm, cây tường vi đang hoa lá tốt tươi. Bảo Ngọc khe khẽ đứng ngoài nhìn vào, thấy ở dưới giàn hoa một cô gái bé đương ngồi xổm, tay cầm cái trâm cài đầu vạch xuống đất, lặng lẽ chảy nước mắt. Bảo Ngọc nghĩ bụng: "Không có lẽ con bé thơ dại này cũng học cô Tần chôn hoa chăng?" Rồi lại than thở: "Nếu quả thật nó cũng chôn hoa, thì khác nào nàng Đông Thi bắt chước nhăn mặt(3) không những chẳng có gì lạ, lại đáng chán là khác!" Nghĩ xong liền gọi cô con gái kia bảo:

- Cô đừng nên bắt chước cô Lâm nhé!

Nói chưa dứt lời, ngoảnh lại nhìn kỹ, thấy người này lạ mặt, không phải a hoàn, mà là người trong đám mười hai cô học hát. nhưng không rõ đóng vai "nam" hay "nữ", "lão" hay "hề".

Bảo Ngọc lè lưỡi, bịt mồm lại, nghĩ bụng: "May mà mình không hấp tấp. Hai lần trước cũng vì hấp tấp làm cho cô Tần tức giận, Bảo Thoa nghi ngờ. Bây giờ mình còn mắc lỗi với bọn họ, lại càng thêm khó xử". Vừa nghĩ vừa bực mình, không nhận ra được người đó là ai. Lại để ý ngắm kỹ, thấy người này mày xanh như núi mùa xuân, mắt sáng như sóng mùa thu, mặt nõn nà, lưng thon thon, vẻ người óng ả thướt tha, không khác gì Đại Ngọc. Bảo Ngọc không nỡ rời bước, đứng ngây người ra, thấy nó đương cầm cái trâm vàng, không phải là đào đất chôn hoa, mà là vạch chữ.

Bảo Ngọc nhìn kỹ cái trâm đưa đẩy từng vạch, từng chấm từng móc, tính tất cả là mười tám nét; liền lấy ngón tay theo thế viết vào trong lòng bàn tay mình để đoán ra chữ gì? Nghĩ mãi mới biết nó viết chữ "tường" của hoa tường vi. Bảo Ngọc lại nghĩ: "Nhất định nó đang làm thơ làm từ gì đây. Bây giờ nó trông thấy hoa, lòng cảm xúc, trong khi cao hứng, nẩy ra mấy vần, lại sợ quên, nên vạch xuống đất để đắn đo cân nhắc, cũng chưa biết chừng! Ta hãy chờ xem nó còn viết thêm những chữ gì". Vừa nghĩ vừa nhìn, thấy cô này vạch đi vạch lại, quanh quẩn vẫn là chữ "tường".

Một người thì ngồi ngây ra vạch chữ "tường", vạch đi vạch lại đến mấy mươi lần; một người đứng ngoài cũng ngây ra, hai mắt chòng chọc nhìn cái trâm đưa đẩy. Bảo Ngọc nghĩ bụng: "Con bé này nhất định có tâm tư thầm kín gì đây. Nhìn bộ dạng này, chắc nó có bao điều buồn bực nấu nung! Người nó mỏng mảnh yếu ớt như thế, thì chịu sao được những sự dằn vặt ấy? Tiếc rằng ta không thể chịu đỡ được cho nó một phần".

Về mùa này, mưa nắng thất thường, hễ một đám mây nhỏ kéo đến là có thể mưa ngay. Bỗng đâu cơn gió nổi lên, trận mưa ầm ầm như trút nước. Bảo Ngọc trông thấy cô bé bị những giọt mưa từ trên nhỏ xuống, quần áo ướt đẫm, liền nghĩ: "Thân hình nó thế kia, chịu sao nổi trận mưa rào bắn xói vào người?" Không thể nín được, Bảo Ngọc gọi ngay:

- Thôi đừng viết nữa, người ướt hết cả rồi.

Cô bé nghe nói giật mình, ngẩng đầu nhìn, thấy người bảo đừng viết ấy đương đứng ngoài giàn hoa. Một là vì Bảo Ngọc nét mặt xinh đẹp; hai là vì hoa lá um tùm, chỉ hở có một nửa mặt, nên người con gái cho là một chị a hoàn nào, chứ không biết là Bảo Ngọc. Nó liền cười nói:

- Cảm ơn chị nhắc bảo cho. Nhưng không lẽ ngoài ấy lại có cái gì che mưa chăng?

Bảo Ngọc tỉnh người, kêu một tiếng, mới thấy lạnh buốt toàn thân. Cúi đầu nhìn mình, cũng ướt hết, liền kêu: "Hỏng rồi!" Rồi chạy một mạch về viện Di Hồng, trong lòng vẫn áy náy về con bé ấy không có chỗ tránh mưa.

Hôm sau là tiết Đoan dương, mười hai cô hát trong bọn Văn Quan đều được nghỉ học, ra vườn chơi. Bảo Quan đóng vai nam, Ngọc Quan vai nữ, đều đến chơi đùa với Tập Nhân ở viện Di Hồng. Gặp mưa, mọi người đóng cửa lại, lấp các cống cho nước đọng đầy sân, rồi đuổi bắt le vịt, khâu cánh, thả ở sân chơi. Tập Nhân thì ngồi ở ngoài hiên cười đùa.

Bảo Ngọc thấy cửa đóng, liền lấy tay đấm. Người trong nhà đang mải cười đùa, không ai để ý đến. Một lúc lâu, trong nhà nghe thấy tiếng đập cửa thình thình, ai nấy đều cho là không khi nào Bảo Ngọc lại về lúc này. Tập Nhân cười nói:

- Ai lại gọi cửa bây giờ? Không mở được.

Bảo Ngọc nói:

- Tôi đây.

Xạ Nguyệt nói:

- Hình như tiếng cô Bảo.

Tình Văn nói:

- Nói bậy! Cô Bảo đến làm gì?

Tập Nhân nói:

- Để tôi ra khe cửa nhìn xem, đáng mở thì mở, không nên để cho họ phải dầm mưa.

Nói xong liền theo đường hành lang nhìn ra ngoài, thấy Bảo Ngọc ướt như chuột lột, Tập Nhân vừa hoảng sợ, vừa buồn cười, vội ra mở cửa, cúi lưng, vỗ tay nói:

- Ai biết đâu bây giờ cậu về? Sao mưa to thế mà cũng đi?

Bảo Ngọc trong bụng đang bực tức, chỉ định có người ra mở cửa là đá cho mấy cái. Cửa vừa mở, Bảo Ngọc không cần nhìn xem ai, cứ tưởng là một a hoàn nào, liền đá một cái vào cạnh sườn. Tập Nhân kêu "Ối chà!" một tiếng. Bảo Ngọc còn mắng thêm:

- Đồ hèn mạt! Ngày thường tao đối đãi tử tế, chúng mày nhờn quen, càng ngày càng mang tao ra làm trò cười!

Nói xong, nhìn xuống, thấy Tập Nhân khóc, mới biết mình đá nhầm, vội cười nói:

- Ối chà! Chị đấy à? Tôi đá phải chỗ nào đấy?

Xưa nay Tập Nhân chưa bị đánh mắng lần nào; nay thấy Bảo Ngọc phát cáu trước mặt mọi người, đá mình một cái, thì vừa xấu hổ vừa tức giận, lại vừa đau. Muốn sinh chuyện, nhưng lại nghĩ: chưa chắc Bảo Ngọc đã định tâm đá mình, nên đành nén bụng nói: "Cậu có đá trúng tôi đâu, sao cậu không về thay áo quần đi?"

Bảo Ngọc vào buồng, cười nói:

- Tôi từ bé đến giờ, lần này mới là lần đầu phát cáu đánh người, không ngờ lại đánh nhầm phải chị!

Tập Nhân cố chịu đau, đi thay quần áo cho Bảo Ngọc, cười nói:

- Tôi là người đầu, thì bất cứ việc lớn nhỏ, hay dở, đều tự tôi mà ra. Nhưng cậu cũng đừng nghĩ đánh được tôi rồi sau này quen tay đi cứ đánh bừa.

- Vừa rồi quả tôi không chủ ý nào.

- Ai bảo cậu chủ ý? Xưa nay việc đóng cửa, mở cửa vẫn giao cho bọn hầu nhỏ. Chúng nó hỗn láo quen, nhiều lần làm cho người ta phải tức lên, thế mà chúng nó chẳng biết sợ hãi là cái gì. Nếu chính chúng nó ra mở cửa, cậu đá cũng lả phải. Nhưng vừa rồi vì tôi dở hơi, không để cho chúng nó ra mở.

Trời tạnh mưa, bọn Bảo Quan, Ngọc Quan đều về cả, Tập Nhân thấy đau ở cạnh sườn, trong lòng rộn rực, liền bỏ bữa cơm chiều không ăn. Đến tối, cởi quần áo ra, thấy bên cạnh sườn có một chỗ tím to bằng cái bát, Tập Nhân giật mình sợ hãi, nhưng không tiện nói ra, đến lúc đi ngủ vẫn thấy đau. Trong khi mơ màng, thỉnh thoảng lại thốt ra một tiếng kêu "ối chà!"

Bảo Ngọc thấy Tập Nhân ra dáng mệt mỏi, trong bụng không đành. Đến nửa đêm, lại nghe tiếng kêu, biết Tập Nhân bị đá mạnh quá, Bảo Ngọc trở dậy, khẽ cầm đèn lại soi. Đến cạnh giường, thấy Tập Nhân ho lên hai tiếng, nhổ ra một cục đờm, rồi lại kêu "ối chà". Tập Nhân mở mắt nhìn, thấy Bảo Ngọc, giật mình hỏi:

- Cậu làm gì thế?

- Trong khi ngủ, chị cứ kêu luôn, tất là bị đá đau lắm,để tôi xem thế nào.

- Tôi nhức đầu lắm, cổ họng lại lờm lợm có mùi tanh, cậu thử soi xuống đất xem.

Bảo Ngọc nghe nói, cầm đèn soi, thấy một cục máu tươi, sợ hãi nói:

- Thôi thế này thì nguy mất.

Tập Nhân thấy thế, lạnh đi một nửa người.

-----------------------------------

(1). Mang roi đến chịu tội. Đời Chiến quốc, Liêm Pha mang roi từ nhà đến xin lỗi Lạn Tương Như.

(2). Một viên thuốc trắng và thơm để thấm nhuần nước bọt.

(3). Đời Chiến quốc có nàng Tây Thi, nhan sắc tuyệt vời, khi nhăn mặt lại càng đẹp. Ở phía đông trong làng có một người con gái rất xấu, thấy thế cũng bắt chước. Nhưng khi cô ta nhăn mặt, người giàu trông thấy phải đóng cửa, không dám nhìn, người nghèo trông thấy phải đem cả vợ con trốn đi nơi khác.

Hồi thứ ba mươi mốt

Xé tan cái quạt, nghìn vàng mua lấy một trận cười

Điềm ứng kỳ lân, hai sao(1) gặp nhau khi đầu bạc

Tập Nhân thấy mình khạc máu tươi ra đất thì lạnh hẳn một nửa người. Cô ta thường ngày nghe người ta nói: "Lúc trẻ mà thổ huyết, thì sẽ chết non, có sống chăng nữa, cũng là người bỏ đi". Nghĩ vậy, những chuyện mong ước vẻ vang sung sướng mai sau, bất giác lạnh hẳn như đống tro tàn, nước mắt cô ta ở đâu lại ròng ròng chảy xuống. Bảo Ngọc thấy Tập Nhân khóc, bụng cũng chua xót, liền hỏi:

- Chị thấy trong người thế nào?

Tập Nhân cười gượng:

- Người tôi vẫn khỏe, có việc gì đâu?

Bảo Ngọc định lập tức sai người hâm rượu, lấy huyết sơn dương và thuốc viên lê động đến. Tập Nhân kéo tay lại, cười nói:

- Việc không cần mà cậu cứ làm nhộn lên, phiền đến mọi người, rồi họ lại oán tôi là nông nổi. Bây giờ không ai hay cả, cậu cứ làm ồn lên, người ta biết thì cậu và tôi đều không hay ho gì. Ngày mai cậu nên cho một đứa bé đi mời ông lang họ Vương cho tôi uống một thang thuốc là khỏi. Như thế thì không ai biết, chẳng hơn hay sao?

Bảo Ngọc nghe nói có lý, liền thôi không gọi ai, tự mình đến bàn, rót chén nước đưa cho Tập Nhân súc miệng.

Tập Nhân biết Bảo Ngọc không đành dạ, nếu không để cậu ta chăm sóc mình, chắc sẽ không nghe, lại làm bận rộn đến người khác, chi bằng cứ để mặc kệ đấy. Vì thế Tập Nhân ngồi tựa trên giường, mặc cho Bảo Ngọc phục dịch.

Trời vừa sáng, Bảo Ngọc không kịp rửa mặt chải đầu, vội mặc áo đi mời Vương Tế Nhân. Vương đến, hỏi cặn kẽ đầu đuôi, biết nguyên do bệnh này chẳng qua bị thương tổn chút ít thôi. Vương liền cho ít thuốc viên, chỉ bảo cách dùng, cách uống và xoa. Bảo Ngọc nhớ lấy, về trong vườn cứ theo thế điều trị.

Hôm ấy chính là tiết Đoan dương, người ta dùng cành ngải treo cửa và bùa dấu đeo tay. Đúng giờ Ngọ, Vương phu nhân sửa tiệc rượu mời mẹ con họ Tiết đến ăn tết. Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa lãnh đạm, không trò chuyện với mình, biết là vì việc hôm nọ. Vương phu nhân thấy Bảo Ngọc buồn chán, cho là vì việc Kim Xuyến hôm trước, có ý bẽn lẽn, nên không muốn hỏi. Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc ngồi thừ ra đấy, cho là vì hôm nọ có lỗi với Bảo Thoa, trong bụng khó chịu, cho nên dáng người uể oải. Phượng Thư thì vì chiều hôm trước Vương phu nhân kể lại cho nghe chuyện Bảo Ngọc với Kim Xuyến, biết là Vương phu nhân không vui, khi nào mình còn dám cười nói, nên lẳng lặng theo Vương phu nhân, bảo gì làm nấy. Chị em Nghênh Xuân thấy ai nấy buồn tẻ, thì cũng không vui. Vì thế họ ngồi một lúc rồi tản đi mỗi người mỗi ngả.

Đại Ngọc xưa nay chỉ thích tan chứ không thích tụ, điều đó cũng có lý, Đại Ngọc nói: "Người ta có họp thì phải có tan, lúc họp thì vui, đến khi tan, thì tránh sao khỏi buồn? Đã buồn thì đâm ra thương nhớ, chi bằng không họp nữa là hơn. Cũng như đóa hoa, khi nở thì người ta yêu mến, đến khi tàn càng khiến người ta thương tiếc, chẳng thà đừng nở là hơn". Vì thế khi người ta cho là vui, thì cô ta lại đâm ra buồn. Tính tình Bảo Ngọc lại chỉ muốn cho người thường họp mà đừng tan, hoa thường nở mà đừng tàn; đến khi tiệc tan hoa tàn, dù có thương tiếc muôn phần, cũng không thể kéo lại. Vì thế bữa tiệc hôm nay mọi người đều cụt hứng ra về, Đại Ngọc thì không sao, nhưng Bảo Ngọc lại rất buồn rầu, về buồng than dài thở vắn.

Vừa khi Tình Văn đem quần áo lại cho Bảo Ngọc thay, đánh rơi cái quạt xuống đất, làm gãy một nan xương.

Bảo Ngọc liền mắng:

- Đồ ngu! Đồ ngu! Không biết sau này làm ăn ra thế nào? Mai kia chị một mình đương lấy cơ nghiệp, không lẽ việc gì cũng không suy trước tính sau hay sao?

Tình Văn cười nhạt:

- Cậu Hai độ này đâm ra nóng nẩy quá, cũng nên nể mặt nhau một tí. Hôm nọ cậu đã đánh chị Tập Nhân, hôm nay lại xoi mói cả tôi. Muốn đấm đá ai là tùy ở cậu. Tôi chỉ đánh rơi một cái quạt thôi, có phải việc lớn lao gì cho cam. Khi trước biết bao nhiêu người đánh rơi đánh vỡ: nào bình pha lê, nào bát mã não, chẳng thấy cậu gắt bao giờ; nay có cái quạt mà cậu làm ra như vậy? Nếu không bằng lòng thì cậu đuổi ngay chúng tôi đi, tìm người khác giỏi thạo hơn đến hầu rồi cho chúng tôi ra, mỗi người mỗi ngả, chẳng hay hơn sao?

Bảo Ngọc nghe nói, tức run người lên, nói:

- Chị không phải lo, rồi cũng có ngày mỗi người mỗi ngả.

Tập Nhân ở bên kia nghe thấy, vội chạy ra nói với Bảo Ngọc:

- Tự dưng vô cớ, sao lại như thế? Tôi đã bảo mà, hễ vắng tôi lúc nào là y như có chuyện.

Tình Văn cười nhạt:

- Chị đã biết thế sao không đến mau, để cậu ấy khỏi phải sinh bực. Từ trước đến nay chỉ có một mình chị là biết hầu hạ cậu ấy thôi, còn chúng tôi có biết cái gì đâu. Chỉ vì chị hầu hạ khéo nên hôm nọ mới bị đá vào bụng! Chúng tôi vụng dại thế này, không biết rồi ra sẽ còn phạm những tội lỗi gì!

Tập Nhân nghe mấy câu ấy, vừa bực tức, vừa xấu hổ, muốn nói lại, nhưng thấy Bảo Ngọc giận quá tái mặt lại, nên đành phải dịu lời, nói:

- Em ơi! Hãy ra ngoài kia, đó là chúng tôi không phải với em đấy.

Tình Văn nghe thấy hai tiếng "Chúng tôi", cho ngay là Tập Nhân muốn nói cô ta với Bảo Ngọc, trong bụng đâm ra ghen, liền cười nhạt mấy tiếng:

- Tôi chả biết ai là "Chúng tôi" cả, đừng để tôi phải hổ thẹn thay cho ai! Các người làm những việc thầm kín với nhau, giấu thế nào được tôi! Tôi cứ nói thẳng: ngay các cô nhà này cũng còn chưa với lên được, huống chi chị cũng như tôi, thế mà lại dám gọi "Chúng tôi" à?

Tập Nhân xấu hổ quá, tím bầm mặt lại, biết mình nói nhầm. Bảo Ngọc nói:

- Các chị đứng tức khí nhau nữa, ngày mai tôi sẽ cất nhắc chị lên.

Tập Nhân vội kéo tay Bảo Ngọc nói:

- Chị ta là người hồ đồ, phân trần phải trái làm gì. Vả chăng cậu xưa nay là người có lòng, những việc to hơn nữa cũng còn bỏ qua, sao hôm nay lại thế?

Tình văn cười nhạt:

- Tôi vốn là người hồ đồ, ai thèm nói chuyện với tôi.

Tập Nhân nói:

- Chị cãi nhau với tôi hay là cãi nhau với cậu Hai? Nếu là giận tôi thì chị chỉ nên nói tôi thôi, đừng đả động đến cậu ấy, nếu giận cậu ấy thì không nên nói ầm lên cho mọi người biết. Vừa rồi tôi muốn đến dàn xếp, khuyên giải cho êm cửa êm nhà, thế mà chị lại kiếm chuyện vặc nhau cả với tôi! Chị chẳng ra giận tôi, cũng chẳng ra giận cậu Hai, cứ bắt quàng bắt xiên, hết chuyện này sang chuyện nọ. Ý chị định thế nào? Thôi tôi không nói nữa, để phần chị nói.

Tập Nhân liền chạy ra ngoài.

Bảo Ngọc bảo Tình Văn:

- Chị không cần phải cáu kỉnh nữa, tôi đoán được bụng chị rồi. Tôi sẽ trình với bà: giờ chị đã lớn, nên cho chị về, chị có bằng lòng không?

Tình Văn nghe vậy, trong lòng đau xót, liền rơm rớm nước mắt, nói:

- Việc gì tôi phải về? Cậu ghét tôi, tìm cách đuổi tôi đấy thôi, như vậy sao đành?

Bảo Ngọc nói:

- Tôi chưa hề thấy có chuyện cãi cọ nhau như thế này bao giờ. Nhất định là chị muốn về. Tôi sẽ trình với bà cho chị về là yên chuyện.

Nói xong đứng dậy chực đi ngay.

Tập Nhân vội kéo Bảo Ngọc lại nói:

- Cậu định đi đâu đấy?

Bảo Ngọc nói:

- Tôi đi trình bà đây.

Tập Nhân cười nói:

- Cậu thật chẳng có ý tứ gì cả! Cậu đi trình sẽ làm chị ấy xấu hổ. Nếu quả chị ấy muốn về, thì hãy chờ khi hết hẳn cơn giận đã, lúc nào sẽ trình với bà cũng chưa muộn. Bây giờ cậu cho là việc chính, hấp tấp đi trình ngay, chẳng làm bà sinh nghi hay sao?

Bảo Ngọc nói:

- Bà không ngờ đâu, tôi sẽ nói rõ là chị ấy sinh chuyện để đòi về đấy thôi.

Tình Văn khóc lóc:

- Tôi sinh chuyện để đòi về bao giờ? Cậu giận tôi, kiếm chuyện để dọa nạt tôi. Cậu cứ đi mà trình: tôi thà đập đầu chết ngay ở đây, chứ không chịu ra khỏi nhà này.

Bảo Ngọc nói:

- Thế mới lạ chứ! Chị không về, lại cứ sinh chuyện lôi thôi mãi. Thế này tôi không chịu nổi, chị về đi cho yên chuyện!

Nói xong nhất định đi trình.

Tập Nhân thấy ngăn không nổi, đành phải quỳ xuống. Bọn Bích Ngân, Thu Vân, Xạ Nguyệt thấy mấy người cãi nhau dữ quá, đều cứ lẳng lặng đứng ở ngoài nghe. Sau thấy Tập Nhân quỳ xuống van xin, họ liền rủ nhau quỳ cả xuống. Bảo Ngọc vội đỡ lấy Tập Nhân dậy, thở dài một cái, ngồi phịch xuống giường, bảo mọi người đứng cả dậy; rồi nói với Tập Nhân:

- Bây giờ bảo tôi làm thế nào cho phải đây? Lòng tôi vỡ rạn cả rồi, có ai biết cho đâu?

Nói xong nước mắt tràn ra. Thấy Bảo Ngọc chảy nước mắt, Tập Nhân cũng khóc. Tình Văn đứng bên cạnh cũng khóc. Bỗng thấy Đại Ngọc đến, Tình Văn liền đi ra.

Đại Ngọc cười nói:

- Khéo chưa, ngày tết có việc gì mà khóc thế? Hay là tranh nhau ăn bánh chưng, rồi giận nhau đấy?

Bảo Ngọc và Tập Nhân đều cười. Đại Ngọc nói:

- Anh Hai ơi, chả đợi anh nói em cũng đã biết cả rồi.

Đại Ngọc lại vỗ vào vai Tập Nhân cười nói:

- Thưa bà chị dâu, cho em biết với, tất là hai anh chị đương cãi nhau, nếu chị nói với em, em sẽ dàn hòa giùm cho.

Tập Nhân đẩy Đại Ngọc ra nói:

- Thưa cô, cô nói nhảm gì thế? Tôi đây chỉ là một đứa con hầu thôi.

Đại Ngọc cười nói:

- Chị bảo chị là con hầu, nhưng em coi chị như là chị dâu.

Bảo Ngọc nói:

- Vạ gì mà em cứ hay khoác chuyện dở cho chị ấy. Thôi đừng như thế. Nếu ai nói câu ấy, em nên ngăn đi mới phải, thế mà bây giờ lại chính tự miệng em nói ra.

Tập Nhân cười nói:

- Cô ơi! Cô không biết bụng tôi, chỉ khi nào tắt thở, chết đi là xong chuyện!

Đại Ngọc cười nói:

- Chị mà chết thì không biết người khác thế nào, chứ tôi thì tôi cũng phải khóc đến chết thôi.

Bảo Ngọc nói:

- Chị mà chết thì tôi đi tu.

Tập Nhân nói:

- Cậu nên đứng đắn một chút. Sao lại nói nhảm thế.

Đại Ngọc giơ hai ngón tay lên, bĩu môi cười nói:

- Hai lần đi tu rồi đấy nhé! Từ giờ trở đi, tôi sẽ xem, liệu anh ấy làm hòa thượng mấy lần.

Bảo Ngọc biết Đại Ngọc lại nói móc mình câu chuyện hôm trước, nên chỉ cười thôi.

o0o

Một lúc Đại Ngọc đi rồi, có người đến nói: "Cậu Tiết mời". Bảo Ngọc đi ngay, vì biết Tiết Bàn mời uống rượu, không thể từ chối được. Mãi chiều tan tiệc mới về. Bảo Ngọc đang ngà ngà say, lảo đảo về đến sân, thấy đã đặt sẵn cái giường tựa để hóng mát, lại có người nằm ngủ ngay đó. Bảo Ngọc tưởng là Tập Nhân, liền ngồi cạnh giường lay dậy hỏi: "Đỡ đau chưa?" Người kia vùng dậy nói: "Sao, lại còn gọi tôi làm gì?".

Bảo Ngọc nhìn lại, không phải Tập Nhân, mà chính là Tình Văn. Bảo Ngọc kéo Tình Văn ngồi bên cạnh, cười nói:

- Chị càng ngày càng làm nũng quen thân. Sớm hôm nay chị đánh rơi cái quạt, tôi nói vài câu, thế mà chị dám cãi lại những lời như vậy. Chị nói tôi đã đành, chị Tập Nhân có bụng tốt đến can, chị lại vặc nhau cả với chị ấy. Chị nghĩ xem thế có đúng không?

Tình Văn nói:

- Nóng nực thế này, cứ lôi lôi kéo kéo làm gì thế! Lỡ ra người ta trông thấy thì còn ra làm sao nữa! Thân tôi vốn không đáng ngồi ở đây!

Bảo Ngọc cười nói:

- Đã biết là không đáng thì sao lại nằm xuống đây?

Tình Văn chẳng biết trả lời thế nào, cười khì một cái rồi nói:

- Cậu không đến đây thì được, chứ đã đến thì tôi không xứng đáng. Thôi tôi dậy để đi tắm rửa đây. Chị Tập Nhân và chị Xạ Nguyệt đã tắm rửa cả rồi, tôi sẽ gọi lại cho cậu.

Bảo Ngọc cười nói:

- Tôi vừa mới uống rượu xong, cũng muốn rửa. Nếu chị chưa rửa, thì xách nước lại đây, hai chúng ta cùng rửa.

Tình Văn xua tay cười nói:

- Thôi! Thôi! Tôi chả dám đụng tới ông trẻ. Còn nhớ hôm nào chị Bích Ngân hầu cậu tắm rửa, chẳng biết làm những trò gì, cho đến hai ba giờ, chúng tôi không tiện vào đấy. Khi tắm xong, vào xem, thấy nước ở dưới đất, ngấm ướt cả đến chân giường, ngay trên chiếu cũng dầm dề cả nước, chẳng biết tắm rửa ra thế nào. Chúng tôi đã cười với nhau trong mấy hôm liền. Tôi chẳng hơi đâu đi lấy nước, mà cậu cũng không cần tắm chung với tôi. Hôm nay mát trời, tôi cũng không tắm đâu, để tôi đi múc một chậu nước đến cậu rửa mặt, chải đầu thôi. Vừa rồi Uyên Ương đem cho mấy thứ quả tươi ướp trong lọ thủy tinh kia, cậu bảo họ mang đến cho cậu ăn không hơn à?

Bảo Ngọc cười nói:

- Đã như thế, chị không tắm, thì đi rửa tay, mang thứ quả ấy đến cho tôi ăn.

Tình Văn nói:

- Đã bảo tôi là hạng ngu xuẩn, cầm cái quạt cũng đánh rơi gãy, đáng đâu lấy quả cho cậu ăn, lỡ ra đánh vỡ cả khay, thì lại càng to chuyện.

Bảo Ngọc cười nói:

- Các đồ vật cốt để cho người ta dùng thôi, chị thích đập cái gì cứ việc mà đập. Chị thích cái này, tôi thích cái kia, mỗi người đều có một ý thích. Ví như cái quạt cốt là để quạt, chị thích xé nó ra mà chơi thì cứ việc xé, nhưng đừng nhân lúc giận mà đem xé nó ra cho hả. Cũng như cái chén, cái khay, cốt để đựng các đồ vật, nếu chị thích nghe tiếng vỡ, thì cứ đập đi cũng được, đừng nên nhân khi tức giận mà đập. Thế cũng là biết yêu đồ vật đấy.

Tình Văn cười nói:

- Đã thế cậu đưa cái quạt đây cho tôi xé, tôi thích nghe tiếng xé lắm.

Bảo Ngọc đưa cái quạt cho Tình Văn. Quả nhiên "Xoạt" một tiếng, cái quạt bị xé ra làm đôi, rồi cứ "Xoạt xoạt" luôn mấy tiếng nữa.

Bảo Ngọc đứng cạnh cười nói:

- Tiếng xé hay đấy! Xé nữa mà nghe.

Xạ Nguyệt ở đâu chạy đến, trừng mắt nhìn, gắt lên:

- Ác nghiệt vừa vừa chứ!

Bảo Ngọc giật ngay lấy cái quạt ở tay Xạ Nguyệt, đưa cho Tình Văn. Tình Văn cầm lấy xé ra làm mấy mảnh, rồi hai người cười ầm lên.

Xạ Nguyệt nói:

- Thế là thế nào? Lại đem cái quạt của tôi ra làm trò đùa đấy à?

Bảo Ngọc cười nói:

- Chị mở cái hộp quạt của tôi ra chọn lấy một cái mà dùng. Quí hoá gì cái này?

- Đã thế thì mang hết cả quạt ra đây để tha hồ cho chị xé có được không?

- Chị vào mang cả ra đây.

- Không khi nào tôi làm trò tai ác như thế. Tay chị ta chưa què thì tự đi mà lấy.

Tình Văn cười rồi tựa vào giường nói:

- Giờ tôi mệt rồi, ngày mai lại xé.

Bảo Ngọc cười nói:

- Người xưa có câu "Nghìn vàng khó mua được một tiếng cười" mấy cái quạt có đáng là bao?

Bảo Ngọc vừa nói vừa gọi Tập Nhân. Tập Nhân thay quần áo chạy ra. Giai Huệ, một a hoàn nhỏ đến nhặt các mảnh quạt rách mang đi, rồi mọi người ngồi hóng mát ở đấy.

O0o

Trưa hôm sau, Vương phu nhân và chị em Bảo Thoa, Đại Ngọc đương ngồi ở trong buồng Giả mẫu, có người vào trình "Cô Sử đến". Một lúc, Sử Tương Vân và nhiều a hoàn, vú bõ đi vào sân. Bọn Bảo Thoa, Đại Ngọc vội xuống thềm đón. Chị em bạn trẻ hàng tháng vắng mặt, bây giờ gặp nhau, tất nhiên là vui vẻ thân mật. Một lúc vào trong buồng, đi chào hỏi mọi người.

Giả mẫu liền bảo:

- Trời nóng nực thế này, cháu cởi bớt quần áo ngoài ra.

Tương Vân vội đứng dậy cởi áo.

Vương phu nhân cười nói:

- Chả thấy ai mặc như thế cả. Mặc vào để làm gì?

Tương Vân cười nói:

- Đó là thím Hai bảo cháu mặc đấy, chứ cháu có muốn mặc những thứ này đâu!

Bảo Thoa đứng cạnh cười nói:

- Dì không biết cô Sử thích mặc cả quần áo của người khác nữa kia đấy. Còn nhớ kỳ tháng ba, tháng tư năm ngoái, khi cô ấy ở đây, đã mặc áo, đi cả giày, đeo cả thắt lưng của cậu Bảo. Thoạt nhìn, giống hệt cậu Bảo, chỉ khác hai bên tai đeo hoa thôi. Cô ấy đứng tựa ở sau ghế, làm cụ tưởng lầm cứ gọi: "Bảo Ngọc, cháu lại đây. Cẩn thận không thì cái đèn treo trên kia rơi tàn vào mắt đấy". Cô ấy cứ đứng cười, không đi. Sau mọi người không nhịn được, cười phá lên, cụ cũng cười nói: "Nó ăn mặc giả trai càng dễ coi hơn".

Đại Ngọc nói:

- Việc ấy đã thấm vào đâu? Hồi tháng giêng năm trước cô ta sang đây ở được vài ngày, trời xuống tuyết. Hôm ấy bà và mợ đi lễ tổ về, bà cởi cái áo khoác lông vườn màu đỏ ra. Lừa lúc bà không trông thấy, cô ấy mặc ngay vào người, vừa rộng vừa dài, lại lấy cái khăn thắt ngang lưng, rồi ra sân sau cùng bọn a hoàn đập tuyết chơi, không ngờ trượt chân ngã, bùn lấm khắp người.

Nói xong mọi người nhớ lại chuyện ấy, đều cười ầm lên.

Bảo Thoa cười hỏi vú Chu:

- Cô bé nhà vú độ này còn hay quấy nữa không?

Vú Chu chỉ cười. Nghênh Xuân cười nói:

- Hay quấy đã đành rồi, nhưng tôi lại ghét cô ta hay nói nhiều quá. Có khi đi ngủ vẫn còn lảm nhảm, hết nói lại cười, không biết những chuyện nhảm ấy từ đâu đem đến.

Vương phu nhân nói:

- Có lẽ bây giờ cháu đã khá rồi. Độ trước nghe nói có người đến xem mặt, thế là cháu đã sắp sửa về nhà chồng rồi, lẽ nào lại còn như trước.

Giả mẫu hỏi:

- Thế lần này sang chơi, cháu định ở lại hay về ngay?

Vú Chu cười nói:

- Cụ không thấy cô ấy đã mang cả quần áo sang đây, khi nào lại không ở chơi mấy ngày?

Tương Vân hỏi:

- Anh Bảo có ở nhà không?

Bảo Thoa cười nói:

- Cô ấy chẳng nhớ ai, chỉ nhớ cậu Bảo thôi. Vì hai người thích chơi đùa với nhau, thế thì vẫn chưa đổi được tính hay quấy.

Giả mẫu nói:

- Bây giờ các cháu đã lớn rối đừng gọi tên tục nhau ra nữa.

Vừa nói xong, thì Bảo Ngọc chạy đến cười nói:

- Em Vân đã sang đấy à? Hôm nọ anh cho người đi đón, sao em không sang?

Vương phu nhân nói:

- Bà vừa nói xong, chúng nó lại gọi tên tục nhau cả rồi.

Đại Ngọc nói:

- Anh cô có cái gì đẹp để dành cho cô đấy.

Tương Vân hỏi:

- Cái gì đấy?

Bảo Ngọc cười nói:

- Em tin lời cô ấy à! Mấy hôm không gặp, đã thấy lớn lên rồi.

Tương Vân cười hỏi:

- Chị Tập Nhân có khỏe không?

Bảo Ngọc nói:

- Vẫn khỏe, cảm ơn em nhớ đến.

Tương Vân nói:

- Tôi mang cái vật đẹp này sang cho chị ấy đây.

Nói xong, Tương Vân giở cái khăn lụa, lấy ra một gói con. Bảo Ngọc nói:

- Lại cho cái gì đẹp đấy? Chi bằng em cho chị ta mấy cái nhẫn ngọc thạch thanh màu đỏ, như hôm nọ đã đưa sang đây ấy.

Tương Vân cười hỏi:

- Đây là cái gì?

Mở gói ra, mọi người xem, quả nhiên một gói bốn chiếc nhẫn màu đỏ là thứ nhẫn đã cho mang sang lần trước.

Đại Ngọc cười nói:

- Các chị em xem cô ta như thế đấy. Hôm nọ cho người đưa sang các thứ nhẫn cho chúng tôi, tại sao cô không đưa cả sang một thể, có tiện hơn không? Hôm nay cô lại tự mình mang sang. Tôi cứ tưởng là cái gì mới lạ kia, hoá ra vẫn là thứ nhẫn này. Cô thực là người hồ đồ.

Tương Vân cười nói:

- Chính chị mới hồ đồ, để tôi kể rõ đầu đuôi cho mọi người nghe, xem ai hồ đồ? Tôi đưa thứ gì cho các cô, thì sai người mang sang, không phải dặn dò, chỉ cần xem qua một lượt cũng đã biết ngay rồi. Nhưng nếu sai người ta đưa cái gì cho các chị a hoàn, là tôi phải dặn dò cẩn thận, thứ này đưa cho chị này, thứ kia đưa cho chị kia. Người sai đi mà biết được rành mạch còn khá, nếu gặp phải người vớ vẩn, không nhớ được rõ, cứ đưa bừa đi, tên nọ đánh ra tên kia, sẽ bị nhầm lẫn hết. Nếu bà già đi còn khá, nhưng hôm nọ tôi lại sai đứa bé con mang sang, làm thế nào mà dặn dò cho nó nhớ hết những tên họ của a hoàn bên này? Bây giờ chính tay tôi mang sang đưa cho họ, chẳng rành rọt hơn hay sao?

Tương Vân nói rồi bỏ gói nhẫn ra, bảo:

- Chị Tập Nhân một chiếc, chị Uyên Ương một chiếc, chị Kim Xuyến một chiếc, chị Bình Nhi một chiếc. Tất cả là bốn người. Thế thì bọn trẻ con nhớ rành mạch làm sao được?

Mọi người đều cười nói:

- Quả là rõ ràng.

Bảo Ngọc cười nói:

- Vẫn mồm mép liến thoắng, chẳng chịu thua ai.

Đại Ngọc cười nhạt:

- Nếu cô ấy nói không rành mạch thì đáng đeo con "Kỳ lân vàng" thế nào được?

Nói xong liền chạy đi chỗ khác. May sao mọi người không ai nghe thấy, chỉ có Bảo Thoa bĩu môi cười. Bảo Ngọc thấy thế, hối hận mình đã lỡ lời; thấy Bảo Thoa cười, cũng cười theo. Bảo Thoa thấy Bảo Ngọc cười, vội đứng dậy, lần đến nói chuyện với đại Ngọc.

Giả mẫu bảo Tương Vân:

- Uống nước trà xong, cháu đi nghỉ một lúc, rồi đến thăm các chị cháu. Ngoài vườn mát đấy, cháu sẽ đi chơi với các chị ấy.

Tương Vân vâng lời, gói bốn cái nhẫn lại, nghỉ một lúc, rồi đi thăm Phượng Thư. Bọn vú bõ, người hầu cùng đi theo. đến đó, mọi người cười một lúc, rồi sang vườn Đại Quan, vào thăm Lý Hoàn; ngồi một lát, lại sang viện Di Hồng tìm Tập Nhân. Tương Vân quay lại bảo bọn người hầu: "Các cô không phải theo tôi. Ai muốn đi thăm bà con cứ đi, để một mình Thúy Lũ theo hầu tôi là đủ".

Mọi người vâng lời, để Tương Vân, Thúy Lũ ở lại đấy, rồi đi thăm bà con.

Thúy Lũ nói:

- Hoa sen này làm sao không nở?

Tương Vân nói:

- Chưa đến mùa.

- Cái hoa này cũng như hoa trong ao nhà ta, đó là hoa kép.

- Hoa ở đây không bằng hoa của nhà ta.

- Bên này có hoa thạch lựu bốn năm cành xúm xít lại, chùm nọ nằm chồng lên chùm kia, sao mà đẹp thế!

- Hoa cỏ cũng như người ta vậy. Khí mạch mà đầy đủ, thì càng lớn càng đẹp.

Thúy Lũ lắc đầu nói:

- Cô nói thế cháu không tin, nếu bảo rằng cây cối cũng như người ta, thì sao cháu không thấy người nào trên đầu lại mọc thêm một cái đầu nữa?

Tương Vân bật cười:

- Ta đã bảo em không nên nói nhiều, thế mà em cứ thích nói. Hỏi thế thì người ta trả lời làm sao được? Trong trời đất, vật gì cũng đều nhờ âm dương mà sinh ra, chính hay tà, kỳ hay quái, biến hoá đủ đường, cũng đều do âm dương thuận hay nghịch mà ra. Ngay những giống từ khi mới sinh, ít người trông thấy, rút cuộc đều cùng một lẽ cả.

- Nếu nói như thế thì từ khi có trời đất đều là âm dương cả à?

- Con bé này ngớ ngẩn quá! Càng nói càng bậy, thế nào lại "Đều là âm dương cả". Vả lại, hai chữ âm dương chỉ là một, nghĩa là hết dương đến âm, hết âm đến dương, chứ không phải hết âm mới sinh ra dương, hay là hết dương mới sinh ra âm đâu.

- Thực là mơ hồ chán chết đi được! Thế nào là âm với dương? Chẳng có hình có bóng à? Cháu chỉ hỏi cô, cái hình dạng âm dương nó ra thế nào?

- Âm với dương chẳng qua là khí thôi. Nhờ có khí ấy, các vật mới thành hình chất. Ví như trời là dương, thì đất là âm; nước là âm, thì lửa là dương; mặt trời là dương, thì mặt trăng là âm.

- Phải đấy, bây giờ cháu hiểu rồi. Chẳng trách người ta gọi mặt trời là "Thái dương", người xem số gọi mặt trăng là sao "Thái âm", đó là lẽ thế đấy.

- A di đà phật! Bây giờ em mới hiểu ra.

- Những cái ấy có âm dương đã đành rồi, còn đến ruồi, muỗi, sâu, bọ, hoa cỏ, mảnh ngói, viên gạch cũng có âm dương cả sao?

- Cái gì mà chẳng có, ví như một lá cây cũng có âm dương khác nhau, mặt ngửa lên trời là dương, mặt úp xuống đất là âm.

Thúy Lũ gật đầu cười nói:

- Thế à! Bây giờ cháu mới hiểu. Cái quạt chúng ta cầm ở tay đây, thế nào là âm, thế nào là dương?

- Mặt phải là dương, mặt trái là âm.

Thúy Lũ gật đầu cườì, còn muốn tìm mấy thứ nữa để hỏi, nhưng chưa nghĩ ra. Chợt cúi đầu nhìn thấy Tương Vân đeo cái dây có con kỳ lân vàng, liền cầm lấy cười hỏi:

- Cái này có âm dương không hở cô?

- Muông chạy, chim bay, thì giống đực là dương, giống cái là âm, cái gì mà chẳng có.

- Thế thì con kỳ lân của cô đeo đó là đực hay cái?

- Tôi cũng không biết.

- Thế thì thôi vậy. Tại sao cái gì cũng có âm dương mà chúng ta lại không có?

Tương Vân sa sầm nét mặt nói:

- Đồ ngu! Thôi cút đi, càng hỏi càng nói tầm bậy.

- Cái đó có gì mà cô không bảo cho cháu biết. Cháu cũng hiểu rồi, cô đừng vặn vẹo cháu nữa.

- Em hiểu thế nào?

- Cô là dương, cháu là âm.

Tương Vân lấy khăn lụa bịt mồm cười. Thúy Lũ nói:

- Nói đúng mà cô lại cười à.

- Đúng lắm, đúng lắm!

- Người ta thường nói chủ nhà là dương, đầy tớ là âm, ngay những lẽ thường như thế, mà em cũng không hiểu hay sao?

- Em hiểu lắm rồi.

Hai người đi đến dưới giàn hoa tường vi, Tương Vân trỏ tay bảo:

- Em xem kìa, cái gì vàng lóng lánh như đồ trang sức của ai đánh rơi.

Thúy Lũ vội chạy đến nhặt lên tay, cười nói:

- Cái này sẽ phân biệt ra được âm dương!

Nói rồi cầm con kỳ lân của Tương Vân xem. Tương Vân muốn xem cái mới nhặt được, nhưng Thúy Lũ không chịu đưa, cười nói:

- Cái này là cái bảo bối, cô không xem được đâu! Lạ chưa? ở đâu mà đến đây? Xưa nay cháu không trông thấy ở ai có cái này cả.

- Đưa tôi xem nào.

Thúy Lũ xòe tay ra cười nói:

- Đây mời cô xem.

Tương Vân nhìn xem, thì ra một con kỳ lân vàng, so với con của mình đeo vừa to vừa có văn vẻ hơn. Tương Vân nâng lấy để vào lòng bàn tay, đứng ngẩn người ra, lặng lẽ không nói một lời. Chợt thấy Bảo Ngọc ở đầu kia đi tới, cười nói:

- Em đứng dưới ánh mặt trời này làm gì? Tại sao không đi tìm Tập Nhân?

Tương Vân vội giấu con kỳ lân đi và nói:

- Em định đến đây, chúng ta cùng đi một thể.

Nói xong, hai người cùng đi đến viện Di Hồng.

Tập Nhân đương ở dưới thềm, đứng tựa bao lan hóng mát, thấy Tương Vân đến, vội vàng ra đón, dắt tay nhau cười nói hàn huyên, rồi vào nhà mời ngồi. Bảo Ngọc liền nói:

- Em nên sang sớm là phải, anh có một cái đẹp lắm, chỉ để chờ em thôi!

Nói xong sờ vào người một lúc rồi kêu "Ái chà" một tiếng, hỏi Tập Nhân:

- Cái ấy của tôi, chị cất có phải không?

- Cái gì kia chứ?

- Con kỳ lân lấy được hôm trước ấy mà.

- Ngày nào cậu cũng đeo luôn trong mình, lại còn hỏi tôi?

Bảo Ngọc vỗ tay một cái nói:

- Thôi, tôi đánh rơi mất rồi, tìm ở đâu được bây giờ?

Rồi đứng dậy chực đi tìm.

Tương Vân nghe thấy thế, biết là của Bảo Ngọc đánh rơi, cười nói:

- Anh có con kỳ lân ấy từ bao giờ?

- Hôm nọ tình cờ người ta cho tôi, nhưng không biết đánh rơi ở đâu và từ lúc nào? Tôi thực là hồ đồ quá.

Tương Vân cười nói:

- Nó là đồ chơi, mà anh cũng hoảng lên như thế.

Liền đưa con kỳ lân ra cười hỏi:

- Anh xem, có phải con này không?

Bảo Ngọc trông thấy vui mừng khôn xiết.

-----------------------------

(1). Sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ.

Hồi thứ ba mươi hai

Giải bày hết tâm can, Bảo Ngọc đâm ra mê mẩn

Không chịu được sỉ nhục, Kim Xuyến đành phải liều thân

Bảo Ngọc trông thấy con kỳ lân, trong bụng rất vui sướng, giơ tay cầm lấy, cười nói:

- May em nhặt được! Nhưng tại sao em lại nhặt được?

Tương Vân cười nói:

- May mà là cái này, chứ mai sau đánh rơi cái ấn, chả lẽ anh cũng chịu hay sao?

Bảo Ngọc cười nói:

- Mất cái ấn, chỉ là việc thường, chứ mất cái này thì anh thật đáng chết.

Tập Nhân pha nước đem lại mời Tương Vân uống, rồi cười nói:

- Cô ơi, hôm nọ tôi nghe cô có tin mừng lớn.

Tương Vân đỏ mặt, ngoảnh đầu đi phía khác uống nước, không trả lời. Tập Nhân cười nói:

- Bây giờ cô lại đâm ra xấu hổ. Còn nhớ một buổi chiều năm nào, chúng ta ngồi ở gác bên tây nói chuyện với nhau không? Khi ấy cô không thẹn thò gì cả, sao bây giờ cô lại thẹn?

Tương Vân lại đỏ bừng mặt lên gượng cười nói:

- Chị còn nhắc lại việc ấy làm gì! Lúc bấy giờ chúng ta đằm thắm với nhau lắm, sau mẹ tôi chết, nhà tôi dọn đi ở xa, vì thế người ta mới gán chị cho anh Bảo, bây giờ tôi đến đây, chị đối đãi với tôi không còn như trước nữa.

Tập Nhân cũng đỏ mặt lên, cười nói:

- Thôi đi, lúc trước thì một điều chị, hai điều chị, nhờ tôi chải đầu, rửa mặt, lấy cái nọ, chơi cái kia; bây giờ lại làm ra bộ tiểu thư. Cô đã thế, thì tôi còn dám gần gũi sao được?

Tương Vân nói:

- A di đà phật! Oan uổng quá! Tôi mà như thế thì chết ngay lập tức. Chị xem, trời nóng thế này, vừa đến đây, tôi lại thăm chị trước tiên. Chị không tin, thử hỏi con Lũ xem. Khi tôi ở nhà, từng giờ từng phút, không lúc nào không nhắc nhở đến chị?

Tập Nhân và Bảo Ngọc nghe nói, đều cười:

- Nói đùa mà lại cho là thực, cô vẫn còn giữ tính nóng nẩy ấy.

- Chị có biết đâu, cứ nói nhưng câu chọc tức người ta, rồi lại trách người ta nóng tính.

Vừa nói vừa mở cái khăn lụa ra, lấy nhẫn đưa cho Tập Nhân. Tập Nhân cảm ơn mãi, cười nói:

- Hôm nọ cô gửi quà cho các cô bên này, tôi cũng đã được một phần rồi. Hôm nay cô lại thân hành mang nhẫn đến cho tôi, thế mới biết không bao giờ cô quên tôi. Tôi nói thế để thử bụng cô đấy thôi. Cái nhẫn có đáng là bao? Thế đủ biết lòng thực của cô.

Tương Vân hỏi:

- Ai đưa cho chị?

- Cô Bảo đưa cho tôi.

Tương Vân thở dài:

- Thế ra cô Bảo cho chị à? Tôi cứ tưởng là cô Lâm. Khi tôi ở nhà, luôn luôn nghĩ đến các chị em bên này, Không ai tốt bằng Cô Bảo. Tiếc rằng chúng tôi không phải là chị em ruột. Nếu tôi được một người chị ruột như thế, thì có mồ côi cha mẹ cũng không lo.

Nói xong, mắt đỏ hoe. Bảo Ngọc nói:

- Thôi, thôi, đừng nhắc đến chuyện ấy nữa.

Tương Vân nói:

- Nhắc đến chuyện ấy thì sao? Tôi biết bụng anh rồi. Anh chỉ sợ cô Lâm nhà anh nghe thấy, lại tức tối vì tôi chỉ biết khen cô Bảo thôi. Có phải thế không?

Tập Nhân đứng cười khì một tiếng, nói:

- Cô Vân bây giờ lớn lên, bụng dạ thẳng thắn, có gì nói tuột ngay ra.

Bảo Ngọc cười nói:

- Tôi thường bảo mấy chị em các cô thực khó nói chuyện quá, quả là không sai.

Tương Vân nói:

- Thôi xin anh đừng nói nữa, lại làm cho tôi bực mình. Bây giờ trước mặt tôi thì anh nói thế, nhưng khi gặp cô Lâm nhà anh, chẳng biết anh lại tán tụng đến thế nào.

Tập Nhân nói:

- Thôi đừng nói chuyện đùa nữa, tôi có một việc cần nhờ cô

- Việc gì đấy?

- Có một đôi giày, tôi đã cắt vải rồi, nhưng mấy hôm nay người không được khỏe, nên không làm được. Cô có rỗi làm giúp hộ tôi.

- Lạ thật! Nhà chị bao nhiêu là người khéo, biết thêu thùa, biết cắt may, tại sao lại nhờ tôi làm? Công việc của chị nhờ ai mà chả được?

Tập Nhân cười nói:

- Cô lại hồ đồ rồi! Cô vẫn chưa biết à? Những đồ thêu thùa trong nhà này, có phải người biết thêu thùa là làm được đâu!

Tương Vân nghe nói, biết ngay là giày của Bảo Ngọc, cười nói:

- Đã thế thì tôi làm hộ chị. Nhưng có một điều là, có thực của chị thì tôi mới làm, chứ của người khác thì tôi không làm đâu.

- Cô lại khéo giở trò! Tôi là người thế nào mà dám nhờ cô thêu hộ giày. Nói thực với cô, đây không phải là giày của tôi. Nhưng bất cứ của ai, nếu cô làm hộ thì tôi biết ơn cô là đủ rồi.

- Cứ lẽ ra tôi đã làm hộ chị nhiều thứ rồi, bây giờ chắc chị cũng hiểu vì sao tôi không làm hộ.

- Tôi vẫn chưa hiểu gì cả.

- Tôi nghe nói đã có lần mang cái quạt của tôi ra sánh với cái quạt của người ta, rồi tức bực cắt tan ra. Tôi biết, chị lại còn giấu tôi à? Bây giờ chị lại bảo tôi làm, thế ra tôi là đầy tớ các người đấy nhỉ?

Bảo Ngọc cười nói:

- Hôm trước, thực không biết cái đó là của em làm!

Tập Nhân cười:

Cậu ấy thực không biết là của cô làm, đó là tôi nói dối cậu ấy rằng gần đây ở ngoài phố có em bé làm quạt rất khéo, cắt được những kiểu hoa lạ lắm. Tôi lấy một cái đem về xem có đẹp hay không. Cậu ấy tin là thật, đưa cho người này người nọ xem, không ngờ lại làm cô Lâm tức giận, đem cắt ra làm đôi. Sau cậu ấy lại bảo tôi thuê làm một cái khác, tôi mới nói thực là của cô làm. Cậu ấy thấy vậy hối hận không biết chừng nào!

Tương Vân nói:

- Như thế lại càng lạ lắm. Việc gì đến cô Lâm mà cô ấy phải tức. Cô ấy đã biết cắt, chắc cô ấy phải biết làm.

Tập Nhân nói:

Cô ấy không làm đâu. Như thế mà cụ còn sợ cô ấy khó nhọc đấy! Thầy thuốc lại bảo nên tĩnh dưỡng nhiều cho khỏe. Như vậy thì ai còn dám phiền cô ấy làm nữa? Năm ngoái, suốt cả năm cô ấy chỉ làm được có một cái túi hương, giờ đã nửa năm rồi, vẫn chưa thấy đụng đến kim chỉ.

Đương nói thì có người vào trình "Có khách ở phố Hưng Long đến chơi, ông gọi cậu Hai ra tiếp". Bảo Ngọc nghe nói, biết ngay là Giả Vũ Thôn, trong bụng rất khó chịu. Tập Nhân vội đi lấy quần áo. Bảo Ngọc vừa xỏ giày vừa lẩm bẩm: "Đã có ông ngồi tiếp ông ta là đủ rồi, việc gì lần nâo cũng đòi gặp tôi".

Tương Vân phe phẩy cái quạt cười nói:

- Vì anh khéo chiều khách, nên ông mới bảo anh ra tiếp.

- Nào phải ông bảo đâu, chỉ tại cái lão ấy muốn gặp tôi đấy thôi.

- Chủ mà nhã thì khách năng đến chơi, chắc là anh có nhiều điều tốt làm ông ta lưu ý đến, mới muốn gặp anh.

- Thôi, thôi, tôi không dám hứng lấy những cái nhã ấy, chẳng qua tôi là một người tục, tục nhất trong đám tục, không muốn đi lại với hạng người ấy!

- Cái tính ấy vẫn chưa chịu bỏ. Bây giờ anh lớn rồi, dù anh không muốn thi đỗ cử nhân tiến sĩ, thì cũng nên năng gặp gỡ những bậc quan sang, bàn đến bước đường tiến cử để ra gánh vác việc đời, giúp nước giúp dân, nên cần phải có bạn bè qua lại. Chứ quanh năm anh cứ luẩn quẩn với bọn chị em chúng tôi, thì còn làm được trò trống gì nữa?

Bảo Ngọc nghe thấy những câu ấy, trái tai lắm, liền nói:

- Xin mời cô sang ngồi chơi bên nhà khác. Chứ nhà tôi đây thực làm nhơ bẩn đến những người hiểu việc trị nước giúp dân ấy.

Tập Nhân vội nói đỡ

- Thôi, cô đừng nói chuyện với cậu ấy nữa. Kỳ trước cô Bảo cũng có một lần nói đến việc này, cậu ấy không nể mặt, đằng hắng một tiếng rồi xỏ giày đi luôn. Cô Bảo đang nói, thấy cậu ấy bỏ đi, thẹn đỏ mặt lên, không biết nên nói hay đừng. May là cô Bảo, chứ cô Lâm thì chưa biết sinh chuyện đến thế nào, khóc lóc đến thế nào. Nhắc đến chuyện này, người ta phải kính phục cô Bảo, cô ấy ngồi một lúc rồi về. Tôi không đành lòng, cho là cô ấy thế nào cũng giận, không ngờ sau đã lại tử tế như thường, thực là người có độ lượng, bụng dạ rất là rộng rãi. Ai ngờ cậu ấy lại không chơi thân với cô ta! Còn cô Lâm, hễ thây cậu ấy giận là cô ta không cần nhìn đến, dần dần cậu ấy lại phải đến xin lỗi, cứ thế không biết bao nhiêu lần.

Bảo Ngọc nói:

- Cô Lâm có bao giờ nói những câu nhảm ấy đâu? Nếu nói đến thì tôi đã xa cô ấy từ lâu rồi.

Tập Nhân và Tương Vân lắc đầu cười nói:

Những câu ấy mà nhảm à?

Đại Ngọc biết trước là Tương Vân sang chơi thế nào Bảo Ngọc cũng nhắc đến chuyện con kỳ lân, nghĩ bụng: "Gần đây Bảo Ngọc hay xem những chuyện tiểu thuyết, phần nhiều giai nhân, tài tử được gặp nhau là do những đồ chơi lặt vặt, khéo léo xe nên, hoặc là do uyên ương, hoặc là do phượng hoàng, hoặc là vòng ngọc, dây vàng, hoặc là khăn giao(1) dây loan đều nhờ những vật nhỏ ấy mà thỏa được ý nguyện suốt đời". Nay thấy Bảo Ngọc có con kỳ lân, tất sẽ mượn cái ấy mà sinh chuyện, hòng khêu gợi tình tứ với Tương Vân chăng? Vì thế Đại Ngọc lẳng lặng đi đến, tùy cơ để dò xét ý tứ hai người, không ngờ vừa tới nơi, nghe thấy Tương Vân đương nói việc trị nước giúp dân, và nghe Bảo Ngọc trả lời: "Không khi nào cô Lâm lại nói nhưng câu nhảm ấy, nếu nói đến, tôi đã xa cô ấy lâu rồi".

Đại Ngọc nghe vậy, mừng mừng, sợ sợ, tủi tủi, thương thương. Mừng là: mắt mình không nhầm, ngày thường vẫn cho anh ấy là ngưòì tri kỷ, giờ quả thực như vậy. Sợ là: trước mặt người khác, anh ấy vẫn nghĩ đến mình, vẫn khen ngợi mình, đủ biết mối tình nồng nàn không hề e ngại tý gì; tủi là: anh đã là tri kỷ của tôi, thì tất nhiên tôi cũng là tri kỷ của anh. Anh và tôi đã là một đôi tri kỷ, thì tại sao lại còn có chuyện "vàng" với "ngọc". Mà dù có chuyện "vàng ngọc" thì vàng ngọc ấy đáng lẽ là của anh và của tôi, chứ tại sao lại còn có cô Bảo Thoa nữa? Thương là: cha mẹ mất sớm, dù có những lời ghi lòng tạc dạ, nhưng không có ai tác thành cho ta. Vả chăng, gần đây đã chớm có bệnh, tinh thần hoảng hốt. Thầy thuốc bảo: "Khí suy huyết kém, sợ rồi sinh ra chứng lao". Tôi dù là tri kỷ của anh, nhưng sợ không thể chờ lâu được. Anh dù là tri kỷ của tôi, nhưng tôi bạc mệnh thì làm thế nào? Nghĩ đến nông nỗi ấy, Đại Ngọc không cầm nổi nước mắt; muốn đi vào để gặp nhau, nhưng lại nghĩ hơi trẽn, đành gạt nước mắt quay về.

Bảo Ngọc vội vàng mặc quần áo rồi đi ra, thấy Đại Ngọc lững thững đi trước, hình như đương gạt nước mắt, liền chạy ngay đến, cười hỏi:

- Em ơi, đi đâu đấy? Làm sao lại khóc? Lại ai có lỗi với em thế?

Đại Ngọc quay lại thấy Bảo Ngọc, liền gượng cười nói:

- Em có khóc đâu.

- Em xem, nước mắt chưa ráo, lại còn nói dối à!

Vừa nói, Bảo Ngọc vừa giơ tay lên lau nước mắt hộ, Đại Ngọc vội lùi lại mấy bước nói:

- Anh lại muốn chết đấy! Làm trò gì mà ngứa ngáy chân tay như thế?

- Mải nói chuyện quá anh quên hẳn đi, tay tự nhiên ngứa ngáy, không nghĩ gì đến sống hay chết cả.

- Chết thì đáng kể gì, chỉ có điều là phải bỏ lại vàng, và con kỳ lân nào đó, thì làm thế nào!

Câu ấy làm cho Bảo Ngọc phát cáu, vội chạy đến hỏi:

- Em nói không câu này, là rủa tôi hay là chọc tức tôi?

Đại Ngọc nghĩ ngay đến việc hôm trước, hối hận mình đã trót nông nổi, liền cười nói:

- Anh đừng cáu vội, em nói lỡ lời đấy. Câu ấy có can hệ gì đâu? Thế mà mắt đã nổi gân lên, mồ hôi đã toát ra.

Vừa nói vừa đến gần giơ tay lau mồ hôi cho Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc nhìn một lúc rồi nói:

- Em hãy cứ yên tâm.

Đại Ngọc ngẩn người ra một lúc rồi nói:

- Có việc gì mà em không yên tâm? Em không hiểu câu nói của anh. Anh nói lại xem thế nào là yên tâm với không yên tâm?

Bảo Ngọc thở dài một cái hỏi:

- Quả thực em không hiểu câu ấy à? Không lẽ lòng anh gắn bó với em từ bấy lâu nay đều là nhầm cả hay sao? Ngay đến tính nết của em, anh cũng không biết chiều chuộng, chả trách ngày nào em cũng vì anh đâm ra bực tức.

Đại Ngọc nói:

- Quả thực em không hiểu câu nói yên tâm hay không yên tâm.

Bảo Ngọc lắc đầu thở dài:

- Thôi em đừng giấu anh nữa. Nếu quả thực em không hiểu câu ấy, thì không những uống cả tấm lòng của anh bấy lâu nay, mà phụ cả tâm lòng của em đối với anh nữa. Chỉ vì em không yên tâm, thành ra đau ốm luôn. Nếu em được khoan khoái một chút, thì bệnh đến nỗi nào ngày càng nặng như thế.

Đại Ngọc nghe nói, người choáng lên như sấm ran sét đánh, ngẫm nghĩ từng ly từng tí, mới biết câu nói ấy rất thấm thía, hơn là moi tự trong gan trong ruột mình ra, có hàng vạn câu muốn nói, nhưng không nói ra được nửa lời, chỉ cứ trừng trừng nhìn Bảo Ngọc. Bấy giờ trong bụng Bảo Ngọc cũng có hàng vạn câu muốn nói, nhưng không biết bắt đầu từ câu gì, nên cũng trừng trừng nhìn Đại Ngọc. Hai người đứng đờ người ra một lúc, rồi Đại Ngọc ho một tiếng, nước mắt ròng ròng, quay đầu chực chạy. Bảo Ngọc vội kéo lại nói:

- Em ơi, đứng lại một tí, để anh nói một câu đã rồi hãy đi.

Đại Ngọc gạt nước mắt, đẩy tay Bảo Ngọc ra nói:

- Còn có câu gì đáng nói nữa? Những câu anh muốn nói em biết cả rồi.

Nói xong cắm đầu chạy ngay.

Bảo Ngọc vẫn cứ đứng ngẩn người ra nhìn. Lúc ra đi, Bảo Ngọc vội quá, nên không mang quạt. Tập Nhân sợ trời nóng, cầm quạt đuổi theo, thấy Đại Ngọc đứng đấy một lúc; Đại Ngọc đi, còn trơ Bảo Ngọc ở đấy, Tập Nhân vội chạy lại nói:

- Cậu quên không mang quạt, may tôi trông thấy, mang lại cho cậu.

Bảo Ngọc đương thờ thẫn vẩn vơ, nghe tiếng Tập Nhân, cũng không nhận ra được là ai, chỉ đờ mặt ra nói: "Em ơi! Nỗi lòng của anh lâu nay không dám nói ra, bây giờ anh cả gan nói ra, dù chết anh cũng cam lòng! Vì em mà anh đeo bệnh, nhưng đành cứ chịu, không dám nói với ai. Chỉ khi nào em khỏi bệnh, thì may ra bệnh anh mới khỏi được. Cả trong giấc ngủ mơ màng, anh cũng không bao giờ quên được em!"

Tập Nhân nghe nói, sợ hoảng hồn kêu to "Trời giết tôi!" Vội đẩy Bảo Ngọc ra nói:

- Cậu nói gì thế? Bị ma làm hay sao? Còn không đi à?

Bảo Ngọc tỉnh lại, mới biết là Tập Nhân, thẹn đỏ mặt lên, nhưng người vẫn ngớ ngẩn, liền cầm lấy cái quạt đi luôn, không nói câu gì.

Bảo Ngọc đi rồi, Tập Nhân ngẫm nghĩ lời nói vừa qua, tất là vì Đại Ngọc mà thốt ra, xem thế thì sau này e xảy việc không hay, làm cho người ta đáng ghê, đáng sợ. Biết tính thế nào để tránh khỏi cái tai vạ xấu xa này?

Tập Nhân đang đứng ngẩn người ra suy nghĩ, chợt Bảo Thoa ở đường kia đi đến cười nói:

- Trời nắng chang chang thế này mà chị đứng bêu ra đấy làm gì?

Tập Nhân vội cười nói:

- Có hai con chim sẻ đánh nhau, trông thấy cũng hay hay, nên tôi đứng xem.

Bảo Thoa nói:

- Cậu Bảo vừa mặc quần áo đi đâu thế? Tôi muốn gọi lại hỏi, nhưng thấy cậu ấy cứ cuống cuồng lên, nói chẳng ra đầu ra cuối, nên tôi cũng không hỏi, để mặc cậu ấy đi.

- Ông tôi gọi cậu ấy đấy.

- Ái chà! Trời nắng thế này, gọi cậu ấy đến làm gì? Lại quở phạt điều gì chăng?

- Không phải thế, nghe đâu có khách nào muốn gặp cậu ấy đấy.

- Cái ông khách nào chả có ý tứ gì cả, trời nắng thế này không ở nhà cho mát, lại đâm đầu đến đây làm gì?

- Cô cũng nói thế ư?

- Con bé Vân ở trong nhà các chị làm gì đấy?

- Cô ấy với chúng tôi vừa ngồi nói chuyện phiếm với nhau. Cô xem, đôi giày của tôi dán hôm trước, ngày mai sẽ nhờ cô ấy làm hộ.

Bảo Thoa nghe vậy, nhìn chung quanh không có ai, mới cười nói:

- Chị là người sáng suốt, thế mà sao có lúc không thể tất cho người ta? Gần đây tôi xem thần sắc, cử chỉ và lời ăn tiếng nói nửa kín nửa hở của cô ấy, biết rằng ở nhà cô ấy không được tự chủ tý nào! Nhà cô ấy sợ tiêu pha tốn kém, nên không thuê người may vá, hầu hết mọi cái đều tự tay người dì cô ta làm lấy cả. Mấy lần sang đây, hễ vắng người là cô ta lại kể với tôi về việc cửa việc nhà, làm lụng mệt chết đi được. Tôi hỏi đến chuyện chi tiêu trong nhà thế nào, thì mắt cô ấy đỏ hoe lên, miệng ấp úng, nói không ra lời. Xem tình cảnh cô ấy mồ côi mẹ từ bé, tất nhiên là chịu khổ. Trông thấy cô ấy, tự nhiên bụng tôi lại thấy đau xót!

Tập Nhân nghe vậy, vỗ tay nói:

- Phải rồi! Phải rồi! Thảo nào tháng trước tôi nhờ cô ấy đánh hộ mười cái dây con bướm. Mấy hôm sau, cô ấy mới cho người mang sang, và nói: "Hãy dùng tạm những thứ dây thô này, chờ khi nào thong thả, tôi sang ở luôn bên ấy, sẽ làm thứ khác đẹp hơn". Giờ nghe cô nói, tôi mới nghĩ ra những việc chúng tôi nhờ trước đây, cô ấy đều không tiện từ chối. Nhưng có biết đâu cô ấy ở nhà cũng phải làm lụng vất vả, thâu canh suốt sáng như thế! Thực là tôi hồ đồ thực, chứ biết thế này thì tôi không dám nhờ cô ấy mới phải.

- Lần trước cô ấy có nói với tôi, ở nhà phải làm việc khuya đến tận canh ba; nếu làm hộ ai một tí gì thì bọn các bà các mợ bên ấy lại có vẻ không bằng lòng.

- Khốn nỗi cái cậu bướng bỉnh nhà ta, bất cứ việc lớn hay nhỏ, nhất thiết không để cho người trong nhà làm, mà tôi thì lại không làm xuể.

- Mặc cậu ấy! Cứ bảo người khác rồi nói dối mình làm là được.

- Giấu thế nào được. Cậu ấy nhận ra ngay. Thôi để tôi làm dần vậy.

- Thôi, chị đừng ngại, để đấy tôi làm hộ cho một ít cũng được.

- Thật thế chứ? Nếu vậy thì phúc cho tôi quá! Chiều hôm nay tôi sẽ mang đến nhờ cô.

Nói chưa dứt lời, chợt có một bà già chạy đến báo:

- Tin đâu đưa đến bất ngờ! Kim Xuyến tự dưng đâm đầu xuống giếng chết rồi!

Tập Nhân giật mình vội hỏi:

- Kim Xuyến nào đấy?

- Lại còn Kim Xuyến nào nữa? Kim Xuyến ở hầu bà Hai ấy. Hôm trước không biết vì việc gì nó bị đuổi; về nhà kêu trời kêu đất, khóc hết nước mắt, cũng không ai để ý đến. Rồi cũng chẳng ai để ý nó đi đâu, sau có người gánh nước nói: "Ở cái giếng đằng đông nam, có xác người chết". Tôi chạy đi nhờ người vớt lên, không ngờ lại là nó! Họ nháo lên chữa chạy, nhưng có ăn thua gì!

Bảo Thoa nói:

- Lạ nhỉ.

Tập Nhân lắc đầu thở dài, nghĩ đến ngày thường cùng chung cảnh ngộ, tự nhiên nước mắt trào ra. Bảo Thoa tất tưởi chạy sang bên Vương phu nhân. Tập Nhân thì quay về nhà.

Bảo Thoa đến buồng Vương phu nhân, thấy im lặng như tờ, Vương phu nhân đương ngồi một mình, sụt sùi khóc ở trong buồng. Bảo Thoa không tiện gợi ra nữa, đành ngồi ghé một bên. Vương phu nhân hỏi:

- Cháu ở đâu đến đây?

- Cháu ở bên vườn sang.

- Nếu ở vườn sang, có gặp em Bảo không?

- Cháu mới trông thấy cậu ấy mặc quần áo đi ra, không biết đi đâu!

Vương phu nhân lắc đầu thở dài:

- Cháu có biết mới xảy ra một việc lạ không? Con Kim Xuyến tự nhiên đâm đầu xuống giếng chết rồi.

- Tự nhiên vô cớ, sao chị ấy lại đâm đầu xuống giếng? Lạ nhỉ?

- Hôm nọ nó đánh vỡ của ta một cái đồ dùng, ta nóng tiết đánh nó vài cái, rồi đuổi nó đi. Ta chỉ định làm ra thế mấy hôm rồi lại gọi nó về, không ngờ nó phẫn chí đâm đầu xuống giếng chết. Thế không phải tội lỗi ta hay sao?

Bảo Thoa cười nói:

- Dì là người nhân từ, nên nghĩ như thế. Chứ cháu đoán thì không phải nó tức bực mà đâm đầu xuống giếng đâu, có lẽ nó đứng gần, hay đùa nghịch gì ở bên giếng, sểnh chân bị ngã chăng? Nó ở nhà này bị bó buộc quen rồi, bây giờ được ra ngoài, tất là đi chơi đùa các nơi cho thích, chứ đến nỗi nào tức khí như thế. Nếu vì tức khí mà liều lĩnh, thì chẳng qua là hạng hồ đồ, không đáng tiếc làm gì?

Vương phu nhân lắc đầu thở dài:

- Dù sao trong bụng ta vẫn không yên được!

Bảo Thoa cười nói:

- Xin dì đừng nghĩ ngợi quá đến việc này; nếu không đành dạ, thì cho họ mấy lạng bạc để tống táng nó, thế là trọn tình chủ nhà đối với người ở rồi.

Vương phu nhân nói:

- Vừa rồi ta đã đưa cho mẹ nó năm mươi lạng bạc. Ta còn muốn cho thêm hai cái quần áo mới của chị em cháu, để khâm liệm cho nó, nhưng chị Phượng nói không có bộ nào mới may, chỉ có cháu Lâm có hai bộ để mặc ngày lễ sinh nhật. Ta xem ra, cháu Lâm ngày thường vốn hay tự lự; vả chăng bản mệnh nó lại có nhiều tai nạn, đã cho nó làm lễ sinh nhật, giờ đem làm đồ khâm liệm cho người khác, lại chẳng đáng kiêng hay sao? Vì thế ta đã cho gọi thợ may đến may một bộ áo mới cho nó. Nếu là đứa hầu khác, thì chỉ cho nó vài lạng bạc là đủ. Con Kim Xuyến tuy là đứa hầu, nhưng ngày thường nó vẫn ở gần gụi ta, so với con đẻ, cùng chả kém gì mấy.

Nói đến đây, nước mắt bà ta lại trào ra. Bảo Thoa vội nói:

- Dì cũng chẳng cần gì phải gọi thợ đến may nữa. Trước cháu có may hai bộ, mang ra cho nó, chả đỡ hay sao? Vả lại khi nó còn sống vẫn thường mặc quần áo cũ của cháu, kích thước cũng vừa vặn.

- Dù thế mặc lòng, nhưng cháu không kiêng hay sao?

- Xin dì cứ yên lòng, cháu không bao giờ để ý đến chuyện ấy.

Vừa nói vừa đứng dậy đi. Vương phu nhân liền sai người đi theo.

Một lúc, Bảo Thoa mang quần áo đến, thấy Bảo Ngọc ngồi cạnh Vương phu nhân, nước mắt giàn giụa, đương nghe Vương phu nhân giảng giải điều gì. Thấy Bảo Thoa đến, liền thôi không nói nữa. Trước tình cảnh ấy, Bảo Thoa xét lời nói, xem nét mặt, đã hiểu được phần nào rồi. Vương phu nhân gọi mẹ Kim Xuyến đến, đưa cho bọc quần áo mang về.

----------------------------------

(1). Theo sách thuật dị: có một giống người ở dưới biển như cá (giao nhân), dệt ra được thứ lụa đẹp, gọi là lụa giao.

Hồi thứ ba mươi ba

Coi anh như thù, giọng lưỡi ton hót

Đẻ con bất hiếu, roi vọt dập vùi

Vương phu nhân gọi mẹ Kim Xuyến đến, cho mấy cái trâm vòng và bảo mời sư đến đọc kinh siêu độ cho nó. Mẹ Kim Xuyến cúi đầu tạ ơn đi ra.

Khi Bảo Ngọc tiếp Vũ Thôn xong trở về, nghe tin Kim Xuyến xấu hổ tự vẫn, lòng rất đau xót, vừa bước vào cửa, lại bị Vương phu nhân quở trách một trận, không trả lời được câu nào. Chợt thấy Bảo Thoa đi vào, Bảo Ngọc nhân dịp lẻn ra ngoài, thờ thẫn không biết đi đâu, cứ tay chắp sau lưng, đầu cúi gầm, miệng than thở, lững thững đi ra phòng khách. Vừa qua tấm bình phong, Bảo Ngọc đâm phải một người từ ngoài bước vào. Người kia quát to "Đứng lại", Bảo Ngọc giật nảy mình, ngẩng đầu lên nhìn, té ra là Giả Chính. Bảo Ngọc lạnh hẳn người đi, đành chắp tay đứng bên cạnh.

Giả Chính nói:

- Mày làm sao mà cúi đầu ủ rũ như vậy? Vừa rồi ông Vũ Thôn đến chơi, muốn gặp mày, gọi mãi mày mới chịu đến. Khi đến thì ăn nói toàn là những chuyện vụn vặt, nhỏ nhặt,không có một chút khoát đạt lưu loát nào. Tao xem mày vẻ mặt lúc nào cũng đầy rẫy những lo phiền, tình dục. Bây giờ làm gì mày lại than dài thở ngắn? Như thế này vẫn chưa được đủ, chưa được hả dạ hay sao?

Bảo Ngọc vốn tay lém lỉnh. Nhưng vì lúc này thương nhớ Kim Xuyến quá, đang băn khoăn không thể chết theo nó được nên cha quở mắng thế nào cũng mặc, cứ đứng đờ người ra.

Giả Chính đáng ra cũng không bực. Nhưng thấy Bảo Ngọc sợ quá, ăn nói khác hẳn ngày thường, nên đã nổi giận đôi phần. Giữa lúc ấy có người gác cửa vào trình:

- Có người bên phủ Trung Thuận Thân Vương xin vào hầu cụ lớn.

Giả Chính nghe nói, trong bụng nghi hoặc: "Xưa nay ta không hề chơi bời với phủ Trung Thuận, tại sao hôm nay lại có người đến đây?" Vừa nghĩ vừa bảo mời vào ngồi trong nhà khách. Ông ta vội vào nhà trong thay áo, rồi ra tiếp, té ra là quan trưởng phủ ở phủ Trung Thuận. Hai bên chào nhau xong, ngồi uống nước trà. Chưa kịp chuyện trò gì, thì quan trưởng phủ đã nói ngay:

- Không phải hạ quan này dám đường đột đến qúi phủ. Hôm nay tới đây là theo lệnh trên, xin phiền ngài vì Vương gia chúng tôi mà giúp cho, không những Vương gia chúng tôi được nhờ ơn, ngay cả bọn hạ quan chúng tôi cũng cảm tạ khôn xiết.

Giả Chính nghe nói, nghĩ mãi không biết chuyện gì, vội đứng dậy cười hỏi:

- Ngài đã thừa lệnh đức Vương đến đây, nếu có việc gì, cứ truyền rõ cho, chúng tôi xin tuân lệnh.

Quan trướng phủ cười nhạt:

- Không phải làm gì cả, chỉ xin ngài nói cho một câu là xong. Trong phủ chúng tôi có một con hát đóng vai nữ tên là Kỳ quan, mấy hôm nay không thấy về, cho đi tìm cũng không thây nó ở đâu. Chúng tôi phải cho người đi dò các nơi. Ở trong thành mười người thì tám người nói: Gần đây nó chơi thân với cậu em ngậm ngọc ở đây. Vì tôn phủ không phải như các nhà thường, nên không dám thiện tiện đến bắt. Bởi vậy hạ quan phải vào trình đức Vương. Ngài nói: "Con hát khác mất trăm đứa cũng không cần, nhưng tên Kỳ quan này là người cẩn thận, chắc chắn, biết lựa dịp ứng đáp, rất hợp ý già này, không thể nào bỏ nó được". Vì thế, chúng tôi đến nhờ ngài bảo cậu Hai cho tên Kỳ quan về, để thỏa lòng Vương gia chúng tôi thiết tha mong đợi, và chúng tôi cũng đỡ phải đi tìm vất vả.

Nói xong, hắn liền vái một cái.

Giả Chính nghe nói, vừa sợ vừa giận, liền cho gọi Bảo Ngọc, Bảo Ngọc không biết là việc gì, vội chạy ra ngay.

Giả Chính hỏi:

- Thằng đáng chết kia! Mày ở nhà đã không chịu học hành thì thôi, lại còn dám càn bậy, làm những việc trái phép à? Tên Kỳ quan là người hầu thân của đức vua Trung Thuận. Mày là hạng người hèn hạ, dám quyến rũ nó, làm vạ lây đến ta!

Bảo Ngọc nghe nói giật mình, vội thưa:

- Thực con không biết việc này! Ngay hai chữ "kỳ quan" con cũng chẳng hiểu là cái gì, huống chi lại buộc cho con tiếng quyến rũ nữa.

Nói xong rồi khóc.

Giả Chính chưa kịp nói câu gì, quan trưởng phủ cười nhạt:

- Thôi, cậu đừng chối quanh nữa, cậu giấu nó ở nhà, hay biết nó ở đâu, xin cứ nói ra, để chúng tôi đỡ phải vất vả lại không cảm ơn cậu lắm hay sao?

Bảo Ngọc nói:

- Thực tôi không biết gì cả. Hay là người ta đồn bậy, cũng chưa biết chừng.

Quan trưởng phủ cười nhạt:

- Hiện có chứng cớ, sao cậu cứ cãi quanh. Trước mặt cụ lớn, tôi nói ra, tất cậu bị quở phạt. Bảo rằng không biết người ấy thì cái dây lưng đỏ của nó sao lại ở người cậu?

Bảo Ngọc nghe nói câu ấy, hồn vía lên mây, mắt trợn lên, mồm đờ ra, trong bụng nghĩ: "Sao hắn lại biết cả những việc rất kín của mình. Thế thì việc khác cũng không tài nào giấu được. Chi bằng ta nói quanh cho hắn về, để khỏi tiết lộ những chuyện khác". Liền nói:

- Ngài đã biết đầu đuôi việc Kỳ quan, nhưng có việc lớn là nó mua nhà, sao ngài lại không biết? Tôi nghe nói hình như nó về Tử Đàn bảo, ở phía đông giao, cách thành độ hai mươi dặm gì ấy. Nó có mua mấy mẫu ruộng và làm mấy gian nhà ở đấy. Có lẽ nó về đấy cũng nên.

Quang trưởng phủ cười nói:

- Thế thì nhất định nó về đấy rồi, để tôi đi tìm xem. Nếu thấy thì thôi, bằng không, tôi lại đến phiền cậu.

Nói xong hắn vội vàng đi.

Giả Chính nghe xong, tức quá, mắt trợn lên, mồm xệch ra, vừa tiễn viên quan trưởng phủ ra, vừa ngoái lại quát Bảo Ngọc: "Không được đi đâu! Trở về tao sẽ bảo mày!" Đưa viên quan kia ra rồi, Giả Chính quay về, thấy Giả Hoàn dẫn mấy tên hầu nhỏ rối rít chạy đến. Giả Chính quát:

- Đánh chết những đứa kia đi cho tao!

Giả Hoàn trông thấy cha, sợ quá, run lên cầm cập, vội chạy lại, đứng cúi đầu. Giả Chính hỏi:

- Mày chạy đi đâu? Những người theo hầu đâu cả, sao không ai trông nom nó, để nó chạy nhông như ngựa thế này?

Rồi ông ta thét lên:

- Những đứa dẫn mày đi học chạy đâu cả?

Giả Hoàn thấy cha giận quá, nhân dịp nói:

- Con có chạy đâu, chỉ vì khi đi qua bên giếng, thấy một a hoàn chết đuối, con xem người ấy đầu sao mà to thế, người sao mà lớn thế!

Giả hình nghe vậy, giật mình, nghĩ bụng "Vô cớ mà ai lại đâm đầu xuống giếng thế? Nhà ta từ đời ông đời cha đều cư xử rộng rãi, nhân từ với kẻ dưới, có bao giờ xảy ra việc thế này? Có lẽ gần đây vì ta lười nhác, không trông nom việc nhà, để bọn người nhà lộng quyền giở lối cay nghiệt, đến nỗi xảy ra tai vạ, liều mình tự vẫn. Nếu người ngoài biết thì tiếng tăm ông cha mình còn ra làm sao nữa". Rồi ông ta quát: "Gọi Giả Liễn và Lại Đại đến đây!"

Bọn hầu bé vâng lời định đi, thì Giả Hoàn vội đến nắm lấy áo Giả Chính rồi qùi xuống nói:

- Xin cha hãy bớt giận. Việc này trừ những người ở trong nhà mẹ con ra, thì không ai biết một tí gì. Con nghe đẻ con nói...

Nói đến đấy, nó liền trông ra xung quanh. Giả Chính biết ý, lừ mắt nhìn đám hầu bé. Đám hầu đều vội lui ra bên ngoài.

Giả Hoàn nói khẽ:

- Đẻ con nói: "Hôm nọ anh Bảo ở nhà mẹ con, kéo chị a hoàn là Kim Xuyến định cưỡng gian nhưng không được, rồi đánh chị ấy một trận, chị ấy tức quá đâm đầu xuống giếng chết!"

Chưa nghe dứt lời, Giả Chính giận quá, mặt xám lại, quát to: "Lôi thằng Bảo Ngọc đến đây!" Ông ta vừa nói vừa chạy vào thư phòng, quát lên:

- Hôm nay ai còn đến ngăn, thì ta sẽ mang hết cả mũ áo, cân đai và gia tài giao cho người ấy với thằng Bảo Ngọc. Ta đành chịu là người có tội, cạo trọc mớ tóc phiền não này đi, tìm đến nơi thanh vắng để khỏi nhục đến tiền nhân, vì đã đẻ đứa con ngỗ nghịch này!

Những môn khách và người hầu thấy Giả Chính như thế, biết ngay là vì ông ta giận Bảo Ngọc, nên ai nấy đều trợn mắt lè lưỡi, chạy đi ra ngoài cả. Giả Chính thở hồng hộc, ngồi ưỡn người trên cái ghế tựa, nước mắt giàn giụa, quát lên mấy tiếng: "Lôi thằng Bảo ra đây! Mang thừng gậy ra đây! Đóng hết cả các cửa lại! Hễ đứa nào mà báo tin cho nhà trong biết, thì ta đánh chết ngay lập tức!"

Bọn người hầu thấy vậy, đành phải vâng lời đứng yên. Có mấy người chạy đi bắt Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc thấy Giả Chính truyền phải đứng yên không được chạy, lại thêm Giả Hoàn nói chêm vào mấy câu, biết ngay là có chuyện dữ. Bảo Ngọc đi loanh quanh ở ngoài hiên, muốn nhờ người vào báo tin cho nhà trong, nhưng không gặp ai cả. Ngay Bồi Dính cũng không biết đi biệt đâu mất. Đương lúc ngóng chờ, thì có một bà già đến, Bảo Ngọc mừng như bắt được của báu, liền chạy lại kéo bà già nói:

- Bà chạy ngay về nói: ông sắp đánh tôi đấy! Việc rất cần, bà về báo ngay cho tôi một tiếng!

Một đằng thì Bảo Ngọc vội quá, nói không được rõ ràng; một đằng thì bà già lại điếc đặc, không nghe rõ là nói gì, nên câu: "Nói ngay một tiếng" bà ta lại nghe ra "Nhảy ngay xuống giếng", liền cười nói:

- Nó nhảy xuống giếng thì thây kệ nó, chứ việc gì đến cậu mà phải sợ?

Bảo Ngọc thấy bà ấy điếc, liền cáu lên:

- Bà ra gọi một đứa hầu nhỏ của tôi đến đây mau lên!

Bà già nói:

- Việc gì mà chẳng yên? Đã thu xếp xong cả rồi. Bà Hai lại cho nó quần áo, cho nó tiền bạc, còn gì mà chẳng yên?

Bảo Ngọc đương lúc cấp bách không biết làm thế nào, thì bọn người hầu của Giả Chính vào giục đi ra ngay. Giả Chính trông thấy Bảo Ngọc, mắt đỏ ngầu lên, không kịp hỏi đến những tội, như đi ra ngoài thì đùa bỡn bọn chèo hát, trao tặng của riêng, ở trong nhà thì bỏ học hành, cưỡng gian đầy tớ gái của mẹ, chỉ thét: "Khóa miệng nó lại, đánh cho chết đi!"

Bọn người hầu không dám trái lệnh, đành phải dằn Bảo Ngọc xuống cái ghế dài, cầm gậy to, đánh độ mười cái. Bảo Ngọc biết rằng mình có van cũng chẳng tha nào, đành khóc rống lên. Giả Chính cho là đánh khẽ quá, đá thằng cầm gậy, rồi giật lấy gậy, đánh thật mạnh mấy cái.

Bảo Ngọc xưa nay chưa từng chịu đau đớn như thế bao giờ, lúc đầu còn biết đau, khóc ầm lên; đến sau hơi thở dần dần yếu đi, kêu không ra tiếng. Những môn khách thấy thế, sợ xảy ra chuyện không hay, liền chạy cả đến khuyên ngăn. Nhưng Giả Chính khi nào chịu nghe? Ông ta nói:

- Các người hỏi xem những việc nó làm có đáng tha hay không? Tội ở các người ngày thường cứ hay nuông nó để nó hư hỏng thế này, lại còn đến khuyên ngăn à. Mai đây nó phạm tội giết cha giết vua, thì các người còn can vào lối nào?

Mọi người thấy câu nói dữ ấy, biết là Giả Chính bực lắm rồi, liền nhao lên đi tìm người vào báo nhà trong.

Vương phu nhân nghe nói, không kịp đến trình Giả mẫu, liền mặc áo, bất chấp có người hay không, vịn vào một a hoàn xăm xăm chạy thẳng vào thư phòng. Bọn môn khách và người hầu đều tránh không kịp.

Giả Chính đương muốn đánh nữa, thấy Vương phu nhân đến, cơn giận lại càng như lửa cháy đổ dầu thêm. Cái gậy cứ lia lịa vụt xuống càng nhanh càng mạnh. Hai đứa đè Bảo Ngọc vội buông tay ra. Bảo Ngọc đã nằm sóng sượt, không cựa quậy được nữa.

Giả Chính còn muốn đánh nữa, nhưng bị Vương phu nhân giữ gậy lại. Giả Chính nói:

- Thôi! Thôi! Hôm nay lại làm cho ta tức đến chết mới thôi đây!

Vương phu nhân khóc nói:

Thằng Bảo đáng đánh thực, nhưng ông cũng nên giữ lấy sức khỏe. Trời nóng nực, cụ lại đương khó ở; đánh chết thằng Bảo Ngọc là việc nhỏ, nếu cụ lo nghĩ sinh ốm, thì chẳng hóa ra việc to hay sao?

Giả Chính cười nhạt:

- Thôi đừng nói những câu ấy nữa. Đẻ ra cái giống ác nghiệt này, thì tôi cũng mang tội bất hiếu rồi! Ngày thường hễ tôi quở phạt nó lần nào, là y như có người đến bênh nó. Chi bằng nhân ngày hôm nay kết liễu cái đời thằng chó chết này đi để khỏi tai vạ về sau.

Nói xong ông ta định lấy thừng thắt cổ Bảo Ngọc cho chết đi.

Vương phu nhân liền ôm lấy Bảo Ngọc khóc:

- Đã đành ông lo dạy con, nhưng cũng nên nghĩ đến tình vợ chồng một chút. Nay tôi đã năm mươi tuổi đầu, chỉ có một mụn tội nợ này thôi, nếu đánh nó để răn dạy, thì tôi không dám can ngăn. Nhưng ông định đánh chết nó, thì chẳng hóa ra ông cố tình đoạn tuyệt đời tôi hay sao? Ông định thắt cổ cho nó chết, thì hãy thắt cổ tôi trước, mẹ con tôi không dám oán trách nửa lời, để khi chết xuống âm ty, mẹ con tôi sẽ nương tựa nhau.

Nói xong, bà ta ôm lấy Bảo Ngọc khóc ầm lên.

Giả Chính thở dài, vào ghế ngồi, nước mắt nhỏ xuống như mưa. Vương phu nhân thấy Bảo Ngọc mặt nhợt hẳn, hơi đã yếu đi. Cái quần đùi xanh mặc trong người đẫm cả máu, khi cởi thắt lưng ra, thấy từ mông xuống đùi, chỗ thâm chỗ tím, chỗ thì nổi cục, chỗ thì toạc thịt ra, chẳng còn tý nào nguyên vẹn cả. Bà ta bất giác òa khóc to và kêu lên:

- Đứa con xấu số này.

Nhân câu "Đứa con xấu số" bà ta lại nhớ ngay đến Giả Châu, liền gọi ngay tên Giả Châu lên khóc và nói:

- Nếu con còn sống, thì dù chết một trăm đứa con khác ta cũng không cần!

Thấy Vương phu nhân đi ra, Lý Hoàn, Phượng Thư và chị em Nghênh Xuân, Thám Xuân đều chạy đến; nghe thấy Vương phu nhân khóc và gọi tên Giả Châu, người khác không sao, chứ Lý Hoàn thì nhịn làm sao được, chị ta cũng sụt sùi thổn thức khóc theo. Giả Chính thấy thế, lại nước mắt ròng ròng chảy xuống. đương lúc nhốn nhao, thì a hoàn vào trình: "Cụ đã đến". Nói chưa dứt lời, đã nghe ở ngoài cửa sổ có tiếng nói run run:

- Đánh chết ta trước đã, rồi hãy đánh chết nó, thế là yên chuyện!

Giả Chính thấy mẹ sang, vừa hoảng sợ vừa thương xót, vội chạy ra đón. Giả mẫu vịn vào một a hoàn đi đến, đầu lắc lư, hơi thở hổn hển. Giả Chính đến gần, cúi đầu cười nói:

- Trời đương nóng nực thế này, mẹ có việc gì, cứ gọi con đến truyền bảo, cần gì phải thân hành đến đây?

Giả mẫu nghe nói, liền đứng lại thở một lúc rồi quát ầm lên:

- Thế ra anh cũng thèm nới chuyện với tôi à! Tôi có câu chuyện muốn nói, nhưng đời tôi không đẻ được người con nào khác, còn bảo tôi nói với ai bây giờ?

Giả Chính nghe câu nới khác hẳn ngày thường, liền rưng rưng nước mắt quì xuống:

- Con sở dĩ phải dạy dỗ nó, là vì muốn làm rạng vẻ ông cha; giờ mẹ nói thế thì con chịu sao nổi?

Giả mẫu nghe nói nhổ toẹt một cái nói:

- Ta mới nói có một câu, anh đã không chịu được, thế thì anh vác gậy đánh vùi đánh dập thằng Bảo như thế kia, liệu nó có chịu được không? Anh nói rằng anh dạy dỗ con cái để làm rạng vẻ ông cha thế thì ngày trước cha anh đã dạy anh như thế nào?

Nói xong, tự nhiên nước mắt ròng ròng, Giả Chính gượng cười nói:

- Xin mẹ đừng thương cảm làm gì, chỉ vì lúc nãy con nóng tính quá. Từ giờ trở đi con không dám đánh nó nữa.

Giả mẫu cười nhạt:

- Anh không cần giận lây với tôi. Nó là con anh, muốn đánh thế nào anh cứ đánh. Chắc rằng mẹ con bà cháu chúng tôi ở đây chỉ làm phiền anh thôi, chi bằng xa anh ra là hết chuyện.

Nói xong liền sai người: "Sắp sẵn kiệu, ta cùng bà mày và thằng Bảo đi về Nam Kinh ngay"... Người nhà đành phải vâng lời.

Giả mẫu bảo Vương phu nhân:

- Chị không nên khóc lắm. Bây giờ thằng Bảo nó còn bé, thì chị thương nó. Sau nó lớn lên, ra làm ông nọ ông kia, chưa chắc nó đã nhớ đến công lao chị đứt ruột đẻ ra nó đâu. Bây giờ chị không thương nó, sau sẽ bớt được sự bực tức cũng chưa biết chừng.

Giả Chính nghe vậy, vội cúi đầu nói:

- Mẹ nói câu ấy thì con không còn có chỗ nào mà đứng ở trên đời này nữa.

- Rõ ràng anh làm cho ta không còn có chỗ nào đứng, mà lại còn đổ lỗi cho ta? Chỉ có cách là chúng ta đi hẳn, thì anh sẽ được rảnh rang, chả còn ai dám ngăn cấm anh đánh nó nữa!

Giả mẫu bảo người hầu: "Sắm sửa ngay hành lý và xe kiệu để ta đi". Giả Chính liền quỳ rạp xuống, cúi đầu lạy.

Giả mẫu đến xem Bảo Ngọc, thấy lần này Bảo Ngọc bị đòn đau quá, không như những lần trước. Vừa thương cháu, vừa giận con, Giả mẫu khóc mãi không thôi. Vương phu nhân cùng Phượng Thư khuyên giải hồi lâu, mới nguôi dần, không khóc nữa.

Bọn a hoàn, vú bõ chạy đến chực kéo Bảo Ngọc dậy. Phượng Thư mắng:

- Bọn mày khéo hồ đồ! Sao không mở mắt ra mà nhìn. Người như thế, dìu đi sao được. Hãy về mang cái ghế mây dài đến đây!

Mọi người nghe nói, vội chạy đi mang cái ghế dài đến, đặt Bảo Ngọc nằm xuống, theo Giả mẫu và Vương phu nhân đưa về nhà Giả mẫu.

Giả Chính thấy Giả mẫu chưa nguôi cơn giận, không dám tự tiện bỏ về, cũng đi theo luôn. Thấy Bảo Ngọc bị đánh đau quá. Vương phu nhân cứ kêu con luôn miệng và nói: "Nếu mày chết đi cho anh Châu mày sống, thì bố mày không đến nỗi tức giận thế này, và cũng không uổng tấm lòng tao suốt nửa đời người. Bây giờ mày có mệnh hệ nào, bỏ tao ở lại một mình, thì tao biết trông cậy vào đâu. Thằng ngu đần này!"

Bà ta cứ kêu rồi lại khóc, khóc rồi lại kêu. Giả Chính nghe vậy, lòng càng chán ngán, hối hận rằng lẽ ra mình không nên đánh quá tay như thế. Trước hết đến khuyên Giả mẫu. Giả mẫu rưng rưng nước mắt nói:

- Con hư thì phải dạy, nhưng anh không nên đánh nó đến thế! Anh không đi đi, còn đứng ở đây làm gì? Hay là anh chưa vừa lòng, còn muốn cho nó chết hẳn thì mới hả lòng hả dạ hay sao?

Giả Chính nghe nói, vâng lời đi ra.

Tiết phu nhân, Bảo Thoa, Hương Lăng, Tập Nhân và Tương Vân cũng đều chạy lại. Tập Nhân trong lòng đau xót, nhưng không tiện nói ra, thấy mọi người quây lấy Bảo Ngọc, người thì đổ nước, người thì quạt hầu, còn mình chẳng biết chen tay vào đâu, liền ra ngoài, sai đưa hầu nhỏ đi tìm Bồi Dính đến hỏi:

- Đang yên đang lành, chẳng có chuyện gì, tại sao lại bị đánh đau như thế, mà mày không về báo tin ngay?

- Tôi cũng không ở đấy. Khi đánh đến nửa chừng, tôi mới biết tin, vội đến hỏi nguyên do, thì ra vì việc con hát Kỳ quan và việc chị Kim Xuyến.

- Tại sao ông lại biết những việc ấy?

- Việc con hát Kỳ quan có thể là cậu Tiết ngày thường hay ghen tuông, không làm cách nào hả giận được, nên đã xúi giục người nào đến ton hót ông. Còn việc chị Kim Xuyến thì cậu Ba nói ra. Tôi nghe người hầu ông nói thế.

Tập Nhân nghe hai việc này gần khớp như nhau, trong lòng đã tin đến tám chín phần, liền quay trở về, thấy mọi người đang xúm lại chữa cho Bảo Ngọc. Công việc xong xuôi, Giả mẫu sai người khiêng Bảo Ngọc cẩn thận về nhà. Ai nấy vâng lời, ba chân bốn cẳng, khiêng Bảo Ngọc về viện Di Hồng, đặt nằm yên ở trên giường. Rối rít một lúc lâu, rồi kéo nhau vế. Bấy giờ Tập Nhân mới đến hầu và căn vặn hỏi han cặn kẽ câu chuyện.

Hồi thứ ba mươi bốn

Mối tình ngồn ngang, thấy tình cô em càng thêm thấm thía

Lỗi lầm chồng chất, lấy lầm khuyên anh xiết nỗi buồn rầu

Giả mẫu và Vương phu nhân đi rồi, Tập Nhân chạy đến bên cạnh Bảo Ngọc, nhỏ nước mắt hỏi:

- Tại làm sao mà cậu bị đánh đau đến thế?

Bảo Ngọc thở dài:

- Hỏi làm gì nữa? Chẳng qua cũng vì những việc ấy thôi! Nửa mình tôi đau lắm, chị thử xem đánh vào những chỗ nào.

Tập Nhân khẽ luồn tay cởi cái quần lót ra, mới chạm vào người một tý, Bảo Ngọc đã nghiến răng kêu "Đau". Tập Nhân vội dừng tay lại, mãi ba bốn lần mới cởi ra được. Nhìn thấy nửa mông trên có những vết lằn nổi lên rộng bằng bốn ngón tay, vừa thâm vừa tím, Tập Nhân nghiến răng nói:

- Mẹ ơi! Làm sao mà lại đánh ác quá thế? Ngày thường cậu nghe lời tôi, thì đâu đến nỗi này. May không chạm đến gân cốt, chứ thành tật thì còn làm ăn gì.

Tập Nhân đương nói thì a hoàn vào báo "Cô Bảo đến", Tập Nhân biết là không kịp mặc quần lót, liền lấy ngay cái chăn giải giường đắp lên cho Bảo Ngọc. Bảo Thoa tay cầm viên thuốc đi vào, đưa cho Tập Nhân:

- Chiều hôm nay chị lấy rượu mài viên thuốc này bôi cho cậu ấy, để tan những máu ứ đi, sẽ chóng khỏi đấy.

Bảo Thoa lại quay sang hỏi Bảo Ngọc:

- Bây giờ cậu đã khá chưa?

Bảo Ngọc cảm ơn nói:

- Đã hơi khá, mời chị ngồi.

Bảo Thoa thấy Bảo Ngọc mở mắt ra nói chuyện, đã khá hơn lúc nãy, trong bụng cũng đỡ lo, chỉ lắc đầu thở dài:

- Nếu cậu sớm chịu nghe lời mọi người thì đâu đến nỗi như ngày hôm nay? Chả cứ cụ và dì mà ngay chúng tôi trông thấy cũng phải đau lòng.

Bảo Thoa nói được nửa chừng thì nín hẳn lại, hối hận không nghĩ kỹ, tự nhiên má đỏ lên, đầu cúi xuống, không nói nữa. Nghe những lời thân mật, có ngụ ý sâu xa, lại thấy Bảo Thoa nín bặt không nói, má đỏ, đầu cúi xuống, tay mân mê dải áo, có dáng e lệ thẹn thò, không thể nào hình dung hết được, Bảo Ngọc trong lòng càng thêm cảm động, bao nhiêu đau đớn hình như đã trút sạch ra ngoài chín tầng mây. Bụng nghĩ: "Ta chẳng qua bị đánh có vài cái, thế mà chị em ai cung tỏ vẻ thương xót, thật là đáng thân, đáng kính! Nếu một ngày kia ta có mệnh hệ nào, thì không biết họ thương cảm đến đâu! Họ đối với ta thật tử tế như thế, dù ta có chết ngay, được họ thương tiếc nhường này, thì sự nghiệp cả đời ta có trôi ra bể đông, cũng không đáng tiếc. Trong chốn u minh, nếu không thư thái tâm tình thì thật là con quỷ hồ đồ!" Lại thấy Bảo Thoa hỏi Tập Nhân:

- Tại sao ông tự dưng đâm giận mà đánh cậu ấy như thế?

Tập Nhân liền kể cho Bảo Thoa nghe những câu Bồi Dính nói lúc nãy. Bảo Ngọc vẫn chưa biết Giả Hoàn nói xấu mình, thấy Tập Nhân nói, lại vương cả đến Tiết Bàn. Sợ Bảo Thoa chạm lòng, Bảo Ngọc gạt lời Tập Nhân, và nói:

- Anh Tiết không khi nào lại thế, các chị đừng nên đoán bậy.

Bảo Thoa biết ngay là Bảo Ngọc sợ mình không đành dạ, nên dùng lời ngăn Tập Nhân đi. Trong bụng nghĩ thầm: "Anh ấy bị đánh như thế, lại không nghĩ gì đến đau đớn, vẫn còn quá cẩn thận, sợ mang lỗi với người ta. Thật là anh đã hết sức giữ gìn đối với chúng tôi. Nhưng sao anh không lo đến những việc lớn ở ngoài, để ông được vui lòng, thì đến nỗi nào bị đòn như thế. Anh sợ tôi chạnh lòng nên ngắt lời chị Tập Nhân, nhưng tôi còn lạ gì tính nết anh tôi xưa nay là người ngông cuồng, phóng đãng, không một chút dè chừng hay sao? Ngày trước vì việc Tần Chung đã xảy ra những chuyện long trời lở đất. Bây giờ câu chuyện này càng ghê gớm hơn nhiều". Bảo Thoa nghĩ vậy, cười nói:

- Chúng ta cũng không nên oán trách người này người khác, cứ ý tôi thì vì anh Bảo xưa nay thường hay chơi bời với những người ấy, nên ông mới nổi giận. Dầu anh Tiết tôi là người ăn nói không biết giữ gìn, buột miệng nói ra việc của anh Bảo, cũng không phải là có ý bới móc đâu: một là vì câu chuyện có thực, hai là vì anh tôi không hay nghĩ đến những chuyện dè chứng nhỏ nhặt. Chị Tập Nhân từ bé đến giờ chỉ biết có anh Bảo là người giữ gìn cẩn thận thôi, chứ anh tôi thì coi trời bằng vung, hễ bụng nghĩ gì, là nói tuột ra.

Tập Nhân thấy Bảo Ngọc gạt câu chuyện Tiết Bàn đi, biết ngay là mình nói hớ, sợ Bảo Thoa buồn rầu; sau thấy Bảo Thoa nói thế, lại đâm ra xấu hổ, không biết nói gì. Bảo Ngọc nghe Bảo Thoa nói vừa đường hoàng, thẳng thắn, lại gỡ được lòng hoài nghi của mình, trong người càng rạo rực. Đương muốn nói nữa, bỗng thấy Bảo Thoa đứng dậy nói:

- Ngày mai tôi sẽ lại thăm, anh cố tĩnh dưỡng đi. Vừa rồi tôi đưa viên thuốc cho chị Tập Nhân, đến chiều bôi đi thì sẽ bớt đấy.

Nói xong đi ra. Tập Nhân theo đến ngoài sân nói:

- Phiền cô quá. Hôm nào cậu Bảo khỏi, sẽ sang tận nơi cám ơn.

Bảo Thoa quay lại cười nói:

- Có gì đâu? Chị cứ khuyên anh ấy tĩnh dưỡng, đừng nghĩ ngợi lan man, sẽ chóng khỏi ngay. Anh ấy muốn ăn cái gì chơi cái gì thì cứ khẽ sai người sang bên tôi mà lấy, chả cần để cho cụ và dì tôi cùng mọi người biết nữa. Nếu đến tai dượng tôi thì dù việc chẳng can gì, nhưng sau lỡ xảy chuyện e không hay đấy.

Nói xong rồi đi.

Tập Nhân quay về, trong bụng rất cảm ơn Bảo Thoa.

Khi vào nhà, trông thấy Bảo Ngọc có dáng im lặng, trầm ngâm, giở thức giở ngủ, Tập Nhân bèn ra ngoài buồng rửa mặt chải đầu. Bảo Ngọc nằm thiếp trên giường, mông đau như kim châm, dao cắt, người nóng như lửa đốt, hễ cựa quậy một tý, là phải kêu lên mới chịu được. Bấy giờ trời sắp chiều, Tập Nhân đi ra, trong nhà chỉ có vài ba a hoàn đứng hầu, không có việc gì đáng sai, Bảo Ngọc liền bảo:

- Các cô hãy đi ra ngoài rửa ráy, khi nào tôi gọi sẽ đến.

Mọi người đều đi ra.

Bảo Ngọc đương nằm mê man, thấy Tưởng Ngọc Hàm tiến vào, kể việc phủ Trung Thuận tìm bắt hắn. Một chốc lại thấy Kim Xuyến đến khóc lóc, kể lể vì tại cậu mà tôi phải đâm đầu xuống giếng. Bảo Ngọc nửa tỉnh nửa mê, không để ý đến. Đương lúc bàng hoàng hoảng hốt, chợt có người lay dậy, nghe những tiếng khóc lóc thảm thương, Bảo Ngọc giật mình thức tỉnh giương mắt nhìn, thì không phải người nào xa lạ mà chính là Đại Ngọc. Ngỡ là mình nằm mê, Bảo Ngọc vội vươn người lên nhìn chòng chọc vào tận mặt người kia, thì thấy hai mắt sưng bằng hai quả nhót, nước mắt giàn giụa trên mặt, không phải Đại Ngọc thì còn là ai? Bảo Ngọc muốn nhìn nữa, nhưng vì nửa người phía dưới đau quá không thể chịu nổi, liền kêu "Ối chào" một tiếng, rồi lại nằm vật xuống, thở dài và nói:

- Em lại đến đây làm gì? Mặt trời mới lặn, đất hãy còn nóng, nếu bị cảm nắng, thì làm thế nào? Anh bị đòn, không đau lắm đâu. Anh giả cách làm ra thế này để đánh lừa họ đồn đại đến tai ông đấy thôi, em đừng tin là thực.

Bấy giờ Đại Ngọc khóc không ra tiếng, cứ nức nở sụt sùi càng thêm não ruột. Bảo Ngọc nói xong, Đại Ngọc lòng càng ngổn ngang trăm mối, nghẹn ngào không nói ra lời, lúc lâu mới ngập ngừng:

- Từ rày anh nên chừa đi nhé!

Bảo Ngọc thở dài một tiếng:

- Em cứ yên tâm, đừng nói nữa. Anh có vì những người ấy mà chết đi, thì cũng cam lòng.

Chợt người ngoài vào báo: "Mợ Hai đến đấy". Đại Ngọc biết ngay là Phượng Thư đến, vội đứng dậy nói:

- Tôi ra sân sau đây, chốc nữa sẽ đến.

Bảo Ngọc kéo Đại Ngọc lại nói:

- Ấy mới lạ chứ, việc gì mà sợ chị ấy?

Đại Ngọc giậm chân khẽ nói:

- Anh trông mắt tôi đây này! Rồi họ mang chúng ta ra làm trò cười đấy.

Bảo Ngọc vội buông tay ra. Đại Ngọc liền rảo cẳng đi quanh sau giường, vừa ra đến sân sau, thì Phượng Thư đã ở ngoài bước vào, hỏi Bảo Ngọc "Đã khá chưa? Muốn ăn gì thì bảo người sang bên chị mà lấy". Tiếp đó là Tiết phu nhân đến. Một chốc Giả mẫu lại sai người đến.

Mãi lúc lên đèn, Bảo Ngọc chỉ húp hai ngụm cháo rồi mê mẩn nằm thiếp đi. Sau đó bọn vợ Chu Thụy, vợ Ngô Tân Đăng và vợ Trịnh Hảo Thời, mấy người già này xưa nay vẫn năng lui tới, nghe tin Bảo Ngọc bị đòn, họ đều đến thăm. Tập Nhân vội ra đón và khẽ cười nói:

- Các thím đến hơi chậm, cậu ấy đã ngủ rồi.

Liền dắt bọn họ sang nhà bên ngồi, pha nước mời uống. Mấy bà này lẳng lặng ngồi một lúc, rồi nói với Tập Nhân:

- Lúc nào cậu dậy, chị nói hộ, chúng tôi sang thăm.

Tập Nhân nhận lời đưa họ đi ra, vừa quay vào thì Vương phu nhân sai một bà già sang nói:

- Gọi một người nào hầu cậu Hai sang cho bà hỏi.

Tập Nhân nghĩ một lúc, rồi quay lại khẽ bảo bọn Tình Văn, Xạ Nguyệt, Đàn Vân và Thu Văn:

- Bà gọi đấy, các em ở nhà hầu hạ cẩn thận nhé, chị đi một tí rồi về.

Nói xong, Tập Nhân cùng bà già ra khỏi vườn, đi lên nhà trên.

Vương phu nhân đương ngồi trên giường phe phẩy cái quạt ba tiêu, trông thấy Tập Nhân đến, liền bảo:

- Con bảo ai sang chả được, lại bỏ nó mà đi, thì ai hầu hạ nó.Tập Nhân cười nói:

- Cậu ấy vừa mới ngủ, mấy a hoàn bên nhà bây giờ đã biết hầu rồi, xin bà cứ yên lòng. Con nghĩ bà có việc gì cần dặn bảo, nếu sai bọn họ sang, sợ nghe không hiểu lại lỡ mất việc.

- Cũng không có việc gì, chỉ hỏi giờ nó đau ra làm sao thôi.

- Cô Bảo đưa thuốc sang, con xoa cho cậu ấy, thấy đã khá hơn. Trước đau lắm, nằm không yên, giờ đã ngủ được.

- Nó đã ăn gì chưa?

- Cụ vừa cho một bát cháo, cậu ấy húp được hai ngụm, thì kêu khát lắm, đòi uống nước mơ. Con sợ nước mơ là thứ hay thu vào, mà cậu ấy vừa bị đánh, lại không cho kêu, e rằng máu nhiệt đọng ở trong tim, nếu uống, trong bụng cồn cào, bệnh sẽ nặng thêm thì làm thế nào? Vì thế con ngăn mãi cậu ấy mới chịu thôi, chỉ hòa một ít nước quả mai khôi canh đặc với nước đường, uống được nửa chén nhỏ, lại bảo chán, không thơm không ngọt gì cả.

- Ối chà! Sao con chẳng nói sớm cho ta biết? Hôm nọ có người biếu mấy chai nước thơm, ta định cho nó một ít, nhưng sợ nó làm phí của, nên không cho. Giờ nó đã chán không muốn uống nước mai khôi thì con mang hai chai này về, cứ lấy độ một thìa con pha vào một bát nước thì thơm lừng lên.

Nói xong, liền gọi Thái Vân đem mấy chai nước móc thơm hôm nọ ra, Tập Nhân nói:

- Chỉ xin hai chai thôi, nhiều sợ bỏ đi phí của. Khi nào dùng hết, sẽ lại sang xin.

Thái Vân đi một chốc, mang hai chai đến đưa cho Tập Nhân. Tập Nhân nhìn thấy hai chai pha lê chừng ba tấc, trêncó nút bạc xoáy trôn ốc, dán giấy vàng, một chai đề chữ: "Mộc tê thanh lộ"(1), một chai đề chữ "Mai khôi thanh lộ"(2). Tập Nhân cười nói:

- Thứ này chắc quý lắm! Chai nhỏ thế thì chứa được bao nhiêu?

- Thứ đem tiến vua đấy. Con không thấy dán giấy vàng ở trên nút à? Phải cất đi cẩn thận cho nó, không được bỏ phí của.

Tập Nhân vâng lời, sắp đi ra, Vương phu nhân lại gọi:

- Hãy đứng lại, ta sực nhớ điều này muốn hỏi con!

Tập Nhân vội quay lại. Vương phu nhân thấy trong buồng không có ai, liền hỏi:

- Ta nghe đâu thằng Hoàn ton hót gì với ông, nên thằng Bảo bị đòn, có phải thế không? Có gì con cho ta biết, ta không nói lộ với ai đâu.

- Con không nghe thấy điều ấy bao giờ, hình như cậu Hai giấu một người con hát của tước Vương nào ấy, người ta đến trình với ông, nên cậu ấy mới phải đòn.

Vương phu nhân lắc đầu nói:

- Việc ấy đã đành rồi, lại còn việc khác nữa kia.

- Việc khác thì con không biết. Bây giờ trước mặt bà, con xin cả gan nói thẳng, cứ lẽ ra thì...

Tập Nhân nói nửa chừng rồi lại nín bặt, Vương phu nhân nói:

- Có gì con cứ nói ra.

- Xin bà đừng giận con mới dám nói.

- Con cứ nói, ta giận cái gì.

- Đúng ra thì cậu Bảo cần phải có ông dạy bảo luôn mới được; nếu người không trông nom đến, thì không biết chừng sau này cậu ấy sẽ còn gây ra nhiều chuyện.

Vương phu nhân nghe vậy, liền chắp tay niệm Phật, chợt gọi Tập Nhân:

- Con ơi! Con nói đúng đấy, ta cũng nghĩ thế; thực ra, có phải ta không biết dạy con đâu! Khi trước anh Châu mày còn sống, ta dạy bảo nó như thế nào, lẽ nào bây giờ ta lại không biết dạy bảo thằng Bảo. Nhưng có một điều này: bây giờ ta đã năm mươi tuổi đầu rồi, chỉ có một mình nó, từ bé đến giờ, nó lại ốm yếu luôn. Cụ lại quý nó như vàng như ngọc, nếu dạy bảo nhiều quá, lỡ xảy ra điều gì, cụ sẽ buồn rầu, trong nhà đâm ra lủng củng, thì lại càng không hay nữa. Vì thế ta nuông chiều nó. Không ngờ đâm ra hư hỏng. Ta thường lựa lời dạy bảo khuyên can, có khi đến khóc, nhưng nó cũng chỉ nghe được một lúc thôi, rồi đâu lại hoàn đây, nên mới xảy ra nông nỗi này. Nếu nó bị đánh chết, thì mai sau ta còn trông cậy vào ai nữa!

Nói xong nước mắt lại ròng ròng nhỏ xuống.

Tập Nhân thấy Vương phu nhân đau khổ như thế, trong bụng buồn rầu, nước mắt cũng rơi lã chã:

- Cậu Hai là con đẻ của bà, khi nào bà lại không thương? Chúng con là kẻ dưới hầu hạ lâu nay, nếu được mọi sự yên ổn, thật là phúc lớn. Chứ cứ như thế này, thì làm sao cho yên bề hầu hạ được. Ngày nào giờ nào con chẳng khuyên ngăn cậu ấy! Nhưng khuyên ngăn mãi cậu ấy vẫn không tỉnh ngộ. Lại có những hạng người cứ hay thậm thụt với cậu ấy, chẳng trách được cậu ấy đến nỗi thế này. Chúng con khuyên ngăn mãi cũng không tiện, bây giờ bà nhắc đến, con lại nhớ ra một việc, muốn trình bà xem người định đoạt ra sao; nếu bà có bụng ngờ, thì không những lời con nói không ăn thua gì, mà ngay con chết cũng không có chỗ chôn.

Vương phu nhân nghe câu nói có ý tứ, liền hỏi:

- Con ơi, có điều gì con cứ nói thẳng ra. Lâu nay ta thấy mọi người xung quanh ai cũng khen con. Ta vẫn cho là con chẳng qua chăm lo hầu hạ Bảo Ngọc, hòa nhã với mọi người, thế thôi. Ngờ đâu những câu con nói vừa đây, đều là việc lớn, rất hợp ý ta. Vậy con có điều gì, cứ nói thẳng ra, miễn là đừng để cho người ngoài biết là được.

- Con chẳng nói điều gì khác cả, con chỉ muốn bà tìm cách nào cho cậu ấy dọn ngay ra ở ngoài, không ở trong vườn nữa là xong chuyện.

Vương phu nhân nghe nói, giật nẩy mình, vội kéo tay Tập Nhân hỏi:

- Không lẽ thằng Bảo Ngọc đã giở trò bậy gì với ai chăng?

- Làm gì có chuyện ấy! Xin bà đừng quá nghĩ, đó chẳng qua là ý riêng của con đấy thôi. Bây giờ cậu Hai đã lớn rồi, các cô ở trong ấy cũng đã lớn cả, vả chăng cô Lâm và cô Bảo lại chỗ chị em con cô, con dì. Kể ra là chỗ chị em đấy, nhưng đằng la con gái, đằng là con trai, ngày đêm cùng ở một chỗ, đi đứng không tiện, lẽ nào chẳng làm cho người ta phải lo lắng, lỡ ra có ai nhìn thấy, thì họ có cho là việc trong nhà đâu. Tục ngữ có câu: "Phải nghĩ trước khi có việc". Trên đời biết bao việc bất trắc xảy ra, phần nhiều là do mình vô tình, nhưng người ngoài họ để ý, lại cho là mình định tâm làm như vậy, rồi đem đi nói xấu. Vì vậy không đề phòng nhất định không được. Vả lại ngày thường tính nết cậu Hai thế nào, bà cũng đã biết cả rồi: cậu ấy cứ thích chơi đùa với bọn chúng con. Nếu không phòng ngừa trước đi, lỡ xảy ra sai lầm gì, không cứ việc thực hay hư, hễ nhiều người thì tất nhiên lắm chuyện. Những kẻ xấu bụng xấu dạ, họ có kiêng nể ai. Hễ bằng lòng ra thì khen tốt hơn đức Phật, không bằng lòng thì họ chê bai không bằng giống súc vật. Sau này có ai nói tốt cậu Hai thì mọi người cũng chỉ chợp mắt bỏ qua thôi, nếu như có người nới xấu cậu ấy một câu, thì chúng con dù có tan xương nát thịt, tội nặng muôn vàn, cũng chỉ là việc nhỏ, nhưng tiếng tăm, phẩm cách suốt đời của cậu ấy, chẳng hóa ra mất hết hay sao? Lúc bấy giờ, trước mặt ông nhà, bà cũng khó nói. Tục ngữ có câu: "Quân tử phòng thân", chi bằng phòng ngừa ngay từ giờ là hơn. Bà bận việc, cố nhiên không có thì giờ nghĩ đến những chuyện ấy. Chúng con không nghĩ đến thì thôi, chứ đã nghĩ ra mà không trình bà biết thì tội càng nặng. Con lâu nay vì việc này mà ngày đêm áy náy, không dám nói với ai. Chỉ có ngọn thần đăng chứng tỏ nỗi lòng mà thôi.

Vương phu nhân nghe nói như sét đánh bên tai, chạnh nhớ đến việc Kim Xuyến, trong bụng càng yêu quý Tập Nhân, liền cười nói:

- Con ơi, con có lòng chăm lo chu tất thế, ta há lại chẳng nghĩ đến hay sao? Nhưng vì bấy lâu bận việc, ta quên mất. Những câu nói hôm nay làm ta tỉnh ngộ. Con nghĩ thật chu đáo giữ trọn thanh danh cho mẹ con ta, ta không ngờ con lại tốt như vậy. Thôi con hãy về đi, ta sẽ liệu cách. Nhưng có một điều này, con đã nói như thế, thì ta sẽ giao thằng Bảo cho con, lúc nào con cũng phải để ý trông nom giữ gìn nó, tức là con giữ gìn ta đấy. Chắc chắn là ta không phụ công con đâu.

Tập Nhân luôn luôn vâng lời. Về đến nhà, thấy Bảo Ngọc dậy, Tập Nhân bèn kể lại chuyện bà cho hai chai nước thơm. Bảo Ngọc mừng lắm, lập tức sai pha ra uống, thấy thơm tho lạ thường. Trong bụng nhớ ngay Đại Ngọc, Bảo Ngọc muốn sai người đi mời, nhưng lại sợ Tập Nhân ngăn lại, liền tìm cách sai Tập Nhân sang nhà Bảo Thoa mượn sách.

Tập Nhân đi rồi, Bảo Ngọc liền gọi Tình Văn đến bảo:

- Chị sang bên cô Lâm xem cô ấy làm gì? Nếu cô ấy hỏi thì bảo tôi đã khá rồi.

- Chẳng có việc gì, tự nhiên trơ tráo sang đấy sao tiện? Phải có một chuyện gì cho có việc chứ?

- Chẳng có việc gì đáng nói cả.

- Hoặc bày cách sang cho cái gì, hay sang mượn cái gì, nếu không thì tôi đến đấy biết nói thế nào?

Bảo Ngọc nghĩ một lúc, rồi giơ tay lấy hai cái khăn lụa cũ đưa cho Tình Văn, cười nói:

- Được rồi, chị cứ bảo rằng tôi sai chị đưa cái này cho cô ấy.

- Thế mới lạ chứ. Cô ấy cần hai mảnh khăn lụa dung dúc này làm gì? Chỉ tổ làm cho cô ấy giận, lại bảo cậu đùa cô ấy thôi.

Bảo Ngọc cười nói:

- Chị cứ yên tâm, thế nào cô ấy cũng hiểu.

Tình Văn đành phải cầm lấy khăn lụa, đến quán Tiêu Tương, gặp Xuân Tiêm đương đứng phơi khăn mặt ở ngoài hiên. Thấy Tình Văn đến, Xuân Tiêm vội xua tay nói: "Cô ấy ngủ rồi". Tình Văn đi vào nhà, tối như mực, vẫn chưa thắp đèn, Đại Ngọc nằm ở trên giường, hỏi "Ai đấy?" Tình Văn vội trả lời: "Tình Văn đây". Đại Ngọc hỏi: "Sang làm gì đấy?". Tình Văn nói: "Cậu Hai bảo mang khăn lụa sang cho cô đây".

Đại Ngọc nghe nói, trong bụng đâm ra buồn bực, nghĩ một mình: "đưa khăn lụa sang cho ta để làm gì đây?" Rồi hỏi:

- Khăn lụa này ai cho cậu ấy? Chắc đẹp lắm thì phải. Bảo cậu ấy để dành đưa cho người khác, chứ tôi không cần thứ ấy.

Tình Văn cười nói:

- Đó là khăn lụa cũ thường ngày dùng đấy thôi, không phải khăn mới đâu.

Đại Ngọc nghe nói, càng bực mình, đắn đo một lúc, rồi mới nghĩ ra, liền nói:

- Thôi chị cứ để đấy mà về.

Tình Văn đành để xuống đấy, quay ra về, đi đường ngẫm nghĩ, không hiểu ý tứ ra sao cả.

Đại Ngọc đã hiểu ý Bảo Ngọc cho đưa khăn lụa sang, đâm ra ngơ ngẩn say sưa, nghĩ bụng: bây giờ Bảo Ngọc đã biết thể tất nỗi đau khổ của ta, đã là điều làm cho ta đáng mừng; ta có ý nghĩ vậy, không biết sau này ra sao, đã là điều làm cho ta đáng thương; tự nhiên vô cớ, mang hai mảnh lụa cũ đến, nếu chỉ nhìn hai mảnh lụa mà không hiểu ý sâu xa của ta, đó là điều làm ta đáng cười; còn chuyện sai người lén lút tặng cho ta, đó là điều khiến cho ta đáng sợ; ta cứ hay khóc, nghĩ cũng vô ích, đó là điều làm cho ta đáng xấu hổ". Đại Ngọc nghĩ quanh nghĩ quẩn, tự nhiên đâm ra nóng lòng sốt ruột, trong bụng vẩn vơ, liền bảo thắp đến, rồi không nghĩ đến việc kiêng tránh hiềm nghi, vội vùng dậy mài mực nhúng bút, lấy ngay hai mảnh lụa cũ ra viết:

I

Lệ chan chứa hão, lệ rơi hoài,

Ngấm ngầm vì đâu giọt ngắn dài?

Mảnh lụa giao này ơn biết mấy,

Vì ai khôn xiết nỗi thương ai,

II

Giọt ngọc dòng châu lặng lẽ rơi,

Suốt ngày vơ vẩn suốt ngày rồi?

Gối kia áo nọ lau nào sạch,

Vết ố mầu hoen cũng mặc thôi.

III

Khăn nào lau sạch hết dòng châu,

Dấu cũ sông Tương biết ở đâu.

Sẵn đó trước song, ngàn ngọn trúc,

Ngấn thơm biết có nhuộm thêm mầu?

Đại Ngọc toan viết nữa, nhưng người rạo rực lên, mặt nóng bừng bừng, liền đến chỗ đài gương, mở cái phủ bằng gấm ra soi, thấy mặt đỏ hơn cánh hoa đào, đoán chừng bệnh đã bắt đầu từ đấy. Một lúc lên giường nằm, vẫn còn cầm mảnh lụa đăm đắm suy nghĩ.

Tập Nhân sang đến bên Bảo Thoa thì Bảo Thoa lại sang bên nhà Tiết phu nhân vắng. Tập Nhân về không, đến đầu canh hai, Bảo Thoa mới về.

Bảo Thoa vẫn biết tính nết Tiết Bàn, trong bụng ngờ là hắn xui người đến mách tội Bảo Ngọc; sau khi nghe Tập Nhân nói, lại càng tin lắm. Thực ra, Tập Nhân chỉ nghe Bồi Dính nói, mà Bồi Dính cũng đoán phỏng thôi, chưa có gì là chứng cớ đích xác, nhưng cứ đổ riệt cho hắn.

Tiết Bàn xưa nay vẫn có tiếng ấy, nhưng lần này không phải tự hắn gây nên, trái lại, người ta cứ dựng đứng đổ riệt cho hắn, không sao cãi lại được. Hôm ấy hắn uống rượu ở ngoài phố về, vào chỗ Tiết phu nhân, thấy Bảo Thoa ngồi ở đấy. Hắn nói ba hoa mấy câu, chợt như nhớ đến, liền hỏi:

- Nghe nói Bảo Ngọc bị đòn, là tại làm sao thế?

Tiết phu nhân đang khó chịu về việc này, thấy hắn hỏi, liền nghiến răng nói:

- Giống oan nghiệt, chả biết phải trái gì cả, cứ sinh chuyện ra, lại còn vác mặt đến đây hỏi ta à?

Tiết Bàn thấy thế, tức quá, đứng ngẩn người ra hỏi:

- Tôi sinh chuyện cái gì?

- Mày lại còn giả vờ à? Ai cũng bảo việc ấy do mày xúi bẩy cả.

- Thế thì người ta bảo tôi giết người, mẹ cũng tin à?

- Ngay em mày cũng biết là mày xúi bẩy đấy, chẳng lẽ nó lại đổ oan cho mày sao?

Bảo Thoa vội ngăn lại:

- Mẹ và anh đừng làm ầm lên thế; đen trắng sau này dần dần sẽ rõ.

Rồi quay lại nói với Tiết Bàn:

- Anh có xúi bẩy hay không, việc cũng đã rồi, đừng cãi cọ nữa, kẻo lại bé xé ra to. Em khuyên anh từ nay trở đi đừng làm càn ở ngoài và cũng đừng chọc vào công việc của người ta. Anh xưa nay là người không biết giữ gìn, ngày ngày chơi bời đùa đẫy với bọn họ, không xảy ra việc gì thì thôi, lỡ xảy ra, dù anh không làm, người ta vẫn quàng vào cổ. Chả cứ ai, ngay em cũng phải ngờ!

Tiết Bàn vốn là người bụng thẳng như ruột ngựa, thấy gì thì nói tuột ngay ra. Hắn không nhịn được những chuyện giấu đầu hở đuôi thế nây, lại thấy Bảo Thoa ngăn không nên đi ra ngoài chơi bời, mẹ cho là mình nói bậy, làm Bảo Ngọc bị đòn. Tức quá, hắn hung hăng thề bồi, cố cãi cho ra. Hắn lại mắng sang mọi người: "Đứa nào dám đổ tội cho tôi, tôi sẽ bẻ gãy răng chúng nó! Rõ ràng là nhân câu chuyện Bảo Ngọc bị đòn, chúng nó không biết lấy gì tâng công, mới mang tôi ra làm bung xung! Bảo Ngọc có phải là vua nhà trời chăng? Cha nó mới đánh nó một trận, thế mà cả nhà làm ồn lên đến mấy ngày. Hình như lần này nó có lỗi gì, nên dượng ấy mới đánh mấy roi, không hiểu sao cụ lại biết được, cho là anh Trân mách, rồi gọi anh ấy đến mắng cho một trận. Bây giờ lại quàng vào cho tôi. Tôi không sợ nữa đâu, nhất định tôi đánh chết Bảo Ngọc rồi sẽ đền mạng".

Hắn vừa thét ầm ĩ vừa vác cái chèn cửa chạy đi. Tiết phu nhân sợ quá, lôi Tiết Bàn lại mắng:

- Thằng khốn nạn này muốn chết đấy! Mày định đi đánh ai? Hãy đánh tao trước đã!

Tiết Bàn mắt quắc lên thét nói:

- Vì sao mẹ lại không cho tôi đi? Không dưng sao mẹ lại vu tội cho tôi? Sau này hễ Bảo Ngọc còn sống ngày nào, thì tôi còn phải mang vạ miệng ngày ấy, chi bằng hai đứa đều chết cả, thế là yên chuyện.

Bảo Thoa vội đến can ngăn:

- Anh hãy cố nhịn đi nào! Mẹ giận nói thế, anh chẳng có một lời khuyên ngăn. Không cứ gì mẹ, dù người ngoài đến khuyên anh, cũng là vì có bụng tốt cốt để anh chứa bớt đi thôi!

- Bây giờ mày lại nói thế, chắc là mấy đã mách đấy!

- Anh chỉ biết trách tôi, chứ anh không tự trách anh không biết suy đi xét lại gì cả.

- Mày chỉ trách tao không suy đi xét lại, sao mày không biết trách Bảo Ngọc cứ hay đi ra ngoài giở nhưng trò trêu cợt gió trăng? Chưa kể chuyện khác, hãy nói chuyện Kỳ quan hôm nọ cho mà nghe. Tao đã gặp Kỳ quan hàng mười lần rồi, nó chưa hề nói một câu thân mật với tao; thế mà Bảo Ngọc mới gặp nó có một lần, chưa biết tên nó là gì, đã cho ngay cái thắt lưng rồi. Vậy thì cái việc ấy, có phải tao mách không?

Tiết phu nhân và Bảo Thoa vội nói:

- Lại còn nhắc đến chuyện ấy! Chính vì chuyện ấy mà nó bị đòn đấy! Thế thì chắc là mày mách rồi.

Tiết Bàn nói:

- Thực là tức chết đi được! Buộc tội thế nào tôi cũng chẳng cần, chỉ tức một nỗi vì Bảo Ngọc mà làm nhộn lên, như là trời nghiêng đất lệch ấy?

Bảo Thoa nói:

- Ai làm nhộn lên! Tự anh vác gậy cầm dao lại còn bảo ai!

Tiết Bàn thấy Bảo Thoa nói câu nào cũng có lý hơn là những câu mẹ hắn nói, khó lòng mà cãi lại được; vì thế hắn muốn tìm cách chặn lời Bảo Thoa để không còn ai cãi lại được mình nữa. đương lúc tức giận không kịp đắn đo, hắn nói ngay:

- Em ơi! Thôi đừng cãi nhau với anh nữa. Anh đã biết rõ bụng em rồi. Trước mẹ đã nói với anh: em có cái khóa vàng, muốn chọn người nào có ngọc mới lấy. Em để ý thấy Bảo Ngọc có cái ấy, chẳng trách được bây giờ động một tí là em bênh nó.

Bảo Thoa nghe vậy tức điên người, kéo Tiết phu nhân khóc nói:

- Mẹ ơi! Me có nghe thấy anh ấy nói gì đấy không?

Tiết Bàn thấy em khóc, biết rằng mình nói quá lời, cũng đâm ra giận dỗi về buồng nằm.

Tiết phu nhân cũng rất bực, song lại khuyên Bảo Thoa:

- Ngày thường con vẫn biết thằng súc sinh ấy ăn nói sỗ sàng rồi. Thôi ngày mai mẹ sẽ bảo nó đến xin lỗi con.

Bảo Thoa tức quá, muốn làm thế nào cho hả giận nhưng lại sợ mẹ không yên lòng, nên đành gạt nước mắt trở về nhà, khóc lóc một đêm. Sáng hôm sau, Bảo Thoa trở dậy, không thiết gì rửa mặt chải đầu, vội mặc quần áo sang thăm mẹ. Vừa gặp lúc Đại Ngọc đứng một mình dưới bóng hoa, hỏi đi đâu. Bảo Thoa nói: "Đi về nhà". Nói rồi cắm cổ đi ngay. Đại Ngọc thấy Bảo Thoa có vẻ buồn rầu, mắt như đang khóc, không giống mọi ngày, liền đứng đằng sau cười nói:

- Chị cũng nên giữ mình cẩn thận. Dù có khóc ra hai vò nước mắt, cũng không thể chữa lành được vết đòn đâu!

Bảo Thoa trả lời thế nào, hồi sau sẽ rõ.

-----------------------------

(1). Nước móc pha với quế.

(2). Nước móc pha với nước hoa mai khôi có mùi thơm.

Hồi thứ ba mươi lăm

Ngọc Xuyến được nếm canh lá sen

Oanh Nhi khéo tết dây hoa mai

Bảo Thoa biết rõ là Đại Ngọc đay nghiến mình, nhưng nghĩ đến mẹ và anh, nên cứ đi một mạch không hề quay đầu lại.

Đại Ngọc vẫn đứng ở dưới bóng hoa, xa xa nhìn sang viện Di Hồng, thấy Lý Hoàn, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân và các a hoàn đi hết lớp này đến lớp khác, chỉ vắng có Phượng Thư thôi. Đại Ngọc trong lòng ngờ vực: "Tại sao Phượng Thư không sang thăm Bảo Ngọc? Nếu bận việc gì, cũng nên chạy sang một tý, an ủi mấy câu để lấy lòng bà và mợ mới phải. Không sang, tất có duyên cớ gì đây". Đại Ngọc vừa ngẩng đầu lên nhìn, thấy một đám người ăn mặc lòe loẹt đến: Giả mẫu vịn vào vai Phượng Thư, theo sau là Hình phu nhân, Vương phu nhân, sau nữa là dì Chu, bọn a hoàn và các bà già đang đi vào viện Di Hồng.

Đại Ngọc tự nhiên gật đầu nghĩ ngay đến chỗ còn bố mẹ thì sung sướng gì bằng, thế là nước mắt lại tràn trên mặt. Một lúc, Tiết phu nhân và Bảo Thoa cũng đến. Bỗng Tử Quyên ở đằng sau chạy đến nói:

- Cô ơi! về uống thuốc đi kẻo nguội rồi!

- Mày làm cái trò gì thế, chỉ cứ giục thôi. Tao uống hay không, có việc gì đến mày?

- Cô vừa mới bớt ho đã lại không chịu uống thuốc. Giờ tháng năm, dù trời nắng, nhưng cũng phải cẩn thận mới được. Vừa sáng dậy, không nên đứng lâu chỗ ẩm thấp. Thôi cô nên về nghỉ đi.

Nghe câu nhắc ấy, Đại Ngọc mới thấy chân hơi buôn buốt, đứng ngẩn người ra một lúc, rồi thong thả vịn vào Tử Quyên về quán Tiêu Tương. Đại Ngọc vào đến sân, thấy chỗ nào cũng bóng trúc rườm rà, dấu rêu mờ tỏ, chợt nghĩ câu trong Tây Sương ký:

Rêu xanh lấp lánh sương rơi,

Lối đi vắng vẻ, nào ai ra vào ?

Liền thầm thở dài: "Song Văn tuy mệnh bạc, nhưng còn có mẹ già, em bé, chứ Đại Ngọc này, cả mẹ già, em bé cũng không.

Người xưa có câu: "Hồng nhan bạc phận". Ta chẳng phải là hồng nhan, sao mà bạc phận thế? Đại Ngọc vừa nghĩ vừa đi, không ngờ con anh vũ đậu ở ngoài hiên, trông thấy Đại Ngọc về, liền vỗ cánh kêu lên một tiếng. Đại Ngọc giật mình, nói:

- Mày muốn chết đấy! Vẩy cả bụi lên đầu tao.

Con anh vũ bay ngay lên trên cầu, gọi: "Tuyết Nhạn! Cô về đấy, vén rèm lên".

Đại Ngọc đứng lại, lấy tay gõ vào cái cầu hỏi:

- Đã lấy thêm nước và đồ ăn cho nó chưa?

Con anh vũ thở dài một cái hệt như giọng Đại Ngọc ngày thường than thở, rồi nó đọc ngay câu: "Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ, biết sau ta chết ai là người chôn?" Đại Ngọc và Tử Quyên nghe vậy, cười ầm lên.

Tử Quyên nói:

- Ngày thường cô hay ngâm câu này, thảo nào nó chả nhớ được.

Đại Ngọc liền sai mang cầu xuống, treo vào cái móc ở ngoài cửa sổ hình mặt nguyệt, rồi đi vào trong nhà, ngồi tựa cửa sổ. Uống thuốc xong, thấy bóng trúc bên ngoài chiếu vào màn the, suốt nhà lờ mờ êm dịu, ghế đệm mát lạnh. Không cách giải buồn, Đại Ngọc liền đứng trong cửa sổ, đùa với con anh vũ, rồi đem những thơ từ ngày thường của mình thích, dạy cho nó đọc.

Bảo Thoa về đến nhà, thấy mẹ đương chải đầu. Trông con về, Tiết phu nhân cười hỏi:

- Mới sáng dậy, sao con đến ngay đây làm gì?

- Con sang thăm mẹ xem có được khoẻ không? Hôm qua khi con về rồi, anh con có còn giở trò gì nữa không?

Bảo Thoa vừa nói vừa ngồi ghế bên cạnh mẹ, nức nở khóc, Tiết phu nhân thấy con khóc, cũng khóc theo, rồi khuyên:

- Con ơi, con đừng bực bội nữa, để rồi ta có cách trị nó. Nếu con có thế nào, thì ta còn trông cậy vào ai?

Tiết Bàn ở ngoài nghe thấy, liền chạy vào, đứng trước Bảo Thoa vái luôn mấy cái, rồi nói:

- Em ơi, em tha lỗi cho anh lần này. Hôm qua anh đi uống rượu về muộn, giữa đường gặp lại bạn, về nhà vẫn chưa tỉnh. Ngay anh cũng không biết đã nói nhảm những câu gì, chả trách em giận là phải.

Bảo Thoa đương che mặt khóc, nghe anh nói, bật cười, nhổ xuống đất một cái và nói:

- Thôi anh đừng giở lối phường chèo ấy ra nữa! Tôi biết anh không ưa gì mẹ con tôi, tìm cách làm cho mẹ con tôi xa nhau, thì anh mới thỏa lòng.

Tiết Bàn cười nói:

- Em ơi! Tại sao em lại nói nhưng câu ấy, thì ta sống làm sao được? Xưa nay em không lắm điều, hay nói những câu nhảm nhí kia mà.

Tiết phu nhân nói luôn:

- Mày bảo em mày nói nhảm nhí, thế những câu chiều hôm qua mày nói với nó liệu có nghe được không? Mày đâm mê rồi!

Tiết Bàn nói:

- Thôi, mẹ đừng giận, mà em cũng đừng nên buồn rầu. Từ giờ trở đi, con không đi uống rượu với chúng nó nữa, thế có được không?

Bảo Thoa cười nói:

- Em phân bua câu nói ấy nhé.

Tiết phu nhân nói:

- Mày mà quyết chí như thế thì rồng sẽ đẻ trứng!

Tiết Bàn nói với Bảo Thoa:

- Nếu em còn thấy anh đi uống rượu với chúng nó, thì cứ nhổ vào mặt và gọi anh là giống súc vật, chứ không phải là người, như thế có được không? Có đâu chỉ vì anh mà hai mẹ con ngày nào cũng lo ngay ngáy như vậy! Vì anh mà mẹ phải tức giận thì còn khá; chứ vì anh mà em phải lo nghĩ luôn, thì anh thật không phải là người nữa. Bây giờ cha mất rồi, anh đã không biết hiếu thuận với mẹ, trông nom đến em, lại để mẹ phải tức bực, phải buồn rầu, thì anh thực không bằng giống súc vật!

Nói xong, hắn không cầm được nước mắt.

Tiết phu nhân đã thôi không khóc, giờ nghe thấy hắn nói thế, lại đâm ra đau xót. Bảo Thoa gượng cười nói:

- Anh quấy rối đã chán rồi, bây giờ lại còn làm cho mẹ khóc nữa à!

Tiết Bàn lau nước mắt cười nói:

- Tôi có làm cho mẹ phải khóc bao giờ đâu? Thôi! Thôi! Vứt chuyện ấy đi, không nói nữa, bảo Hương Lăng pha nước cho em uống.

Bảo Thoa nói:

- Tôi không uống nước, chờ mẹ rửa mặt xong, mẹ con tôi sẽ đi đây.

Tiết Bàn nói:

- Cái vòng cổ của em, nên chá lại đi.

- Vàng choáng lên thế kia, còn phải chá lại làm gì nữa?

- Giờ em nên may thêm quần áo, thích màu gì, hoa gì, thì cứ bảo anh.

- Các bộ quần áo này tôi cũng chưa mặc phỉ, lại còn may nữa làm gì?

Một lúc Tiết phu nhân và Bảo Thoa đến vườn thăm Bảo Ngọc. Vào đến viện Di Hồng, thấy ngoài hiên nhà bên có nhiều a hoàn bà già đứng, Tiết phu nhân biết ngay là Giả mẫu đang ở đấy. Hai mẹ con vào chào hỏi mọi ngưòì. Thấy Bảo Ngọc nằm ở trên giường, Tiết phu nhân hỏi: "Đã khá chưa". Bảo Ngọc vội gượng dậy, miệng thưa "đã khá rồi. Cứ để cho dì và chị bận lòng mãi, cháu không đành lòng".

Tiết phu nhân vội đỡ Bảo Ngọc nằm xuống và hỏi:

- Muốn dùng cái gì, thì cứ bảo dì.

Bảo Ngọc cười nói:

- Vâng, hễ cháu cần cái gì, sẽ sang thưa với dì.

Vương phu nhân lại hỏi:

- Con muốn ăn gì, mẹ cho người mang sang.

Bảo Ngọc cười nói:

- Con chẳng muốn ăn gì, chi thích ăn thứ canh lá sen và ngó sen lần trước đã làm, xem chừng ngon hơn cả.

Phượng Thư đứng ngoài cười nói:

- Cả nhà nghe đấy! Những thức chú ấy thích ăn không lấy gì làm quí trọng lắm, chỉ phải tốn công sai bảo nấu nướng thôi. Thế mà chú ấy lại cứ thích ăn những thứ ấy.

Giả mẫu liền giục đi làm ngay! Phượng Thư cười nói:

- Xin bà đừng vội, để cháu nghĩ xem, không biết những cái khuôn ấy ai giữ...

Rồi quay lại bảo bà già đi hỏi nhà bếp. Bà già đi một lúc về trình:

- Nhà bếp nói: "Đã mang nộp cả lên nhà trên rồi".

Phượng Thư nghĩ một lúc rồi nói:

- Tôi cũng nhớ họ đã nộp cả lên rồi, không biết lại giao cho ai giữ? Có thể là đã giao cho phòng trà.

Khi hỏi thì phòng trà cũng không giữ. Cuối cùng lại là người giữ đồ vàng bạc đưa đến.

Tiết phu nhân cầm lấy xem, thì ra cái hộp nhỏ, trong đựng bốn cái khuôn bằng bạc, dài độ hơn một thước, rộng độ một tấc, trên mặt đục những lỗ xấp xỉ như hạt đậu, giống hình hoa cúc, hoa mai, hoặc như tua sen, củ ấu. Tất cả có tới ba bốn mươi thứ rất là tinh xảo. Tiết phu nhân ngoảnh lại phía Giả mẫu và Vương phu nhân cười nói:

- Bên phủ nhà cái gì cũng đẹp tột bậc, ăn một bát canh mà cũng dùng đến không thứ này. Nếu không nói ra, có lẽ tôi trông cũng không hiểu thứ này dùng để làm gì.

Phượng Thư cướp lời nói ngay:

- Cô không biết, đó là đồ sắm sửa để dâng thức ăn lên Quý phi năm trước đấy. Họ nghĩ ra lối này, nhưng không biết in trên mặt thế nào, đành phải mượn mùi thơm mát của lá sen, kỳ thực toàn nhờ chất canh ngon cả. Tôi ăn chẳng thấy thú vị gì. Nhưng đã ai được ăn luôn món này? Chỉ làm có lần ấy thôi, không biết tại sao hôm nay chú Bảo lại nhớ đến.

Nói xong, Phượng Thư cầm lấy hộp ấy đưa cho một bà già dặn bảo nhà bếp lập tức bắt mấy con gà, lại thêm đồ gia vị, nấu mười bát canh mang lên.

Vượng phu nhân nói:

- Sao làm nhiều thế ?

Phượng Thư cười nói:

- Vì thứ này ngày thường không hay làm, bây giờ chú Bảo đã nhắc đến, mà chỉ làm cho một mình chú ấy ăn, không mời cụ, bà dì và mẹ, thì không tiện. Chi bằng nhân tiện làm cho cả nhà ăn, cháu cũng nhờ đấy được nếm món ăn mới lạ.

Giả mẫu cười nói:

- Con khỉ này, mày khéo lắm! Mang tiền công ra để lấy lòng người ta.

Câu ấy làm cho cả nhà cười ầm lên.

Phượng Thư vội cười nói:

- Không can gì, bữa tiệc nhỏ này cháu xin thết.

Rồi quay lại bảo bà già xuống dặn nhà bếp:

- Phải làm cho thật ngon, rồi lĩnh tiền ở sổ chi của ta.

Bà già vâng lời đi ngay.

Bảo Thoa đứng một bên cười nói:

- Tôi đến đây đã mấy năm nay, để ý xem xét, thì chị Hai dù khéo đến đâu, cũng còn kém cụ nhiều.

Giả mẫu liền nói:

- Giờ ta đây già rồi, còn khéo vào đâu nữa? Khi bằng tuổi cháu Phượng, ta hơn nó nhiều. Bây giờ nó tuy không bằng ta lúc thời trẻ, nhưng cũng đã khá hơn dì cháu nhiều. Trông thấy dì cháu thật đáng thương, không biết ăn nói, cứ trơ như khúc gỗ, trước mặt bố mẹ chồng, chả biết ân cần vồn vã gì cả. Còn cháu Phượng thì mồm mép bẻo lẻo, trách nào người ta chả thương?

Bảo Ngọc cười:

- Bà nói thế, thì nhưng người nói năng không khéo, đều không đáng thương à?

Giả mẫu nói:

- Người nói không khéo cũng có chỗ đáng thương; người giọng lưỡi khéo léo mà có chỗ đáng ghét, thì không bằng người không nói khéo còn hơn.

Bảo Ngọc cười nói:

- Thế thì chị cả không hay nói, bà cũng thương như chị Phượng. Nếu chỉ bảo những người khéo nói mới đáng thương, thì đám chị em đây chỉ đáng thương chị Phượng và cô Lâm mà thôi.

Giả mẫu nói:

- Nói đến đám chị em, thì không phải trước mặt dì đây ta nói lấy lòng đâu; cứ thực mà nói, trong bốn đứa cháu gái nhà này, không ai bằng cháu Bảo cả. Tiết phu nhân vội cười nói:

- Cụ lại có chỗ thiên vị rồi.

Vương phu nhân cười nói:

- Không phải cụ nói dối đâu, người thường nói riêng với tôi là cháu Bảo khéo lắm.

Bảo Ngọc định gợi câu chuyện ra, cốt để Giả mẫu khen Đại Ngọc, không ngờ cả nhà lại khen Bảo Thoa, thật là một việc ngoài ý nghĩ. Bảo Ngọc nhìn Bảo Thoa cười. Nhưng Bảo Thoa đã ngoảnh đi nói chuyện với Tập Nhân rồi.

Chợt có người sang mời về ăn cơm. Giả mẫu đứng dậy, dặn Bảo Ngọc "phải tĩnh dưỡng cẩn thận!". Lại dặn dò đám a hoàn một lần nữa, rồi vịn vào Phượng Thư, mời Tiết phu nhân đi. Mọi người ra khỏi buồng, Giả mẫu còn hỏi canh đã được chưa? Lại bảo Tiết phu nhân: "Muốn ăn thứ gì cứ nói với tôi. Tôi sẽ bảo cháu Phượng làm cho chúng ta ăn". Tiết phu nhân cười nói:

- Cụ cứ hay bắt vằn bắt vẻ chị Phượng, chứ thường khi làm thức ăn đem dâng người, thì người có ăn được mấy đâu.

Phượng Thư cười nói:

- Thôi, xin dì đừng nói thế, bà tôi chỉ hiềm thịt người chua thôi, nếu không chua, bà tôi đã ăn luôn cả tôi rồi!

Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Bảo Ngọc ở trong nhà cũng không nhịn được cười. Tập Nhân cười nói:

- Mồm mép mợ Hai làm người ta sợ chết đi được!

Bảo Ngọc cười nói với Tập Nhân:

- Chị đứng lâu thế chắc mệt lắm.

Liền kéo Tập Nhân đến ngồi bên cạnh. Tập Nhân cười nói:

- Thôi quên mất rồi, nhân tiện cô Bảo ở đây, cậu bảo cô ấy cho Oanh Nhi sang xe hộ mấy sợi dây.

- May mà chị nhắc tôi đấy.

Bảo Ngọc liền ngẩng đầu ra cửa sổ nói:

- Chị Bảo, ăn cơm xong, chị cho Oanh Nhi sang đây xe hộ mấy sợi dây, liệu nó có rảnh không?

Bảo Thoa quay lại nói:

- Được rồi, chốc nữa tôi sẽ cho nó sang.

Bọn Giả mẫu chưa nghe rõ đều đứng lại hỏi việc gì. Bảo Thoa nói lại. Giả mẫu liền bảo:

- Cháu ạ! Cháu cho nó sang xe hộ em nó mấy sợi dây. A hoàn ở bên này rỗi cả đấy, cháu cần sai bảo gì, thích ai, cứ gọi nó sang.

Tiết phu nhân và Bảo Thoa đều cười nói:

- Cứ cho nó sang thôi, bên nhà có việc gì sai bảo đâu, cả ngày chỉ ngồi rồi gây chuyện với nhau thôi.

Mọi người đang đi, chợt bọn Tương Vân, Bình Nhi, Hương Lăng hái hoa phượng tiên ở bên núi trông thấy, liền chạy lại chào.

Một lúc ra khỏi vườn. Vương phu nhân sợ Giả mẫu mệt, muốn mời vào ngồi nghỉ ở buồng trên. Giả mẫu thấy mỏi chân, liền gật đầu, bằng lòng. Vương phu nhân vội sai a hoàn về trước xếp đặt chỗ ngồi. Bấy giờ dì Triệu cáo bệnh, chỉ có dì Chu và bọn bà già a hoàn chạy ra vén rèm, giải nệm, đặt cái tựa lưng. Giả mẫu vịn Phượng Thư đi vào, cùng Tiết phu nhân đều ngồi. Bảo Thoa, Tương Vân thì ngồi ở dưới. Vương phu nhân tự tay dâng nước mời Giả mẫu. Lý Hoàn thì mời Tiết phu nhân. Giả mẫu bảo Vương phu nhân:

- Chị cứ ngồi xuống đây nói chuyện, mặc cho chị em nó hầu.

Vương phu nhân mới ngồi xuống một cái ghế nhỏ, rồi bảo Thượng Thư:

- Dọn cơm của bà ra đây, thêm mấy món ăn nữa.

Phượng Thư vâng lời đi ra, sai người sang bên nhà Giả mẫu, bọn bà già vội truyền ra. Bọn a hoàn đều chạy đến cả.

Vương phu nhân sai người mời các cô đến. Một lúc, chỉ có Thám Xuân, Tích Xuân đến thôi. Nghênh Xuân trong người khó ở, nên không đến. Đại Ngọc thì không cần phải nói, mười bữa chỉ ăn độ năm, nên chẳng ai để ý đến.

Một chốc đến bữa ăn, mọi người sắp đặt bàn ghế. Phượng Thư để một nắm đũa ngà vào trong khăn tay, đứng bên dưới cười nói:

- Bà và dì không cần phải mời nhau, để mình cháu nói là đủ.

Giả mẫu cười bảo Tiết phu nhân:

- Ừ thì chúng ta cứ như thế.

Tiết phu nhân cười gật đầu. Thượng Thư đặt bốn đôi đũa, hai đôi ở trên là của Giả mẫu và Tiết phu nhân, hai đôi ở một bên là của Bảo Thoa và Tương Vân. Vương phu nhân và Lý Hoàn đều đứng ở dưới trông nom người đưa đồ ăn. Phượng Thư vội lấy bát đũa sạch, chọn đồ ăn để đưa cho Bảo Ngọc.

Một chốc người hầu bưng canh lá sen đến. Giả mẫu xem xong, Vương phu nhân ngảnh lại thấy Ngọc Xuyến đứng ở đấy, liền sai đem canh cho Bảo Ngọc. Phượng Thư nói:

- Một mình nó không mang nổi đâu.

May có Oanh Nhi và Hỷ Nhi đến, Bảo Thoa biết chúng nó đã ăn cơm cả rồi, liền bảo Oanh Nhi:

- Cậu Hai bảo em sang xe hộ ít dây đấy, em cùng đi sang với Ngọc Xuyến.

Hai người vâng lời cùng đi.

Oanh Nhi nói:

- Đường thì xa, canh thì nóng, mang đi thế nào được?

Ngọc Xuyến cười nói:

- Chị cứ yên tâm, tôi sẽ có cách.

Nói xong, nó sai một bà già để các thức ăn vào khay, bảo mang đi theo, còn hai cô đi không. Đến trước cửa viện Di Hồng, Ngọc Xuyến mới bưng lấy, cùng Oanh Nhi đi vào buồng. Bọn Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Thu Văn đương cười đùa với Bảo Ngọc, thấy họ đến, vội cười nói:

- Sao khéo thế? Hai cô cùng đến một lúc.

Họ bưng lấy khay. Ngọc Xuyến ngồi ngay xuống ghế, Oanh Nhi không dám ngồi. Tập Nhân mang cái ghế chân đến, Oanh Nhi cũng không dám ngồi.

Bảo Ngọc thấy Oanh Nhi đến, rất là vui mừng. Khi thấy Ngọc Xuyến, lại nghĩ ngay đến chị nó là Kim Xuyến, trong bụng vừa thương xót vừa xấu hổ, liền bỏ Oanh Nhi, chỉ nói chuyện với Ngọc Xuyến. Tập Nhân thấy Bảo Ngọc không đả động gì đến Oanh Nhi, sợ Oanh Nhi mủi lòng, lại thấy nó không chịu ngồi, liền kéo sang buồng mình uống nước nói chuyện.

Trong nhà thì bọn Xạ Nguyệt sắp đặt bát đũa mời Bảo Ngọc ăn cơm, nhưng Bảo Ngọc không ăn, cứ hỏi chuyện Ngọc Xuyến:

- Đẻ chị có được khỏe không

Ngọc Xuyến tỏ vẻ hờn dỗi, mắt không nhìn đến Bảo Ngọc, lúc lâu mới trả lời một câu "khỏe". Bảo Ngọc có vẻ không vui một chốc lại cười hỏi:

- Ai bảo chị mang đồ đến đây cho tôi đấy.

- Bà và mợ Hai, chứ còn ai nữa.

Bảo Ngọc thấy mặt Ngọc Xuyến buồn rầu, biết ngay là vì việc Kim Xuyến, định dịu giọng hòa nhã để dử chuyện cô ta, nhưng vì nhiều người không tiện, liền tìm cách bảo họ đi ra, rồi mới cười hỏi tẩn mẩn. Trước thì Ngọc Xuyến không bằng lòng, sau thấy Bảo Ngọc không có tí gì là bực tức cả, dù mình ăn nói sỗ sàng thế nào, Bảo Ngọc vẫn ôn tồn hòa nhã, thì lại đâm ra khó coi, nên nét mặt đã tỏ ra vài phần tươi tỉnh.

Bảo Ngọc liền cười bảo Ngọc Xuyến:

- Chị ơi, chị mang hộ canh lại đây cho tôi ăn.

- Tôi không quen bón cơm cho ai cả, để chờ họ đến sẽ cho cậu ăn.

- Tôi không đòi chị bón cho tôi ăn đâu, tôi đau không đi được, mới nhờ chị mang giúp cho tôi ăn. Sau đó chị về mà ăn cơm, kẻo chậm lại bị đói. Nếu chị không lấy giúp, tôi đành phải chịu đau đi lấy vậy.

Bảo Ngọc cố gượng mãi, nhưng không xuống giường được mồm luôn luôn kêu "Ái chà". Ngọc Xuyến thấy thế, nhịn không được, liền đứng dậy nói:

- Thôi nằm xuống, thật là oan nghiệt đời nào để lại, bây giờ báo ứng trước mắt, trông thấy rành rành!

Nói xong cười khì một tiếng, rồi đi bưng canh đến.

Bảo Ngọc cười nói:

- Chị ơi, chị có giận, chỉ nên cáu gắt ở đây thôi, khi đến chỗ cụ và bà, thì nét mặt nên vui vẻ một chút. Nếu cứ thế này, chị sẽ bị mắng đấy.

- Thôi, ăn đi! Tôi biết cả rồi, cậu đừng giở giọng đường mật ra đây nữa.

Bảo Ngọc ăn mấy thìa, giả vờ kêu không ngon.

Ngọc Xuyến bĩu môi nói:

- A di đà phật, thứ này mà bảo là không ngon, thì chả còn cái gì ngon nữa!

- Chả có mùi mẽ gì cả, chị không tin thì nếm một tí mà xem.

Ngọc Xuyến tức quá, nếm một thìa. Bảo Ngọc cười nói:

- Ngon đấy nhỉ!

Bấy giờ Ngọc Xuyến mới hiểu ý Bảo Ngọc đánh lừa mình, liền nói:

- Trước cậu bảo không ngon, bây giờ lại bảo ngon, thì tôi không cho cậu ăn nữa.

Bảo Ngọc cứ cười tràn đòi ăn, Ngọc Xuyến không cho ăn, gọi mang cơm lên.

Khi a hoàn mang cơm đến, thì có người vào trình:

- Có hai vú nhà cụ Phó đến hỏi thăm cậu.

Bảo Ngọc biết ngay là vú nhà quan thông phán Phó Thí.

Nguyên Phó Thí là môn sinh của Giả Chính, xưa nay nhờ thế lực họ Giả mà làm nên. Giả Chính đối đãi hắn cũng tử tế hơn, không như nhưng người khác. Hắn thường sai người qua lại thăm hỏi.

Bảo Ngọc vốn ghét bọn đàn ông thô tục và đàn bà ngu xuẩn, nhưng tại sao lần này lại sai mời hai bà già ấy vào? Tất nhiên có duyên cớ. Vì Bảo Ngọc nghe nói nhà Phó Thí có người em gái tên gọi Phó Thu Phương, sắc tài vẹn hai, cũng là viên ngọc quý trong khuê các. Mắt tuy chưa trông thấy, nhưng tấm lòng trộm nhớ thầm yêu rất là chân thành, kính cẩn. Nếu không để cho hai bà này vào, sợ coi nhẹ Phó Thu Phương chăng, vì vậy Bảo Ngọc vội sai người ra mời.

Phó Thí là nhà mới phất lên. Thu Phương lại có nhan sắc thông minh hơn người, Phó Thí cậy có em gái như thế, nên chỉ muốn kết thân với nhà hào quý, chứ không chịu gả cho người thường, mà đám hào quý thì khinh hắn là con nhà nghèo hèn, thấp kém, không thèm hỏi đến, vì thế cô ta lỡ thời, đã hai mươi ba tuổi, vẫn chưa lấy ai. Sở dĩ Phó Thí đi lại thân mật với họ Giả, cũng là có một ý nghĩ đấy.

Hai bà già đến đây lại là hạng ngu xuẩn không biết gì. Được Bảo Ngọc mời vào, ngoài câu hỏi thăm ra, họ không nói được lời nào. Ngọc Xuyến thấy người lạ đến, không cãi nhau với Bảo Ngọc nữa, tay cầm bát canh đứng ngẩn ra nghe. Bảo Ngọc thì cứ ngoảnh lại nói chuyện với hai bà già, vữa ăn cơm vữa giơ tay đòi bát canh. Cả Bảo Ngọc và Ngọc Xuyến cứ nhìn chòng chọc vào hai bà già kia, không ngờ tay giơ mạnh quá, đụng đổ bát canh, nước canh sánh cả vào tay Bảo Ngọc. Ngọc Xuyến không bị bỏng, giật mình một cái, vội cười nói: "Làm sao thế này?".

Đám a hoàn vội chạy đến đỡ lấy bát. Bảo Ngọc không biết chính tay mình bị bỏng, lại hỏi Ngọc Xuyến:

- Chị bỏng ở đâu? Có đau không?

Ngọc Xuyến cùng mọi người cười ầm lên. Ngọc Xuyến nói:

- Chính cậu bị bỏng, lại còn hỏi tôi. Bảo Ngọc nghe nói, mới biết mình đã bị bỏng. Mọi người vội đến thu dọn. Bảo Ngọc không ăn cơm nữa, rửa tay uống nước, lại nói chuyện với hai bà già. Sau đó họ cáo từ ra về. Bọn Tình Văn đi tiễn đến bên cầu mới trở lại.

Hai bà già vừa đi vừa bàn tán, một bà già cười nói:

- Chả trách được, người ta thường nói cậu Bảo này bề ngoài thì xinh đẹp, mà bên trong thì hồ đồ, chỉ là của để nhìn chứ không phải để ăn, quả nhiên là ngây ngô! Chính mình bị bỏng tay, lại đi hỏi người khác có đau không.

Bà kia cười nói:

- Lần trước tôi sang, thấy nhiều người nhà bên ấy nói chuyện, thì cậu ấy ngây ngô thực, bị mưa to ướt như con gà luộc ấy, thế mà lại bảo người khác "mưa to đấy, tránh đi mau". Bà xem, có đáng buồn cười hay không? Thường lúc vắng người, cậu ấy ngồi cười khóc một mình; trông thấy con chim yến, thì nói chuyện với con chim yến; trông thấy con cá ở dưới sông, thì nói chuyện với con cá; nhìn thấy sao tỏ trăng sáng, không thở ngắn than dài, cũng rên thầm rỉ kín. Vả chăng tính nết cậu ta rất là nhu nhược, nhịn nhục cả với bọn a hoàn hầu bé. Yêu quý mọi thứ, ngay từ sợi chỉ cũng cho là đẹp, nhưng đến lúc phung phí thì dù hàng nghìn hàng vạn cậu ta cũng không cần.

Hai người bàn tán và đi ra khỏi vườn.

Tập Nhân thấy mọi người đi rồi, liền dắt Oanh Nhi đến hỏi:

- Tết những dây gì?

Bảo Ngọc cười bảo Oanh Nhi:

- Từ nãy đến giờ, chỉ mải nói chuyện, tôi quên hẳn chị đi, phiền chị sang đây, không có việc gì khác đâu, chỉ nhờ chị tết hộ mấy cái dây thôi. Oanh Nhi hỏi:

- Tết dây để buộc cái gì?

- Chả buộc vào cái gì, chị cứ theo mỗi kiểu tết hộ tôi mấy cái.

Oanh Nhi vỗ tay cười nói:

- Thế thì làm thế nào được! Nếu làm thế thì mười năm cũng chưa xong.

Bảo Ngọc cười nói:

- Chị ơi, chị rỗi chẳng có việc gì, thì cứ làm hộ tôi.

Tập Nhân cười nói:

- Làm một lúc thì xong thế nào được. Giờ hãy chọn mấy cái cần thì làm trước.

Oanh Nhi nói:

- Còn cái gì cần nữa? Chẳng qua là dây đeo quạt, dây đeo túi thơm, dây đeo quần chứ gì?

Bảo Ngọc nói:

- Dây đeo quần cũng được.

Oanh Nhi hỏi:

- Quần của cậu màu gì?

- Màu đỏ thắm.

- Màu đỏ thắm phải có dây đen, thì nhìn mới đẹp, hay là màu thạch thanh mới nổi.

- Màu hoa thông hợp với màu gì?

- Màu hoa thông hợp với màu hồng điều.

- Thế mới tươi đẹp. Trong các màu nhã nhặn, phải thêm cái màu tươi đẹp nữa.

- Tôi rất thích màu thông xanh pha với màu liễu vàng.

- Thôi được, chị tết hộ tôi một dây màu hồng điều, một dây màu thông xanh.

- Tết những kiểu gì?

- Có mấy kiểu?

- Kiểu bó hương, kiểu ghế rút rế, kiểu mắt voi, kiểu xếp chéo, kiểu liên hoàn, kiểu hoa mai, kiểu lá liễu...

- Hôm nọ chị tết hộ cô Ba kiểu gì đấy?

- Kiểu hoa mai chồng lên nhau.

- Kiểu ấy đẹp đấy.

Rồi gọi Tập Nhân mang chỉ đến. Thấy một bà già đứng ở ngoài cửa sổ nói: "Cơm các cô được rồi đấy!". Bảo Ngọc nói:

- Thôi các chị đi ăn cơm đi, ăn xong trở lại đây.

Tập Nhân cười nói:

- Đương có khách, chúng tôi đi sao tiện?

Oanh Nhi vừa gỡ chỉ vừa cười:

- Sao chị lại nói thế, cứ đi ăn cơm đi.

Tập Nhân bấy giờ mới đi, để hai đứa hầu nhỏ ở lại.

Bảo Ngọc vừa xem Oanh Nhi tết, vừa hỏi chuyện phiếm:

- Chị mười mấy tuổi rồi?

- Mười sáu tuổi.

- Chị họ gì?

- Tôi họ Hoàng.

- Họ với tên xứng nhau quá, thực là con chim hoàng oanh.

- Chính tên tôi là Kim Oanh. Nhưng cô tôi cho là khó gọi, nên chỉ gọi là Oanh Nhi, bây giờ gọi đã quen rồi.

- Thế là cô Bảo thương chị lắm đấy. Sau này cô ấy đi lấy chồng, thế nào chị cũng đi theo.

Oanh Nhi bĩu môi cười một cái.

Bảo Ngọc cười nói:

- Tôi thường bảo chị Tập Nhân: không biết sau này anh nào có phúc vớ được cả hai cô cháu nhà chị!

Oanh Nhi cười nói:

- Cậu chưa biết, dáng điệu chỉ là phụ thôi, cô tôi còn có nhiều cái tốt mà ở đời này không mấy người có.

Bảo Ngọc thấy Oanh Nhi có dáng xinh xắn, dịu dàng, cười nói như ngây, trong bụng đã xiêu xiêu, nay lại nghe nhắc đến Bảo Thoa thì nhịn sao được. Liền hỏi:

- Chị ấy có nhưng cái gì tốt, chị thử kể rành mạch cho tôi nghe nào?

- Tôi kể cho cậu nghe, nhưng cậu không nên nói lại cho cô tôi biết đấy nhé.

- Cố nhiên!

Đương nói chuyện thì bên ngoài có tiếng nói: "Làm sao mà lại lặng lẽ như tờ thế này?" Hai người nhìn ra, thì chính là Bảo Thoa. Bảo Ngọc mời ngồi. Bảo Thoa ngồi xuống hỏi Oanh Nhi:

- Tết cái gì đấy?

Bảo Thoa vừa hỏi vừa nhìn vào tay Oanh Nhi, thấy Oanh Nhi mới tết được một nửa cái dây, Bảo Thoa cười nói:

- Tết cái này để làm trò gì? Hãy tết cái dây đeo viên ngọc đã

Câu nói ấy làm Bảo Ngọc nhớ ra, vỗ tay cười nói:

- Chị Bảo nói phải đấy, tôi quên đi mất. Nhưng tết màu gì cho đẹp được?

Bảo Thoa nói:

- Các màu thường nhất định không thể dùng được. Màu đỏ lại lẫn màu. Màu vàng thì không nổi, màu đen thì tối quá. Cứ ý tôi, nên lấy chỉ kim tuyến xe lẫn với chỉ đen bóng, sợi nọ xe lẫn sợi kia, tết như thế mới đẹp.

Bảo Ngọc nghe nói mừng lắm, gọi dồn Tập Nhân mang ngay chỉ kim tuyến ra. Bấy giờ Tập Nhân đương mang hai bát đồ ăn đến, nói với Bảo Ngọc:

- Lạ thật! Vừa rồi bà cho người mang sang cho tôi hai bát đồ ăn.

Bảo Ngọc cười nói:

- Chắc hôm nay nhiều đồ ăn, nên mới đưa sang cho cả các chị.

Tập Nhân nói:

- Không phải thế đâu, đưa sang đích danh cho tôi, nhưng lại không bắt sang lạy tạ, thế mới lạ chứ?

Bảo Thoa cười nói:

- Cho chị thì chị cứ ăn, việc gì còn phải ngần ngại?

Tập Nhân nói:

- Xưa nay chưa có như thế bao giờ, làm tôi khó nghĩ quá.

Bảo Thoa bĩu môi cười nói:

- Có thế mà cũng khó nghĩ? Sau này còn có nhiều việc làm chị khó nghĩ hơn thế nữa kia!

Tập Nhân nghe câu nói có ngụ ý gì đây, nhưng biết Bảo Thoa xưa nay không phải là hạng giọng lưỡi chua chát hay chế giễu người. Vả lại nghĩ đến hôm trước, Vương phu nhâncó ý biệt đãi mình, nên không nhắc đến câu nói ấy nữa, rồi đem đồ ăn đến cho Bảo Ngọc xem, và nói:

- Tôi đi rửa tay đã, rồi sẽ mang chỉ ra.

Tập Nhân ăn xong, rửa tay, lấy chỉ kim tuyến ra đưa cho Oanh Nhi. Bấy giờ Tiết Bàn đã sai người sang gọi Bảo Thoa về.

Bảo Ngọc đương ngồi xem xe dây, thấy hai a hoàn của Hình phu nhân đem đến cho hai thứ quả, và hỏi:

- Cậu đã đi lại được chưa? Nếu đi được thì sáng mai sang chơi, bà tôi lúc nào cũng nhớ đến cậu đấy.

Bảo Ngọc vội nói:

- Thế nào tôi cũng phải sang thăm sức khỏe bác. Tôi đã đỡ đau rồi, xin bác cứ yên tâm.

Rồi mời họ ngồi xuống, và bảo Thu Văn mang một nửa thứ quả ấy sang cho Đại Ngọc. Thu Văn sắp đi, đã thấy tiếng Đại Ngọc nói ở ngoài sân. Bảo Ngọc vội bảo mời vào.

Hồi thứ ba mươi sáu

Thêu bức uyên ương, hiên Giáng Vân mộng lành báo trước

Ngẫm đường tình phận, viện Lê Hương duyên đẹp định rồi

Giả mẫu từ khi ở buồng Vương phu nhân về, thấy Bảo Ngọc mỗi ngày một khá, trong bụng rất vui mừng. Nhưng sợ Giả Chính lại gọi chăng, liền sai người đi gọi đứa hầu cận Giả Chính đến bảo:

- Từ giờ trở đi, có khách nào ông mày muốn gọi Bảo Ngọc đến tiếp, thì không được gọi, hãy trình với ông mày rằng: tao bảo một là Bảo Ngọc bị đánh đau, phải chăm nuôi mấy tháng mới đi lại được; hai là năm nay nó có sao hạn chiếu mệnh, phải cúng sao, kiêng không tiếp người lạ. Đến hết tháng tám mới được ra ngoài.

Tên hầu cận vâng lời đi ra. Giả mẫu lại gọi vú Lý và Tập Nhân về kể lại nhưng câu ấy cho Bảo Ngọc nghe, để Bảo Ngọc yên lòng.

Bảo Ngọc xưa nay vẫn không thích tiếp chuyện với bọn quan lại đàn ông, lại rất ghét nhưng lúc phải mũ áo xúng xính đi mừng đi thăm các nơi. Bây giờ được bà bảo thế, càng đắc ý, không những từ khước tất cả họ hàng bè bạn, mà ngay trong gia đình, muốn đến thăm cha mẹ hay không là tùy ý. Ngày chỉ nằm ngồi chơi đùa trong vườn, mỗi buổi sáng sang thăm bà và mẹ một lần, rồi về nhà, suốt ngày thích để cho đám a hoàn sai vặt, lại cho là thú tiêu khiển của mình. Bọn Bảo Thoa có lựa lời khuyên ngăn, thì cáu kỉnh nói: "Các cô là hạng con gái trong sạch, mà cũng học lối mua chuộng hư danh, theo hùa với bọn giặc nước và bọn quỷ ăn lộc. Đó chẳng qua là tại người xưa ngồi rỗi bày trò, cố ý bịa đặt, để cám dỗ bọn râu mày ô trọc đời sau. Ta không ngờ sinh gặp lúc không may, đến cả chị em trong lầu son gác tía cũng lây phải thói xấu ấy, thực là phụ cái ơn chung đúc khí thiêng liêng của trời đất!"

Mọi người thấy thế, cũng không khuyên can nữa. Chỉ có Đại Ngọc từ bé đến giờ không hề hé miệng khuyên chuyện lập công danh để hiển dương cha mẹ gì cả, vì thế Bảo Ngọc rất kính phục Đại Ngọc.

Sau khi Kim Xuyến chết, có mấy người đầy tớ thường đến hỏi thăm, hầu hạ Phượng Thư và biếu xén các thứ, trong bụng Phượng Thư đâm ngờ, không biết ý họ thế nào. Hôm ấy lại có người đem đồ lễ đến biếu. Nhân buổi chiều không có ai, Phượng Thư cười hỏi Bình Nhi. Bình Nhi cười nhạt:

- Thế mà mợ cũng không nghĩ ra à? Tôi đoán những người thường đi lại biếu xén mợ, đều có con làm a hoàn cho bà Hai cả. Hiện giờ trong nhà bà Hai có bốn đứa con lớn, mỗi đứa mỗi tháng được lĩnh một lạng bạc, ngoài ra những đứa khác chỉ được có mấy trăm đồng thôi. Nay Kim Xuyến chết rồi, chắc họ muốn dòm ngó cái số một lạng bạc chứ gì?

Phượng Thư cười nói:

- Phải đấy, em nhắc chị mới nhớ ra. Nhưng mà họ không biết điều tí nào. Tiền muốn nhiều, việc khó nhọc lại không muốn gánh. Giá họ biết thân biết phận, được đưa con vào hầu hạ ở đây, đã là quá lắm rồi, lại còn nghĩ đến chuyện ấy nữa à? Thôi được, tiền của họ có phải dễ dàng đưa đến ta tiêu đâu. Đó là tự họ mang đến, vậy thì họ biếu cái gì ta cứ nhận, còn ta đã có chủ ý.

Phượng Thư định bụng như thế, nên cứ để dằng dai mãi, chờ khi nào mọi người biếu đủ cả, mới lựa dịp trình với Vương phu nhân.

Buổi trưa hôm ấy, Tiết phu nhân, Bảo Thoa, Đại Ngọc đương ngồi cả ở buồng Vương phu nhân ăn dưa. Phượng Thư nhân dịp liền trình:

- Từ khi Kim Xuyến chết, mẹ thiếu một người hầu, giờ người định cho a hoàn nào thay, xin cho biết để cuối tháng sẽ phát lương cho nó.

Vương phu nhân nghĩ một lúc rồi nói:

- Cứ ý ta thì có lệ đâu lại nhất thiết cứ phải bốn hay năm người? Cốt đủ người sai là được, thừa thì nên bớt đi.

Phượng Thư cười nói:

- Cứ lẽ ra thì mẹ nói rất phải, nhưng đó là theo lệ cũ. Nhà người khác còn có hai người hầu nữa là nhà mẹ mà lại không theo đúng lệ ư! Vả chăng bớt đi một lạng bạc cũng chả là mấy.

Vương phu nhân nghĩ một lúc rồi nói:

- Thôi được, cái số tiền ấy cứ chi lại đây, không cần phải lấy thêm người nữa, ta sẽ cho em nó là Ngọc Xuyến. Con chị nó đã hầu ta bao lâu, mà chẳng được cái gì, bây giờ con em theo hầu ta, cho nó ăn hai phần tiền cũng chẳng lấy gì làm quá đáng.

Phượng Thư vâng lời, quay lại nhìn Ngọc Xuyến cười nói: "Mừng em nhé!"

Ngọc Xuyến đến cúi đầu tạ ơn.

Vương phu nhân lại hỏi Phượng Thư:

- Tôi muốn hỏi chị: hiện giờ lương dì Triệu và dì Chu mỗi tháng bao nhiêu?

- Đã có lệ rồi, mỗi người hai lạng, dì Triệu lại còn có hai lạng tiền lương của em Hoàn, cộng là bốn lạng, ngoài ra còn có bốn quan tiền nữa.

- Tháng nào chị cũng phát đủ số đấy chứ?

Phượng Thư thấy câu hỏi hơi lạ, liền nói:

- Sao lại không đủ?

- Hôm nọ nghe đâu có người ta thán rằng dì ấy bị bớt một quan tiền lương, thế là vì cớ gì?

- Nguyên trước tiền lương bọn a hoàn hầu các dì ấy, mỗi người được một quan, không biết năm ngoái ở bên ngoài họ bàn bạc thế nào lại bớt mất một nửa, thành ra tiền lương của bọn a hoàn hầu các dì ấy chỉ còn mỗi người có năm trăm đồng thôi. Mỗi dì có hai a hoàn, phải bớt đi một quan. Thực ra việc này không phải tự con. Con vẫn muốn phát đủ, nhưng từ bên ngoài người ta khấu đi mất rồi, chả lẽ con xuất tiền lương ra bù sao! Con chẳng qua là người đứng nhận mà thôi. Thu bao nhiêu phát bấy nhiêu, con có được làm chủ đâu. Con đã nói hai ba lần, nên để số lương như cũ là phải; nhưng họ bảo chỉ có chừng ấy thôi, vì vậy con không thể nói lại được nữa. Hiện giờ chính tay con phát lương cho họ, phát đúng ngày đúng tháng. Trước kia họ lĩnh ở bên ngoài, tháng nào cũng rắc rối, có bao giờ được trôi chảy như thế này đâu.

Vương phu nhân nghe nói, nín một lúc rồi hỏi:

- Thế thì trong nhà cụ có mấy người được ăn lương một lạng?

- Tám người, nhưng bây giờ còn có bảy thôi, vì trừ Tập Nhân.

- Thế thì phải đấy. Trong nhà em Bảo không có a hoàn nào được ăn lương một lạng cả. Tập Nhân vẫn chỉ coi như người hầu của cụ thôi.

- Tập Nhân vẫn là người hầu của cụ cho sang ở tạm bên nhà chú Bảo, tiền lương của cô ta vẫn phải lĩnh với bọn a hoàn của cụ. Bây giờ bảo Tập Nhân là người hầu của Bảo Ngọc mà bớt một lạng tiền lương bên cụ đi thì không thể được. Phải thêm một người hầu nữa cho cụ mới có thể bớt được. Nếu không bớt, thì lại phải thêm một người hầu nữa cho em Hoàn, như thế mới công bằng. Trừ bảy a hoàn lớn là bọn Tình Văn, Xạ Nguyệt mỗi người mỗi tháng một quan tiền ra, còn tám a hoàn nhỏ là bọn Giai Huệ, cũng chỉ mỗi người mỗi tháng năm trăm đồng tiền thôi, đó là lệnh của cụ, còn ai dám kêu ca tị nạnh nữa.

Tiết phu nhân cười nói:

- Các chị hãy nghe mồm mép chị Phượng kìa, cứ liến láu như đổ xe hột đào ấy! Chị ấy tính toán rành mạch, xử sự lại rất công bằng.

Phượng Thư cười nói:

- Thưa cô, chả lẽ cháu lại dám nói sai hay sao?

Tiết phu nhân cười nói:

- Chị nói có bao giờ sai? Nhưng nên nói thong thả, có đỡ nhọc không?

Phượng Thư muốn cười nhưng lại nín lặng để nghe vương phu nhân chỉ bảo. Vương phu nhân nghĩ một lúc rồi nôi:

- Ngày mai cắt một a hoàn sang hầu cụ để th cho Tập Nhân, và bớt tiền lương của nó đi. Rồi mỗi tháng trích ra hai lạng bạc và một quan tiền ở trong số lương hai mươi lạng của ta, để chi cho nó. Từ giờ trở đi, hễ dì Triệu và dì Chu được hưởng cái gì, thì Tập Nhân cũng được hưởng hai ấy, nhưng về phần Tập Nhân, thì cứ lấy ở trong sổ lương của ta ra mả chi, không nên đả động đến tiền công.

Phượng Thư nhất nhất vâng lời, rời đẩy Tiết phu nhân một cái cười nói:

- Dì nghe thấy chưa, trước cháu nói thế nào, quả nhiên bây giờ đúng thế.

Tiết phu nhân nói:

- Xử thế mới phải. Không nói gì dáng dấp con bé, chỉ xem cách nó xử sự đúng đắn, nói năng hòa nhã, nhưng vẫn có vẻ cứng rắn cương quyết, thật khó có được người như thế.

Vương phu nhân rơm rớm nước mắt nói:

- Các người có biết hết chỗ tốt của Tập Nhân đâu? nó so với Bảo Ngọc còn hơn gấp mười lần! Nếu được nó hầu hạ luôn bên cạnh Bảo Ngọc, thật lả có phúc đấy!

Phượng Thư nói:

- Đã thế thì sao không lấy nó làm nàng hầu ở ngay trong nhà có hơn không?

Vương phu nhân nói: .

- Không được. Một là nó còn ít tuổi, hai là ông không bằng lòng, ba là Bảo Ngọc thấy nó còn là a hoàn, thì dủ có phóng túng chăng nưa, cũng phải nghe lời nó khuyên răn; nếubây giờ cho nó làm nàng hầu ngay, không khi nào nó dám khuyên ngăn đến nơi đến chốn. Thôi hãy cứ để thế, hai ba năm nữa sẽ liệu.

Phượng Thư thấy không có việc gì, liền quay ra, vừa đi đến thềm, đã có mấy người đàn bà đứng chờ ở đấy, thấy Phượng Thư ra, họ đều cười nói:

- Hôm nay mợ vào trình việc gì mà lâu thế Không biết nực à?

Phượng Thư vén tay áo lên, chân đứng kiễng trên bực cửa,(1) cười nói:

- Chỗ này gió lùa mát quá, đứng hóng một lúc rỗi sẽ đi.

Phượng Thư lại nói với mọi người:

- Các chị bảo tôi nói chuyện lâu quá, nhưng bà cứ hỏi tôi những việc gì hàng trăm năm về trước không có lẽ tôi lại không nói? - Lại cười nói - Từ giờ trở đi, tôi làm việc phải cay nghiệt một chút mới được. Họ có oán trách tôi, đến tại bà, tôi cũng chẳng sợ. Những bọn con đĩ thối mồm thối mép, chết đâm chết chém ấy, đừng có mơ tưởng! Nay mai sẽ có ngày ta phải bớt lương khắp lượt cho mà coi. Bây giờ mới bớt của a hoàn, mà đã oán trách ầm lên. Sao không biết nghĩ, mình nó có đáng sai khiến ba đứa không

Phượng Thư vừa rủa, vừa đi, rồi chọn một a hoàn đưa sang bên Giả mẫu. Vương phu nhân ăn dưa xong, nói chuyện một lúc rồi đi về Đến vườn, Bảo Thoa rủ Đại Ngọc vào Ngẫu Hương tạ chơi. Đại Ngọc nói: "phải về tắm rửa", rồi đi ngay. Bảo Thoa đi một mình, tiện đường tạt vào viện Di Hồng, muốn gặp Bảo Ngọc nói chuyện để khuây khỏa buổi trưa. Khi vào đến sân, thấy lặng lẽ không một tiếng động. Đôi hạc đậu ở khóm chuối cũng đều thiu thiu giấc ngủ. Bảo Thoa rẽ sang bên cạnh, vào ngay trong buồng, thấy ở gian ngoài, bọn a hoàn đương ngủ ngổn ngang cả trên giường. Bảo Thoa đi qua cửa sổ có treo màn gấm các màu, vào tận buồng Bảo Ngọc, thấy Bảo Ngọc cũng ngủ, chỉ có Tập Nhân ngồi thêu bên cạnh, để một cái phất trần cán bằng sừng trắng.

Bảo Thoa đến gần khê cười nói:

Chị cẩn thận quá, trong nhà này còn có ruồi muỗi à? Để cái này làm gì đấy?

Tập Nhân bất thình lình ngẩng đầu lên, trông thấy Bảo Thoa, vội bỏ kim chỉ đứng dậy, khẽ cười nói:

Cô đến đấy à? Tồi sợ giật nẩy mình lên. Cô chưa biết, ở đây tuy không ruồi muỗi, nhưng có một thứ sâu nhỏ ở ngoài màn chui vào, chẳng ai trông thấy. Trong khi ngủ, lỡ nó cắn vào người, thì đau như kiến đốt.

Bảo Thoa nói:

- Chả trách được, đằng sau thì gần nước, lại trồng các thứ hoa, làm thơm lừng cả nhà lên, giống sâu này quen ăn nhị hoa, hễ ngửi thấy mùi thơm là thế nào nó cũng chui vào.

Bảo Thoa nhìn cái bức thêu ở tay Tập Nhân. Đó là cáiyếm bằng lụa trắng, giữa có màu đỏ, trên mặt thêu kiểu "Uyên ương vờn hoa sen" có hoa đỏ lá xanh, có chim uyên ương năm màu.

Bảo Thoa nói:

- Ái chà? Tươi đẹp quá! Cái này của ai mà làm phí bao nhiêu là công?

Tập Nhân ngoảnh vào giường bĩu môi. Bảo Thoa cười nói:

- Người đã lớn thế mà còn đeo cái này à? .

Tập Nhân cười nói:

- Xưa nay cậu ấy vẫn không chịu đeo, nên phải làm thật đẹp, để cậu ấy trông thấy tự khắc phải đeo! Bây giờ trời nóng, nhân lúc cậu ấy ngủ không để ý, tôi lựa cách đeo vào cho, lỡ đêm không đắp chăn cẩn thận cũng không sao. Cô nói làm cái này tốn công, có lẽ cô chưa thấy cái cậu ấy đang đeo trong người sao!

- Chị chịu khó quá!

- Hôm nay làm việc nhiều, cổ cúi xuống đau nhừ cả người.

Lại cười nói:

- Cô hãy ngồi chơi, tôi ra ngoài một tý rồi vào ngay.

Nói xong đi ra.

Bảo Thoa chỉ chăm chú nhìn cái bức thêu nên không để ý, ngồi luôn xuống đó. Vì cũng thích bức thêu, Bảo Thoa liền lấy ngay kim thêu tiếp.

Không ngờ Đại Ngọc hẹn Tương Vân đến mừng Tập Nhân. Hai người vào sân, thấy vắng ngắt cả. Tương Vân quay ra ngoài hiên đi tìm Tập Nhân, Đại Ngọc tìm đến chỗ cửa sổ, đứng ngoài màn the nhìn vào, thấy Bảo Ngọc mặc cái áo sa màu hồng, nằm ngủ ở trên giường, Bảo Thoa ngồi thêu bên cạnh, có cái đập ruồi để gần đấy.

Đại Ngọc thấy thế, đứng né ra một bên, lấy tay bịt mồm, không dám cười ra tiếng, liền vẫy Tương Vân lại. Tương Vân tưởng có gì lạ, vội chạy lại, thấy thế, muốn cười, nhưng nghĩ Bảo Thoa xưa nay đối với mình tử tế, liền nín ngay, biết Đại Ngọc vốn tính đành hanh, hay nói bóng nói gió để chế nhạo người, Tương Vân kéo Đại Ngọc và nói:

- Đi đi thôi. Tôi nhớ Tập Nhân có nói là đến trưa sẽ ra ao giặt quần áo, chắc chị ta đã ở đấy rồi, chúng ta đi tìm chị ấy thôi.

Đại Ngọc hiểu ý, cười nhạt một tiếng rồi theo đi.

Bảo Thoa ở trong nhà mới tết được vài ba cái hoa, thấy Bảo Ngọc nằm mê thét lên: "Lời nói hòa thượng và đạo sĩ tin thế nào được? Cái gì là nhân duyên vàng ngọc! Tôi chỉ biết duyên cây và đá thôi!"

Bảo Thoa nghe câu ấy, bất giác sửng sốt, chợt thấy Tập Nhân vào cười hỏi:

- Cậu ấy chưa dậy à?

Bảo Thoa lắc đầu. Tập Nhân lại cười nói:

- Tôi ta gặp cô Lâm và cô Sử, họ có đến đây không?

- Không thấy.

Rồi Bảo Thoa lại cười hỏi:

- Họ có bảo gì chị không?

Tập Nhân đỏ mặt lên, cười nói:

- Thì chẳng qua họ cũng nói đùa đấy thôi, có thực thế đâu?

Bảo Thoa cười nói:

- Hôm nay không phải họ nói đùa đâu, tôi cũng muốn mách chị việc ấy, nhưng vì chị vội đi ra.

Nói chưa dứt lời, Phượng Thư lại cho người đến gọi Tập Nhân. Bảo Thoa cười nói:

- Chắc cũng lại việc ấy thôi.

Tập Nhân gọi hai a hoàn đến thay mình, rồi cùng Bảo Thoa ra khỏi viện Di Hồng, đến nhà Phượng Thư. Quả nhiên Phượng Thư nói chuyện ấy, và bảo phải đến tạ ơn Vương phu nhân, chứ không cần phải đến Giả mẫu nữa, vì sợ chị ta ngượng. Khi Tập Nhân ở nhà Vương phu nhân về, thì Bảo Ngọc đã dậy và hỏi đi đâu, Tập Nhân cầm trả lời hàm hồ, đến đêm vắng người mới nói thực.

Bảo Ngọc mừng lắm, cười nói:

- Tôi xem chị còn đòi về nhà nữa hay không? Lần trước chị về thăm nhà, khi trở lại nói là anh chị muốn chuộc về, ở đây chẳng bấu víu vào đâu, sau này biết làm thế nào. Chị dùng những câu nói không có tình nghĩa để dọa tôi. Từ giờ trở đi, tôi xem còn ai dám đến đây đòi chị về nữa không

Tập Nhân cười nhạt:

- Cậu đừng nói những câu ấy nữa. Từ giờ trở đi, tôi là người của bà nhà. Muốn đi đâu tôi chỉ phải trình bà thôi, không cần nói với cậu nữa.

Bảo Ngọc cười nói:

- Nếu tôi là người không ra gì, thì chị cứ trình với bà mà về để người ngoài biết tôi không tốt, nên chị mới phải đi, như thế thì chị còn ra gì nữa?

Tập Nhân cười nói:

- Sao lại không ra gì? Không lẽ kẻ cướp tôi cũng theo à? Nếu thế thì chỉ có chết thôi. Người ta dù có sống đến trăm năm, rồi cũng phải chết. Khi tắt hơi rồi, chẳng còn nghe gì, thấy gì, thế là xong chuyện.

Bảo Ngọc nghe nói, liền bịt mồm Tập Nhân lại, bảo:

- Thôi! Thôi! Đừng nói những câu ấy nữa.

Tập Nhân vẫn biết Bảo Ngọc có tính tình kỳ quặc, hễ nghe thấy người ta nói những câu nịnh hót tán tỉnh, thì cho là không thực, chán không buồn nghe; nhưng thấy người ta nói những câu thực thà thân thiết, thì lại đâm ra thương cảm.

Tập Nhân hối hận trót nói quá lời, liền cười xòa nói lảng ra chuyện khác. Rồi chuyển những câu lâu nay Bảo Ngọc thích nghe, như gió xuân trăng thu, son hồng phấn lạt; rồi đến việc người con gái thế nào là tốt. Không ngờ Tập Nhân buột miệng nói đến cái chết của người con gái, liền vội bưng mồm không nói nữa.

Bảo Ngọc đương thích nghe, bỗng thấy Tập Nhân không nói, liền cười:

- Ai mà chẳng chết? Nhưng có đáng chết thì mới chết chứ! Những đám râu mày hên hạ, khi nghe người ta nói "Quan văn chết vì can vua, quan võ chết vì đánh giặc". Hai cái chết ấy mới là danh tiết của bậc đại trượng phu. Nhưng, dù sao không chết vẫn hơn. Vì có vua hôn ngu mới can ngăn, chỉ biết liều chết để mua lấy tiếng khen, thì sau nây sẽ bỏ vua lại cho ai? Khi có giặc giã mới phải đi đánh, nhưng chi biết liều chết để tỏ ra mình có công đánh giặc, thì sau này bỏ nước lại cho ai? Vì vậy đều không phải là cái chết chính đáng. .

Tập Nhân nói:

- Xưa nay tướng giỏi tôi hiền, đều là bất đắc dĩ mới phải chết đấy thôi.

Bảo Ngọc nói: .

- Hạng quan võ ấy chẳng qua chỉ cậy sức hung hăng, chứ mưu trí kém cỏi, chẳng có tài năng, đến nỗi bị chết uổng, chả lẽ cũng là bất đắc dĩ à? Còn hạng quan văn thì lại khác hẳn, họ cứ chôn vào ruột mấy câu đọc thuộc lòng trong sách, hễ nhà vua có lỗi nhỏ gì, thì cứ nói càn ngăn bậy, để được tiếng là người trung trực; máu nóng nổi lên, dù chết cũng liều, như thế có thể gọi là bất đắc dĩ được không? Phải biết rằng trời có cho thì mới được làm vua, nếu không phải là bực thần thánh nhân từ, không khi nào trời lại giao cho muôn việc nặng nề như thế. Vậy thì những cái chết ấy, chẳng qua chỉ để mua chuộc tiếng khen, chứ chẳng hiểu nghĩa lớn vua tôi gì cả. Còn như tôi bây giờ, nếu có phúc ra, gặp được lúc các chị em đủ mặt ở đây, mà chết ngay đi, lại được nước mắt các chị em chảy ra thành một con sông lớn, buông xác tôi xuống đó lềnh bềnh, trôi đến một chỗ rất xa xăm, không có chim ho cò gáy, rồi theo gió mà tan đi, không bao giờ hóa kiếp làm người nữa, như thế là tôi chết đúng lúc đấy!

Tập Nhân nghe những câu rồ dại ấy, liền kêu mệt, không trả lời, Bảo Ngọc mới nhắm mắt ngủ. Hôm sau quên hẳn chuyện ấy.

Đi chơi các nơi mãi đâm chán, một hôm Bảo Ngọc nghĩ ngay đến khúc hát "Mẫu đơn đình". Vì đã được nghe hai lần, nhưng vẫn chưa thỏa. Nhân nghe nói trong đám mười hai đứa con hát ở viện Lê Hương có một Linh Quan, đóng vai nữ, hát rất hay. Bảo Ngọc đi ra cửa nách để tìm, gặp Bảo Quan và Ngọc Quan đang chơi ở sân. Thấy Bảo Ngọc đến, họ cười đón mời ngồi.

Bảo Ngọc hỏi:

- Linh Quan ở đâu?

- Chị ấy đương ở trong nhà.

Bảo Ngọc vội chạy vào, thấy Linh Quan một mình nằm dựa ở trên gối. Thấy Bảo Ngọc đến, Linh Quan vẫn cứ nằm yên không nhúc nhích. Bảo Ngọc ngồi ngay bên cạnh, vì xưa nay vẫn hay chơi đùa với những bọn con gái quen, nên cho Linh Quan cũng như các người khác, liễn ghê lại gần, cười nói, nằn nì Linh Quan hát cho nghe một bài Niêu tình ty(2). Linh Quan thấy Bảo Ngọc ngồi xuống, vội đứng dậy tránh đi chỗ khác, nghiêm nét mặt nói:

- Tôi khản cổ lắm. Hôm nọ bà đòi chúng tôi vào hát, tôi cũng không hát được.

Bảo Ngọc thấy nó ngồi lên, để ý ngắm một lúc, thì chính là người con gái ngồi viết chữ "Tường" ở dưới hoa tường vi hôm nọ. Nghĩ bụng, xưa nay mình chưa bị người ta chán ghét bao giờ nên rất khó chịu, mặt đỏ lên rồi đi ra. Bọn Bảo Quan không biết vì cớ gì, liền hỏi, Bảo Ngọc nói cho họ biết. Bảo Quan cười nói:

- Cậu hãy chờ một lát. Cậu Tường về bảo nó hát, nhất định nó sẽ hát ngay.

Bảo Ngọc nghe nói, có ý buồn, liền hỏi:

- Anh Tường đi đâu? .

- Cậu ấy vừa mới đi. Chắc là Linh Quan cần cái gì, cậu ấy đi tìm cho nó đấy.

Bảo Ngọc lấy làm lạ, đứng chờ một lúc, thấy Giả Tường ở ngoài chạy về, tay cầm cái lồng chim, trong lồng có con chim sẻ và một cái cầu nhỏ để làm trò. Hắn hăm hở đến tìm Linh Quan, chợt trông thấy Bảo Ngọc, đành phải đứng lại.

Bảo Ngọc hỏi:

- Giống chim sẻ gì thế mà biết ngậm cờ múa trên cầu làm trò?

- Đây là giống chim sẻ cổ trắng.

- Mua hết bao nhiêu tiền?

- Một lạng tám đồng bạc.

Hắn vừa nói vừa mời Bảo Ngọc ngồi, rồi chạy vào nhà Linh Quan. Bảo Ngọc không nghĩ đến chuyện hát nữa, chỉ muốn xem Giả Tường với Linh Quan ra thế nào. Giả Tường chạy đến phòng Linh Quan cười bảo:

- Em lại mà xem, cái này thích lắm. .

Linh Quan đứng dậy hỏi:

- Cái gì?

- Anh mua con chim sẻ để em chơi đỡ buồn. Anh bắt nó làm trò cho em xem nhé!

Nói xong, hắn lấy nắm thóc nhử con chim sẻ, quả nhiên nó nhảy ngay lên cái cầu làm trò. Nó ngậm ngay cái mặt nạ và cái cờ múa tít. Bọn con hát đều cười "Thú quá", chỉ có Linh Quan cười nhạt một tiếng, tỏ vẻ bực mình, nằm xuống ngủ.

Giả Tường cười hỏi:

- Có hay không?

- Nhà các anh đã bắt bao nhiêu con nhà tử tế, đem nhốt ở trong chuồng này vẫn còn chưa đủ hay sao, lại bắt cả chim sẻ vào đây để làm trò nữa. Rõ ràng anh đem con chim sẻ ra hình dung chúng tôi để làm trò cười, lại còn hỏi có hay không!

Giả Tường nghe nói, đứng ngay dậy, vội vàng thề và nói:

- Hôm nay sao mà tôi u mê thế? Bỏ ra vài lạng bạc mua con chim sẻ về, tưởng để em chơi cho đỡ buồn, ngờ đâu lại đến nông nỗi này. Thế thì anh đem thả nó ra cũng là một cách để em tai qua nạn khỏi đấy

Nói xong, hắn thả con chim ra và bẻ gãy cả lồng.

Linh Quan lại nói:

- Con chim không như người, nhưng nó cũng có mẹ ở trong tổ, thế mà anh bắt nó về làm trò chơi, liệu có nó bằng lòng hay không? Hôm nay tôi bị thổ huyết, bà cho người gọi anh đi mời thầy thuốc đến xem bệnh cho tôi, thế mà anh lại đem cái của ấy về để làm trò cười. Hạng người như tôi hay đau yếu luôn, lại chả được ai nhìn ngó, đoái hoài đến!

Giả Tường vội nói:

- Chiều hôm qua tôi đi mời thầy thuốc, nhưng ông ấy bảo không việc gì, cứ cho uống hai thang, hôm sau sẽ đến xem lại. Ngờ đâu hôm nay em lại thổ huyết nữa. Tôi phải đi mời thầy thuốc đến ngay.

Hắn nói xong định ra đi. Linh Quan lại nói:

- Hãy hượm đã, trời nắng chang chang thế này mà anh tức khí đi ngay thì tôi cũng không xem đâu!

Giả Tường nghe nói, đành phải dừng lại.

Bảo Ngọc thấy quang cảnh vậy, đứng ngẩn người ra, mới hiểu cái thâm tâm của Linh Quan viết chữ "Tường" hôm trước.

Không thể đứng yên được, Bảo Ngọc quay đi ngay. Giả Tường bấy giờ bụng chỉ để vào Linh Quan, nên không nghĩ gì đến ai.

Khi Bảo Ngọc về, cũng chỉ có bọn con hát ra tiễn thôi.

Bảo Ngọc trong bụng vẩn vơ nghĩ ngợi, ngơ ngẩn ra về; đến viện Di Hồng, thấy Đại Ngọc và Tập Nhân đương ngồi nói chuyện. Bảo Ngọc bước vào thở dài nói với Tập Nhân:

- Câu chuyện tôi nói với chị chiều hôm qua, thực là không đúng tý nào. Chẳng trách ông thường bảo tôi "Lấy ống nhòm trời, lấy bầu đong biển". Hôm qua tôi bảo bao nhiêu nước mắt của các chị chỉ để chôn cho một mình tôi, thật là nhầm to, nay suy ra, thì nước mắt của các chị có phải để dành cho một mình tôi cả đâu. Từ giờ về sau, mỗi một người chỉ được hưởng một số nước mắt về phần mình thôi.

Tập Nhân cho là đêm qua chẳng qua câu chuyện nói đùa, đã quên đi rồi, không ngờ Bảo Ngọc lại gọi ra, liền cười nói:

- Cậu thực là điên!

Bảo Ngọc lẳng lặng không trả lời. Từ đó mới nhận rõ là tình duyên của người ta, trời đã định trước, nên chỉ ngấm ngầm đau xót: "Không biết sau này ta chết, ai là người rỏ nước mắt?"

Đại Ngọc thấy bộ dạng Bảo Ngọc như thế, biết ngay là lại bị ám ảnh gì rồi, không tiện hỏi nhiều, liền nói:

- Tôi vừa mới ở bên mợ, nghe thấy nói ngày mai là ngày sinh nhật dì Tiết, bảo tôi tiện đường đến hỏi anh có đi hay không, thì cho người đến đằng nhà nói một tiếng.

Bảo Ngọc nói:

- Ngày sinh nhật ông Cả, tôi cũng không đến nữa là. Bây giờ đến đó, lỡ ra người ta trông thấy, còn ra làm sao nữa? Tôi chẳng đi đâu cả. Trời nóng thế này, mà phải đóng bộ quần áo vào thì phiền quá, tôi không đi chắc dì cũng chả giận đâu.

Tập Nhân vội nói:

- Sao cậu lại nói thế? Không thể ví bà dì với ông Cả được, vì nhà ở gần hơn, lại trong thân thích với nhau. Nếu cậu không đi thì chẳng làm cho bà ấy lại sinh nghĩ ngợi hay sao? Cậu sợ nóng, thì sáng sớm đến mừng tuổi ngay, uống chén nước trà rồi về, thế chả tốt hơn ư?

Bảo Ngọc chưa kịp nói thì Đại Ngọc cười nói ngay:

- Nghĩ lúc người ta ngồi đuổi muỗi cho mình, thì anh cũng nên đến là phải.

Bảo Ngọc không hiểu thế nào, vội hỏi:

- Ngồi đuổi muỗi là thế nào?

Tập Nhân kể lại cho Bảo Ngọc nghe câu chuyện hôm qua, khi Bảo Ngọc ngủ, không có ai ngồi cùng, cô Bảo phải ngồi lại một lúc. Bảo Ngọc vội nói:

- Quá đáng! Tôi ngủ không biết, sao lại dám khinh thường cô ấy như thế? Thế nào ngày mai tôi cũng phải đi.

Đang nói chuyện thì Tương Vân ăn mặc chỉnh tề đến cáo từ và nói ở nhà cho người sang đón về. Bảo Ngọc, Đại Ngọc đứng dậy mời ngồi, nhưng Tương Vân không chịu ngồi, hai người đành phải đứng dậy đi tiễn. Bây giờ Tương Vân nước mắt ràn rụa, vì có người nhà đứng đấy, nên không dám tỏ vẻ buồn rầu. Một lúc Bảo Thoa chạy đến, lại càng thêm quyến luyến, không nỡ rời tay. Bảo Thoa nghĩ bụng: "Nếu cứ quyến luyến mãi để người nhà cô ta về mách với bà dì, thì khi cô ta về, sẽ bị dằn vặt khó chịu". Vì thế phải giục Tương Vân đi. Mọi người tiễn ra đến cửa ngoài. Bảo Ngọc còn muốn tiễn xa nữa, nhưng Tương Vân ngăn lại. Một chốc quay lại gọi Bảo Ngọc đến gần, khẽ dặn:

- Nếu cụ không nhớ đến tôi, thì anh nên nhắc nhở, để cho người đi đón tôi sang.

Bảo Ngọc vội nhận lời. Tương Vân lên xe đi rồi, mọi người mới về.

-----------------------

(1). Thời phong kiến, phụ nữ đứng như vậy là một cứ chỉ khinh bạc.

(2). Sợi tơ bay dưới ánh sáng.

Hồi thứ ba mươi bảy

Thu Sảng trai, định mở Xã hải đường

Hành Vu uyển, đêm nghĩ bài hoa cúc

Giả Chính được bổ chức học quan, liền chọn ngày hai mươi tháng tám lên đường. Hôm ấy, ông ta vào làm lễ cáo từ miếu tổ, cáo từ Giả mẫu, ra đi. Bọn Bảo Ngọc và mọi người gạt nước mắt tiễn theo.

Giả Chính đi rồi, Bảo Ngọc ở trong vườn tha hồ lêu lổng chơi bời. Ngày đi tháng lại, thì giờ trôi qua. Một hôm buồn quá Bảo Ngọc đi lượn quanh chỗ Giả mẫu, Vương phu nhân một lúc rồi lại về vườn. Vừa thay quần áo, thấy Thúy Mặc cầm mảnh giấy hoa tiên đưa đến. Bảo Ngọc nói:

- Ta định đến thăm cô Ba, lại quên mất, giờ chị đến may quá cô ấy đã đỡ chưa?

- Cô tôi đỡ rồi, chẳng qua cảm lạnh một tí thôi. Hôm nay không uống thuốc nữa.

Bảo Ngọc mở hoa tiên ra xem, thấy viết:

Em Thám kính thưa anh Hai,

Đêm trước, vừa tạnh mưa, mặt trăng trong suốt, tiếc cảnh dẹp không mấy khi được gặp, nên em chưa đi ngủ ngay. Đêm đã canh ba, em vẫn còn quanh quẩn ở dưới giàn ngô đồng, gặp phải gió sương trêu cợt, hơi bị cảm nhẹ. Trước anh đã thân hành đến yên ủi dặn dò. lại sai thị nhi sang thăm, và đưa biếu quả vải tươi với bút thiếp của Nhan Chân Khanh(1). Sao anh yêu mến chân thiết em quá thế? Giờ đương lúc nằm trên giường yên tĩnh, chợt nghĩ đến người xa dù ở trong trường danh lợi, cũng còn tìm nơi sông núi, mời mọc xa gần để qua lại vui chơi, tìm hỏi bầu bạn, kết thân với vài ba người cùng chung chí hướng; hoặc dựng văn đàn, hoặc mở thi xã tuy hứng thú nhất thời, nhưng cũng nghìn năm để tiếng. Em không có tài, nhưng được gần nơi suối khe vòm đá, lại thêm mến cô Tiết, cô Lâm là những người phong nhã. Thềm trăng sân gió, tiếc chưa được sum họp thi nhân; rèm hạnh khe đào, may có thể say sưa ngâm vịnh. Ai bảo đua tài nơi Liên xã(2), chỉ dành cho đám râu mày; mà họp mặt núi Đông Sơn(3), lại không nhường cho bọn son phấn? Nếu được anh đội tuyết đến chơi, em xin quét hoa để đợi.

Kính thư.

Bảo Ngọc xem xong, mừng quá, vỗ tay cười nói:

- Ai ngờ em Ba lại phong nhã đến thế! Phải sang bàn việc này mới được.

Nói xong đi ngay. Thúy Mặc chạy theo. Khi đến đình Thấm Phương, thấy một bà già đứng chực ở cửa sau vườn, tay cầm cái thiếp đón trình:

- Anh Vân đến hầu cậu, đương chờ ở cửa sau, nhờ tôi đem thiếp lại đây.

Bảo Ngọc giở xem, thấy viết:

Con là Vân, xin kính thăm thân phụ khoẻ mạnh luôn. Từ khi nhờ ơn trời, cho phép được gần dưới gối, ngày đêm mong mỏi một bề hiếu thuận, nhưng không có dịp để tỏ lòng hiếu thảo. Nhân được giữ việc mua hoa, trên nhờ hồng phúc phụ thân, con quen nhiều thợ trồng hoa và thấy nhiều vườn hoa đẹp. Vừa rồi thấy cây hải đường trắng là giống hiếm có, con đi tìm mãi mới mua được hai chậu. Nếu phụ thân coi con như con đẻ, xin nhận lấy để thưởng chơi. Vì trời đương nóng nực, con vào thẳng trong vườn, sẽ làm trở ngại cho các cô, nên không dám đến hầu tận nơi. Con viết thư này kính dâng và chúc phụ thân mạnh khỏe.

Con là Vân bái thư.

Bảo Ngọc xem rồi cười nói:

- Nó đến một mình hay có người nào nữa?

Bà già nói:

- Có một mình đem theo hai chậu hoa.

- Bà ra bảo nó, tôi biết rồi. Cảm ơn nó nghĩ đến tôi, rồi bà bưng hai chậu hoa vào trong nhà cho tôi.

Bảo Ngọc cùng Thúy Mặc đến Thu Sảng trai, đã thấy Bảo Thoa, Đại Ngọc, Nghênh Xuân, Tích Xuân đều ở đấy cả.

Mọi người thấy Bảo Ngọc đến, cười ầm lên nói:

- Lại thêm một người nữa!

Thám Xuân cười nói :

- Tôi cũng không nỗi tục lắm, ngẫu nhiên nghĩ đến việc này, viết mấy cái thiếp mời, không ngờ lại được các vị đến đủ cả.

Bảo Ngọc cười nói:

- Tiếc là hơi muộn, đáng lẽ nên mở thi xã sớm hơn nữa mới phải.

Đại Ngọc nói:

- Anh chị em việc mở thi xã, đừng tính tôi vào, tôi không dám dự đâu.

Nghênh Xuân cười nói:

- Cô mà không dám, còn ai dám nữa?

Bảo Ngọc nói:

- Đây là việc rất đứng đắn và lớn lao. Chúng ta nên hăng hái lên, đừng người nọ nhường cho người kia. Ý định của mỗi người thế nào, cứ việc nói ra, để chúng ta bàn bạc. Chị Bảo và cô Lâm hãy nói ý định của mình ra.

Bảo Thoa nói:

- Vội làm gì thế? Người đã đến đủ đâu.

Bỗng Lý Hoàn đến, cười nói:

- Nhã quá nhỉ! Định mở thi xã à! Tôi xin nhận chức Chưởng đàn. Mùa xuân vừa rồi, tôi vẫn có ý ấy, nhưng nghĩ mình không biết làm thơ, thì bày trò làm gì. Vì thế tôi quên đi, không nhắc đến nữa. Bây giờ cô Ba đã cao hứng, thì tôi cũng xin giúp để góp phần vui chung.

Đại Ngọc nói:

- Đã định mở thi xã thì chúng ta sẽ là thi nhân cả, trước hết nên bỏ những tiếng xưng hô "chị, em, chú, mợ" đi, mới không tục.

Lý Hoàn nói:

- Phải lắm. Đặt những biệt hiệu để gọi nhau mới nhã hơn. Tôi xin tự đặt cho tôi là "Đạo Hương lão nông"(4), không ai được giành cái tên ấy.

Thám Xuân cười nói:

- Tôi là Thu Sảng cư sĩ.(5)

Bảo Ngọc nói:

- Những chữ cư sĩ và chủ nhân không lấy gì làm nhã, mà lại lôi thôi. Ở đây có cây ngô đồng và ba tiêu, lấy nó đặt tên thì hay hơn.

Thám Xuân cười nói:

- Có đây, tôi thích nhất là cây ba tiêu, gọi ngay tôi là Tiêu hạ khách(6) cũng được.

Mọi người đều nói:

- Có phong cách đặc biệt! Rất thú vị!

Đại Ngọc cười nói:

- Chúng ta kéo nó ra nướng làm nem uống rượn đi!

Câu nói ấy không ai hiểu cả. Đại Ngọc lại cười nói:

- Trang Tử có nói: "Lá chuối che con hươu", chị ấy tự xưng là Tiêu hạ khách, thì chẳng phải con hươu là gì? mang ngay hươu làm nem đi!

Mọi người nghe nói cười ầm lên. Thám Xuân cũng cười nói:

- Cô lại mắng khéo người ta đấy à? Chờ đấy, tôi đã nghĩ hộ cho cô một mỹ hiệu rất xứng đáng.

Rồi lại nói với mọi người:

- Ngày trước Nga Hoàng và Nữ Anh khóc nhiều, nước mắt nhỏ vào cây trúc, thành ra vằn khúc, nên người đời sau đặt tên là: "Tương Phi trúc"; bây giờ cô ấy ở quán Tiêu Tương, tính lại hay khóc, chắc sau này những cây trúc ở đó sẽ biến thành cây trúc có vằn cả. Từ giờ chúng ta gọi cô ấy là Tiêu tương phi tử mới đúng.

Mọi người nghe nói, đều vỗ tay khen hay. Đại Ngọc ngồi cúi đầu, không nói câu gì. Lý Hoàn cười nói:

- Tôi đã đặt hộ cô Tiết một biệt hiệu rất hay, chỉ có ba chữ thôi.

Mọi người vội vã hỏi:

- Chữ gì?

Lý Hoàn nói:

- Tôi phong cho cô ấy là Hành Vu Quân, các người nghĩ thế nào?

Thám Xuân nói:

- Tên phong ấy cũng rất hay.

Bảo Ngọc nói:

- Còn tôi, nhờ chị em đặt hộ cho một biệt hiệu.

Bảo Thoa cười nói:

- Anh đã có hiệu sẵn rồi, ba chữ Vô sự mang(6) đúng lắm.

Lý Hoàn nói:

- Thôi cứ gọi hiệu cũ của chú là Giang động hoa chu(7) là được rồi.

Bảo Ngọc cười nói:

- Đó là chuyện lúc còn bé, gợi ra làm gì nữa.

Thám Xuân nói:

- Anh có nhiều tên hiệu, còn phải đặt làm gì. Từ nay chúng tôi gọi gì, anh cứ thế mà thưa, thế là được rồi.

Bảo Thoa nói:

- Để tôi đặt cho anh một tên hiệu, kể ra thì rất tục nhưng lại rất đúng với anh. Ở đời khó nhất là phú quý, mà cũng khó nhất là nhàn rỗi, hai cái ấy không thể có cả được, vậy mà anh lại có cả hai. Thôi cứ gọi anh là Phú quý nhàn nhân.

Bảo Ngọc cười nói:

- Tôi đâu dám thế! Thôi tuỳ chị em muốn gọi là gì thì gọi.

Đại Ngọc nói:

- Gọi bừa như thế sao được? Anh ở viện Di Hồng, thì cứ gọi anh là Di Hồng công tử có hay không?

Mọi người đều nói:

- Cũng đúng đấy!

Lý Hoàn nói:

- Còn cô Hai, cô Tư đặt tên hiệu là gì?

Nghênh Xuân nói:

- Chúng em không biết làm thơ, thì đặt tên hiệu làm gì?

Thám Xuân nói:

- Dù sao cũng nên đặt hiệu mới phải.

Bảo Thoa nói:

- Cô Hai ở Tử Lăng châu, thì lấy hiệu Lăng Châu, cô Tư ở Ngẫu Hương tạ, thì lấy hiệu Ngẫu Tạ là xong.

Lý Hoàn nói:

- Như thế là hay rồi. Nhưng kể tuổi thì tôi lớn hơn, các người phải theo tôi. Tôi nói gì các người phải nghe theo. Trong bảy người chúng ta, tôi và cô Hai, cô Tư không biết làm thơ, thì nên chừa ba chúng tôi ra. Chúng tôi xin nhận mỗi người một việc.

Thám Xuân cười nói:

- Đã có biệt hiệu mà cứ gọi tên cũ, thà chẳng đặt cho xong. Từ giờ ai gọi sai sẽ phải phạt mới được.

Lý Hoàn nói:

- Đã đặt thi xã thì nên đặt lệ phạt. Bên nhà tôi rộng hơn, nên họp ở đấy. Tôi không biết làm thơ, nhưng các vị thi nhân cũng không hẳn là ghét tục, mà để cho tôi làm chủ, tất nhiên tôi cũng trở nên thanh nhã. Xin cứ cử tôi làm xã trưởng. Nhưng một mình tôi làm xã trưởng không đủ, cần phải cử thêm hai vị phó xã trưởng nữa. Tôi xin mời hai vị túc nho Lăng Châu và Ngẫu Tạ: một vị ra đầu bài và hạ vần, một vị viết tinh tả và giám sát. Nhưng cũng không câu nệ ba chúng tôi nhất thiết không làm thơ, nếu gặp đầu bài nào, vần nào hơi dễ, chúng tôi sẽ tùy tiện làm thôi. Còn bốn vị thì phải theo hạn định. Ý tôi như thế đấy, nếu các vị không bằng lòng, thì tôi không dám vào hội nữa.

Xưa nay Nghênh Xuân, Tích Xuân vẫn không thích làm thơ, nhất là lại ở trước mặt Bảo Thoa và Đại Ngọc. Giờ nghe nói thế, rất hợp ý mình, hai người đều nói "Phải lắm".

Thám Xuân cũng hiểu ý ấy, thấy hai người bằng lòng, cũng hùa theo ngay, không nài ép nữa, liền cười nói:

- Thôi được rồi, nhưng nghĩ cũng buồn cười, chính tôi nêu ra việc này, lại để ba vị đến cai quản tôi.

Bảo Ngọc nói:

- Đã thế thì chúng ta đến ngay thôn Đạo Hương đi.

Lý Hoàn nói:

- Sao vội thế. Hôm nay mới chỉ bàn thôi, để tôi mời họp lại sẽ hay.

Bảo Thoa nói:

- Phải định mấy ngày một lần họp mới được.

Thám Xuân nói:

- Nếu họp luôn thì mất thú. Trong một tháng chỉ nên họp độ hai ba lần thôi.

Bảo Thoa nói:

- Một tháng họp hai lần là đủ rồi. Đã định hẳn ngày thì dù mưa gió cũng phải họp. Ngoài hai ngày ấy ra, ai có cao hứng, tình nguyện họp thêm, hoặc mời đi chỗ khác, hoặc cứ ở luôn đấy cũng được, như thế chẳng vui vẻ thích thú lắm sao?

Mọi người đều nói:

- Ý ấy rất hay.

Thám Xuân nói:

- Việc này tự tôi khởi xướng ra, phải để cho tôi làm chủ trước mới khỏi phụ cao hứng của tôi.

Lý Hoàn nói:

- Đã thế thì ngày mai cô mở đầu đi có được không?

Thám Xuân nói:

- Ngày mai không bằng hôm nay, cứ bắt đầu ngay bây giờ. Chị ra đầu bài, "ông" Lăng Châu hạ vần, "ông" Ngẫu Tạ giám trường.

Nghênh Xuân nói:

- Theo ý tôi, cũng nên giao cho một người nào ra đầu bài và hạ vần, cứ nên bỏ thăm mới công bằng.

Lý Hoàn nói:

- Khi tôi mới đến đây, trông thấy người ta mang đến hai chậu hải đường trắng đẹp lắm. Sao không vịnh ngay hoa ấy.

Nghênh Xuân nói:

- Hoa chưa được thưởng, đã làm thơ à?

Bảo Thoa nói:

- Chẳng qua là hoa hải đường trắng, cần gì phải trông thấy mới làm được thơ? Người đời xưa làm thơ phú, chỉ cốt mượn vật để ngụ ý mình thôi. Cứ chờ trông thấy mới làm, thì bây giờ chả còn bài thơ nào nữa.

Nghênh Xuân nói:

- Đã thế thì tôi hạ vần đây.

Nói xong, chạy đến tủ sách, lấy một quyển thơ, mở một tờ ra, là một bài thơ "Thất ngôn Đường luật", liền đưa cho mọi người xem, thế là ai cũng phải làm thơ thất ngôn. Nghênh Xuân gập sách lại, bảo một a hoàn nhỏ:

- Mày tùy ý nói ra một chữ.

A hoàn đương đứng tựa cửa, nên nói ngay chữ môn (cửa).

Nghênh Xuân cười nói:

- Chữ môn theo vần thập tam nguyên. Như vậy là câu thơ đầu phải lấy chữ "môn".

Nói rồi bảo đưa cái hộp tập vận, và kéo cái ngăn có vần thập tam nguyên ra, rồi bảo a hoàn trỏ vào bốn chữ. A hoàn chỉ đúng bốn chữ bồn, hồn, ngôn, hôn(8).

Bảo Ngọc nói:

- Chữ bồn và chữ môn khó gieo cho hay được.

Thị Thư xếp sẵn bốn phần bút giấy, rồi ai nấy đều ngồi lặng lẽ nghĩ thơ. Chỉ có Đại Ngọc khi vịn cây ngô đồng, khi nhìn trời thu, khi đùa với bọn a hoàn. Nghênh Xuân lại sai a hoàn thắp một cây mộng điềm hương(9). Nén hương chỉ dài ba tấc, xấp xỉ bằng cái bấc đèn, vì là mau tàn, cho nên lấy hương định hạn. Nếu hương cháy hết, ai chưa làm đong, sẽ bị phạt.

Thám Xuân làm xong trước, lấy bút viết ra, lại xóa xóa chữa chữa một lúc, rồi đưa cho Nghênh Xuân. Thám Xuân quay lại hỏi Bảo Thoa:

- Hành Vu quân đã làm xong chưa?

- Làm xong rồi, nhưng không hay.

Bảo Ngọc chắp tay sau lưng, đi đi lại lại trên thềm và bảo Đại Ngọc:

- Em xem kìa, người ta đã làm xong cả rồi.

- Anh cứ để mặc tôi.

Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa đã viết xong, liền hỏi:

- Nguy rồi! Hương chỉ còn một tấc, mà tôi mới nghĩ được bốn câu!

Lại quay bảo Đại Ngọc:

- Hương gần cháy hết rồi, em cứ ngồi ở chỗ đất ẩm làm gì?

Đại Ngọc cũng không trả lời. Bảo Ngọc nói:

- Thôi! Đành mặc kệ cô, dù hay dù dở, tôi cứ viết ra cho xong.

Nói xong, chạy đến bàn viết.

Lý Hoàn nói:

- Chúng ta bắt đầu xem thơ đây. Xem xong những bài này, ai còn chưa nộp, sẽ phải phạt.

Bảo Ngọc nói:

- Đạo Hương lão nông tuy làm thơ không hay, nhưng xem thơ rất tinh, rất công bằng, lời phê của "ông" ai cũng phải phục.

Mọi người đều gật đầu:

Bấy giờ bắt đầu xem thơ của Thám Xuân, thấy viết:

VỊNH HOA HẢI ĐUỜNG TRẮNG

Cỏ lướt bên ngoài lúc xế chiều,(10)

Tạnh mưa xanh ngắt chậu đầy rêu.

Ngọc pha vẻ quí người khôn đọ,

Tuyết trắng màu da bụng đã xiêu.

Nhị ngát hoa khoe chiều ẽo ợt,

Canh khuya trăng gợn bóng treo leo.

Cảo tiên(11) này bảo đừng bay vội,

Vịnh cảnh hoàng hôn dãi tấm yêu.

Rồi xem đến bài của Bảo Thoa:

Cửa khép vì hoa khép suốt ngày,

Tưới hoa bình nước sẵn cầm tay.

Phấn son rửa sạch thềm thu nọ,

Băng tuyết vời về bực móc đây.

Lạt thếch hoa càng thêm được vẻ,

Buồn tênh ngọc cũng phải chau mày.

Muốn dâng Bạch Đế mầu trong trắng,

Lẳng lặng chờ đây lúc xế tây.

Lý Hoàn cười nói:

- Rút lại thì bài của Hành Vu quân là hay!

Nói xong lại xem bài của Bảo Ngọc:

Lặng lẽ trời thu dọi cửa lầu,

Bảy cành chụm lại tuyết pha mầu.

Thái Chân(12) ra tắm làn băng nuột,

Tây tử ngồi nhăn nét ngọc sầu

Gió sớm khôn tan ngàn mối hận,

Mưa đêm lại đọng mấy dòng châu.

Lan can đứng tựa lòng man mác,

Sáo thổi chầy deo khéo cợt nhau.

Mọi người xem rồi, Bảo Ngọc nói:

- Bài của Thám Xuân hay.

Lý Hoàn lại khen bài của Bảo Thoa hay hơn và nói:

- Lời thơ có thần.

Rồi lại giục Đại Ngọc, Đại Ngọc liền hỏi:

- Các người xong cả rồi à?

Nói xong cầm bút ngoáy một lúc, rồi vứt cho mọi người.

Bọn Lý Hoàn cầm lấy xem, thấy:

Lơ lửng rèm Tương cửa khép hờ,

Đất băng chậu ngọc, khéo xinh chưa.

Mới đọc hai câu, Bảo Ngọc đã reo ầm lên: "Ở đâu mà nghĩ ra được tứ ấy?"

Lại xem câu dưới:

Lê đầy nhị trắng đành vay ngọt,

Mai sẵn hồn thơm cứ mượn bừa.

Mọi người đều khen hay, nói: "Quả nhiên có một ý nghĩ khác người". Lại xem đến mấy câu dưới:

Cõi nguyệt tiên may tay áo trắng,

Buồng thu khách gạt hạt châu sa.

Ngượng ngùng biết ngỏ cùng ai nhỉ?

Gió lạnh đêm mờ đứng ngẩn ngơ.

Mọi người xem xong đều nói:

- Bài này hơn cả.

Lý Hoàn nói:

- Về tình tứ phong lưu thì bài này hay hơn, nhưng về hàm súc hồn hậu thì vẫn phải nhường cho Hành Vu Quân.

Thám Xuân nói:

- Lời phê rất đúng. Tiêu Tương phi tử phải đứng thứ hai.

Lý Hoàn nói:

- Di Hồng công tử phải đội bảng, có chịu hay không?

Bảo Ngọc nói:

- Bài của tôi thực không hay, lời bình ấy rất công bằng - Lại cười nói - Nhưng cần phải châm chước lại hai bài của Hành Vu Quân và Tiêu Tương.

Lý Hoàn nói:

- Đây là theo bình luận của tôi, không can đến các vị, nếu ai nói nữa sẽ bị phạt.

Bảo Ngọc nghe nói, đành phải thôi. Lý Hoàn nói:

- Từ giờ về sau, tôi định mỗi tháng họp hai lần, vào ngày mồng hai và mười sáu. Tôi nhận việc ra đầu bài và hạn vần. Ai còn cao hứng, cứ việc chọn vào ngày khác, dù có họp luôn cả tháng tôi cũng mặc. Trừ ngày mồng hai và ngày mười sáu là phải đến họp ở nhà tôi.

Bảo Ngọc nói:

- Bây giờ nên đặt tên hội đi.

Thám Xuân nói:

- Đặt tên tục quá thì không hay, mới quá lại hoá ra kỳ quặc cũng không đẹp. Vừa rồi mới làm bài thơ hải đường, thì đặt ngay là "Hải Đường xã" cũng được. Tuy hơi tục đấy, nhưng là việc có thực, không quan hệ gì.

Mọi người lại bàn một lúc, uống rượu, ăn hoa quả qua loa rồi đi, có người về nhà, có người đến chỗ Giả mẫu và Vương phu nhân.

Tập Nhân thấy Bảo Ngọc xem xong tờ thiếp của Giả Vân rồi cùng Thuý Mặc ra đi, không biết là việc gì. Sau lại thấy bà già ở cửa sau đem hai chậu hoa hải đường vào, Tập Nhân hỏi ở đâu đem đến, bà già kể lại đầu đuôi cho nghe. Tập Nhân bảo họ mang ra bày tử tế, rồi mời họ xuống buồng dưới ngồi. Sau đó Tập Nhân vào trong nhà cân và gói cẩn thận sáu đồng bạc, lại lấy ba trăm đồng tiền mang ra đưa cho bà già nói:

- Số bạc này thưởng cho bọn trẻ con mang chậu hoa đến. Số tiền này thì cho các bà uống rượu.

Bọn bà già đứng dậy, mặt mũi hớn hở, tạ ơn, luôn mồn từ chối. Tập Nhân nhất định không nghe, mãi họ mới chịu nhận. Tập Nhân lại hỏi:

- Bên ngoài cửa sau có bọn trẻ con trực nhật không?

Bà già vội nói:

- Ngày nào cũng có bốn đứa trẻ con chực sẵn ở đấy để xem có sai bảo gì không. Nếu cô cần sai việc gì, tôi sẽ bảo chúng đi.

Tập Nhân cười nói:

- Tôi có việc gì mà sai? Hôm nay cậu Bảo muốn sai người sang đưa cho cô Sử ít quà, may có các bà đến đây, nhân tiện lúc về, bảo hộ bọn trẻ chực ở cửa sau thuê cho cái xe. Đến khi về, các bà đến đây mà lấy tiền và đừng cho chúng nó chạy bậy sang bên nhà.

Bọn bà già vâng lời đi.

Tập Nhân vào trong buồng lấy cái đĩa đựng quà để đưa sang cho Tương Vân. Khi tìm trong ngăn tủ, không còn cái đĩa nào, Tập Nhân ngoảnh lại thấy bọn Tình Văn, Thu Văn, Xạ Nguyệt đương ngồi thêu, liền hỏi:

- Cái đĩa mã não trắng đâu rồi?

Thấy hỏi, người nọ nhìn người kia, nghĩ mãi không biết để ở đâu. Một lúc, Tình Văn cười nói:

- Đựng quả vải đưa sang biếu cô Ba, chưa lấy về.

Tập Nhân nói:

- Nhà còn nhiều thứ kia mà, sao lại lấy cái ấy?

Tình Văn nói:

- Tôi cũng bảo thế, nhưng chỉ có cái đĩa ấy mà để những quả vải thì mới dễ coi. Tôi mang sang, cô Ba cũng khen đẹp, rồi để luôn bên đó. Chị xem lại còn một đôi lọ liên châu để ở ngăn tủ trên cũng chưa mang về.

Thu Văn cười nói:

- Nói đến cái lọ ấy, tôi lại nhớ đến một việc đáng buồn cười! Cậu Bảo nhà ta khi mà động lòng hiếu thảo, thật là hiếu thảo bội phần. Một hôm, trong vườn có hoa quế, cậu ấy bẻ hai cành, định cắm vào lọ để chơi, chợt nghĩ đó là hoa tươi mới nở, không dám chơi trước, liền lấy ngay đôi lọ xuống, đổ nước, cắm hoa vào, sai người mang đi và thân hành xuống biếu bên cụ một lọ, bên bà Hai một lọ. Ngờ đâu bụng hiếu của cậu ấy làm cả người theo cũng được phúc lây. Hôm ấy chính tôi mang đi, cụ trông thấy mừng cuống quít lên, gặp ai cũng nói: "Thực là cháu Bảo có hiếu quá, ngay một cành hoa nó cũng nghĩ đến ta, thế mà có người cứ oán ta hay thương nó". Các chị phải biết xưa nay cụ chẳng nói câu gì với tôi cả, hình như tôi có cái gì không lọt vào con mắt của người; thế mà hôm ấy cụ lại sai người lấy mấy trăm đồng tiền cho tôi, bảo tôi là đáng thương, từ bé hay ốm yếu luôn, thật là một điều may mắn bất ngờ cho tôi. Mấy trăm đồng tiền chả là bao, nhưng được thể diện như thế là rất khó. Rồi đi đến chỗ bà Hai, gặp người và mợ Hai cùng dì Triệu, dì Chu đương lục hòm tìm những quần áo của người khi còn trẻ tuổi, không biết người định lấy để cho ai. Lúc trông thấy tôi, người không tìm quần áo nữa, liền đến xem hoa. Mợ Hai lại đứng cạnh tán tỉnh, khen lấy khen để cậu Bảo, nào là biết hiếu thuận, biết điều phải chăng, cái có cũng như cái không, kể ra một tràng, vừa lấp được họng mọi người, lại làm bà càng hãnh diện, vui mừng thêm, thưởng ngay cho tôi hai cái quần áo may sẵn. Quần áo cũng chẳng đáng là bao, năm nào mà chả có, nhưng không khi nào tôi được hãnh diện như lúc này.

Tình Văn cười nói:

- Con ranh con này, chả biết gì cả! Những cái tốt thì cho người khác, còn những cái thừa thãi bà mới gọi đến mày, thế mà mày lại cho là hãnh diện!

Thu Văn nói:

- Dù cho ai thừa đi nữa, cũng là ơn của bà.

Tình Văn nói:

- Phải như tao thì tao không cần lấy. Thừa người ta rồi mới đến mình! Cũng đều là người trong nhà cả, chả lẽ lại ai quý hơn ai? Áo quần đẹp thì đem cho người, thừa ra mới đến mình, chẳng thà không nhận, dù có phật ý người cũng đành, chứ tao thì không thể chịu nổi thế được.

Thu Văn vội hỏi:

- Cho ai thế hở chị? Hôm nọ em ốm mấy ngày, về nhà, không biết gì cả. Chị bảo cho em biết với.

Tình Văn nói:

- Tao bảo cho mày biết, không lẽ mày đem trả lại bà hay sao!

Thu Văn nói:

- Sao lại như vậy! Tôi biết để mừng đấy thôi. Dù có cho con chó nhà này đi nữa, tôi cũng vẫn phải nhận ơn của bà, ngoài ra không có ý gì khác.

Mọi người nghe vậy cười nói:

- Nó chửi khá đấy! Chả phải bà đã cho con chó hoa rồi ư?

Tập Nhân cười nói:

- Đồ thối họng! Hễ há mồm ra là y như đem tao ra làm trò cười! Rồi đây chưa biết đứa nào sẽ chết ra làm sao.

Thu Văn nói:

- Thế ra chị được áo quần đấy à? Em không biết, xin lỗi chị nhé!

Tập Nhân cười nói:

- Thôi bông đùa vừa vừa chứ? Việc chính là ai đi lấy cái đĩa về bây giờ.

Xạ Nguyệt nói:

- Còn cái lọ thì khi nào rồi cũng nên lấy về. Bên nhà cụ còn có thể để đấy được, chứ bên nhà bà Hai thì đông người lộn xộn, người khác còn khá, chứ cái bọn dì Triệu hễ trông thấy cái gì của nhà này là sinh lòng đen tối, muốn làm thế nào cho hư hỏng mới thôi. Bà Hai thì chẳng trông nom gì đến những thứ ấy, chi bằng lấy ngay về là hơn.

Tình Văn bỏ ngay kim chỉ xuống nói:

- Thế thì tôi đi lấy về nhé.

Thu Văn nói:

- Để tôi đi lấy, chị đi lấy cái đĩa của chị.

Tình Văn nói:

- Để tao đi cho. Có dịp tốt, chúng bay tranh mất cả, không để cho tao đi một chuyến à?

Xạ Nguyệt cười nói:

- Chỉ có lần ấy con Thu Văn mới vớ được món may thôi, chứ có phải ai cũng gặp lúc bà Hai lục quần áo ra cho đâu.

Tình Văn cười nhạt:

- Dù không gặp lúc lục quần áo, nhưng biết đâu thấy tao là người cẩn thận, bà Hai lại chẳng lấy hai lạng bạc trong số tiền chi dùng hàng tháng của người ra cho tao.

Rồi lại cười bảo:

- Chúng mày đừng làm trò ma quỷ lẻn lút với tao nữa, việc gì mà tao chả biết.

Nói xong chạy đi, Thu Văn cũng đi đến nhà Thám Xuân để lấy cái đĩa.

Tập Nhân sắm sửa các thứ xong, gọi vú Tống đến bảo:

- Bà về rửa mặt chải đầu, thay quần áo, rồi đến đây lấy các thứ quà, mang sang biếu cô Sử.

Vú Tống nói:

- Cô cứ việc giao cho tôi, có điều gì cứ dặn, tôi thu xếp xong sẽ đi ngay.

Tập Nhân liền bưng ra hai hộp sơn nhỏ bằng tre đan, mở hộp ra thấy trong đựng hai thứ quả tươi, lại mở hộp kia thấy một đĩa bánh đường quả quế. Tập Nhân nói:

- Đây đều là thứ quả tươi trong vườn năm nay, cậu Bảo sai mang sang để cô nếm. Khi trước cô khen cái đĩa mã não này đẹp, thì cô cứ để lại mà dùng. Hôm nọ cô có bảo tôi thêu cái bao lụa này, nếu cô không cho là xấu, xin hãy dùng tạm. Cậu Bảo và chúng tôi gửi lời hỏi thăm cô.

Vú Tống hỏi:

- Không biết cậu Bảo có còn dặn câu gì nữa không. Cô đi hỏi rồi về bảo tôi, không có lại quên.

Tập Nhân hỏi Thu Văn:

- Cậu ấy đương ở nhà cô Ba phải không?

- Họ đương ở đấy bàn việc mở thi xã gì đó, chẳng dặn gì cả bà cứ việc đi thôi.

Vú Tống nhận các thứ và đi mặc áo quần.

Tập Nhân dặn:

- Bà đi ra đằng cửa sau, có đứa bé và xe đương chờ ở đấy.

Vú Tống đi rồi, Bảo Ngọc mới về, đứng xem hoa hải đường một lúc, rồi vào trong nhà nói với Tập Nhân việc mở hội làm thơ. Tập Nhân kể cho Bảo Ngọc biết việc sai vú Tống đưa quà sang biếu Tương Vân. Bảo Ngọc vỗ tay nói:

- Thôi, tôi quên mất cô ta rồi! Trong bụng cứ băn khoăn, không nhớ ra việc gì, may được chị nhắc đến. Tôi muốn mời cô Sử sang chơi. Hội thơ mà thiếu cô ta thì còn có thú gì nữa.

Tập Nhân nới:

- Cần thiết gì việc ấy? Chẳng qua là trò chơi thôi. Cô ấy có được rộng rãi như các cô, các cậu bên này đâu. Hơn nữa ở trong nhà cô ấy lại không được làm chủ. Khi báo tin, cô ấy muốn sang, nhưng không tự tiện sang được, trong bụng chắc lại áy náy khó chịu.

Bảo Ngọc nói:

- Không sao, tôi sẽ trình cụ cho người sang đón cô ấy.

Đương nói thì vú Tống về, kể lại việc Tương Vân chuyển lời cảm ơn Tập Nhân và nói:

- Cô Sử hỏi cậu Bảo ở nhà làm gì? Tôi nói cậu ấy và các cô đương mở hội thơ. Cô ấy bực lắm nói, họ làm thơ mà chẳng cho mình biết.

Bảo Ngọc nghe nói, liền quay sang giục Giả mẫu cho người đi đón Tương Vân sang. Giả mẫu nói:

- Hôm nay muộn rồi, ngày mai sẽ cho đi sớm.

Bảo Ngọc đành phải thôi, trở về có vẻ buồn rầu. Sáng sớm hôm sau lại sang giục Giả mẫu. Đến chiều, Tương Vân sang, Bảo Ngọc mới yên lòng. Khi gặp nhau, Bảo Ngọc kể hết đầu đuôi cho Tương Vân nghe và muốn cho Tương Vân xem những bài thơ đã làm. Bọn Lý Hoàn nói:

- Không cho xem thơ trước, hãy để cho cô ta viết mấy chữ đã, cô ta đến sau, bắt phạt phải họa thơ. Hay thì mời vào hội, không hay bắt phải làm một bữa rượu rồi mới nói chuyện.

Tương Vân cười nói:

- Các người quên không mời tôi thì đáng bắt phạt mới phải chứ! Xin cho biết hạn vần, tôi tuy chẳng hay ho gì, cũng cố gắng hiến một trò cười. Nếu cho tôi vào hội, dù phải quét nhà, thắp hương tôi cũng vui lòng. Mọi người thấy Tương Vân hứng thú như thế, lại càng vui, đều ân hận: "Sao hôm nọ lại quên bẵng cô ta đi". Liền đưa vần cho Tương Vân họa.

Tương Vân cao hứng quá, chẳng cần cân nhắc sửa đổi gì, vừa nói chuyện vừa nghĩ thơ. Nhân có bút giấy sẵn đấy, liền viết luôn và cười nói:

- Tôi không biết hay dở thế nào, cũng xin tuân lệnh, theo vần họa ra đây hai bài.

Mọi người nói:

- Chúng tôi bốn người làm được bốn bài, đã cho là hết ý rồi, muốn làm thêm một bài nữa cũng không nổi. Thế mà một mình cô Vân lại làm được hai bài. Không biết trong thơ nói những gì? Chắc cô có câu trùng với thơ của chúng tôi.

Họ vừa nói vừa xem, thấy hai bài thơ viết:

Họa bài thơ hải đường trắng.

I

Hôm nọ thần tiên xuống cửa thành,

Lam điền trồng ngọc chậu xinh xinh.

Suơng Nga(13) tính vẫn hay ưa lạnh,

Thiếu nữ(14) lòng đâu nỡ dứt tình.

Tuyết ở nơi nào thu kéo lại,

Mưa từ đêm trước ngấn in rành,

Nhà thơ vui nhỏ, ngâm tràn mãi,

Nỡ để chiều hôm cảnh vắng tanh.

II

Thềm cỏ thông sang cửa tiết la.(15)

Này tường này chậu đẹp bao là.

Hoa vì thích sạch thành trơ trọi,

Người những thương thu dễ ngẩn ngơ.

Giọt lệ khô theo cây đuốc ngọc,

Rèm tinh soi suốt bóng gương nga.

Nỗi riêng muốn ngỏ cùng dì Nguyệt,

Thềm vắng đêm mờ đã chán chưa!

Đọc đến đâu, mọi người đều lấy làm kinh lạ, khen ngợi đến đó.

- Thơ này mới đáng là thơ vịnh hải đường chứ! Thực đúng với tên hội là "Hải đường xã".

Tương Vân nói:

- Ngày mai xin phạt tôi làm chủ. Để mời tôi họp trước một lần có được không?

Mọi người nói:

- Thế thì càng hay.

Rồi họ đem những bài thơ trước ra cho Tương Vân bình một lượt.

Đến chiều, Bảo Thoa mời Tương Vân sang Hành Vu uyển nghỉ. Tương Vân ngồi trước đèn, nghĩ việc thiết tiệc và ra đầu bài. Bảo Thoa nghe Tương Vân tính toán lúc lâu, xem chừng chưa ổn, liền nói:

- Đã mở hội, tất nhiên phải biện tiệc rượn. Tuy là việc chơi, nhưng cũng phải suy tính cho kỹ. Làm thế nào được biện cho mình mà không mang lỗi với người khác, thì mới có thú. Chị ở nhà, có được làm chủ đâu, mỗi tháng chỉ có mấy quan tiền, còn chưa đủ dùng, bây giờ lại làm cái việc không đâu, nếu dì chị biết, lại oán trách chị. Vả chăng, chị có mang tất cả số tiền của chị ra mà tiêu cũng không đủ, không lẽ vì việc này chị về xin tiền bên nhà, hay định xin tiền bên này?

Tương Vân nghe xong, tỉnh ngộ, đâm ra khó nghĩ. Bảo Thoa nói:

- Việc này tôi đã có ý định. Trong hàng cầm đồ nhà tôi có một người buôn chung, ở vùng ông ta có nhiều cua ngon, trước kia ông ta đã mang đến biếu nhà tôi mấy con. Ở bên này từ cụ trở xuống đến người trong vườn, phần nhiều thích ăn cua cả. Hôm nọ mẹ tôi đã nói muốn mời cụ đến vườn thưởng hoa quế và ăn cua, nhưng bận việc chưa mời được. Giờ chị chưa nên gợi chuyện mở hội thơ vội, hãy cứ mời mọi người đến thưởng hoa quế và ăn cua. Khi họ ăn xong, trở về thì bao nhiêu thơ mà chúng ta chẳng làm được? Để tôi nói với anh tôi tìm mấy giỏ cua thật béo, thật to, rồi về cửa hàng nhà tôi lấy mấy vò rượu ngon, lại sắm bốn năm khay hoa quả, như thế chẳng gọn việc, mà mọi người cùng vui cả hay sao?

Tương Vân Nghe nôi, rất cảm phục, khen Bảo Thoa nghĩ việc chu đáo. Bảo Thoa lại cười nói:

- Do lòng thành thực đối với chị mà tôi nói ra câu ấy, chị đừng nên băn khoăn lại cho tôi là khinh rẻ chị, thì phí cả cái tình thân thiết của hai chúng ta. Chị đừng nên nghĩ ngợi gì, tôi sẽ bảo người đi sắm sửa ngay.

Tương Vân vội cười nói:

- Chị nói thế thì vẫn còn ngờ vực tôi. Dù tôi có u mê đến đâu, cũng biết phân biệt lời hay lẽ phải; nếu không thì còn ra người sao được. Tôi không coi chị như là chị ruột thì trước đây những việc rắc rối trong nhà tôi, khi nào tôi lại kể hết cho chị biết.

Bảo Thoa gọi một bà già đến bảo:

- Bà ra nói với cậu Cả, mua cho tôi mấy giỏ cua to, như cua hôm trước ấy. Ngày mai cơm sáng xong, tôi sẽ mời cụ cùng các bà, các cô sang vườn thưởng hoa quế. Bà dặn cậu ấy đừng có quên nhé. Hôm nay tôi đã mời khách rồi đấy.

Bảo Thoa lại nói với Tương Vân:

- Đầu bài thơ không nên lắt léo quá, cứ xem thơ của người trước, có đề mục kỳ quặc và vần hiểm hóc lắm đâu. Nếu ra đầu bài lắt léo quá, hạn vần hiểm hóc quá, thơ không thể nào hay được, có khi đâm ra gò bó, hẹp hòi. Thơ cố nhiên nên tránh những chữ sáo, nhưng cũng không nên quá cầu kỳ, cốt lập ý cho mời, thì lời thơ sẽ không tục. Nhưng rút cục thì việc này, đối với chúng ta, cũng không đáng kể. Phận sự của chúng ta là may dệt thêu thùa. Khi nào rỗi, đem sách bổ ích cho mình ra đọc ít chương, như thế mới là việc chính đáng.

Tương Vân chỉ vầng tràn, rồi cười nói:

- Tôi nghĩ hôm nọ đã làm thơ hải đường rồi, bây giờ nên làm thơ hoa cúc, chị nghĩ thế nào?

Bảo Thoa nói:

- Thơ hoa cúc cũng hợp cảnh đấy, nhưng người trước đã làm nhiều rồi.

- Tôi cũng nghĩ thế, sợ lại rơi vào sáo cũ.

Bảo Thoa nghĩ một lúc, cười nói:

- Được rồi. Bây giờ lấy hoa cúc làm khách, lấy người làm chủ. Mình nghĩ ra mấy đầu bài, mỗi đầu bài có hai cliữ: một chữ "hư" , một chữ "thực". Chữ "thực là "cúc", còn "hư" muốn dùng chữ gì thì dùng. Như thế là vừa vịnh cúc lại vừa kể việc. Người xưa chưa làm thế, cũng không đến nỗi rơi vào sáo cũ. Tả cảnh và vịnh vật, hai cái ấy đi đôi với nhau, như thế mới rộng rãi và mới mẻ.

Tương Vân cười nói:

- Hay lắm! Nhưng không biết dùng chữ "hư" gì cho hay? Chị nghĩ dùm một chữ xem nào?

Bảo Thoa nghĩ một lúc rồi cười nói:

- Cúc mộng cũng được.

- Hay thực! Tôi cũng nghĩ một chữ Cúc ảnh có được không?

- Cũng được, nhưng đã có người làm rồi. Nếu có nhiều đầu bài, thì chữ ấy cũng ghép vào được. Tôi lại có một chữ khác.

- Chữ gì?

- Vấn cúc được không

Tương Vân đập bàn khen hay, liền nói tiếp:

- Tôi cũng có rồi, Phỏng cúc có được không?

Bảo Thoa cũng khen thú lắm, liền nói:

- Chúng ta cố nghĩ mười đầu đề, rồi sẽ hay.

Nói xong, hai người mài mực, nhúng bút. Tương Vân viết. Bảo Thoa đọc, một lúc nghĩ được tất cả mười đầu đề. Tương Vân xem một lượt, cười nói:

- Mười đầu đề chưa đủ thành một bức, phải cố tìm lấy mười hai đầu đề, cũng giống như những trang chữ viết và bức vẽ của người ta vậy.

Bảo Thoa lại nghĩ thêm hai đầu đề nữa, rồi nói:

- Đã thế phải theo thứ tự mà biên ra.

- Hay lắm, thế là làm thành một Cúc phả đấy.

- Bài đầu là ức cúc, nhớ không thấy thì phải đi tìm, nên bài thứ hai là Phỏng cúc. Tìm được rồi, đem đi trồng, nên bài thứ ba là Chủng cúc. Trồng đã có hoa rồi thì ngắm mà thưởng, nên bài thứ tư là Đối cúc. Ngắm rồi thấy hứng thú dồi dào, phải bẻ cành cắm vào lọ, nên bài thứ năm là Cung cúc. Đã cung mà không ngâm vịnh thì sao biết là cúc đẹp, nên bài thứ sáu là Vịnh cúc. Đã vịnh rồi, còn cần phải lấy bút mực vẽ ra nữa, nên bài thứ bảy là Họa cúc. Đã vẽ rồi, mà cứ lẳng lặng không nói gì, thì biết cúc đẹp ở chỗ nào, cần phải hỏi mới biết được nên bài thứ tám là Vấn cúc. Nếu cúc mà biết nói, sẽ làm cho người ta sung sướng quá, nên bài thứ chín là Trâm cúc. Như thế là việc người tuy đã làm xong, nhưng cúc còn nhiều cái đáng vịnh nữa, nên bài Cúc ảnh và Cúc mộng để vào thứ mười và thứ mười một: cuối cùng là bài Tàn cúc, để kết thúc tất cả các bài trước. Như vậy là cảnh đẹp, thú vui trong ba tháng thu đều có đầy đủ.

Tương Vân theo thứ tự chép ra, lại xem một lượt rồi hỏi:

- Nên hạn vần gì?

- Xưa nay tôi không thích hạn vần, cốt thơ cho hay, tội gì cứ phải trói vần. Chúng ta chớ nên học những nhà thơ gò bó, hẹp hòi, cứ ra đầu bài, không cần hạn vần. Cốt sao mọi người nghĩ ra câu thơ hay cho vui, chứ không phải lấy vần ra để làm khó dễ.

- Chị nói rất phải, nếu được thế thì thơ của chúng ta lại càng hay thêm. Nhưng chúng ta chỉ có năm người đều phải làm đủ cả mười hai bài hay sao?

- Nếu thế thì làm khó cho người ta quá. Giờ hãy viết đầu bài cho cẩn thận, bắt buộc theo luật thơ thất ngôn, ngày mai dán lên tường cho mọi người xem, ai làm được bài nào thì cứ làm, nếu đủ sức sẽ làm cả mười hai bài, không thì làm được một bài cũng được. Cứ ai tài giỏi làm nhanh là hơn. Ai đã làm xong mười hai bài của mình rồi, không được làm nữa, trái lệnh sẽ phải phạt.

- Thôi thế là được rồi.

Hai người bàn nhau đâu vào đấy, mới tắt đèn đi ngủ.

---------------------------

(1). Tên chữ là Thanh thần, đỗ tiến sĩ đời Đường, học rộng văn hay, viết các lối chữ rất đẹp. Khi làm thái thủ quận Bình Nguyên, đem quân đi đánh An Lộc Sơn, được phong Lỗ quận công. Sau Lý Hy Liệt làm phản, Chân Khanh bị nó giết.

(2). Tức Bạch Liên Xã, pháp sư Tuệ Tiễn đời nhà Tần, ở chùa Đông Lâm, họp 123 người, vừa nho vừa thích, kết làm bạn nghiên cứu triết lý và phật học. Vì chùa này trồng nhiều sen trắng, nên lấy nó đặt tên.

(3). Ở tỉnh Chiết Giang, Tạ An đời nhà Tấn thường ra chơi ở đây.

(4). Ông già làm ruộng ở Đạo hương thôn.

(5). Người ẩn dật ở Thu sảng trai.

(6). Người đứng dưới cây chuối.

(7). Không có việc nhưng vẫn bận.

(8). Chủ hoa ở động Giang Tiên.

(9). Theo luật thơ Đường, mỗi bài thơ tám câu phải có năm câu gieo đúng vần, tức câu 1, 2, 4, 6, 8. Những vần đều quy từng nhóm, như vần đồng, vần giang, vần chi... Thập tam nguyên tức là vần "nguyên" ở hàng thứ mười ba. Bồn, hồn, ngôn, hôn đi theo mới môn, đều thuộc vần "nguyên".

(10). Thứ hương ngửi vào đâm say sưa.

(11). Những bài thơ dưới đây, hạn vần đều gieo đúng chữ [môn, bồn, hồn, ngôn, hôn] cả, nhưng vì hạn chế của dịch thuật, chúng tôi phải dịch theo vần khác.

(12). Tiên mặc đồ trắng.

(13). Tức Dương quý phi.

(14). Mặt trăng.

(15). Con gái Trương Dật nhà Đường, có sắc đẹp. Lúc đó Trương Dật hẹn gả cho cháu ngoại là Vương Trụ, vì thế hai người vẫn quyến luyến nhau. Đến lúc lớn, Trương Dật đem gả cho người khác. Thiến Nương và Vương Trụ uất ức lắm. Sau Vương Trụ đi thuyền vào kinh, nửa đêm Thiến Nương chợt nhảy qua thuyền rồi rủ nhau trốn vào đất Thục, ở đấy năm năm đẻ được hai con. Khi về thăm nhà, Trương Dật trông thấy sợ lắm, vì con gái mình bị ốm đã mấy năm nay ở trong buồng. Khi Vương Trụ và Thiến Nương đến nhà, người con gái ấy đương nắm ở trong buồng chạy ra đón, thì hợp ngay với Thiến Nương thành một; sau người ta thường dùng chữ "Thiến Nương ly hồn" để tả người con gái vì tình mà chết.

Hồi thứ ba mươi tám

Lâm Tiêu Tương đứng đầu những thơ ngâm cúc

Tiết Hành Vu mỉa đời trong bài vịnh cua

Bảo Thoa và Tương Vân bàn nhau xong. Hôm sau Tương Vân đến mời Giả mẫu sang thưởng hoa quế. Bọn Giả mẫu đều nói: "Nó đã thích như vậy, chúng ta cũng nên sang quấy cho vui". Đến trưa, Giả mẫu dẫn Vương phu nhân, Phượng Thư và mời cả Tiết phu nhân sang bên vườn.

Giả mẫu hỏi:

- Ngồi chỗ nào đây?

Vương phu nhân nói:

- Người thích chỗ nào thì ngồi chỗ ấy.

Phượng Thư nói:

- Đã bày sẵn ở Ngẫu Hương tạ rồi. Ở đấy có hai cây quế, hoa nở rất đẹp, nước sông lại trong biếc, ngồi trên nhà thủy tạ chẳng sáng sủa hay sao? Nhìn mặt nước, mắt càng sáng ra.

Giả mẫu nói: "Tốt đấy". Liền dẫn mọi người đến Ngẫu Hương tạ. Ngẫu Hương tạ làm ở giữa hồ, bốn mặt có cửa sổ, hai bên có hành lang từ ngoài vào bờ, có cầu quanh co. Khi mọi người đi qua cầu tre, Phượng Thư vội đỡ Giả mẫu và nói:

- Xin bà cứ bước bạo lên, không việc gì đâu, cầu tre thì cứ kẽo kẹt như thế đấy.

Một lúc vào đến trong nhà, trông thấy hai cái án bằng tre, đặt ở ngoài hiên: một cái bày bát đũa, đồ đùng uống rượu, một cái bày khay trà, đồ trà và các thứ đĩa chén. Bên này có mấy a hoàn đương quạt lò hâm rượư. Giả mẫu cười nói:

- Ở đây cái gì cũng sạch sẽ cả, trà uống chắc ngon.

Tương Vân cười nói:

- Đó là chị Bảo cháu xếp đặt hộ cả đấy.

- Con bé ấy rất chu tất, việc gì cũng nghĩ đâu vào đấy cả.

Vừa nói Giả mẫu vừa nhìn lên trên cột, thấy đôi câu đối khảm xà cừ sơn đen, liền bảo Tương Vân đọc:

Sen ấu hương thơm xông nhịp trúc;

Phù dung bóng ngả dọi chèo lan.

Giả mẫu nghe xong, ngẩng lên nhìn cái biển, rồi quay lại bảo Tiết phu nhân:

- Ta lúc bé ở nhà cũng có một cái thủy tạ như thế này, gọi là Chẩm Hà các. Khi ấy ta cũng bằng trạc tuổi các chị em nó bây giờ, ngày nào ta cũng dắt mấy người đến đây chơi. Một hôm trượt chân ngã xuống hồ, suýt chết đuối, may vớt lên được, nhưng bị một cái đanh đâm thủng đầu: bây giờ hãy còn một lỗ thủng to bằng đầu ngón tay ở trên mái tóc. Lúc ấy ai cũng bảo đã bị ngâm nước và gió lạnh thì nguy to, nhưng rồi cũng chẳng việc gì.

Phượng Thư cười nói:

- Nếu lúc bấy giờ bà không sống được, thì bây giờ ai hưởng cái phúc tầy đình này cho? Thế mới biết ngay từ bé phúc bà cũng đã to rồi. Quỷ thần xui khiến, cho bà một cái lỗ thủng để chứa phúc thọ đấy! Trên đầu đức lão thọ tinh cũng có cái lỗ thủng, là vì chứa nhiều phúc thọ quá, nên mới lồi ra thế!

Giả mẫu và mọi người đều cười rũ rượi. Giả mẫu nói:

- Con khỉ nảy nói nhảm quen mồm, mày cứ đem ta ra làm trò cười! Tức quá, ta phải tát cho mày vỡ mồm ra mới được!

Phượng Thư nói:

- Chốc nữa ăn cua, sợ lạnh chăng, nên làm trò cho bà cười nhiều, để người nóng lên, có ăn thêm mấy con nữa cũng chả việc gì.

Giả mẫu cười nói:

- Từ giờ trở đi, bắt mày ngày đêm theo ta, không được về nhà để mày làm cho người ta cười luôn mới được.

Vương phu nhân cười nói:

- Vì bà nuông nó quá, nên nó hỗn quen đi. Bây giờ bà lại nói thế, sau này nó còn coi ai ra gì nữa.

Giả mẫu cười nói:

- Ta lại thích nó như thế. Vả chăng, nó không phải là đứa không biết tôn ti trật tự, thì những lúc ở trong nhà, không có người lạ, bà cháu mẹ con cũng nên cười nói cho vui, miễn là biết giữ lễ phép, việc gì phải bắt chúng nó cứ len lét như sợ quỷ thần ấy?

Mọi người vào cả trong hiên uống nước, Phượng Thư vội đi bày đũa bát. Bàn trên có Giả mẫu, Tiết phu nhân, Bảo Thoa, Đại Ngọc, Bảo Ngọc. Bàn bên đông: Tương Vân, Vương phu nhân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân. Cái bàn nhỏ để ở cạnh phía tây là chỗ ngồi của Lý Hoàn và Phượng Thư nhưng cả hai đều không dám ngồi, chỉ đứng bên cạnh bàn Giả mẫu và bàn Vương phu nhân. Phượng Thư nói:

- Cua không được mang nhiều lên, cứ để nguyên cả trong cái nồi nước nóng, chỉ mang lên mười con, ăn hết lại lấy.

Rồi đi rửa tay, đứng trước mặt Giả mẫu gỡ cua. Lượt đầu mời Tiết phu nhân. Tiết phu nhân bảo:

- Để tôi gỡ lấy ăn thì ngon hơn, không cần ai mời.

Phượng Thư lại đưa cho Giả mẫu, rồi đưa đến Bảo Ngọc, lại bảo hâm rượn mang lên. Sau sai bọn hầu nhỏ sắp sẵn nước đậu xanh đun với hoa cúc và nhị quế để rửa tay.

Tương Vân ngồi tiếp khách, chỉ ăn một miếng rồi đứng dậy đi mời mọi người; lại ra ngoài sai người mang hai khay cua đưa cho dì Triệu và dì Chu. Lại thấy Phượng chạy đến bảo:

- Cô tiếp không quen, cứ đi ăn đi, để tôi hộ cho, xong rồi tôi sẽ ăn.

Tương Vân không nghe, sai người bày hai mâm rượu ở bên hành lang, mời Uyên Ương, Hổ Phách, Thái Hà, Thái Vân, Bình Nhi ngồi ăn. Uyên Ương nói:

- Mợ Hai phải đứng hầu đấy, chúng tôi ăn trước sao được?

Phượng Thư nói:

- Các em cứ ăn đi, việc gì đã có ta cáng đáng hết.

Sau đó Tương Vân lại vào chỗ ngồi.

Phượng Thư và Lý Hoàn đều ăn vài miếng qua loa. Phượng Thư lại ra thù tiếp như trước. Một lát, ra ngoài hiên. Bọn Uyên Ương đang ăn uống vui vẻ, thấy Phượng Thư đến, đều đứng dậy nói:

- Mợ lại đến đây làm gì? Để cho chúng tôi được ăn thỏa thích một lúc nào.

Phượng Thư cười nói:

- Con Uyên Ương tệ thật. Tao hầu thay mày, mày chẳng biết cảm ơn, lại còn oán tao à! Hãy rót một chén rượu cho tao uống đã.

Uyên Ương rót một chén rượu đưa lên mồm Phượng Thư. Phượng Thư ngẩng cổ uống một hớp hết ngay. Hổ Phách và Thái Hà lại mỗi người rót một chén nữa đưa đến, Phượng Thư cũng uống hết. Bình Nhi gỡ sẵn một con cua đưa đến. Phượng Thư nói:

- Đổ thêm tý giấm gừng.

Ăn xong, Phượng Thư cười nói:

- Thôi chúng bay cứ việc ăn đi nhé, tao đi đây.

Uyên Ương cười nói:

- Không biết xấu! Ăn cả phần của chúng tôi.

Phượng Thư cười nói:

- Mày đừng có gây chuyện với tao nữa! Mày biết cậu Liễn đã yêu mày, sắp sửa xin nói với cụ cho mày làm vợ hai đấy!

Uyên Ương đỏ mặt lên, bĩu môi lắc đầu nói:

- Ái chà! Làm mợ mà cũng nói nhưng câu ấy à! Tôi không lấy cái tay tanh này bôi lên mặt mợ thì không chịu.

Nói xong, Uyên ương chạy đến chực bôi. Phượng Thư nói:

- Chị ơi, tha cho tôi lần này.

Hổ Phách cười nói: Dù con Uyên Ương có muốn chăng nữa, nhưng khi nào con Bình lại chịu buông tha. Các chị xem đấy, chưa ăn hết hai con cua, nó đã húp hết một bát giấm rồi!

Bình Nhi tay đang gỡ cua, thấy Hổ Phách chế giễu mình, liền cầm con cua định trát vào mặt Hổ Phách, vừa cười vừa chửi:

- Tao sẽ lôi lưỡi con ranh này ra...

Hổ Phách cũng cười, rồi tránh ra một bên. Bình Nhi vồ không trúng, đâm nhào về phía trước, trát ngay lên mặt Phượng Thư. Phượng Thư đương đùa với Uyên Ương, bất thình lình giật nẩy mình kêu lên một tiếng "Ái chà". Mọi người không nhịn được, đều cười rộ lên. Phượng Thư vừa cười, vừa mắng:

- Con đĩ chết đâm này. Ăn lắm mờ mắt. Mày trát vào con mẹ mày à?

Bình Nhi vội chạy đến lau cho Phượng Thư, rồi đi bưng nước đến rửa. Uyên Ương nói:

- A di đà phật! Thực là quả báo trước mắt.

Giả mẫu ở bên trong nghe thấy, hỏi dồn:

- Cái gì đấy? Sao mà vui thế? Nói lên để chúng ta cười với.

Bọn Uyên Ương lại nói to:

- Mợ Hai đến ăn cướp cua, Bình Nhi tức quá, trát đầy gạch cua vào mặt chủ nó, thành ra chủ nhà và đầy tớ đánh nhau.

Giả mẫu và bọn Vương phu nhân đều cười ầm lên. Giả mẫu cười nói:

- Chúng bay xem nó cũng đáng thương. Chân cua, yếm cua đâu, đem cho nó ăn một ít.

Bọn Uyên Ương cười nói to :

- Chân cua đầy một bàn đấy. Mợ Hai cứ việc ăn cho chán đi.

Phượng Thư cười, đi rửa mặt xong lại đến hầu Giả mẫu.

Đại Ngọc không dám ăn nhiều, chỉ ăn một tý thịt cua đứng dậy đi ra chỗ khác. Giả mẫu cũng không ăn nữa.

Mọi người đều đi rửa tay, rồi người đi xem hoa, người đi xem cá, chơi đùa một lúc, Vương phu nhân nói với Giả mẫu:

- Chỗ này gió to, lại mới ăn cua xong, mời cụ về nhà nghỉ, nếu còn cao hứng, ngày mai lại đến.

Giả mẫu cười nói:

- Phải ấy. Các người đương cao hứng, một mình ta về, sợ mất vui. Đã thế chúng ta cùng về cả.

Giả mẫu quay lại dặn bọn Tương Vân không nên mời Bảo Ngọc, Đại Ngọc ăn nhiều quá. Tương Vân vâng lời. Giả mẫu lai dặn Tương Vân và Bảo Thoa:

- Hai cháu cũng đừng nên ăn nhiều. Cái này ngon thực, nlưng ăn nhiều không tốt đâu, sẽ đau bụng đấy.

Hai người xin vâng, tiễn chân Giả mẫu ra ngoài vườn rồi lại trở vào, bảo bày lại bàn ăn. Bảo Ngọc nói:

- Không cần bày nữa, chúng ta hãy đi làm thơ, cứ để một cái bàn to ở giữa, đem bày tất cả rượu và món ăn ra đấy, không phải xếp đặt chỗ ngồi, ai thích ăn gì đến đấy mà ăn, rồi lại đi ra ngồi chỗ khác, như thế chẳng tiện hay sao?

Bảo Thoa nói:

- Phải đấy.

Tương Vân nói:

- Còn có những người khác nữa kia mà. Liền sai bày một bàn, chọn những cua nóng, mời bọn Tập Nhân, Thị Thư, Nhập Họa, Oanh Nhi và Thúy Mặc đến ăn. Lại giải hai chiếc chiếu hoa ở dưới cây quế cạnh sườn núi, mời bọn bà già và a hoàn nhỏ đến ngồi, tùy ý ăn uống, khi nào gọi sẽ đến.

Tương Vân mang đầu bài thơ ra, lấy kim gài lên tường, mọi người xem đều khen:

- Mới lạ đấy, chỉ sự khó, không chắc đã làm nổi!

Tương Vân lại nói:

- Không việc hạn vần.

Bảo Ngọc nói:

- Thế mới đúng. Tôi cũng không thích hạn vần.

Đại Ngọc vì không uống được nhiều rượu, lại không ăn cua, sai người mang cái đèn có đệm gấm đến ngồi tựa ở bao lan, buông cần câu cá.

Bảo Thoa tay cầm cành hoa quế, ngắm nghía một lúc, rồi nghiêng người ra ngoài cửa sổ, bứt những nhị quế thả xuống mặt nước để cho cá đến đớp.

Tương Vân thì ngẩn người ra một lúc rồi đi mời bọn Tập Nhân, và bảo bọn người ngồi ở sườn núi cứ việc ăn uống cho thỏa thích.

Thám Xuân, Lý Hoàn và Tích Xuân ngồi dưới cây liễu xem le cò.

Nghênh Xuân ngồi một mình ở dưới bóng hoa, lấy kim châm hoa mạt ly.

Bảo Ngọc lúc xem Đại Ngọc câu cá, lúc ngoảnh sang cạnh Bảo Thoa cười nói mấy câu; sau lại đến xem bọn Tập Nhân ăn cua, rồi cũng ngồi tiếp và uống vài ngụm rượu. Tập Nhân lại bóc thịt cua cho Bảo Ngọc ăn.

Đại Ngọc bỏ cần câu xuống, đi đến bàn ăn, cầm lấy cái nậm nhỏ bằng bạc chạm hoa mai, chọn một cái chén nhỏ bằng đá hồng, vẽ hình tàu chuối. A hoàn thấy thế, biết là cô ta muốn uống rượu, vội chạy lại rót. Đại Ngọc nói:

- Các chị cứ việc ăn đi, để tôi tự rót lấy uống mới thú.

Đại Ngọc rót nửa chén, nhưng thấy rượu vàng, liền nói:

- Tôi mới ăn một tý thịt cua, bụng đã thấy hơi đau, nếu được uống thứ rượu hâm nóng uống ngay thì tốt.

Bảo Ngọc liền nói:

- Có rượu nóng đây.

Rồi sai người mang ngay cái nậm rượu nóng ngâm bằng hoa hợp hoan đến.

Đại Ngọc uống một ngụm rồi bỏ xuống, Bảo Thoa cũng chạy đến, cầm chén rượu, uống một tợp, rồi nhúng bút đến cạnh tường ngoặc một cái dưới đầu bài thứ nhất là ức cúc, ở dưới viết thêm chữ: Hành.

Bảo Ngọc vội nói:

- Chị ơi! Bài thứ hai tôi đã nghĩ được bốn câu rồi, để phần tôi làm nhé!

Bảo Thoa cười nói:

- Tôi chưa chắc đã làm nổi một bài anh làm gì mà cuống lên thế.

Đại Ngọc cứ lẳng lặng mang bút đến ngoặc vào bài thứ tám là Vấn cúc, và bài thứ mười một là Cúc mộng, dưới viết thêm chữ Tiêu.

Bảo Ngọc cũng cầm bút ngoặc đầu bài thứ hai là Phỏng cúc, dưới viết thêm chữ Giáng.

Thám Xuân chạy lại xem rồi nói:

- Không ai làm bài Trâm cúc, để tôi làm vậy.

Lại trỏ vào Bảo Ngọc cười nói:

- Vừa nói là không được động đến những chữ trong khuê các, anh nên cẩn thận đấy.

Tương Vân chạy lại ngoặc luôn hai bài thứ tư và thứ năm là Đối cúc và Cung cúc, dưới viết thêm chữ Tương.

Thám Xuân nói:

- Chị phải đặt biệt hiệu mới được.

Tương Vân cười nói:

- Bên nhà tôi bây giờ tuy còn vài nơi hiên quán, nhưng tôi không ở đấy. Nếu mượn mà đặt hiệu chẳng có thú gì.

Bảo Thoa cười nói:

- Vừa rồi cụ có nói bên nhà chị cũng có một cái thủy đình gọi là Chẩm Hà các, thế không phải của chị là gì? Giờ tuy không còn nữa, nhưng chị vẫn là chủ cũ chứ.

Mọi người đều nói: "Đúng đấy".

Bảo Ngọc không chờ Tương Vân chữa lại, liền đi xóa ngay chữ Tương đổi là chữ Hà.

Ước chừng chưa ăn xong bữa cơm, mười hai bài thơ đều đã làm xong, ai nấy đều viết ra giấy cẩn thận, đưa cho Nghênh Xuân. Nghênh Xuân lấy ngay một tờ hoa tiên vờn tuyết viết tinh tả ra, thơ của người nào, dưới đề biệt hiệu người ấy.

Bọn Lý Hoàn xem từ bài đầu trở xuống:

ỨC CÚC

Ngóng gió tây về luống ngẩn ngơ,

Nhìn lau liễu tốt ruột vò tơ.

Vườn hoang, giậu vắng thu đâu nhỉ,

Trăng lạnh, sương trong mộng thấy chưa?

Lòng vướng vít theo đàn nhạn khuất,

Tai văng vẳng lọt tiếng chày thưa.

Thương mình gầy cũng vì hoa đấy,

Này tiết trùng duơng(1) hãy đợi chờ.

Hành Vu quân

PHỎNG CÚC

Gặp buổi sương tan hãy dạo chơi,

Thôi đừng rượu thuốc đắm say hoài

Dưới trăng hoa nở chừng bao giống,

Bên giậu thu về đã mấy nơi?

Dép nhẹ nhàng đi tình lại đượm,

Thơ run rẩy mãi hứng chưa vơi.

Hoa vàng ví biết thương thi khách,

Hứng rượu hôm nay chớ phụ người.

Di Hồng công tử

CHỦNG CÚC

Vườn thu cào sẵn khách dời chân,

Giồng khắp bên rào khắp dưới sân.

Nhờ được mưa đêm tươi vẻ lại,

Dính đầy sương sớm nở hoa dần.

Thu nhìn mát rượi thơ nghìn vận,

Hương rót say sưa rượt một tuần.

Thương tiếc thì nên chăm tưới bón,

Hãy cùng ngõ giếng lánh hồng trần.

Di Hồng công tử

ĐỐI CÚC

Trồng ở vườn riêng quí tựa vàng,

Khóm vàng khóm trắng đủ đôi hàng.

Bù đầu lẩn thẩn ngồi gần giậu,

Ôm gối nghêu ngao hát những hương.

Đời được mấy người xa thói tục,

Đây là một bạn biết lòng chăng.

Bóng thu loang loáng đừng nên phụ,

Ngơ ngẩn nhìn nhau tiếc tấc gang.

Chẩm Hà cựu hữu

CUNG CÚC

Rượu ngọt đàn hay đón bạn hiền,

Lả lơi trên án bóng thuyền quyên.

Hương pha mùi móc người xa mấy,

Mắt ngắm cành thu sách quẳng liền.

Sương đẫm màu kia mơ chửa tỉnh,

Vườn chơi chiều nọ nhớ hay quên.

Ngông đời ta lại như ai đấy,

Đào lý xuân kia cũng biếng nhìn.

Chẩm Hà cựu hữu

VỊNH CÚC

Sớm tối ma thơ lẩn quất hoài,

Quanh rào tựa đá khẽ ngâm chơi.

Sương kề ngọn bút thơ giàu tứ,

Trăng rọi trên môi giọng ngát mùi.

Mối hận ngấm ngầm đề chật giấy,

Lòng thu giãi tỏ biết chăng ai?

Phẩm bình từ lúc nhờ Đào lệnh(2)

Cao tiết nghìn thu rộn khắp nơi.

Tiêu tương phi tử

HỌA CÚC

Thơ rồi lại vẽ thực ngông cuồng,

Xanh đỏ lòng sao khéo vẩn vương?

Chụm lá vẩy ra nghìn giọt mực,

Trổ hoa nhuộm hẳn mấy hằn sương.

Nhạt nồng vẻ trội hoa vờn gió,

Gân guốc tay đưa thu đượm hương.

Đừng tưởng vườn đông mà hái bậy,

Dáng bình ta thưởng tiết trùng dương!

Hành Vu quân

VẤN CÚC

Chẳng biết thu đâu để hỏi chào,

Vườn đông lẩm nhẩm chắp tay vào.

Xa đời ngất ngưởng cùng ai đấy?

Biếng nở lừ đừ khéo chậm sao?

Vườn móc sân sương buồn kể mấy?

Nhạn về sâu ốm nhớ chăng nào?

Đừng cho không đáng cùng đời truyện,

Biết nói thì đây truyện chút nao.

Tiêu Tương phi tử

TRÂM CÚC

Nay cắm mai trồng bận suốt ngày,

Lầu gương nào phải ngắt về bầy,

Yêu hoa công tử thành đeo bệnh,

Ngông chén Đào công lại quá say.

Tóc ngắn móc giây đường hẻm lạnh,

Khăn đầu hương nhuộm hạt sương bay.

Mắt đời ưa thích gì cao khiết.

Họ vỗ tay cuời cũng mặc thây.

Tiêu Hạ khách

CÚC ẢNH

Gương thu từng lớp ngất lưng trời,

Lẩn lút trong vườn dạo bước chơi.

Đèn vướng hàng song rời rạc chiếu,

Trăng luồn khe giậu lập loè soi.

Bóng còn thoảng đó hồn dừng lại,

Sương vẩn in đây mộng tỉnh rồi.

Giữ lấy mùi thơm đừng xéo nát,

Mắt say nhập nhoạng mặc thây người.

Chẩm Hà cựu hữu

CÚC MỘNG

Bên rào say giấc tiết thu trong,

Trăng đấy hay mây hãy đợi cùng.

Hoa bướm tiên nào màng Tất lại(3)

Nặng thề bạn những nhớ Đào công.

Mơ màng theo nhạn đàn xao xác,

Sửng sốt thương sâu tiếng não nùng,

Tỉnh giấc, nỗi niềm ai đã tỏ?

Cỏ khô khói lạnh ngổn ngang lòng!

Tiêu Tương phi tử

TÀN CÚC

Móc đọng sương rơi luống phũ phàng,

Chén mừng tiểu tuyết tiết vừa sang.

Cuống vàng nhàn nhạt hương thoang thoảng,

Lá héo lơ thơ nhánh ngổn ngang.

Trăng xế nửa giường sâu rít giọng,

Mây đùn nghìn dặm nhạn thưa hàng.

Thu sau lại hẹn ta cùng gặp,

Tạm biệt xin lòng chớ vấn vương!

Tiêu Hạ khách

Mọi người xem bài nào khen bài nấy, mãi không dứt lời. Lý Hoàn cười nói:

- Tôi cứ công bằng mà bình ra đây. Tất cả các bài, bài nào cứng có câu hay, nhưng bài Vịnh cúc thứ nhất, bài Vấn cúc thứ hai, bài Cúc mộng thứ ba. Đầu bài mới, thơ làm mới, từ lại càng mới, nên phải để Tiêu Tương phi tử đứng đầu. Rồi lần lượt đến các bài Trâm cúc, Đối cúc, Cung cúc, Họa cúc, ức cúc.

Bảo Ngọc mừng lắm, vỗ tay nói:

- Rất là công bằng.

Đại Ngọc nói:

- Thơ của tôi cũng không hay lắm, vì lắt léo quá.

Lý Hoàn nói:

- Hay ở chỗ lắt léo mà không ra vẻ rườm rà và trúc trắc.

Đại Ngọc nói:

- Cứ tôi xem thì hay nhất là câu Vườn chơi chiều nọ nhớ hay quên, câu ấy ngụ ý "đánh phấn ở mặt sau". Nguyên câu "mắt ngắm cảnh thu sách quẳng liền" đã hay lắm. Vì Cung cúc tả hết rồi, không còn nói vào đâu nữa, nên phải quay lại nhớ đến nhũng khi chưa bẻ cắm, ý tứ thực là sâu xa.

Lý Hoàn cười nói:

- Vẫn biết thế, nhưng cái câu... trên môi giọng ngát mùi của cô cũng địch được câu ấy rồi.

Thám Xuân lại nói:

- Dù sao cũng phải chịu thơ Hành Vu quân là sâu sắc. Những chữ thu đâu nhỉ, mộng thấy chưa thực như đã vẽ ra được chữ ức.

Bảo Thoa nói:

- Những chữ tóc ngắn móc giây... khăn đầu hương nhuộm... của cô hình dung tứ Trâm cúc rất mầu nhiệm, không còn hở một chút nào.

Tương Vân cười nói:

- Những chữ cùng ai đấy, khéo chậm sao làm cho hoa cúc khó mà trả lời được.

Lý Hoàn cười nói:

- Nếu vậy thì những chữ bù đầu lẩn thẩn... ôm gối nghêu ngao... cũng có ý không lúc nào rời hoa cúc ra được. Hoa cúc có hay, chắc cũng lấy làm chán chường lắm.

Mọi người nghe vậy đều cười.

Bảo Ngọc cười nói:

- Chuyến này tôi lại hỏng thi rồi. Có lẽ những chữ chừng bao giống, đã mấy nơi, dép nhẹ nhàng đi, thơ run rẩy đọc đều không phải là thăm cúc và câu nhớ mưa đêm dính sương sớm đều không phải là trồng cúc hay sao? Nhưng chỉ bực một nỗi là không bằng được những câu trăng rọi trên môi giọng ngát mùi, ôm gối nghêu ngao ngát những hương, và tóc ngắn, khăn đầu, cuống vàng nhàn nhạt, lá héo lơ thơ, thu đâu nhỉ, mộng thấy chưa đấy thôi.

Lại nói:

- Ngày mai rỗi, tôi sẽ làm đủ mười hai bài.

Lý Hoàn nói:

- Thơ của chú cũng hay đấy, nhưng không bằng nhưng bài kia mới và nhã hơn.

Mọi người bàn tán một lúc, rồi ra ngồi quanh vào cái bàn lớn, lại ăn một chập thịt cua nữa.

Bảo Ngọc cười nói:

- Hôm nay cầm càng cua, thưởng hoa quế, cũng phải có thơ. Tôi đã làm rồi, có ai dám làm nữa không?

Nói xong, liền rửa tay rồi cầm bút viết.

Mọi người xem thấy:

Dưới bóng quế, càng cầm tay,

Ngông lên gừng dấm chua cay thưởng tràn.

Vương tôn sẵn rượu càng ham,

Anh chàng không ruột, bò ngang đi đời!

Quên của lạnh, mải ăn hoài,

Mùi tanh tay dính rửa rồi vẫn tanh.

Người đời chỉ thích ăn sành,

Kìa Pha tiên(4) cũng lo quanh suốt đời.

Đại Ngọc cười nói:

- Hạng thơ này một lúc tôi làm trăm bài cũng được.

Bảo Ngọc cười nói:

- Cô bây giờ đã hết tài kiệt sức, không làm được nữa rồi, lại vẫn còn chê bai người ta.

Đại Ngọc nghe nói, không thèm trả lời, hơi ngẩng cổ lên, khe khẽ ngâm, rồi viết ngay ra một bài.

Mọi người xem thấy:

Giáo trường giáp sắt còn đây,

Nếm mùi trên chỗ mâm bày sáng choang.

Ngọc non đầy ắp đôi càng,

Mai trồi đỏ chói, mùi hương ngát lừng.

Đẫy đà tám vế còn chăng,

Giúp vui nghìn chén, ai nâng đến mời?

Gặp khi ngon miệng đẹp trời,

Quế vờn vã gió, cúc cười cợt sương.

Bảo Ngọc xem xong, khen lấy khen để. Đại Ngọc liền xé và sai người đem đốt đi, rồi cười nói:

- Bài của tôi không bằng của anh, để tôi đốt đi; bài của anh hay đấy, hơn cả bài thơ cúc họa vừa rồi, anh nên giữ lại để cho mọi người xem.

Bảo Thoa cười nói:

- Tôi cũng cố gắng làm một bài, nhưng chưa chắc đã hay, hãy viết ra đây làm trò cười thôi.

Nói xong, viết ra cho mọi người xem.

Chén mời dưới bóng quế đồng,

Trùng dương khao hát, khắp vùng Trường An,

Trên đường nào thấy dọc ngang,

Khen chê chỉ thấy đen vàng trông ra.

Mới xem bốn câu trên này, mọi người khen tuyệt. Bảo Ngọc nói:

- Mắng một cách đau đớn thật. Thơ tôi đáng đốt đi thôi.

Rồi đến bốn câu dưới:

Rửa tanh rượu với cúc xoa,

Muốn phòng chứng lạnh thì ta thêm gừng,

Vò dốc cạn mùi còn chăng?

Bến trăng kia những lúa lừng mùi thơm.

Mọi người xem xong, đều nói:

Đây mới là một bài thơ ăn cua tuyệt diệu! Đề mục nhỏ mà ngụ ý lớn, thực là bực đại tài. Nhưng có điều gì mỉa mai người đời ác quá.

Lúc đó thấy Bình Nhi lại chạy vào vườn, không biết có việc gì.

-------------------------

(1). Ngày mồng 9 tháng Chín.

(2). Tức Đào Tiềm, người đời Tấn. Vì ông làm quan lệnh ở Bành Trạch, nên cũng gọi là Đào Bành Trạch.

(3). Tức Trang Chu, người đời chiến quốc, làm lại ở Tất viên, nên người ta gọi là Tất lại.

(4). Người đời Tống, tu luyệt thành tiên. Đời sau cũng có người gọi Tô Đông Pha là Pha Tiên.

Hồi thứ ba mươi chín

Già nhà quê hay nói huênh hoang

Cậu có tình cứ tìm ngành ngọn

Mọi người thấy Bình Nhi đến, đều hỏi:

- Mợ chị ở nhà làm gì mà không thấy đến?

- Mợ ấy có được rỗi đâu? Vì ở nhà không có món gì ăn ngon, lại không thể sang đây được, nên mợ ấy bảo tôi đến hỏi xem có còn cua hay không, xin mấy con mang về nhà ăn.

Tương Vân nói:

- Có nhiều lắm!

Liền sai người mang cái làn đựng mười con cua lớn.

Bình Nhi nói:

- Cho thêm mấy con cua cái nữa.

Mọi người lại kéo Bình Nhi ngồi xuống. Bình Nhi không chịu ngồi. Lý Hoàn cười nói:

- Thì cứ ngồi xuống đã nào.

Rồi kéo Bình Nhi ngồi xuống, rót một chén rượu, đưa lên miệng cô ta. Bình Nhi vội hớp một ngụm, định đi ngay. Lý Hoàn bảo:

- Chưa cho cô đi vội. Cô mới chỉ biết có mợ Phượng nhà cô thôi còn tôi thì cô không thèm nghe lời gì cả.

Liền quay bảo bọn bà già:

- Hãy mang làn cua này sang biếu mợ Phượng, và nói rằng ta còn giữ cô Bình ở lại chơi.

Một lúc, bà già mang cái làn về nói:

- Mợ Hai nói: các mợ và các cô đừng cười, hãy nếm món này đã. Trong làn này đựng bánh xốp và bánh cuốn mỡ gà của của bà mợ đưa sang cho các mợ và các cô ăn.

Bà ta lại ngoảnh vào nói với Bình Nhi:

- Mợ bảo rằng: Sai chị đi mà chị cứ tham ăn, không chịu về ngay. Mợ lại dặn chị uống ít rượu chứ.

Bình Nhi cười nói:

- Tôi uống nhiều thì làm gì tôi!

Vừa nói vừa uống rượu vừa ăn cua. Lý Hoàn ôm lấy Bình Nhi, cười nói:

- Đáng tiếc dáng điệu mặt mũi thế này mà số phận lại kém cỏi, chỉ là người hầu hạ trong nhà thôi! Người ngoài ai trông thấy, chẳng bảo cô là hạng các mợ, các bà.

Bình Nhi vừa uống rượn với bọn Bảo Thoa, Tương Vân, vừa quay lại cười nói:

- Xin mợ đừng sờ vào người tôi đâm ngứa ngáy khó chịu.

Lý Hoàn hỏi:

- Ái chà! Đeo cái gì mà rắn thế này?

- Chùm chìa khóa đấy.

- Có cái gì quan hệ sợ người ta ăn trộm mà phải đeo luôn trong người thế? Ngày thường tôi vẫn nói với mọi người, có Đường Tăng(1) đi lấy kinh, thì phải có con ngựa trắng chở kinh; có Lưu Trí Viễn ra đánh dẹp thiên hạ, thì phải có con hồ tinh cho mũ giáp. Có mợ Phượng thì phải có cô Bình! Cô là chìa khoá của mợ cô rồi, lại còn dùng chìa khóa này làm gì nữa?

Bình Nhi cười nói:

- Mợ uống rượu lại mang tôi ra làm trò cười.

Bảo Thoa cười nói:

- Mợ ấy nói thực đấy. Khi chúng tôi ngồi rỗi, thường hay bàn tán mấy người trong bọn các chị, thấy là mỗi người một vẻ trăm người chưa chọn được một.

Lý Hoàn nói:

- Việc lớn, việc nhỏ đều do ông trời định sẵn cả. Ví như bên nhà cụ, không có chị Uyên Ương thì làm thế nào nổi việc? Từ bà Hai trở xuống, có ai dám trái lời cụ đâu? Thế mà cô ta lại dám cãi lại, cụ vẫn chỉ nghe cô ta thôi. Những quần áo của cụ không ai nhớ được, cô ta vẫn nhớ rành rọt. Nếu không có cô ta trông nom, thì không biết người ta đã lừa gạt mất bao nhiêu rồi! Vả chăng bụng cô ta lại thẳng thắn, thường hay nói tốt cho người, chứ không bao giờ cậy thế khinh rẻ một ai.

Tích Xuân cười nói:

- Hôm nọ cụ vừa nói, cô ta còn hơn chúng tôi nữa đấy.

Bình Nhi nói:

- Chị ấy là người tốt, chúng tôi bì thế nào được.

Bảo Ngọc nói:

- Chị Thái Hà ở nhà mẹ tôi cũng là người thực thà.

Thám Xuân nói:

- Bề ngoài thì thực thà, thế mà trong bụng lại biết suy tính lắm đấy. Mẹ hiền như bụt, chả để ý đến việc gì, mà cô ta thì việc gì cũng biết, cái gì cũng phải nhắc. Cha ở nhà cũng như đi vắng, bất cứ việc lớn việc nhỏ, cô ta đều biết hết, nếu mẹ quên thì sau đó cô ta nhắc ngay.

Lý Hoàn nói:

- Còn nói gì nữa.

Rồi trỏ Bảo Ngọc nói:

- Chúng ta hãy xem, trong nhà chú Hai đây, nếu không có chị Tập Nhân thì sẽ ra sao? Dù thím Phượng có tài như Bá Vương nước Sở(2) cũng cần phải có hai cánh tay để cất cái vạc nghìn cân. Không có cô Bình, thì việc nhà thím ấy làm thế nào mà trông nom xuể được?

Bình Nhi nói:

- Lúc trước bên nhà đưa sang bốn a hoàn, nhưng người chết, người thì đi, chỉ còn một mình tôi bồ côi bồ cút ở lại đây thôi.

Lý Hoàn nói:

- Đó là phúc cho nhà cô, nhưng cũng là phúc cho nhà thím Phượng. Trước kia cậu Cả nhà còn sống, thì có thiếu gì người hầu? Các cô thử xem, tôi có phải là người hẹp lượng không biết dung kẻ dưới đâu? Thế mà ngày nào họ cũng cứ tỏ ra không vừa ý. Vì thế, khi cậu ấy mất rồi, nhân thấy họ còn trẻ tuổi, tôi đều cho về cả. Nếu được người nào biết nghĩ thủy chung ở lại, thì bây giờ tôi cũng còn có kẻ đỡ chân đỡ tay.

Nói xong, mắt Lý Hoàn đỏ ngầu lên.

Mọi người đều can:

- Còn kể ra làm gì cho đau lòng! Thôi chúng ta đi về là hơn.

Nói xong, đều đi rửa tay, rồi cùng nhau sang thăm Giả mẫu và Vương phu nhân. Bọn bà già và a hoàn quét dọn nhà cửa, thu xếp bát đĩa. Tập Nhân và Bình Nhi cùng đi ra.

Tập Nhân mời Bình Nhi vào nhà mình uống trà. Bình Nhi nói: "Không uống đâu, sau sẽ đến chơi". Nói xong muốn đi ngay. Tập Nhân liền gọi lại hỏi:

- Tại sao tiền lương tháng này, ngay người trong nhà cụ và bà Hai vẫn chưa giả?

Bình Nhi quay lại gần Tập Nhân, thấy không có ai, khẽ nói:

- Thôi, chị đừng hỏi nữa, chậm lắm là hai hôm sẽ phát thôi. Tiền lương tháng này mợ tôi đã chi ra rồi, nhưng lại đem cho người khác vay. Phải chờ đi thu lãi ở các nơi về đủ số rồi mới phát. Chị đừng nên nói cho một ai biết nhé!

- Không lẽ mợ ấy còn thiếu tiền tiêu. Sao nỡ đang tâm làm như vậy?

- Mấy năm nay mợ ấy chỉ lấy món tiền ấy ra cho vay, mà đã thu được hàng nghìn bạc lãi rồi đấy.

- Mợ chị lấy tiền lương của chúng tôi đem ra cho vay lấy lãi, làm chúng tôi phải ăn chực nằm chờ!

- Sao chị lại nói câu tệ bạc thế? Chị mà còn thiếu tiền à?

- Tôi hiện giờ chưa cần, nhưng muốn sắp sẵn cho một người.

- Chị có việc gì cần tiêu, thì tôi có mấy lạng, hãy lấy mà tiêu, sau này trừ tiền lương cũng được.

- Bây giờ tôi chưa cần, sau này tiêu gì, tôi sẽ cho người sang vay chị.

Bình Nhi nhận lời, chạy về nhà không thấy Phượng Thư đâu, chợt thấy già Lưu và thằng Bản lần trước đến xin tiền đã ngồi ở nhà bên kia rồi, lại có vợ Trương Tài và vợ Chu Thụy ngồi tiếp; có mấy a hoàn đứng dưới đất đương dốc táo, dưa và rau ở túi ra. Mọi người thấy Bình Nhi vào, đều đứng dậy cả. Già Lưu vì lần trước đến, đã biết Bình Nhi là người thế nào rồi, nên vội bước xuống hỏi:

- Cô vẫn được mạnh luôn? Cả nhà tôi đều gửi lời hỏi thăm cô. Từ lâu muốn đến thăm sức khỏe mợ nhà và cô, nhưng vì bận mùa. Năm nay mới gặt được mấy hộc thóc, hoa quả, rau dưa đều tốt cả. Nhưng thứ này là của mới, tôi không dám mang đi bán, chọn thứ ngon đem đến biếu mợ và cô. Các cô ngày nào cũng ăn chán những đồ cao lương mỹ vị, giờ nếm món rau nhà quê xem sao. Đó là tấm lòng thành của người nghèo chúng tôi.

Bình Nhi vội nói:

- Đa tạ lòng bà!

Rồi mời già Lưu ngồi. Bình Nhi cũng ngồi xuống, lại mời thím Trương và thím Chu cùng ngồi, và sai a hoàn nhỏ đi pha nước. Vợ Trương Tài và vợ Chu Thụy đều cười nói:

- Hôm nay trông cô có vẻ hồng hào tươi tỉnh, khóe mắt cũng đỏ lên.

Bình Nhi cười nói:

- Phải đấy! Xưa nay tôi không biết uống rượu, mợ Cả và các cô cứ kéo lại vật nài cho được, bất đắc dĩ tôi phải uống hai chén, thành ra đỏ cả mặt.

Vợ Trương Tài cười nói:

- Tôi muốn uống quá, lại chẳng có ai mời. Ngày mai có ai mời cô, cho tôi đi theo với.

Mọi người đều cười ầm lên.

Vợ Chu Thụy nói:

- Sáng hôm nay tôi trông thấy thứ cua to quá, chỉ hai con là đủ một cân. Thế mà những hai ba giỏ lớn, có nhẽ đến bảy tám mươi cân.

Vợ Trương Tài nói:

- Từ trên chí dưới, ai cũng ăn cả, thì chừng ấy chưa chắc đã đủ.

Bình Nhi nói:

- Ở đâu mà ai cũng ăn. Chẳng qua chỉ nhưng người có tên có tuổi mới được ăn vài con, còn thì có người vớ được, có người không vớ được con nào.

Già Lưu nói:

- Giá cua năm nay mỗi cân là năm phân, mười cân thì phải năm đồng, năm năm hai mươi lăm, ba năm mười lăm, lại thêm rượu và đồ ăn khác nữa, cộng tất cả ít ra cũng phải hơn hai mươi lạng bạc đấy.(3)

A di đà phật! Món tiền này, người nhà quê chúng tôi có thể ăn được một năm!

Bình Nhi hỏi:

- Bà đã được gặp mợ ấy chưa?

- Đã gặp rồi, mợ ấy bảo tôi hãy chờ ở đây.

Nói xong, già Lưu ra ngoài cửa trông trời, nói:

- Trời đã chiều rồi, chúng tôi xin về đây. Nếu không ra được ngoài thành, lại khốn khó đấy!

Vợ Chu Thụy nói:

- Để tôi đi xem hộ bà.

Nói xong chạy đi, một chốc mới về, cười nói:

- Phúc nhà bà đấy, sao mà hai người lại hợp duyên với nhau thế.

Bọn Bình Nhi hỏi: "Thế nào". Vợ Chu Thụy cười nói:

- Mợ Hai đang hầu cụ, tôi khẽ đến trình: "Già Lưu muốn về, vì sợ tối không ra được cửa thành". Mợ Hai bảo: "Khen cho bà ấy, đường xa thế mà mang được nhiều thứ đến biếu. Bây giờ muộn rồi, bảo bà ấy ngủ lại một đêm, ngày mai sẽ về". Thế không phải là hợp duyên với mợ Hai à? Việc ấy đã đành, không ngờ cụ nghe thấy, liền hỏi già Lưu là ai? Mợ Hai kể rõ gốc tích. Cụ bảo: "Ta muốn nói chuyện với những người già cả, bảo bà ấy đến đây". Thế không phải là duyên số trên trời, không hẹn mà gặp sao?

Vợ Chu Thụy liền giục già Lưu đi ngay.

Già Lưu nói:

- Người ngợm tôi thế này, đến đó sao tiện? Thôi chị nói hộ là tôi đã về rồi!

Bình Nhi nói:

- Không việc gì đâu, bà cứ đến, cụ tôi vốn mến người già, thương người nghèo, chứ không như những hạng người điêu trá đâu. Bà sợ, tôi và dì Chu sẽ đưa bà đến.

Nói xong, liền cùng vợ Chu Thụy đưa già Lưu sang bên nhà Giả mẫu.

Bọn đầy tớ bé ngồi gác ở cửa ngoài, thấy Bình Nhi đến, đều đứng dậy cả. Có hai đứa chạy theo Bình Nhi gọi: "Cô ơi!"

Bình Nhi hỏi:

- Muốn nói việc gì.

- Bây giờ chiều rồi, mẹ tôi ốm, tôi phải đi mời thầy thuốc, xin cô cho tôi nghỉ nửa ngày, có được không?

- Chúng bay giỏi thật, đã bàn soạn với nhau rồi hay sao? Cứ mỗi ngày là một đứa xin nghỉ, không xin phép mợ, lại cứ quấy rầy tao. Hôm trước thằng Trụ xin đi, cậu Hai gọi nó không thấy, tao phải nói đỡ, cậu ấy mắng tao che chở cho nó. Bây giờ mày cũng lại thế à?

Vợ Chu Thụy nói:

- Mẹ nó ốm thật đấy, xin cô nói đỡ, để cho nó về.

Bình Nhi nói:

- Ngày mai phải đến sớm nhé, nghe chưa? Ta còn cần đến mày. Hay lại ngủ cho đến khi mặt trời dọi vào đít rồi mới dẫn xác đến? Nhân tiện mày về bảo cho thằng Vượng biết là mợ truyền số tiền lãi còn lại, ngày mai không mang trả, thì mợ không thèm lấy nữa đâu! Để nó tiêu cả.

Thằng nhỏ mừng nhảy lên, vâng dạ rồi đi.

Bình Nhi đến buồng Giả mẫu, bấy giờ các chị em ở trong vườn Đại Quan đều đứng hầu cả đấy. Già Lưu đi vào, thấy trong nhà người nào cũng đeo châu ngọc, mặc gấm vóc, lộng lẫy như hoa, không phân biệt ai ra ai nữa. Chỉ thấy một vị lão bà ngồi tựa trên giường, đằng sau có một a hoàn lộng lẫy như một mỹ nhân, mình đầy the lụa, đang ngồi hầu bóp chân. Phượng Thư đang đứng bên cạnh cười cười nói nói. Già Lưu biết ngay là Giả mẫu, vội lại gần lạy mấy lạy, rồi nói:

- Chúc lão thọ tinh mạnh khỏe luôn.

Giả mẫu gật đầu hỏi thăm, và sai vợ Chu Thụy lấy ghế cho ngồi. Thằng Bản rụt rè, không biết chào hỏi gì cả.

Giả mẫu hỏi:

- Bà này, năm nay bà bao nhiêu tuổi rồi?

Già Lưu vội đứng dậy thưa:

- Tôi năm nay bảy mươi lăm tuổi.

Giả mẫu ngoảnh vào nói với mọi người:

- Nhiều tuổi hơn ta thế mà trông người vẫn còn sắc sảo? Ta đến tuổi ấy không biết còn làm được gì không?

Già Lưu cười nói:

- Kiếp chúng tôi là kiếp người chịu khổ, chịu sở; còn cụ sinh ra là để hưởng phúc. Chúng tôi mà cũng như cụ, thì công việc đồng áng ai làm cho.

- Mắt và răng bà còn khá không?

- Còn khá, nhưng năm nay cái răng bên hàm trái đã thấy lung lay.

- Tôi già rồi, không làm gì nữa; mắt mờ, tai điếc, tính lại hay quên. Ngay các bà là chỗ họ hàng, tôi cũng không nhớ hết. Mỗi khi bà con đến chơi, nói ra sợ người ta cười, tôi cũng chả biết ai vào ai, chẳng qua có cái gì ăn được thì ăn vài miếng, rồi ngủ một giấc; lúc nào buồn thì chơi đùa với con, với cháu cho qua.

Già Lưu cười nói:

- Thế là cụ có phúc đấy. Chúng tôi mong thế cũng chẳng được

- Phúc gì? chẳng qua là hạng già bỏ đi đấy thôi!

Câu nói ấy làm cho mọi người cười ầm lên.

Giả mẫu lại cười nói:

- Tôi vừa thấy cháu Phượng nói, bà có mang cho nhiều thứ rau dưa, tôi đã bảo nó cất đi rồi. Tôi đang muốn ăn rau dưa chính trong vườn nhổ ra, chứ mua ở ngoài thì không được ngon.

Già Lưu nói:

- Đó là vật nhỏ mọn quê mùa, chẳng qua ăn lấy thứ tươi thôi. Chúng tôi chỉ muốn ăn thịt cá, nhưng chẳng có mà ăn.

Giả mẫu lại nói:

- Bây giờ đã nhận bà con, thì không nên về không, đừng ngại gì cả, hãy ở lại chơi vài hôm. Ở đây cũng có vườn, có hoa quả, ngày mai bà đến nếm thử xem, rồi mang về một ít, thế mới là có đi có lại chứ.

Phượng Thư thấy Giả mẫu vui vẻ, liền mời già Lưu ở lại, và nói:

- Nhà chúng tôi tuy không rộng bằng vườn trại của bà, nhưng cũng có vài gian buồng để không, bà ở lại vài hôm, kể chuyện mới chuyện cũ ở quê ta cho bà tôi nghe.

Giả mẫu cười nói:

- Cháu Phượng đừng mang bà ấy ra làm trò cười. Bà ấy là người nhà quê thực thà, không quen lối đùa cợt của nhà mày đâu!

Liền sai người lấy hoa quả cho thằng Bản. Thằng Bản thấy đông người, sợ không dám ăn. Giả mẫu lại sai người cho nó tiền, bảo bọn hầu bé đưa nó ra ngoài chơi. Già Lưu uống nước xong, kể những chuyện tai nghe mắt thấy ở thôn quê cho Giả mẫu nghe. Giả mẫu càng lấy làm thích.

Đến chiều, Phượng Thư sai người mời già Lưu đi ăn cơm. Giả mẫu lại chọn vài món ăn của mình, sai người đưa cho già Lưu. Phượng Thư biết già Lưu hợp tính Giả mẫu, nên ăn cơm xong lại bảo già đến ngay. Uyên Ương sai bà già đưa già Lưu đi tắm rửa, lấy hai bộ quần áo của mình thường mặc đưa cho già thay. Già Lưu xưa nay có được thấy thế này bao giờ, vội thay quần áo, đến ngồi trước giường Giả mẫu, rồi lại moi chuyện ra nói. Bấy giờ chị em Bảo Ngọc đương ngồi cả đấy. Họ xưa nay chưa hề được nghe, nên cảm thấy thay hơn cả người mù kể chuyện.

Già Lưu tuy là người nhà quê, nhưng cũng am hiểu ít nhiều. Vả tuổi đã già, trò đời đã từng trải, lại thấy Giả mẫu và đám chị em đều thích nghe, nên dù hết chuyện, cũng vẫn cứ bịa ra để nói:

- Chúng tôi ở nhà quê, cày cấy trồng trọt, hàng năm, hàng ngày, suốt cả bốn mùa, dầm mưa dãi nắng, có lúc nào được ngồi rỗi đâu? Quanh năm lấy đầu bờ làm quán mát nghỉ ngơi, thì còn thiếu gì chuyện kỳ quặc trên đời! Cũng như mùa đông năm ngoái, tuyết rơi ròng rã mấy ngày, mặt đất ngập đến ba bốn thước. Hôm ấy tôi dậy sớm, chưa ra cửa, đã nghe thấy bên ngoài có tiếng rút củi sột soạt. Tôi đoán có người ăn cắp củi, nhìn qua cửa sổ, lại không phải là người trong trại.

Giả mẫu nói:

- Chắc là người qua đường lạnh quá, thấy củi chất đấy, rút ra để đốt chứ gì?

- Không phải là người qua đường, chuyện thế mới lạ chứ. Cụ thử đoán xem là ai? Nguyên là một cô gái rất đẹp, độ mười bảy, mười tám tuổi, đầu chải bóng nhoáng, mặc áo đỏ và quần hoa trắng...

Già Lưu vừa nói đến đấy, bỗng bên ngoài có tiếng ồn ào lại có người nói:

- Không việc gì đâu, đừng làm cụ sợ.

Giả mẫu nghe thấy liền hỏi:

- Cái gì thế?

A hoàn nói:

- Chuồng ngựa phía nam bị cháy, nhưng không việc gì, đã dập tắt được rồi.

Giả mẫu xưa nay vẫn hay nhát, liền đứng dậy vịn vào người hầu đi ra ngoài hè xem, thấy góc đông nam hãy còn ngọn lửa. Giả mẫu sợ quá, vừa niệm phật, vừa sai người đi thắp hương khấn thần hỏa. Bọn Vương phu nhân vội lại an ủi: "Đã dập tắt được rồi, xin cụ cứ vào".

Giả mẫu chờ cho lửa tắt hẳn rồi, mới dẫn mọi người vào.

Bảo Ngọc lại hỏi già Lưu:

- Tại sao cô gái ấy lại rút củi trong đám tuyết, lỡ bị lạnh sinh ốm thì sao?

Giả mẫu nói:

- Vừa rồi vì câu chuyện rút củi, nên xảy ra việc cháy, mày lại còn hỏi làm gì? Thôi! Thôi! Đừng nhắc đến nữa, hãy nói chuyện khác đi.

Bảo Ngọc nghe nói không vui, nhưng cũng phải thôi.

Già Lưu nghĩ một lúc, rồi nói:

- Cái trại ở bên đông trại chúng tôi có một bà cụ già đã ngoài chín mươi tuổi. Ngày nào cũng ăn chay niệm Phật. Không ngờ cảm động đến đức Phật Quan Âm, đêm về báo mộng rằng: "Số ngươi đáng phải tuyệt tự, nhưng vì ngươi có lòng thành nên ta đã tâu với đức Ngọc Hoàng cho ngươi đứa cháu giai". Cụ già ấy chỉ có một người con, người con ấy chỉ đẻ có một đứa cháu gái thôi. Ngờ đâu đứa cháu ấy đến năm mười bảy, mười tám tuổi thì chết mất. Bà ấy khóc lóc không biết bao nhiêu mà kể. Về sau quả nhiên lại đẻ được một đứa cháu nữa. Bây giờ nó đã mười ba, mười bốn tuổi, người kháu khỉnh, thông minh, lanh lẹ. Như thế thì thần phật có nhẽ cũng có đấy nhỉ!

Câu chuyện ấy hợp ý Giả mẫu và Vương phu nhân đều thích nghe cả. Bảo Ngọc lại chỉ thích chuyện rút củi thôi, nên trong lòng nghĩ vơ nghĩ vẩn. Thám Xuân liền hỏi:

- Hôm nọ cô Sử đã mời chúng ta, bây giờ chúng ta nên bàn nhau mở một cuộc thi thơ, để trả lại bữa tiệc, và cũng mời cụ đến thưởng hoa cúc một thể, có nên không?

Bảo Ngọc cười nói:

- Cụ đã bảo phải làm bữa tiệc để mời lại cô Sử và cho chúng ta đến tiếp. Chúng ta hãy ăn tiệc của cụ đã, rồi sẽ mời sau cũng không muộn.

Thám Xuân nói:

- Càng ngày trời càng rét thêm, chưa chắc cụ đã thích.

Bảo Ngọc nói:

- Cụ lại thích mưa, thích tuyết. Chúng ta chờ lúc bắt đầu có tuyết, mời cụ thưởng tuyết chả hơn ư? Khi đó chúng ta ngâm thơ dưới tuyết, lại càng thú lắm.

Đại Ngọc cười nói:

- Chúng ta ngâm thơ dưới tuyết ư? Cứ ý tôi, chi bằng kiếm một bó củi rồi chúng ta rút củi dưới tuyết, lại còn thú hơn.

Nghe nói câu ấy, bọn Bảo Thoa đều cười. Bảo Ngọc lườm Đại Ngọc một cái, không nói gì. Một lúc họ về cả, Bảo Ngọc dắt già Lưu ra chỗ vắng người, hỏi kỹ:

- Cô gái ấy là ai?

Già Lưu đành phải đặt chuyện ra nói:

- Ở đồi phía bắc bên trại tôi, có một ngôi miếu nhỏ, không phải là thờ thần phật nào cả. Khi trước có một ông già nào ấy...

Già Lưu nói đến đấy, lại nghĩ tên tuổi ông già.

Bảo Ngọc nói:

- Không cần phải nhớ tên tuổi, chỉ kể chuyện là đủ.

Già Lưu nói:

- Ông già ấy không có con trai, chi sinh được một cô gái, nghe đâu như tên là cô Dính Ngọc, văn hay chữ tốt; hai vợ chồng ông già yêu quý như ngọc báu. Thật là đáng tiếc! Cô gái ấy đến năm mười bảy tuổi thì bị bệnh chết.

Bảo Ngọc nghe đến đấy, giậm chân thở dài, lại hỏi:

- Thế rồi sau này việc ra làm sao?

- Vì hai vợ chồng ông già quá thương con, mới làm một ngôi miếu đắp tượng rồi cho người đèn hương thờ phụng. Bây giờ lâu ngày, người đã chết, miếu đã đổ, và tượng cũng đã hóa thành yêu tinh rồi.

Bảo Ngọc liền nói:

- Không phải hóa thành yêu tinh, những người như thế không bao giờ chết đâu.

- A di đà phật! Thật thế à? Nếu cậu không nói, thì tôi cho là cô gái ấy đã hóa thành yêu tinh rồi. Cô ta thường hiện ra người, vào các thôn các trại chơi. Tôi nói cái người rút củi, chính là cô gái đấy. Người trong trại chúng tôi đang bàn nhau đập tượng, san phẳng miếu đi.

- Không nên. San phẳng miếu là tội to lắm đấy.

- Cậu nói tôi mới hay. Ngày mai về, tôi sẽ ngăn họ đừng phá nữa.

- Bà tôi và mẹ tôi đều là người từ thiện, tất cả lớn, bé trong nhà, ai cũng thích làm việc thiện, nhất là việc xây đền đúc tượng. Ngày mai tôi sẽ làm một tờ phả khuyến, đi quyên hộ bà. Bà sẽ làm bà từ, tu sửa lại miếu, đắp lại tượng. Hàng tháng, tôi cho bà một món tiền đèn nhang, như thế có được không?

- Nếu được thế, tôi nhờ phúc cô ấy, cũng có ít tiền tiêu.

Bảo Ngọc lại hỏi tên đất, tên trại, đi lại xa gần, ở vào địa phận nào. Già Lưu thuận miệng nói bừa ra. Bảo Ngọc tin là thực, về buồng suy nghĩ suốt đêm. Sáng hôm sau, Bảo Ngọc cho Dính Yên mấy trăm đồng tiền, theo lời già Lưu kể, bảo nó đi xem trước thế nào rồi sẽ về trình.

Dính Yên đi rồi, Bảo Ngọc băn khoăn chờ mãi không thấy về, nóng ruột quá, đi quanh đi quẩn, cứ như kiến bò trên miệng nồi nóng, mãi đến lúc mặt trời xế bóng, mới thấy Dính Yên hớn hở trở về. Bảo Ngọc liền hỏi:

- Có tìm thấy không?

- Cậu nghe không rõ, để cháu phải đi tìm mãi! Cái miếu ở chỗ nào ấy, chứ không phải như lời cậu đã dặn. Cháu tìm hết cả ngày, khi đến cái đồi ở góc đông bắc, mới thấy có một ngôi miếu đổ.

Bảo Ngọc nghe nói mừng rỡ, liền nói:

- Có nhẽ già Lưu đã nhiều tuổi, nên nhớ nhầm đấy. Mày thấy thế nào?

- Cửa miếu này cũng hướng về phía nam, cũng đổ nát cả ròi, cháu tìm hết hơi mới thấy, cháu reo lên: "Đúng rồi", vội vàng đi vào, trông thấy pho tượng, cháu sợ quá, chạy ra ngay. Pho tượng ấy trông hệt như người sống vậy!

Bảo Ngọc mừng quá, cười nói:

- Tượng ấy hóa thành người, tất nhiên là có ít nhiều sinh khí!

Dính Yên vỗ tay nói:

- Có phải cô gái đâu! Là một vị ôn thần mặt xanh tóc đỏ!

Bảo Ngọc nghe nói, quát lên một tiếng:

- Đồ ăn hại! Có việc ấy mà cũng không làm nổi!

Dính Yên bực lên, nói:

- Không biết cậu xem sách nào, hay là nghe ai nói bậy, rồi tin là thực, sai cháu đi làm cái việc không đâu, rồi bảo cháu là đồ ăn hại?

Bảo Ngọc liền vỗ về:

- Đừng nóng thế, hôm khác rỗi, mày lại đi tìm một lượt nữa. Nếu tìm không thấy, tất nhiên là họ nói dối ta; nếu có thực thì chả phải mày làm được một việc âm đức hay sao? Thế nào ta cũng sẽ trọng thưởng cho.

Chợt đứa hầu bé canh cửa ngoài vào trình:

- Các cô bên nhà cụ đang chờ cậu ở ngoài cửa đấy. Chưa biết là việc gì.

-----------------------

(1). Tức Thích Huyền Trang, người đời Đường, sang Aán Độ lấy kinh. Vua không cho đi, ông ta trốn ra cửa Ngọc Quan, rồi đến Thiên Trúc, vào chào Thượng tọa giới hiền. Người cho vào nước Chi La. Vua nước ấy cấp cho Đường Tăng con tuấn mã chở kinh về, tất cả hơn 600 bộ.

(2). Hạng Võ nước Sở, rất khỏe, một tay nhấc được vạc nặng nghìn cân.

(3). Đây là lối nói của một bà già nhà quê, không biết cách tính toán thế nào.

Hồi thứ bốn mươi

Vườn Đại Quan, Sử thái quân hai lần mở tiệc

Gieo súc sắc, Kim Uyên Ương ra lệnh đố thơ

Bảo Ngọc nghe nói liền ra xem, thấy Hổ Phách đứng ở ngoài bình phong nói:

- Có việc chờ cậu đấy. Cậu ra ngay.

Bảo Ngọc đi lên nhà trên, thấy Giả mẫu và Vương phu nhân cùng các chị em đương bàn chuyện bày việc mời lại Sử Tương Vân. Bảo Ngọc nói:

- Theo ý cháu, đã không có khách ngoài, thì đồ ăn không cần định số trước, ngày thường ai thích ăn gì, cứ làm món ấy thôi, không cần phải bày tiệc. Trước mặt mỗi người, để một cái kỷ cao, đặt một cái hộp có nhiều ngăn, để món ăn vào đó và một cái bình, để ai nấy tự rót rượu lấy mà uống, như thế chẳng nhã hay sao?

Giả mẫu nói:

- Phải đấy.

Liền sai người truyền nhà bếp: "Ngày mai cứ theo số người, chọn nhưng món gì chúng ta thích ăn thì đặt cả vào khay. Bữa cơm sáng cũng bày ở trong vườn luôn".

Khi bàn bạc xong thì trời đã tối.

Sáng hôm sau, khí trời trong sáng. Lý Hoàn dậy sớm đang trông nom cho bọn bà già và người hầu quét trước nhà cửa, lau chùi bàn ghế, sắp sẵn rượu chè, mâm bát, thì thấy Phong Nhi dắt già Lưu và thằng Bản đến nói:

- Mợ Cả bận lắm nhỉ?

Lý Hoàn cười nói:

- Hôm qua tôi đã bảo mà! Bà đừng vội, không về ngay được đâu!

- Cụ cứ giữ tôi lại, cho tôi cùng vui nhộn một hôm.

Phong Nhi mang mấy cái chìa khóa lớn nhỏ lại, nói:

- Mợ tôi bảo, những kỷ cao ở ngoài sợ không đủ, nên mở cửa lầu lấy mấy cái xuống để dùng một bữa. Nhẽ ra mợ tôi đến lấy thì phải, nhưng đương hầu chuyện bà Hai, vậy nhờ mợ mở cửa hộ, và cho người lên mang xuống.

Lý Hoàn sai Tố Vân cầm lấy chìa khóa lại sai bà già ra gọi mấy đứa hầu nhỏ ở cửa ngoài vào. Lý Hoàn đứng ở dưới lầu Đại Quan, sai người lên mở gác Xuyết Cẩm, rồi bọn hầu nhỏ, bà già, a hoàn, chạy lên, cứ từng cái một, mang hơn hai mươi cái xuống.

Lý Hoàn nói:

- Phải cẩn thận đấy, đừng có chạy vội như ma đuổi, làm sứt những miếng gỗ chạm trổ xung quanh thì khốn đấy.

Rồi quay lại già Lưu, cười nói:

- Bà thử trèo lên mà xem.

Già Lưu không nói gì, dắt ngay thằng Bản trèo lên thang, đi vào trong gác, thấy đen ngòm những bình phong, bàn ghế và các thứ đèn hoa, màu sắc chói lọi, cái gì cũng lạ mắt. Già Lưu không sao nhận ra được, luôn miệng mô phật mấy tiếng. Sau đó, đóng cửa gác lại, mọi người đều xuống. Lý Hoàn nói:

- Phòng khi cụ cao hứng, nên mang cả thuyền nhỏ, sào, chèo, màn xuống để sẵn đó.

Mọi người vâng lời, lại mở cửa gác mang các thứ xuống, rồi sai đám hầu nhỏ gọi các lái thuyền ra bến, chống hai cái thuyền về.

Đương lúc nhộn nhạo, thi Giả mẫu dẫn mọi người đến. Lý Hoàn vội ra đón, cười nói:

- Bà cao hứng thật, bây giờ đã đến rồi. Cháu tưởng bà chưa chải đầu, vừa ngắt mấy bông hoa cúc định đưa sang.

Bích Nguyệt bưng cái khay xanh biếc kiểu lá sen đến, trong đựng mấy cành hoa cúc. Giả mẫu chọn một cành cúc đỏ cài lên mái tóc, quay lại trông thấy già Lưu, liền cười nói:

- Lại đây mà cài hoa lên đầu.

Nói chưa dứt lời, thì Phượng Thư đã kéo già Lưu đến, cười bảo "Để tôi trang điểm cho bà". Liền cầm cả khay hoa cắm ngang cắm dọc, loạn xạ lên đầu già Lưu. Giả mẫu và mọi người không nhịn cười được. Già Lưu cũng cười:

- Không biết cái đầu tôi đã tu hành được phúc đức thế nào mà giờ đẹp đẽ như vậy.

Mọi người cười nói:

- Sao bà không rút hoa ném vào mặt nó, để nó cắm loạn xạ lên đầu bà như con ma già ấy.

Già Lưu cười nói:

- Tôi tuy già, nhưng thời trẻ cũng có vẻ phong lưu, cũng thích hoa thích phấn, nay hãy để cho bà già này làm đỏm một tý!

Họ vừa nói chuyện vừa đi, đã đến đình Thấm Phương. Bọn a hoàn mang cái nệm gấm rải lên ghế ở cạnh lan can. Giả mẫn ngồi dựa vào lan can, bảo già Lưu ngồi bên cạnh, hỏi:

- Cái vườn này có đẹp không?

Già Lưu niệm Phật:

- Chúng tôi người nhà quê, cứ đến cuối năm thì ra tỉnh mua tranh về dán. Lúc rồi, cả nhà xem tranh đều nói: làm thế nào mà được đi chơi ở trong bức vẽ này, cứ nghĩ là bức vẽ chẳng qua bày đặt ra thôi, chứ có chỗ nào thật đẹp như thế. Ngờ đâu, hôm nay vào đây xem, lại đẹp gấp mười bức vẽ! Làm thế nào có người vẽ cho một bức hệt như cái vườn này, để tôi mang về nhà cho mọi người xem, thì chết cũng đáng đời!

Giả mẫu nghe nói, chỉ vào Tích Xuân, cười nói:

- Bà xem đứa cháu gái tôi biết vẽ đấy, để ngày mai nó vẽ cho bà một bức, có được không?

Già Lưu nghe nói, mừng quá, vội chạy lại ôm lấy Tích Xuân nói:

- Cô ơi! Cô mới chừng ấy tuổi, mà vừa xinh đẹp lại có tài vẽ chẳng phải là thần tiên giáng thế hay sao?

Giả mẫu và mọi người đều cười. Họ nghỉ một lúc rồi dẫn già Lưu đi xem các nơi, trước hết là quán Tiêu Tương. Vừa vào đến cửa, thấy hai bên đường trúc rủ rườm rà, rêu xanh phủ kín, ở giữa có một con đường đá nhỏ quanh co. Già Lưu mời Giả mẫu và mọi người đi lên đường đá, còn mình thì đi sang bên mé đường đất. Hổ Phách kéo già Lưu lại bảo:

- Bà già, bà cứ đi lên trên này, đi vào rêu trơn trượt ngã đấy.

Già Lưu nói:

- Không việc gì, tôi đi quen rồi, các cô cứ đi lên trên, không thì giày của các cô sẽ dính bùn.

Già Lưu cứ cắm đầu nói chuyện, không ngờ trượt chân ngã "oách" một cái. Mọi người đều vỗ tay cười. Giả mẫu cũng cười và mắng bọn chúng:

- Lũ ranh này! Không đỡ bà ấy lên lại đứng mà cười!

Già Lưu đã bò dậy, cũng cười theo:

- Vừa mới nói xong, chính mình lại vả vào miệng mình.

Giả mẫu hỏi:

- Có sái lưng không? Bảo a hoàn nó bóp cho!

- Thế chả hóa ra tôi yếu lắm hay sao? Một ngày ít ra cũng ngã đến vài lần. Lúc nào cũng phải đấm bóp thì làm thế nào được!

Tử Quyên vén rèm lên, bọn Giả mẫu vào ngồi. Đại Ngọc tự đi pha một chén trà, để vào cái khay mời Giả mẫu uống.

Vương phu nhân nói:

- Chúng tôi không khát, cô đừng pha nữa.

Đại Ngọc nghe nói, liền sai a hoàn mang cái ghế dựa của mình thường ngồi ở trước cửa sổ xuống, mời Vương phu nhân ngồi. Già Lưu trông thấy cái bàn ở dưới cửa sổ có để nghiên bút, trên tủ lại có nhiều sách, liền nói:

- Chắc là buồng đọc sách của cậu nào đây?

Giả mẫu cười, trỏ vào Đại Ngọc, nói:

- Chính là nhà của con cháu ngoại tôi đấy.

Già Lưu để ý nhìn Đại Ngọc một lúc, rồi nói:

- Có gì là giống buồng thêu của một vị tiểu thư đâu? So với buồng sách lịch sự nhất lại còn đẹp hơn!

Giả mẫu hỏi:

- Sao không thấy Bảo Ngọc?

Bọn a hoàn thưa:

- Cậu ấy đang chèo thuyền ở hồ.

Giả mẫu nói:

- Ai sắp sẵn thuyền thế?

Lý Hoàn thưa:

- Khi mở lầu lấy đồ xuống, cháu đoán là bà thích đi thuyền, nên cũng sắp sẵn trước.

Giả mẫu muốn nói nữa, nhưng có người vào trình:

- Có Tiết phu nhân đến.

Mọi người đứng cả lên, Tiết phu nhân đã vào đến nơi, ngồi xuống, cười nói:

- Hôm nay cụ cao hứng quá, đã đến đây rồi.

Giả mẫu nói:

- Tôi vừa nói ai đến chậm phải phạt, thế mà bà dì lại đến chậm.

Mọi người cười nói một lúc. Giả mẫu nhân trông thấy bức màn the treo trên cửa sổ đã cũ, liền bảo Vương phu nhân:

- Bức màn này khi mới treo, trông đẹp đấy, nhưng để lâu phai màu. Ngoài sân không có cây đào cây hạnh nào, mà trúc đã có lá xanh rồi. Cứ treo màn xanh không ăn màu. Ta nhớ nhà ta có những bức màn treo cửa sổ bốn năm màu kia mà. Ngày mai, bảo lấy thay bức màn này đi.

Phượng Thư nói:

- Hôm nọ cháu mở buồng kho, thấy trong hòm lớn có mấy tấm the "thuyền dực"(1): màu ngân hồng, tấm thì dệt lối hoa chiết chi, tấm thì Lưu vân biển bức(2), tấm thì bách điệp xuyên hoa(3), màu vừa tươi, lại nhã, nhũn nhẹ. Nhưng không thấy thứ the như bà nói. Nếu có thứ ấy, đem ra làm nệm gấm thì chắc đẹp lắm.

Giả mẫu cười nói:

- Hừ! Người ta bảo mày cái gì cũng biết, cái gì cũng từng trải cả. Thế mà ngay thứ the ấy mày cũng không nhận ra được, rồi lại còn nói láo!

Mọi người đều cười, nhân nói:

- Chị đã từng trải đến mấy cũng còn kém cụ? Sao cụ không dạy bảo chị ta để cho chúng tôi cũng được nghe nhờ?

Phượng Thư cười nói:

- Bà ơi. Bà dạy cháu với!

Giả mẫu cười nói với Tiết phu nhân và mọi người:

- Loại the này có từ khi các người chưa đẻ kia. Chẳng trách được nó cho là thứ the "thuyền dực", vì hai thứ gần giống nhau. Ai không biết thì bảo là the "thuyền dực", nhưng tên nó là "nhuyễn yên la"(4) kia.

Phượng Thư nói:

- Cái tên ấy cũng dễ nghe. Cháu đã lớn bằng này rồi, kể ra cũng đã được xem hàng mấy trăm thứ the, nhưng chưa được nghe tên ấy bao giờ.

Giả mẫu cười nói:

- Mày đã bao nhiêu tuổi? Biết được bao nhiêu thứ the? Lại dám nói láo! Loại nhuyễn yên la này chỉ có bốn màu: một là vũ quá thiên thanh(5), hai là thu hương sắc(6), ba là tùng lục, bốn là ngân hồng. Nếu đem ra làm màn hay che cửa sổ, trông xa như khói mù ấy, cho nên gọi là nhuyễn yên la. Màu ngân hồng lại có tên là hà ảnh sa(7) nữa. Bây giờ ngay the trong nội phủ nhà vua thường dùng, cũng không có thứ nào như thế.

Tiết phu nhân cười nói:

- Không cứ chị Phượng, chính tôi cũng chưa nghe thấy bao giờ.

Phượng Thư bảo người đi lấy một tấm mang đến. Giả mẫu nói:

- Chính thứ này đây! Lúc trước chỉ để che cửa sổ thôi, sau chúng ta đem ra làm chăn, làm màn, cũng thấy đẹp. Ngày mai lấy mấy tấm ra, đưa một tấm màn ngân hồng cho nó che cửa sổ.

Phượng Thư vâng lời. Mọi người tấm tắc khen đẹp. Già Lưu cũng ghé mắt vào xem, niệm phật luôn mồm, nói:

- Chúng tôi muốn may quần áo cũng không có, nay lại đem ra che cửa sổ, có đáng tiếc không?

Giả mẫu nói:

- Thứ này may quần áo không đẹp.

Phượng Thư kéo cái nẹp áo bông bọc the màu đại hồng đang mặc trong mình ra, nói với Giả mẫu và Tiết phu nhân:

- Thử xem cái áo của cháu đây này.

Giả mẫu và Tiết phu nhân đều nói:

- Hạng này tốt nhất đấy, ngay những thứ nhà vua dùng trong nội phủ cũng không đẹp bằng.

Phượng Thư nói:

- Tấm the mỏng này có gì mà lại bảo là nhà vua dùng trong nội phủ cũng không đẹp bằng.

Giả mẫu nói:

- Cố tìm xem, may còn, sẽ mang cả ra đây, biếu già Lưu hai tấm. Có hạng vũ quá thiên thanh, thì làm cho ta một cái màn treo. Còn thừa ít nào tìm thêm cái lót mà may áo khoác vai cho bọn a hoàn, chứ để lâu mục ra mất.

Phượng Thư vâng lời, rồi sai người cất đi.

Giả mẫu cười nói:

- Ở đây chật lắm, ta ra chỗ khác chơi.

Già Lưu cười nói:

- Người ta thường nói "con quan thì ở nhà quan". Hôm qua thấy trong phòng cụ bày những tủ to, hòm to, bàn to, giường to, trông thực oai vệ. Chỉ cái hòm còn to và cao hơn gian nhà của chúng tôi. Chẳng trách được, sau nhà phải để cái thang. Tôi nghĩ không ai lên buồng phơi phóng đồ lề, thì để thang ở đấy làm gì? Sau tôi mới nghĩ ra, chắc là để trèo lên mở hòm lấy đồ đạc. Không có thang thì lên thế nào được? Giờ trông thấy cái nhà nhỏ này, lại còn gọn gàng hơn. Đồ đạc đầy nhà, cái gì cũng đẹp cả, không biết những thứ ấy tên là gì? Tôi càng nhìn, càng không muốn dời chân khỏi chỗ này!

Phượng Thư nói:

- Còn chỗ đẹp hơn kia, tôi sẽ đưa bà đi xem một lượt.

Mọi người ra khỏi quán Tiêu Tương, trông xa thấy một đám người chèo thuyền ở giữa hồ, Giả mẫu nói:

- Họ sắp sẵn thuyền cả rồi, chúng ta xuống chơi một lát.

Nói xong đi thẳng đến bến Lục Tư ở Tử Lăng châu. Gần đến nơi, đã thấy mấy bà già bưng đến những khay sơn năm màu thếp vàng. Phượng Thư vội hỏi Vương phu nhân:

- Sáng nay dọn cơm ở đâu?

- Hỏi cụ xem người bảo ngồi ở đâu thì dọn.

Giả mẫu nghe nói, quay lại bảo:

- Chỗ cô Ba tiện hơn, cứ dọn cơm ở đấy. Chúng ta sẽ đi thuyền đến.

Phượng Thư nghe nói, quay lại cùng Lý Hoàn, Thám Xuân, Uyên Ương và Hổ Phách dẫn những người bưng cơm đi theo đường tắt đến Thu Sảng trai, bầy bàn ăn ở Hiểu Thúy đường. Uyên Ương cười nói:

- Ngày thường chúng ta nói các ông ở ngoài, khi uống rượu ăn cơm đều có người giúp vui. Hôm nay chúng ta cũng có vị gia khách đàn bà đấy.

Lý Hoàn là người trung hậu, không để ý đến câu nói ấy. Phượng Thư hiểu ngay là ám chỉ già Lưu, liền cười nói:

- Hôm nay chúng ta sẽ mang bà ấy ra làm trò cười.

Hai người bàn bạc với nhau. Lý Hoàn cười bảo:

- Các cô chẳng tử tế tý nào cả. Có phải trẻ con đâu mà vẫn hay đùa thế. Coi chừng cụ mắng cho đấy!

Uyên Ương cười nói:

- Không việc gì đến mợ, đã có tôi.

Bọn Giả mẫu đến, ai nấy tiện đâu ngồi đấy. A hoàn rót nước trà đưa mời. Mọi người uống xong, Phượng Thư tay cầm cái khăn có bọc mấy đôi đũa mun bịt bạc, bày lên các bàn. Giả mẫu bảo:

- Mang một cái bàn nhỏ gỗ nam lại đây, mời già Lưu ngồi cạnh ta.

Mọi người liền mang lại. Phượng Thư đưa mắt cho Uyên Ương. Uyên ương kéo già Lưu ra ngoài, khẽ dặn mấy câu, lại nói:

- Đó là khuôn phép nhà chúng tôi, nếu nhầm thì người ta cười cho đấy.

Dặn xong về chỗ ngồi.

Tiết phu nhân ăn cơm rồi, xin kiếu, ngồi ra một bên uống nước.

Giả mẫu dẫn Bảo Ngọc, Tương Vân, Đại Ngọc và Bảo Thoa cùng ngồi một bàn. Vương phu nhân dẫn ba chị em Nghênh Xuân ngồi một bàn. Bàn già Lưu kê sát bàn Giả mẫu. Ngày thường, Giả mẫu ăn cơm, đều có a hoàn nhỏ đứng sẵn bên cạnh, cầm ống nhổ, phất trần, khăn tay. Đúng ra Uyên Ương không phải làm những việc ấy, nhưng hôm nay cũng đến cầm cái phất trần phe phẩy. Bọn a hoàn biết cô ta muốn trêu chọc già Lưu, nên lánh mặt đi, Uyên Ương vừa đứng hầu, vừa đưa mắt nhìn già Lưu. Già Lưu nói: "Cô cứ yên tâm".

Già Lưu vào chỗ ngồi, cầm đũa lên, nhưng nặng chình chịch, không vừa tay. Vì Phượng Thư và Uyên Ương đã bàn với nhau từ trước, lấy riêng cho già Lưu một đôi đũa ngà già bốn cạnh có bịt vàng. Già Lưu thấy đôi đũa, nói:

- Cái nạng này còn nặng hơn cả cái xẻng của nhà chúng tôi, thế này thì cầm sao được! Mọi người nghe vậy cười ầm lên.

Rồi một người đàn bà bưng một cái quả đứng ở đấy, một a hoàn đến mở nắp, trong có hai cái bát đồ ăn. Lý Hoàn bưng một bát đặt lên bàn Giả mẫu. Phượng Thư lại chọn một bát trứng bồ câu đặt ở bàn già Lưu.

Giả mẫu ở bên này nói sang: "Xin mời. Già Lưu đứng dậy nói to:

- Già Lưu, già Lưu, ăn khỏe như trâu; ăn phàm như lợn không hề ngẩng đầu.

Rồi bà phùng má trợn mắt, chẳng nói một câu. Mọi người trước còn ngẩn người ra nhìn, sau trên dưới đều cười ầm lên. Tương Vân không nhịn nổi, cười phì cả cơm ở mồm ra. Đại Ngọc cười sặc sụa, gục xuống bàn chỉ kêu "úi chà!". Bảo Ngọc lăn vào lòng Giả mẫu, Giả mẫu cười ôm lấy Bảo Ngọc, gọi "Cháu của bà ơi!" Vương phu nhân cười trỏ tay vào Phượng Thư nhưng không nói được câu gì. Tiết phu nhân không nhịn được cười phun cả nước trà ra quần Thám Xuân. Tích Xuân đứng dậy vịn vào vú em, bảo xoa hộ bụng. Khắp xung quanh ai cũng lăn ra cười, có người lẻn ra ngoài cửa, có người nhịn cười đi thay quần áo cho các cô. Chỉ có Phượng Thư và Uyên Ương vẫn nhịn cười, luôn miệng mời già Lưu.

Già Lưu cầm đũa, nhưng khó gắp quá, lại nói:

- Giống gà nhà này đẹp quá, đẻ được nhưng quả trứng nhỏ xinh xắn thế này. Khéo thật, tôi hãy đâm một quả đã!

Mọi người vừa ngớt cười xong, nghe thấy câu nói ấy lại cười ầm lên. Giả mẫu cười chảy cả nước mắt, không thể nhịn được; Hổ Phách đứng đằng sau đấm lưng. Giả mẫu cười nói:

- Chắc lại con ranh Phượng bày trò ra đây? Từ nay nói gì thì cũng đừng tin nữa.

Già Lưu đang khen trứng gà nhỏ đẹp, muốn đâm một quả. Phượng Thư cười nói:

- Mỗi quả trứng gà một lạng bạc đấy! Bà ăn đi, để nguội không ngon đâu.

Già Lưu giơ đũa định gắp, nhưng gắp thế nào được? Khua ngầu cả bát lên, mãi mới gắp lên được một quả, vừa mới ngẩng cổ định ăn, thì quả trứng lại rơi tuột xuống đất mất.

Già Lưu vội đặt đũa xuống, định lấy tay nhặt, nhưng những người đứng đấy đã nhặt đi rồi. Già Lưu thở dài:

- Thế là mất toi một lạng bạc.

Mọi người không ai để ý đến ăn, chỉ nhìn già Lưu mà cười. Giả mẫu nói:

- Hôm nay ai mang đôi đũa đấy ra đây? Không phải mời khách ngoài, bày tiệc to mà! Thôi lại chỉ con Phượng bày trò ra đây! Không đem thay đôi khác đi à!

Những người hầu không ai sắp đôi đũa ngà này cả, chỉ có Phượng Thư và Uyên Ương đem ra, nay thấy thế, họ liền cất đi rồi lấy đôi đũa gỗ mun bịt bạc đến đổi.

Già Lưu nói:

- Bỏ đũa vàng lại mang đũa bạc đến, cũng vẫn không bằng đũa chúng tôi cầm vừa tay hơn.

Phượng Thư nói:

- Trong đồ ăn lỡ có chất độc, lấy đũa bạc thử thì biết ngay.

Già Lưu nói:

- Trong đồ ăn này mà có độc, thì những thứ đồ ăn của chúng tôi đều là nhân ngôn cả! Dù độc chết người tôi cũng cứ ăn.

Giả mẫu thấy già Lưu vui vẻ như thế, ăn có vẻ ngon lành, liền sai người mang những đồ ăn của mình sang, lại bảo vú già gắp đồ ăn vào bát cho thằng Bản.

Ăn xong, bọn Giả mẫu vào buồng Thám Xuân nói chuyện, ở ngoài xếp dọn bàn ăn rồi lại bày một bàn khác. Già Lưu trông thấy Lý Hoàn cùng Phượng Thư ngồi ăn, thở dài nói:

- Cái khác không nói làm gì, tôi chỉ thích cách làm việc trong nhà các mợ! Chẳng trách được, người ta thường nói: "Lễ ở nhà quan ra".

Phượng Thư cười nói:

- Bà đừng nghĩ ngợi gì nhé, vừa rồi chẳng qua để mọi người cùng vui đấy thôi.

Nói chưa dứt lời, thì Uyên Ương chạy lại, cười nói:

- Bà đừng giận, tôi xin lỗi bà.

Già Lưu cười nói:

- Cô nói gì thế? Chúng ta đều làm cho cụ vui lòng cả, có điều gì đáng giận? Trước cô dặn tôi, tôi cũng hiểu rồi, chẳng qua làm cho mọi người cùng vui đấy thôi. Nếu giận thì tôi đã chẳng nói.

Uyên Ương liền mắng người hầu:

- Tại sao chưa pha trà cho già uống?

Già Lưu vội nói:

- Cô ấy đã pha trà cho tôi uống rồi. Cô cứ đi ăn cơm đi.

Phượng Thư kéo Uyên Ương ngồi xuống bảo:

- Cô ngồi đây ăn với chúng tôi, đỡ phải phiền nữa.

Uyên Ương ngồi xuống, bọn bà già lấy thêm bát đũa. Ba người ăn xong, già Lưu cười nói:

- Tôi thấy các cô chỉ ăn có một tý đã xong rồi, như thế không đói à! Chẳng trách được, gió thổi một cái cũng ngã!

Uyên Ương hỏi:

- Hôm nay đồ ăn còn thừa nhiều, họ đi đâu cả?

Bọn bà già nói:

- Họ đều chưa về, còn ngồi chờ cả ngoài kia, đem phân phát cho họ ăn.

Uyên Ương nói:

- Họ ăn không hết chừng ấy đâu, lấy vài món mang sang cho Bình Nhi bên nhà mợ Hai.

Phượng Thư nói:

- Bình Nhi ăn cơm sáng rồi, không cần phải mang cho nữa.

Uyên Ương nói:

- Nếu nó không ăn thì cho mèo nhà mợ ăn.

Bà già chọn hai món để vào quả mang sang. Uyên Ương hỏi:

- Chị Tố Vân đi đâu?

Lý Hoàn nói:

- Nó đã ngồi ăn cả đây rồi, còn hỏi làm gì?

Uyên Ương nói:

- Thế thì thôi.

Phượng Thư nói:

- Tập Nhân không ở đây, cô bảo người đưa hai món sang cho cô ấy ăn.

Uyên Ương liền sai người mang sang hai món.

Uyên Ương lại hỏi bọn bà già:

- Cái quả đựng đồ ăn để lát nữa trở về uống rượu, đã sắp sẵn chưa?

- Có nhẽ phải chờ một lúc nữa.

- Nhanh lên một tý.

Bà già vâng lời.

Bọn Phượng Thư vào buồng Thám Xuân, thấy các chị em đang cười đùa. Thám Xuân vốn thích rộng rãi, ba gian nhà ở đều để thông luôn. Giữa nhà kê một cái bàn to bằng đá Đại Lý, trên bàn có các loại bút thiếp của cái bậc danh nhân, cùng mấy chục cái nghiên báu, và các thứ ống bút; bút cắm ở ống như rừng cây. Một bên bày cái lọ sứ Như Châu to bằng cái đấu, cắm đầy hoa cúc trắng như thủy tinh. Phía tường bên Tây treo một bức họa "Yên vũ đồ" của Mễ Tương Dương(8).

Hai bên treo hai câu đối, bút tích của ông Nhan Lỗ công(9): Phong lưu cảnh đượm màu mây khói, chất phác người quen thú suối rừng. Trên án đặt một cái đỉnh lớn, trên cái giá gỗ đàn tía ở bên tả đặt một cái mâm sứ lớn, trên mâm bày mấy chục quả phật thủ vàng tươi; trên cái giá sơn ở bên hữu treo một cái khánh Tị Mục(10) bằng ngọc trắng, bên cạnh treo một cái dùi nhỏ.

Thằng Bản đã hơi quen rồi, nó định lấy dùi gõ khánh, bọn a hoàn vội ngăn lại. Nó lại muốn ăn phật thủ, Thám Xuân chọn cho một quả, nói:

- Để chơi thôi, không ăn được.

Trông thấy ở phía đông kê một cái giường cao chân, trên treo màn the màn xanh có thêu hoa cỏ, sâu bọ, thằng Bản chạy đến xem rồi nói:

- Đây là con cào cào, đây là con châu chấu.

Già Lưu tát nó một cái, mắng:

- Đồ con nhà hèn hạ! Làm ồn cả lên! Cho mày đến xem, mày lại dám hỗn thế à!

Thằng Bản khóc ầm lên, mọi người dỗ mãi nó mới nín.

Giả mẫu đứng trong màn cửa sổ nhìn ra sân sau, nói:

- Cây ngô đồng ở thềm đằng sau đẹp nhỉ, chỉ phải tội nhỏ thôi.

Chợt có một cơn gió thổi qua, vẳng nghe thấy tiếng đàn sáo. Giả mẫu hỏi:

- Nhà ai cưới vợ đấy? ở đây gần phố nhỉ?

Vương phu nhân nói:

- Ở ngoài phố thì nghe thế nào được? Đó là mười mấy cô gái bé của chúng ta đang tập đàn hát đấy.

Giả mẫu cười nói:

- Họ tập hát sao không bảo đến đây mà tập. Họ được chơi, chúng mình được vui, chả hơn ư?

Phượng Thư liền sai người đi gọi, rồi bảo người bày bàn, và trải thảm đỏ ra.

Giả mẫu nói:

- Bày ở nhà thủy tọa Ngẫu Hương tạ, nhờ có tiếng nước chảy lại càng vui tai. Chốc nữa chúng ta sẽ uống rượu ở tầng dưới Xuyết Cẩm các, vừa rộng rãi, vừa nghe được gần. Mọi người đều khen phải. Giả mẫu ngoảnh về phía Tiết phu nhân cười nói:

- Thôi chúng ta đi chơi, bọn chị em nó không thích đông người đến đâu, vì sợ bẩn nhà. Chúng ta biết thừa đi rồi, hãy ra ngồi thuyền uống rượu đi.

Mọi người đứng dậy định đi ngay. Thám Xuân cười nói:

- Sao bà lại nói thế? Mong bà, cùng dì và mẹ đến ngồi chơi còn chưa được nữa là.

Giả mẫu nói:

- Con cháu Ba còn khá, chỉ có hai cháu Ngọc là đáng ghét. Chốc nữa uống rượu say, chúng ta đến nhà chúng nó quấy chơi.

Mọi người đều cười ầm lên, rồi đi ra cả. Không mấy chốc đã đến bến Hành Diệp. Mấy cô lái thuyền được kén ở Cô Tô về đã chèo hai chiếc thuyền gỗ đương đến. Mọi người đỡ Giả mẫu, Vương phu nhân, già Lưu, Uyên Ương và Ngọc Xuyến lên một chiếc thuyền, Lý Hoàn cũng lên theo. Phượng Thư lên đứng ở đầu thuyền định chở đi. Giả mẫu ở trong khoang nói:

- Đừng đùa nhé! Đây không phải là sông, nhưng cũng có chỗ sâu đấy. Mày vào ngay trong này cho tao!

Phượng Thư cười nói:

- Sợ gì! Bà cứ yên tâm.

Nói xong, liến lấy sào đẩy ra đến giữa hồ. Thuyền nhỏ, người nhiều, Phượng Thư thấy choáng váng, vội đưa sào cho cô lái rồi ngồi xuống.

Chị em Nghênh Xuân cùng Bảo Ngọc lên một chiếc thuyền khác đi tới, còn bọn bà già, a hoàn cứ đi theo dọc bờ sông.

Bảo Ngọc nói:

- Những lá sen tàn này thật đáng ghét, sao không sai người nhặt hết đi.

Bảo Thoa cười nói:

- Mấy lâu nay những người coi vườn có được rỗi đâu, ngày nào chúng ta cũng đi chơi, họ còn thì giờ đâu mà đi nhặt được nữa?

Đại Ngọc nói:

- Xưa nay tôi không thích thơ Lý Nghĩa Sơn(11) chỉ thích có một câu của ông ta là: Sen tàn nghe rốn tiếng mưa thu. Bây giờ các người lại không để lại những lá sen tàn à!

Bảo Ngọc nói:

- Câu ấy hay thật! Từ giờ trở đi, chúng ta không sai người nhặt đi nữa.

Mọi người đi đến dưới kênh La Cảng ở bến Hoa Tự, thấy bóng mát lạnh toát người, hai bên bờ sông cỏ úa ấu tàn, càng gợi tình thu. Giả mẫu thấy trên bờ có những nhà mát rộng rãi, liền hỏi:

- Đây có phải là nhà cô Tiết đấy không?

Mọi người thưa: "Vâng". Giả mẫu bảo đỗ thuyền vào bờ, theo bậc đá trèo lên, cùng đến Hành Vu uyển, thấy sực nức mùi thơm. Những cỏ lạ dây tiên càng lạnh bao nhiêu, lại càng xanh tốt bấy nhiêu, nó đã ra quả như hạt đậu san hô, trĩu xuống đáng yêu. Vào đến trong nhà, thấy trắng tinh, không có một thứ đồ chơi nào cả. Trên án chỉ bày một cái lọ sành Châu Định, cắm vài cành cúc, cùng mấy bộ sách, hộp trà và chén trà thôi; trên giường treo cái màn the xanh, chăn đệm thì mộc mạc xuềnh xoàng lắm.

Giả mẫu than thở:

- Con bé này thực thà quá! Không bày biện gì cả. Tao cũng không để ý đến. Tất nhiên đồ đạc của nhà cháu không mang đến đây được, nhưng sao không hỏi dì cháu đưa cho mấy thứ mà bày?

Giả mẫu sai Uyên Ương về mang mấy thứ đồ cổ đến; lại mắng Phượng Thư:

- Mày là đồ keo kiệt, không mang đến đây cho em được mấy thứ đồ chơi.

Vương phu nhân và Phượng Thư đều cười nói:

- Cô ấy không thích. Chúng tôi đã cho mang đến, nhưng cô ấy đều giả lại cả.

Tiết phu nhân cười nói:

- Khi nó ở nhà cũng không thích những đồ ấy.

Giả mẫu lắc đầu nói:

- Không thể thế được. Dù cháu không muốn bày vẽ, nhưng có bà con đến chơi thì coi sao được; vả lại nhà ở của các cô mà giản dị quá cũng nên kiêng. Các cô mà ở như vậy thì bọn già chúng ta chỉ đáng ở chuồng ngựa thôi. Các người thử xem những phòng thêu của các tiểu thư ngày trước ở trong sách và trên sân khấu, đẹp đẽ diêm dúa biết là nhường nào. Bọn chị em bây giờ tuy không dám ví với những bậc tiểu thư ngày trước, nhưng cũng không nên xuềnh xoàng quá. Đồ đạc có sẵn cả, tại sao không đem bày? Nếu muốn giản dị thì bày ít đi mấy thứ cũng được. Xưa nay ta rất khéo trang trí nhà cửa, bây giờ già rồi, không hơi đâu nghĩ đến những việc ấy nữa. Chị em chúng nó cũng nên học cách trang trí cho đẹp. Mình mà tục, thì dù có bày đồ đẹp chăng nữa cũng bằng thừa. Nhưng ta xem chị em chúng nó không phải là bọn tục đâu. Bây giờ để ta trang trí cho, vừa đường hoàng lại thanh nhã. Ta có vài thứ của riêng, giờ vẫn cất đi không cho thằng Bảo trông thấy; nó thấy thì mất toi.

Nói xong, gọi Uyên Ương đến bảo:

- Mày về lấy cái chậu cây bằng đá, cái bình phong bằng lụa và cái đỉnh đá màu vân ám đến đây. Cứ bày ba cái ấy ở trên bàn là đủ. Rồi vất cái màn này đi, lấy cái màn lụa trắng vẽ thủy mạc treo vào đấy.

- Nhưng thứ ấy đều cất ở trên lầu phía đông, không biết ở hòm nào, để thư thả tìm xem, ngày mai sẽ mang đến.

- Hôm nào cũng được, nhưng đừng có quên.

Giả mẫu ngồi chơi một lúc rồi đi đến dưới gác Xuyết Cẩm. Bọn con hát lên chào và hỏi "Diễn vở gì?" Giả mẫu nói:

- Chọn nhưng vở nào các em đã đóng quen rồi thì diễn.

Bọn con hát diễn xong, mọi người mới trở về Ngẫu Hương tạ.

ở đây Phượng Thư đã cho người bày biện đầy đủ. Trên kê hai cái giường, trên giường trải nệm gấm, trước mỗi cái giường để hai cái kỷ sơn; cái chạm kiểu hoa hải đường, cái kiểu hoa mai, cái kiểu lá sen, cái kiểu hoa quỳ; cái vuông, cái tròn, không cái nào giống cái nào. Trên kỷ đầu để một lư hương và một cái quả. Hai cái giường bốn cái kỷ ở trên là chỗ Giả mẫu và Tiết phu nhân ngồi. Phía dưới một cái ghế, hai cái kỷ là chỗ Vương phu nhân ngồi. Còn thì mỗi người một ghế một kỷ. Bên đông là chỗ già Lưu ngồi, dưới đó là Vương phu nhân. Bên tây là Tương Vân, rồi Bảo Thoa, Đại Ngọc, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, cứ theo thứ tự mà ngồi, cuối cùng là Bảo Ngọc. Hai cái ghế của Lý Hoàn và Phượng Thư để ở bậc thứ ba, bên ngoài cái tủ the để bậc thứ hai. Kiểu kỷ thế nào, kiểu quả cũng thế. Mỗi người một bình rượu nhỏ bằng đồng đen chạm và một cái chén pha lê.

Mọi người ngồi xong, Giả mẫu cười nói:

- Trước hết, chúng ta mỗi người uống hai chén. Hôm nay cứ phải có "tửu lệnh" mới có ý nghĩa.

Tiết phu nhân cười nói:

- Cụ chắc có nhiều tửu lệnh hay, các cháu hiểu thế nào được? Người định để cho các cháu say, các cháu xin uống thêm mấy chén nữa.

Giả mẫu cười nói:

- Dì hôm nay nói nhún quá, chắc là chê tôi già rồi.

Tiết phu nhân cười nói:

- Không phải là nói nhún, sợ không theo nổi lệnh, lại làm trò cười thôi.

Vương phu nhân cười nói:

- Nếu không theo nổi, thì uống thêm một chén, say rồi đi ngủ, còn ai cười chúng mình vào đâu?

Tiết phu nhân gật đầu cười nói:

- Xin theo lệnh. Nhưng cụ phải uống trước một chén rượu lệnh mới được.

Giả mẫu cười nói:

- Đúng thế.

Liền uống một chén.

Phượng Thư vội đến cười nói:

- Đã ra tửu lệnh, nên cho Uyên Ương đứng hành lệnh mới phải.

Mọi người đều biết tửu lệnh của Giả mẫu là do Uyên Ưống nhắc trước, nên khi nghe xong, đều nói: "Phải lắm".

Phượng Thư kéo Uyên ương đến. Vương phu nhân cười nói:

- Đã được cử ra hành lệnh, không có nhẽ cứ phải đứng mãi.

Liền quay lại bảo a hoàn nhỏ: "Lấy một cái ghế nhỏ để ở trước bàn hai mợ mày".

Uyên Ương rụt rè, xin phép ngồi xuống, rồi uống một chén rượu, cười nói:

- Tửu lệnh phải nghiêm như quân lệnh, không cứ sang hèn, đều do tôi làm chủ cả. Trái lời tôi phải phạt.

Vương phu nhân cười nói:

- Đúng thế, hãy nói đi.

Uyên Ương chưa kịp nói, già Lưu đã đứng dậy xua tay nói:

- Đừng trêu chọc người ta! Tôi đi về đây.

Mọi người đều cười nói:

- Không thể thế được.

Uyên Ương quát sai bọn hầu nhỏ ra kéo già Lưu vào ghế. Già Lưu kêu lên:

- Thôi tha cho tôi!

Uyên Ương nói:

- Bà còn nói nữa sẽ phải uống một bình.

Già Lưu mới chịu thôi. Uyên Ương nói:

- Bây giờ tôi nói cách chơi bằng con bài. Từ cụ trở xuống đến già Lưu, đều phải theo lệnh. Ví dụ tôi gọi tên một phu bài, tôi sẽ tách riêng ba con ra, bắt đầu nói con thứ nhất, rồi đến con thứ hai. Nói đến lượt ai, người đó sẽ nói một câu, phải đúng vần. Nếu sai sẽ bị phạt một chén rượu.

Mọi người cười nói:

- Lệnh hay lắm, nói mau đi.

Uyên Ương nói:

- Đây có một phu bài. Bên trái là quân thiên.

Giả mẫu nói: Trời xanh đứng ở bên trên.

Mọi người nói: "Hay".

Uyên Ương nói:

- Ngũ lục đứng ở trung gian.

Giả mẫu nói:

- Lục kiều mai nở hương tràn thấu xương.

- Một quân lục hợp yêu.

- Một vành đỏ chói đương treo giữa trời.

- Hợp thành con quỷ bù đầu.

- Quỷ này ôm chặt đùi sau Chung Quỳ.

Mọi người cười rộ, khen ngợi. Giả mẫu uống một chén.

Uyên Ương lại nói:

- Lại có một phu bài. Bên trái quân đại trường ngũ đây.

Tiết phu nhân nói:

- Hoa mai trước gió tung bay từng chùm.

- Bên phải là quân đại ngụ trường.

- Tháng mười hai nức mùi hương trên ngàn.

- Giữa có quân tạp thất đây.

- Chức Ngưu thất tịch đêm ngày gặp nhau.

- Hai chàng dạo Ngũ Nhạc chơi,

- Cuộc vui tiên cảnh, dưới đời kém xa.

Mọi người khen hay, rồi Tiết phu nhân cũng uống một chén.

Uyên Ương lại nói:

- Đây là một phu bài nữa. Trường yêu bên trái hai vần.

Tương Vân nói:

- Hai vầng nhật nguyệt sáng trưng trần hoan.

- Trường yêu bên phải lập lòe.

- Tiếng hoa rụng xuống nào nghe thấy gì.

- Giữa con yêu tứ nữa đây.

- Kìa cây hồng hạnh tựa mây bên giời.

- Hợp thành một quả anh đào.

- Vườn qua lại để chim vào tha ra.

Nói xong, Tương Vân uống một chén rượu.

Uyên Ương lại nói:

- Lại có một phu bài nữa. Bên trái là quân trường tam.

Bảo Thoa nói:

- Một đôi chim yến kêu ran trên xà.

- Bên phải là quân tam trường.

- Gió đua thủy hạnh thòng lòng dây xanh.

- Giữa là tam lục chín khuyên.

- Núi Tam Sơn ngả ngoài miền trời xanh.

- Thuyền neo dây sắt chơi vơi.

- Nơi nào sóng gió là nơi buồn rầu.

Nói xong, uống một chén.

Uyên Ương lại nói:

- Quân thiên bên trái đây rồi.

Đại Ngọc nói:

- Ngày vui cánh đẹp tự trời biết sao.

Bảo Thoa nghe thấy câu ấy, quay lại nhìn. Đại Ngọc chỉ sợ bị phạt, nên không để ý.

Uyên Ương nói:

- Giữa bình gấm đẹp lạ lùng.

- Song the nào thấy ả Hồng báo tin.

- Nhị lục tám điểm đều nhau.

- Trước sân ngọc điện sắp chầu hai bên.

- Họp thành lẵng hái hoa rừng.

- Gánh hoa thược dược thơm lừng gậy tiên.

Nói xong uống một chén.

Uyên Ương nói:

- Bên trái tứ ngũ chín hoa.

Nghênh Xuân nói:

- Hoa đào đẫm mưa màu càng thắm.

Mọi người cười nói: Đáng phạt! Sai vần rồi, lại không đúng nghĩa.

Nghênh Xuân cười, uống một chén rượu phạt.

Nguyên vì Phượng Thư và Uyên Ương đều muốn nghe già Lưu nói để cười, cố ý bảo Nghênh Xuân nói sai đi. Đến lượt Vương phu nhân, thì Uyên Ương đọc giúp, sau đến già Lưu. Già Lưu nói:

- Chúng tôi ở nhà quê, khi nào rỗi, cũng thường họp mấy người chơi lối này, nhưng nghe không hay. Thôi để tôi thử nói xem.

Mọi người cười nói:

- Dễ thôi, bà cứ nói đi, không việc gì.

Uyên Ương cười nói:

- Bên trái đại tứ là "người".

Già Lưu nghe rồi, nghĩ mãi mới nói:

- Là người nhà quê chăng?

Mọi người cười vỡ nhà.

Già Lưu cười nói:

- Chúng tôi người nhà quê chẳng qua chỉ nói chuyện nhà quê, các cô các mợ đừng cười.

Uyên Ương nói:

- Giữa quân tam tứ đỏ xanh.

Già Lưu nói:

- Sâu trên đống lửa cháy thành ra tro.

Mọi người cười nói: "Phải đấy, hợp với cảnh bà đấy".

Uyên Ương cười nói:

- Bên phải yêu tứ đẹp thay.

Già Lưu nói:

- Bó kia củ cải, bó này tỏi tươi.

Mọi người lại cười.

Uyên Ương cười nói:

- Hợp vào thành một cành hoa.

Già Lưu xoa tay ra vẻ muốn cười nhưng lại nhịn, rồi nói:

- Đến khi hoa rụng lại là quả dưa.

Mọi người nghe nói, không nhịn được, đều cười ầm lên. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng ồn ào.

-----------------------

(1). The mỏng như cánh ve sầu.

(2). Dơi bay theo đám mây.

(3). Trăm con bướm hút nhị hoa.

(4). Thứ the mềm và mỏng như làn khói.

(5). Mưa tạnh trời xanh.

(6). Màu hoa mùa thu.

(7). Thứ the màu rán trời.

(8). Mễ Tương Dương tên là Mễ thị, tên chữ là Nguyên Chương, người đất Tương Dương, đời nhà Tống. Văn hay chữ tốt, lại có tài riêng về sơn thủy nhân vật, thích chơi đồ đá lạ vàng quý. Oâng đã làm những bộ sách như Bảo tấn anh quang tập, Như sử, Họa sử, Nghiên sử.

(9). Tức Nhan Chân Khanh (xem chú thích hồi 37).

(10). Hai khánh chồng lên nhau, như giống cá hai mặt ở bên phải.

(11). Tức Lý Thương Ân, người đời Đường, có lối thơ chải chuốt tình tứ.

Hồi thứ bốn mươi mốt

Am Lương Thúy, Bảo Ngọc thưởng trà ngon

Viện Di Hồng, già Lưu say rượu ngủ

Già Lưu xoa tay nói:

- Đến khi hoa rụng lại là quả dưa.

Mọi người cuời ầm lên. Già Lưu uống chén rượn rồi nói đùa:

- Hôm nay xin nói thực: Tôi chân tay thô kệch, lại uống nhiều rượu không cẩn thận lỡ đánh vỡ chén sứ thì không tiện. Xin cho tôi một cái chén gỗ, có đánh rơi xuống đất cũng không can gì.

Mọi người lại cười. Phượng Thư nói:

- Bà muốn dùng chén gỗ à? Tôi sẽ lấy cho. Nhưng có điều này phải nói trước: chén gỗ không như chén sứ đâu, nó có từng bộ một, phải uống hết mới được.

Già Lưu trong bụng ngần ngừ: "Vừa rồi chẳng qua ta nói đùa cho vui đấy thôi, biết đâu họ lại có thực. Ta thường đến ăn tiệc ở các nhà thân hào trong làng, trông thấy chén vàng chén bạc, chứ có chén gỗ bao giờ: A! Đúng rồi! chắc là thứ bát gỗ của trẻ con dùng. Họ làm thế, chẳng qua lừa ta uống thêm vài bát đó thôi. Nhưng không sao, rượu ngọt như nước đường, uống thêm một ít cũng chẳng hại gì." Nghĩ vậy già liền nói:

- Cứ mang lại đây tôi sẽ liệu.

Phượng Thư liền bảo Phong Nhi:

- Lấy bộ chén gốc trúc mười cái để trên giá sách trước mặt lại đây.

Phong Nhi định đi, Uyên Ương cười nói:

- Tôi biết rồi. Nhưng mười cái chén ấy hãy còn bé. Vả chăng mợ vừa bảo lấy chén gỗ, bây giờ lại lấy chén gốc trúc, như thế thì khó coi. Chi bằng lấy bộ mười cái chạm bằng rễ cây hoàng dương, đem đến đây, dốc hết cả cho bà ấy.

Phượng Thư cười nói: "Càng tốt".

Uyên Ương sai người mang đến. Già Lưu trông thấy vừa sợ vừa mừng: sợ là phải uống mười chén lớn nhỏ một lúc, cái lớn vừa bằng cái chậu, cái nhỏ nhất cũng to gấp đôi cái chén mình cầm trên tay; mừng là thấy những chén chạm trổ rất đẹp, một màu non nước, cỏ cây và người, lại có đề chữ đóng dấu, liền nói:

- Đem cái chén nhỏ đến đây thôi.

Phượng Thư cười nói:

- Ở đây sức rượu kém cả, nên không ai dám dùng bộ chén ấy. Vì bà thích, tôi phải đi tìm mãi mới thấy, nhất định là bà phải lần lượt uống hết mười chén mới được.

Già Lưu sợ hãi vội nói:

- Không dám đâu, xin mợ tha cho.

Giả mẫu, Tiết phu nhân và Vương phu nhân biết già Lưu đã có tuổi, không uống nổi, liền cười nói:

- Nói thế cho vui đấy thôi, bà không nên uống nhiều. Uống một chén đầu là đủ.

Già Lưu nói:

- A di đà phật! Tôi xin uống chén nhỏ, còn chén nhớn thì cất đi, để tôi mang về nhà uống dần.

Mọi người lại cười ầm lên.

Uyên Ương không làm thế nào được, đành phải sai người rót một chén lớn. Già Lưu bưng lấy định uống. Giả mẫu và Tiết phu nhân đều nói:

- Uống thong thả chứ, không thì sặc đấy.

Tiết phu nhân lại sai Phượng Thư đưa đồ ăn đến.

Phượng Thư cười nói:

- Bà muốn ăn món gì, cứ nói, tôi sẽ gắp cho.

Già Lưu nói:

- Tôi biết tên món gì mà gọi? Cái gì cũng ngon cả.

Giả mẫu cười nói:

- Gắp cà xào cho bà ấy ăn.

Phượng Thư vâng lời, gắp miếng cà xào đưa vào mồm già Lưu, cười nói:

- Ngày nào bà cũng ăn cà, giờ thử nếm xem món cà ở đây chúng tôi làm có ngon hay không?

Già Lưu cười nói:

- Đừng đánh lừa tôi, nếu cà mà ngon thế này, thì chúng tôi chỉ giồng cà thôi, không cần giồng các thứ ăn khác.

Mọi người cười nói:

- Cà thật đấy, chúng tôi không nói dối bà đâu.

Già Lưu lấy làm lạ nói:

- Cà thật đấy à? Tôi ăn từ nãy đến giờ, vẫn không biết mùi gì cả! Mợ gắp ít nữa cho tôi, đến miếng này tôi nhai kỹ xem.

Phượng Thư lại gắp một miếng đưa vào mồm già Lưu. Nhai một lúc lâu, già Lưu cười nói:

- Cũng hơi có mùi cà, nhưng không phải là cà. Mợ bảo cách cho tôi, khi về tôi cũng học nấu món ăn này.

Phượng Thư cười nói:

- Có khó gì đâu cứ đến tháng tư tháng năm, bà hái cà về gọt vỏ bỏ núm, chỉ lấy ruột thôi, đem thái nhỏ như sợi tóc, phơi thật khô. Sau đó bắt một con gà mẹ, ninh ra nước và hấp cà lên, xong đem ra phơi, chín lần phơi, chín lần hấp, lại đem phơi thật khô, rồi bỏ vào trong lọ sứ bịt thật kín. Khi ăn sẽ lấy một thìa trộn với thịt gà xào mà ăn.

Già Lưu lắc đầu lè lưỡi nói:

- Phật tổ ơi! Thế thì phải hết đến non chục con gà mới nấu được một bát. Chẳng trách ngon là phải!

Già Lưu vừa cười vừa thong thả uống hết một chén rượu, rồi cứ ngắm nghía mãi cái chén. Phượng Thư cười nói:

- Nếu chưa đủ hứng, thì bà uống thêm một chén nữa.

Già Lưu nói:

- Không uống được nữa, say chết mất! Tôi thích cái chén này quá, không biết họ làm bằng gỗ gì!

Uyên Ương cười nói:

- Bà uống hết rượu rồi, cũng không biết cái chén này người ta làm bằng gỗ gì à?

Già Lưu nói:

- Không trách được các cô không biết là phải. Các cô ở trong nhà vàng cửa gấm, biết sao được các thứ gỗ? Chúng tôi quanh năm làm quen với rừng. Khi buồn ngủ lấy gỗ mà gối, lúc mệt lấy gỗ mà nằm dựa lưng, năm mất mùa đói kém phải ăn đến cả nó. Mắt lúc nào cũng trông thấy gỗ, tai lúc nào cũng nghe thấy gỗ, miệng lúc nào cũng nói đến gỗ. Vì thế thứ gỗ nào tốt, xấu, thật, giả, tôi đều biết cả, để tôi thử nhận xem.

Già Lưu vừa nói vừa ngắm nghía cái chén một lúc nói:

- Nhà các người thế này, khi nào có chăng đồ xấu. Những thứ gỗ xoàng chắc các người chẳng chịu sắm đâu. Tôi cầm thấy nó nặng chình chịch ấy. Nếu không phải là gỗ dương, cũng là gỗ thông vàng.

Mọi người nghe nói lại cười ầm lên.

Một bà già chạy đến trình Giả mẫu:

- Các cô đã đến Ngẫu Hương tạ cả rồi, xin cụ truyền cho hát ngay hay phải chờ lúc nữa.

Giả mẫu cười nói:

- Ta quên khuấy đi mất, bảo chúng nó cứ hát đi.

Bà già vâng lời đi ra.

Một lúc tiếng sênh, tiếng sáo lộn ràng, đàn địch vang dậy. Lại gặp buổi trời trong gió mát, điệu nhạc văng vẳng luồn qua khe rừng bến nước vọng lại, làm cho mọi người tâm thần sảng khoái. Bảo Ngọc không nén nổi lòng, liền cầm cái hồ rót một chén rượu uống hết. Đang định uống thêm chén nữa, bỗng thấy Vương phu nhân cũng sai người đi lấy rượu ấm, Bảo Ngọc vội mang ngay chén rượu của mình đưa đến tận miệng Vương phu nhân. Vương phu nhân uống hai hớp.

Một lúc, rượu ấm mang đến, Bảo Ngọc lại về chỗ cũ. Vương phu nhân cầm lấy hồ rượu, nói: "Mời bà dì mày ngồi. Ai ở đâu về đấy." Vương phu nhân mới đưa cái hồ cho Phượng Thư, rồi tự mình ngồi xuống. Giả mẫu cười nói:

- Hôm nay thú quá, mọi người đều uống hai chén.

Rồi cầm chén mời Tiết phu nhân, lại bảo Tương Vân và Bảo Thoa:

- Hai chị em mày mỗi người phải uống một chén. Em Lâm mày không uống được nhiều cũng bắt phải uống.

Giả mẫu tự mình uống cạn chén trước, Tương Vân, Bảo Thoa, Đại Ngọc cũng đều uống cả.

Già Lưu nghe nhạc vui tai, lại có rượu mừng quá, múa chân múa tay lên. Bảo Ngọc liền đến cười bảo Đại Ngọc:

- Em xem già Lưu kìa.

Đại Ngọc cười nói:

- Ngày trước nhạc nhà vua vừa nổi lên, thì trăm muông nhảy múa. Bây giờ mới chỉ có một con trâu thôi.

Chị em đều cười.

Một lúc nhạc im. Tiết phu nhân cười nói:

- Mọi người uống rượu cả rồi, xin ra ngoài chơi một lúc.

Giả mẫu cũng thích ra chơi. Thế là cả nhà đều theo ra ngoài ngắm cảnh. Giả mẫu muốn đưa già Lưu đi dạo chơi, liền kéo già đến trước núi, dưới cây, quanh quẩn một lúc, bảo cho già biết cây này tên là gì, đá này tên là gì, hoa này tên là gì. Già Lưu đều ghi nhớ cẩn thận, nói:

- Ngờ đâu ở trong thành này, không những người, đến cả giống chim sẻ cũng sang trọng. Giống chim sẻ được ở trong nhà cụ cũng sinh khôn ra, và cũng biết nói.

Mọi người không hiểu, hỏi:

- Chim sẻ nào sinh khôn và biết nói?

Con chim có lông xanh, mỏ đỏ đậu ở cái cầu vàng ngoài hiên kia là con vẹt tôi đã biết rồi. Còn con quạ đen đầu có mào đang ở trong lồng kia cũng biết nói đấy.

Mọi người lại cười ầm lên.

Bọn a hoàn đem món điểm tâm đến. Giả mẫu nói:

- Mới uống vài chén rượu, chưa đói. Thôi cứ mang đến đây, ai muốn ăn gì thì ăn.

A hoàn khiêng đến hai kỷ, bày hai cái hộp nhỏ. Mở ra, mỗi hộp đựng hai thứ. Một hộp đựng hai món hấp: bánh hấp ngọt bột ngó sen có mùi hoa quế, và bánh cuốn mỡ ngỗng. Còn hộp nữa đựng hai thứ bánh rán: một thứ là bánh miến hấp, lớn độ một tấc. Giả mẫu hỏi:

- Bánh nhân gì đấy?

Bà già thưa:

- Nhân cua đấy ạ.

Giả mẫu cau mày nói:

- Bây giờ ngấy mỡ lắm rỗi, ai ăn được món ấy nữa.

Lại trông thấy món mì xào với mỡ, Giả mẫu cũng không thích, liền mời Tiết phu nhân ăn. Tiết phu nhân cầm một miếng bánh hấp ngọt. Giả mẫu cầm một cái bánh cuốn, nếm một miếng, còn thừa một nửa gọi cho a hoàn.

Già Lưu thấy bánh mỳ hấp trong suốt, lóng lánh, đủ màu đủ vẻ, lại cầm một cái bánh kiểu hoa mẫu đơn, cười nói:

- Các cô gái khéo nhất ở làng tôi cũng không cắt được cái hoa đẹp như thế này! Tôi muốn ăn nhưng lại tiếc, gói đưa về nhà để cho họ bắt chước cắt hoa thì tốt hơn.

Mọi người đều cười, Giả mẫu cười nói:

- Khi về tôi sẽ cho bà một vò mang về. Bây giờ bánh còn nóng, bà hãy ăn đi.

Mọi người chỉ lấy một vài cái nào mình thích ăn thôi.

Già Lưu xưa nay chưa từng được ăn những thứ này bao giờ, vả bánh làm lại khéo léo, xinh xắn, nên cùng thằng Bản ăn mỗi thứ mấy cái, đã vơi mất nửa mâm. Còn thừa, Phượng Thư sai dồn lại hai mâm và một hộp cho bọn Văn Quan ăn.

Bỗng vú em ẵm cháu Đại Thư đến. Mọi người đùa với nó một lúc, Đại Thư đương ôm quả bưởi chơi, thấy thằng Bản ôm quả phật thủ, nó đòi ngay. A hoàn dỗ đi lấy quả khác, nó chờ không được, khóc ầm lên. Mọi người lấy quả bưởi đưa cho thằng Bản rồi lấy quả phật thủ của thằng Bản đưa cho nó. Thằng Bản chơi quả phật thủ đã lâu rồi, lúc ấy hai tay lại đương cầm bánh ăn, trông thấy quả bưởi vừa thơm, vừa tròn, lại càng thích, định làm quả cầu để đá, nên không lấy quả phật thủ nữa.

Giả mẫu uống nước xong, dẫn già Lưu đến am Lũng Thúy. Diệu Ngọc đón chào. Mọi người vào đến sân, thấy hoa tươi cây tốt, Giả mẫu cười nói:

- Bọn họ tu hành rỗi việc, hay sửa sang, trông đẹp hơn các nơi nhiều.

Vừa nói vừa đi lên thiền đường bên đông. Diệu Ngọc cười mời vào trong nhà, Giả mẫu nói:

- Chúng tôi vừa uống rượn, ăn thịt xong, trong nhà thờ Phật vào sợ mắc tội; ngồi ở đây thôi. Người cứ mang trà ngon ra, chúng tôi uống một chén rồi đi.

Bảo Ngọc để ý xem cách tiếp đãi của Diệu Ngọc như thế nào, thấy Diệu Ngọc mang cái khay nhỏ kiểu hoa hải đường, sơn bốn chữ vàng "vân long hiến thọ", trong đặt một cái chén sứ Châu Thành năm màu dâng lên. Giả mẫu nói:

- Tôi không uống trà Lục An đâu.

- Tôi đã biết rồi. Đây là trà "Lão quân my"(1) đây.

- Pha bằng nước gì?

- Nước mưa năm ngoái đấy.

Giả mẫu uống nửa chén rồi đưa cho già Lưu, nói:

- Bà thử nếm trà này xem.

Già Lưu uống một hơi, cười nói:

- Ngon có ngon, nhưng hơi nhạt. Pha đặc một tí thì hơn.

Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Sau đều uống trà rót vào bát trắng có nắp.

Diệu Ngọc kéo áo Bảo Thoa và Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc cũng khe khẽ đi theo. Diệu ngọc mời hai người vào buồng bên cạnh. Bảo Thoa ngồi ở trên giường, Đại Ngọc ngồi ở chiếu tụng kinh của Diệu Ngọc. Diệu Ngọc lấy bếp lò đun nước, pha một ấm trà khác. Bảo Ngọc khẽ chạy đến, cười nói:

- Các cô uống trà riêng đấy à?

Hai người đều cười nói:

- Anh lại đến uống gạ! Đây không có trà cho anh uống đâu.

Diệu Ngọc đang định ra lấy chén, thấy bà già đã thu dọn ấm chén ở ngoài sân. Diệu Ngọc vội nói:

- Đừng cất cái chén sứ Châu Thành vội, hãy để ở ngoài ấy.

Bảo Ngọc hiểu ý, biết là già Lưu uống chén ấy, sợ bẩn nên cô ta không dùng nữa. Sau Diệu Ngọc lại mang hai cái chén khác ra, một cái có quai, trên khắc ba chữ lệ "cô kiều trác"(2), bên cạnh có một hàng chữ nhỏ, viết chân phương "Vương Khải trân ngoạn"(3); lại có một hàng chữ nhỏ nữa viết "Tống Nguyên Phong ngũ niên tứ nguyệt My Sơn Tô Thức kiến ư bí phủ"(4). Diệu Ngọc rót một chén đưa cho Bảo Thoa. Còn một chén dáng như cái bát nhưng mà nhỏ, cũng có ba chữ "điểm tế kiều"(5) khắc lối triện. Diệu Ngọc pha trà vào chén và đưa mời Đại Ngọc, rồi lấy cái chén ngọc xanh của mình thường dùng pha cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cười nói:

- Người ta thường nói "thế pháp bình đẳng"(6), sao hai cô được dùng đồ cổ quý, mà tôi lại phải dùng đồ tục này?

Diệu Ngọc nói:

- Thế là đồ tục à? Không phải tôi nói liều đâu, nhà cậu chưa chắc đã tìm ra được cái đồ tục này!

- Tục ngữ nói "Vào làng phải theo làng", đến đây thì nhưng đồ vàng ngọc châu báu đều cho là tục cả.

Diệu Ngọc nghe nói thích lắm, lại lấy ra một cái chén lớn làm bằng gốc trúc chạm rồng cuộn ngoằn ngoèo nhiều khúc, cười nói:

- Chỉ còn có một cái chén nhớn này thôi, cậu có thể uống hết được không?

- Uống hết được.

- Dù uống hết, cũng chẳng phí trà đâu cho cậu uống. Cậu không nghe người ta nói: "Uống chén thứ nhất là để thưởng thức mùi vị trà, chén thứ hai là phường ngu xuẩn uống cho khỏi khát, đến chén thứ ba là con trâu con lừa uống rồi". Bây giờ cậu uống cả một chén lớn này còn ra cái gì nữa.

Bảo Thoa, Đại Ngọc và Bảo Ngọc nghe xong đều cười ầm lên. Diệu Ngọc cầm bình nước chỉ rót độ một chén con vào chén lớn, Bảo Ngọc nhấm nháp từng tí, thấy hương vị mát nhẹ, khen ngợi không ngớt. Diệu Ngọc nghiêm nét mặt nói:

- Cậu nhờ phúc của hai cô mới được uống trà này, chứ một mình cậu thì tôi không mời đâu.

Bảo Ngọc cười nói:

- Tôi biết lắm, vì thế tôi không cám ơn người, chỉ cám ơn hai cô thôi.

Diệu Ngọc nói: "Đúng đấy".

Đại Ngọc hỏi:

- Đây cũng là nước mưa năm ngoái phải không?

Diệu Ngọc cười nhạt:

- Cô mà lại là người rất tục, ngay nước uống không biết nếm. Đó là tuyết ở trên hoa mai mà năm năm về trước tôi lấy ở chùa Huyền Mộ Bàn Hương đấy, chỉ chứa được đầy một lọ hoa màu xanh thôi. Tôi chôn xuống đất để dành mãi, không uống, đến hè năm nay mới đào lên. Tôi chỉ uống một lần, nay là lần thứ hai cô nếm cũng không biết à? Nước mưa năm ngoái làm gì có hương vị mát dịu như thế? Uống thế nào được?

Bảo Thoa biết Diệu Ngọc có tính dở hơi, không thích nói nhiều, cũng không thích ngồi lâu; uống nước xong, rủ Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc nói với Diệu Ngọc:

- Cái chén bà già uống lúc nãy, tuy bẩn, nhưng vất đi thật đáng tiếc! Cứ ý tôi, nên cho bà già nghèo ấy đem bán cũng có thể sống qua ngày. Người thấy có được không?

Diệu Ngọc nghĩ một lúc gật đầu nói:

- Thôi được. May tôi chưa uống đến cái chén ấy bao giờ. Đã uống rồi thì tôi đập đi, không khi nào đem cho bà ấy. Cậu muốn cho bà ấy, xin mang ngay đi.

- Như thế là phải. Khi nào người lại thèm nói chuyện với bà ấy? Nếu nói chuyện với bà ta thì người cũng bị bẩn lây. Cứ đưa cho tôi là được.

Diệu Ngọc sai người mang cái chén đưa cho Bảo Ngọc, Bảo ngọc cầm lấy rồi nói:

- Khi chúng tôi ra về, sẽ bảo mấy đứa hầu nhỏ ra sông gánh mấy thùng nước rửa nhà, có được không?

- Thế thì tốt. Nhưng cậu dặn họ, gánh nước về cứ để ở chân tường ngoài cửa thôi, đừng mang vào đây.

- Đúng thế.

Rồi Bảo Ngọc cầm lấy cái chén đưa cho người nhà Giả mẫu và bảo:

- Ngày mai già Lưu về, mày đưa cái này cho già ấy.

Ngay lúc đó, Giả mẫu đã ra, muốn về. Diệu Ngọc cũng không giữ lại, đưa Giả mẫu ra đến cửa ngoài, rồi quay lại đóng cửa.

Giả mẫu thấy người mệt, liền bảo Vương phu nhân và chị em Nghênh Xuân mời Tiết phu nhân uống rượu, còn mình vào nằm nghỉ ở Đạo Hương thôn. Phượng Thư sai người mang cái ghế trúc nhỏ đến, Giả mẫu ngồi vào đó, bảo hai bà già kiệu đi. Phượng Thư, Lý Hoàn và bọn a hoàn theo sau.

Tiết phu nhân cũng cáo từ ra về. Vương phu nhân cho bọn Văn Quan về, rồi phân phát những hộp bánh còn lại cho đám a hoàn ăn. Còn mình nhân tiện cũng nằm ngả xuống giường của Giả mẫu vừa ngồi, sai một đứa nhỏ hầu nhỏ bỏ rèm xuống, bóp chân và dặn:

- Cụ có gọi gì thì bảo ta ngay.

Nói xong lăn ra ngủ.

Bảo Ngọc, Tương Vân trông thấy bọn a hoàn để những hộp bánh ở trên hòn đá, có đứa ngồi trên hòn đá, có đứa ngồi dưới đất, có đứa dựa vào cây, có đứa ngồi trên bờ hồ, rất là thỏa thích. Một lúc, Uyên Ương đến dắt già Lưu, mọi người lại đều theo đi dạo chơi. Đi đến dưới bức hoành có bốn chữ "Tỉnh thân biệt thự "(7), già Lưu nói:

- Úi chà! Có ngôi đền lớn thế này kia à!

Già liền cúi đầu lạy. Mọi người cười ngặt nghẹo. Già Lưu hỏi:

- Cười cái gì thế? Những chữ ở trên bức hoành này tôi đọc được cả. Ở nhà quê chúng tôi có nhiều đền miếu, cũng có bức hoành như thế này. Chữ này là tên cái đền đây.

Mọi người cười hỏi:

- Bà biết đây là đền gì?

Già Lưu ngẩng đầu lên trỏ vào chữ nói:

- Đây không phải là "Ngọc Hoàng bảo điện" à!

Mọi người vỗ tay cười ầm lên. Họ đương định làm trò cười nữa. Nhưng già Lưu thấy bụng sôi sùng sục, vội kéo một a hoàn nhỏ, bảo lấy vài tờ giấy rồi cởi quần ra. Mọi người vừa cười vừa quát:

- Chỗ này không đi được đâu!

Liền sai một bà già đưa già Lưu đi về phía đông bắc. Bà già trỏ chỗ cho già Lưu, rồi lẩn đi một nơi.

Già Lưu uống nhiều rượu, không hợp với tỳ vị, lại ăn nhiều đồ mỡ, đâm khát, uống nhiều nước trà nên đi lỏng, phải ngồi mất lúc lâu. Khi ở nhà xí ra, lại bị gió. Hơn nữa, tuổi già, nên vừa đứng dậy, bà đã mắt hoa đầu váng, không nhận được lối đi. Nhìn chung quanh chỗ nào cũng cây cối um tùm, nhà cửa san sát, bà không tìm ra lối về, đành lững thững đi theo con đường đá. Khi đến trước một căn nhà, bà nghĩ bụng: "Ở đây cũng có giàn đậu à?" Liền theo hàng rào hoa đi vào một cái cửa tròn, thấy trước mặt có cái ao, bờ xây đá, rộng độ bảy tám thước, sông biếc nước trong, trên có cái cầu đá trắng bắc ngang.

Già Lưu trèo lên cầu, đi theo đường đá, quanh mấy vòng đến một ngôi nhà, liền đi vào, thấy một em gái bé đứng đó, hớn hở cười. Già Lưu vội cười nói:

- Các cô bỏ tôi để tôi lần mò mãi mới đến đây.

Em bé chẳng trả lời gì cả. Già Lưu chạy lại nắm lấy tay nó, "chát" một tiếng, bà vấp phải bức ván, bươu cả đầu. Nhìn kỹ hóa ra một bức vẽ. Già Lưu nghĩ bụng: "Bức vẽ sao lại nổi lên thế này?" Liền sờ tay thấy phẳng lì. Già Lưu gật đầu thở dài một tiếng rồi quay người đi đến một cái cửa nhỏ, trên treo rèm lụa màu xanh cải hoa. Già Lưu vén rèm đi vào, ngẩng đầu nhìn, bốn bên tường vách lộng lẫy, đàn, gươm, lư hương, bình hương, đều đặt vào lòng tường; lồng gấm, chao lụa, vàng ngọc sáng choang, cả gạch lát cũng đều chạm hoa xanh làm hoa cả mắt. Già Lưu lần cửa đi ra, nhưng nào có thấy? Bên trái đặt giá sách, bên phải đặt bình phong. Lần sau bình phong mới thấy một cái cửa, có một bà già ở trước mặt đi tới. Già Lưu lấy làm lạ, trong bụng hoảng lên đoán chừng: "Có lẽ là bà thông gia chăng?" Liền hỏi: "Bà cũng đến đấy à? Chắc thấy tôi đi mấy hôm nay không về, nên phiền bà phải đi tìm! Cô nào dẫn bà đến đây thế?"

Thấy bà già ấy chỉ cười mỉm, già Lưu cười nói: "Bà thật chả ra ngoài bao giờ, thấy vườn đây có hoa đẹp, là cố sống cố chết cắm đầy cả đầu."

Bà già vẫn không nói câu gì. Già Lưu nghĩ ngay: "Thường nghe nói các nhà giàu sang có tấm gương để mặc áo, có lẽ mình đứng ở trước gương hay sao đây?" Liền giơ tay ra sờ, và nhìn kỹ thì chính là bức vách chạm bóng bốn mặt và lắp gương giữa. Già Lưu bỗng cười lên rồi nói: "Thế này thì đi ra thế nào được?"

Cái gương này có nút bấm, có thể đóng mở được, không ngờ già Lưu sờ đúng vào chỗ bấm, cái gương gạt sang một bên, hé ra một cái cửa.

Già Lưu mừng mừng sợ sợ, chạy ra. Chợt thấy một cái giường rất lịch sự đặt đó. Lúc này già Lưu hãy còn say rượu,đi mãi đã mệt, liền ngồi thịch xuống giường, định nghỉ một lát, không ngờ mệt quá, hai mắt lim dim, hễ mở ra là nó díp lại, vừa ngả người xuống, bà đã ngủ thiếp ngay trên giường.

Mọi người chờ mãi không thấy già Lưu về, thằng Bản cứ khóc ầm lên. Ai nấy đều cười nói:

- Hay bà ấy rơi vào trong chuồng xí rồi? Phải sai người đi tìm xem.

Hai bà già đi tìm về nói: "Không thấy đâu cả". Mọi người đều chia các ngả đi tìm. Tập Nhân nói:

- Chắc là bà ấy say rượu, đi lạc đường. Nếu theo con đường này bà ấy sẽ lạc vào nhà sau đến giàn hoa, lần theo cửa sau, thế nào đám hầu nhỏ cũng biết, không đi theo lối giàn hoa, lại đi về phía tây nam, bà ấy quanh ra thì chớ, bằng không sẽ vẫn lẩn quẩn ở đấy! Tôi phải đi tìm xem sao?

Tập Nhân trở về viện Di Hồng, gọi bọn hầu nhỏ, chúng đều lẻn đi chơi cả.

Tập Nhân đi vào cửa buồng, vòng qua bức ngăn bằng gấm, nghe tiếng gáy khò khò, vội chạy lại, ngửi thấy hơi rượu sặc sụa. Nhìn vào nhà, thấy già Lưu đương dang tay, ruỗi chân nằm ngủ trên giường. Tập Nhân sợ quá, chạy vào lay lấy lay để. Già Lưu giật mình tỉnh dậy, trố mắt nhìn, thấy Tập Nhân, liền loạng choạng bò dậy nói:

- Cô ơi! Tôi đáng chết! May chưa làm bẩn giường.

Rồi lấy tay phẩy giường.

Tập Nhân sợ Bảo Ngọc biết, xua tay bảo già Lưu không được nói, vội lấy ba bốn nắm hương bách hợp bỏ vào cái đỉnh gần đấy rồi đậy nắp lại. May mà già Lưu không nôn ra đấy. Tập Nhân khẽ cười bảo:

- Không việc gì đâu, có tôi đây. Già theo tôi ra ngoài này.

Ra đến buồng bọn hầu trẻ. Tập Nhân bảo già Lưu ngồi đấy rồi dặn:

- Bà cứ nói là say rượu, nằm ngủ gật trên hòn đá, thế là được.

Già Lưu vâng lời. Tập Nhân lại cho uống hai chén nước trà, già Lưu mới tỉnh rượu, liền hỏi:

- Chỗ ấy là buồng thêu của cô nào mà lịch sự thế? Khác nào được lên trời vậy!

Tập Nhân mỉm cười nói:

- Buồng ấy à? Là buồng ngủ của cậu Bảo đấy.

Già Lưu sợ quá không dám nói nữa. Tập Nhân đưa già Lưu đi ra đằng trước, gặp mọi người chỉ nói: "Bà ấy ngủ ở trên bãi cỏ, tôi đưa về đây".

Mọi người đều không để ý đến.

---------------------

(1). Lông mày ông già, tức là ché búp trắng như tuyết.

(2). Chén hình quả bầu.

(3). Đồ chơi quý của Vương Khải ngày xưa.

(4). Tháng tư năm Nguyên phong thứ năm đời Tống, ông Tô Thức người ở My Sơn tìm thấy trong bí phủ.

(5). Có tâm linh thông cảm với nhau. Kiều: một thứ chén xưa hơi lớn hơn cái chén uống rượu.

(6). Chữ trong kinh phật, nghĩa là: tăng tục đều bình đẳng với nhau.

(7). Xem chú thích hồi 17.

Hồi thứ bốn mươi hai

Giải mối ngờ, Bảo Thoa ngỏ lời thân thiết

Thêm vui chuyện, Đại Ngọc nói ý xa xôi

Một lúc, Giả mẫu tỉnh dậy, cơm chiều đã dọn ra ở Đạo Hương thôn. Nhân người mệt, Giả mẫu không muốn ăn, liền ngồi vào ghế trúc nhỏ sai người kiệu về phòng nghỉ và cho Phượng Thư đi ăn cơm. Các chị em lại trở về trong vườn. Ăn cơm xong, ai về nhà nấy. Già Lưu dắt thằng Bản đến nói với Phượng Thư:

- Sáng sớm mai tôi phải về. Tôi ở chơi đây mới vài ba hôm, nhưng những cái xưa nay chưa từng nghe, chưa từng thấy, chưa từng ăn, giờ đã đều được qua cả. Từ cụ đến các mợ, các cô, ngay cả các chị a hoàn cũng thương tôi là người già nghèo khổ. Tôi về, không biết lấy gì tạ ơn, chỉ định ngày ngày thắp hương niệm phật, khấn người phù hộ cho cụ cùng các mợ, các cô sống lâu trăm tuổi, để tỏ lòng thành kính của tôi.

Phượng Thư cười nói:

- Bà đừng mừng vội, vì bà mà cụ tôi bị cảm, khó ở; cả cháu Đại Thư nhà tôi cũng bị cảm siết đấy.

Già Lưu thở dài:

- Cụ già rồi, không quen khó nhọc!

Phượng Thư nói:

- Xưa nay cụ tôi chưa từng cao hứng như thế bao giờ. Thỉnh thoảng người có đến chơi vườn, chẳng qua tới một vài chỗ, ngồi một lúc rồi về ngay. Hôm qua vì bà ở đây, muốn cho bà đi chơi khắp nơi, thành ra người đi quá nửa vườn. Lúc tôi đi tìm bà, ở nhà bà Hai cho cháu Đại Thư ăn miếng bánh, ngờ đâu nó đứng ở chỗ gió thành ra bị sốt.

Già Lưu nói:

- Chị bé nhà không quen ra vườn, chứ các cháu nhà tôi khi mới biết đi, bệ mả nào mà nó chẳng trèo lên? Có lẽ cảm gió đấy. Tôi sợ chị ấy người xinh xắn, con mắt sáng sủa, hoặc đi gặp phải ma chăng. Cứ ý tôi, nên giở quyển sách bói ra xem có phải gặp ma không.

Phượng Thư chợt nhớ ngay ra, sai ngay Bình Nhi mang quyển Ngọc Hạp và bảo Thái Minh đọc. Thái Minh giở một lúc rồi đọc: "Ngày 25 tháng 8, bệnh nhân mắc bệnh ở phía đông nam, gặp phải thần hoa. Lấy bốn mươi tờ giấy tiền ngũ sắc, tống tiễn ra khỏi nhà độ mươi bước về phía đông nam, bệnh sẽ khỏi."

Phượng Thư cười nói :

- Đúng lắm, trong vườn này làm gì mà chẳng có thần hoa? Chỉ sợ cụ cũng lại gặp ma thôi.

Rồi sai người đi lấy hai tập giấy tiền, gọi hai người đến tiễn ma cho Giả mẫu và cháu Đại Thư. Quả nhiên cháu ngủ yên.

Phượng Thư cười nói:

- Các bà đã có tuổi nên kinh nghiệm nhiều, con bé cháu nhà tôi bị bệnh luôn, không biết vì duyên cớ gì?

Già Lưu nói:

- Cái ấy cũng có lẽ. Trẻ con nhà giàu sang, khi mới đẻ ra đều yếu ớt cả, nên hay đau ốm luôn. Vả lại trẻ con mà nâng giấc quá không nên. Từ giờ trở đi, mợ cũng nên ít chiều chuộng chị ấy thì hơn.

Phượng Thư nói:

- Cũng có lẽ đấy. Giờ tôi sực nhớ đến, cháu chưa có tên, xin bà đặt tên cho cháu để cháu nhờ lộc của bà. Vả lại, tôi nói bà đừng giận, bà là người nhà quê bị nghèo khổ, được người nghèo khổ đặt tên cho nó thì mới đáng đầu đáng số.

Già Lưu nghĩ một lúc cười nói:

- Chị ấy đẻ bao giờ?

- Ngày sinh nó chả lấy gì làm tốt, nó đẻ "đúng vào"(1) ngày mồng 7 tháng 7.

- Như thế tốt lắm, cứ đặt tên cho chị ấy là Xảo Thư là được. Thế gọi là "lấy độc trị độc, lấy lửa trị lửa" đấy. Mợ cứ theo cái tên của tôi đặt cho, thì thế nào chị ấy cũng sống lâu trăm tuổi. Sau này lớn lên, sinh cơ lập nghiệp, hoặc có lúc gặp việc không may cũng tai qua nạn khỏi, gặp dữ hóa lành, đó đều nhờ chữ "Xảo" cả.

Phượng Thư mừng lắm, cảm tạ và nói:

- Chỉ cần cho nó được như lời bà nói là tốt rồi.

Liền gọi Bình Nhi đến dặn:

- Ngày mai chúng ta có việc bận. Bây giờ nhân lúc rỗi, chị sửa soạn sẵn những thứ biếu già Lưu để sáng mai bà ấy về lúc nào thì về.

Già Lưu nói:

- Tôi không dám nhận nhiều đâu. Đã đến quấy quả mấy hôm nay lại mang nhiều thứ về, trong bụng tôi không đành tí nào!

- Không có gì đâu, chẳng qua những đồ thường thôi. Xấu hay tốt bà cứ mang về để cho làng xóm nhìn vào, càng thêm vui vẻ thế mới bõ công ra tỉnh chứ!

Một lát, Bình Nhi lại nói:

- Bà lại đây mà xem.

Già Lưu theo Bình Nhi vào trong nhà, thấy các món chất đầy nửa giường. Bình Nhi trỏ từng thứ cho già Lưu xem, rồi nói:

- Đây là tấm lụa xanh mà bà thích hôm trước, mợ tôi còn cho riêng bà tấm lụa nguyệt bạch dày để may kép. Đây là hai tấm trừu bằng tơ, may quần áo đều đẹp cả. Còn gói này có hai tấm trừu để cuối năm may quần áo mặc tết. Cái này là hộp đựng các thứ bánh có thứ bà ăn rồi, có thứ bà chưa ăn, đem về bày ra đĩa mời mọi người, ngon hơn bánh mua nhiều. Hai cái túi này là của bà mang đến hôm nọ, bây giờ một túi tôi đựng hai đấu gạo tám ngự, đem nấu cháo thì quý lắm; còn túi này đựng các thứ quả tươi và khô hái ở vườn nhà. Cái bọc này có tám lạng bạc là của mợ tôi biếu riêng bà. Hai bọc này, mỗi bọc năm mươi lạng, cộng tất cả là một trăm lạng, là của bà Hai biếu bà mang về hoặc làm vốn buôn nhỏ, hoặc mua mấy mẫu ruộng để sau này khỏi phải vay mượn bà con bạn hữu.

Bình Nhi khẽ cười nói:

- Hai cáo áo và hai cái quần, cùng bốn cái khăn chít đầu, một bọc nhung, là của tôi biếu riêng bà. Những quần áo này đã cũ, nhưng tôi cũng không mặc mấy. Nếu bà chê xấu thì tôi không dám biếu nữa.

Bình Nhi nói một câu, già Lưu lại niệm Phật một câu, kể ra đã niệm đến mấy nghìn câu. Lại thấy Bình Nhi biếu riêng mấy thứ và tỏ ra khiêm tốn, già Lưu cười nói:

- Sao cô lại nói thế? Những thứ này cũng rất đẹp, tôi dám chê vào đâu? Tôi có tiền cũng chưa chắc đã mua được. Thật khó nghĩ quá: nhận thì ra người tham, không nhận thì phụ lòng cô.

- Bà đừng nói khách sáo nữa, chỗ người nhà với nhau, nên tôi mới dám xử thế. Bà cứ yên tâm nhận lấy, tôi còn có cái muốn xin bà nữa đấy. Đến cuối năm, bà mang ra cho chúng tôi ít rau, đậu, cá, bầu, vừa khô vừa tươi, ở đây chúng tôi ai cũng thích ăn những thứ ấy. Thế là đủ rồi. Các thứ khác không cần, bà đừng bận lòng nghĩ ngợi.

Già Lưu cám ơn luôn miệng và nhận lời, Bình Nhi nói:

- Thôi, bà đi ngủ đi, tôi sẽ thu xếp hộ, để sẵn cả đây. Sáng mai tôi bảo đứa hầu bé thuê xe chở đi, bà không phải bận lòng.

Già Lưu cảm động lắm, cám ơn không ngớt lời, rồi mới cáo từ Phượng Thư, sang nhà Giả mẫu. Sáng hôm sau dậy rửa mặt, chải đầu xong, định ra về.

Lúc này Giả mẫu khó ở, mọi người đều đến hỏi thăm, rồi ra bảo đi mời thày thuốc. Một lúc bà già trình: "Thày thuốc đã đến". Bà già mời Giả mẫu vào ngồi trong màn, Giả mẫu nói:

- Ta già thế này, không đẻ được ra nó hay sao. Lại sợ nó à? Chẳng cần phải buông màn nữa, ta cứ ngồi ở đây cho nó xem.

Bọn bà già lấy một cái bàn nhỏ, đặt cái gối lên, rồi sai người mời thày thuốc vào.

Một lúc, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung đưa thày thuốc họ Vương vào. Thày thuốc không dám đi đường giữa, chỉ đi bên cạnh, theo Giả Trân bước lên thềm, có hai bà già đứng hai bên vén rèm, hai bà già nữa dẫn vào. Bảo Ngọc ra đón. Giả mẫu mặc chiếc áo khoác bằng da dê trắng, trong lót nhiễu xanh, ngồi trên sập. Hai bên có bốn a hoàn bé chưa để tóc, cầm phất trần, ống nhổ đứng hầu; lại có năm, sáu bà già đứng xếp hàng hai bên; đằng sau cái tủ bích sa, thấp thoáng có nhiều người mặc đồ xanh đỏ và đeo vàng ngọc. Thày thuốc không dám ngẩng đầu lên, chạy lại cúi chào.

Giả mẫu thấy ông ta mặc áo lục phẩm, biết ngay là thày thuốc trong cung, mỉm cười hỏi:

- Quan cung phụng khỏe chứ?

Rồi hỏi Giả Trân:

- Quan cung phụng họ gì?

- Họ Vương.

- Ngày trước ở thái y viện có ông Vương Quân Hiệu xem mạch rất giỏi.

Vương thái y liền cúi đầu mỉm cười nói:

- Đó là ông chú của vãn sinh.

Giả mẫu cười nói:

- Nếu thế cũng là người quen từ lâu.

Giả mẫu từ từ để tay lên trên gối. Bà già cầm một ghế nhỏ để chếch trước cái bàn. Vương thái y ngồi ghé xuống một bên, nghiêng đầu xem mạch tay này một lúc, rồi đến tay kia. Xem xong đứng dậy cúi đầu đi ra. Giả mẫu cười nói:

- Phiền người quá. Anh Trân mời thái y ra ngồi chơi xơi nước.

Giả Trân, Giả Liễn vâng lời, mời Vương thái y ra ngoài thư phòng. Vương thái y nói:

- Cụ không có bệnh gì khác, chỉ cảm phong hàn qua loa thôi. Không cần phải uống thuốc, chỉ ăn uống thanh đạm một tí và giữ người cho ấm là được. Giờ tôi kê đơn, người thích uống thì uống một thang, không thích thì thôi.

Ông ta uống nước, rồi kê đơn, đương định cáo từ ra về, chợt vú em bế cháu Đại Thư đến, cười nói:

- Nhờ người xem cho cô bé nhà tôi.

Vương thái y đứng dậy đến gần vú em, tay trái cầm tay cháu Đại Thư, tay phải bắt mạch, lại sờ đầu, bảo cháu thè lưỡi ra xem, cười nói:

- Tôi nói thì cô bé sẽ mắng tôi: cứ cho nhịn ăn hai bữa là khỏi, không cần phái thuốc thang gì. Tôi đưa cho viên thuốc, trước khi ngủ mài với nước gừng cho cô bé uống là khỏi.

Nói xong cáo từ ra về. Bọn Giả Trân mang đơn thuốc vào trình Giả mẫu, để ở trên án rồi đi ra.

Vương phu nhân và chị em Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Thoa thấy thầy thuốc đã về, mới ở sau tủ đi ra. Vương phu nhân ngồi một lúc rồi về buồng.

Già Lưu thấy rỗi, mới đứng dậy cáo từ Giả mẫu, xin về. Giả mẫu nói:

- Khi nào rỗi, bà lại ra chơi.

Lại bảo Uyên Ương đi tiễn chân già Lưu: "Ta không được khỏe không đi tiễn được".

Già Lưu tạ ơn cáo từ, cùng Uyên Ương đi ra. Đến buồng dưới, Uyên ương trỏ một bọc để ở trên giường nói:

- Đây là mấy bộ quần áo của cụ, ngày sinh nhật năm ngoái, người ta dâng người đấy. Người xưa nay không mặc quần áo may ở ngoài bao giờ, bỏ đấy phí của. Người chưa mặc lần nào. Hôm qua bảo tôi mang hai bộ ra đưa cho bà đem về, bà mặc hay cho ai tùy ý. Trong hộp này đựng những bánh mà bà thích ăn. Hộp trong bao này là những thứ thuốc bà xin hôm nọ đây: mai hoa điểm thiệt đan, tứ kim đĩnh, hoạt lạc đan, thôi sinh bảo mệnh đan, thứ gì cũng có. Mỗi thứ có một cái đơn bọc ngoài, tôi gói chung vào một gói. Còn đây là hai túi đựng đồ chơi.

Uyên Ương lại cởi nút lấy hai thoi bút đĩnh như ý đưa cho già Lưu xem, rồi cười nói:

- Bà mang cái túi về, còn cái này để lại cho tôi nhé.

Già Lưu mừng quá không ngờ lại được như thế, cứ niệm Phật luôn mồm, vội nói: "Cô cứ để lại mà dùng".

Uyên Ương vừa cười vừa gói vào cho già Lưu và nói:

- Nói đùa bà thế thôi, chứ tôi có cái đẹp hơn kia. Thôi, bà mang về để đến cuối năm cho đám trẻ con.

Lúc đó lại thấy a hoàn nhỏ đem cái chén sứ Châu Thành đến đưa cho già Lưu và nói: "Cậu Bảo cho bà đây".

Già Lưu cầm lấy, nói:

- Sao lại có chuyện như thế. Tôi tu từ kiếp nào mà được như thế này!

Uyên Ương nói:

- Hôm nọ tôi bảo bà đi tắm rửa, quần áo đưa cho bà thay là của tôi đấy. Nếu bà không chê xấu, tôi còn mấy cái nữa, cũng xin biếu bà.

Già Lưu cám ơn. Uyên Ương vào lấy ngay mấy cái quần áo ra, bọc cẩn thận. Già Lưu lại muốn vào trong vườn từ tạ Vương phu nhân, Bảo Ngọc và các cô, Uyên Ương nói:

- Không cần phải vào nữa. Hôm nay họ không tiếp ai đâu, để sau tôi nói hộ bà cũng được. Khi nào rỗi, bà lại chơi nhé.

Uyên Ương gọi một bà già dặn:

- Ra cửa ngoài gọi hai đứa hầu bé đến đây mang những cái này ra hộ bà ấy.

Bà già vâng lời. Uyên Ương lại cùng già Lưu đến nhà Phượng Thư lấy các đồ để ở góc cửa, sai bọn hầu nhỏ khuân ra, rồi đưa già Lưu lên xe.

Bọn Bảo Thoa ăn cơm sáng xong, đến hỏi thăm Giả mẫu. Khi về vườn đến chỗ rẽ, Bảo Thoa gọi Đại Ngọc: "Cô Tần, theo ta vào đây, có câu chuyện muốn hỏi".

Đại Ngọc cười, theo Bảo Thoa đến Hành Vu Uyển. Vào phòng, Bảo Thoa ngồi xuống cười bảo: "Sao mày không quỳ xuống? Ta định tra xét một việc!"

Đại Ngọc không hiểu tại sao, cười nói:

- Xem kìa, con Bảo này điên rồi! Ta có việc gì mà mày tra xét?

- Gớm thật, cô tiểu thư nghìn vàng ơi! Cô gái cấm cung ơi! Miệng cô đã nói những câu gì? Thôi hãy nói thực ra đi.

Đại Ngọc không hiểu, chỉ cười, nhưng trong bụng cũng có ý ngờ ngợ và nói:

- Nào tôi có nói gì đâu? Chẳng qua chị bắt nọn tôi đấy thôi. Có điều gì sai chị hãy nói cho tôi nghe nào.

- Cô lại còn giả vờ à! Trong cuộc tửu lệnh hôm nọ, cô nói gì thế? Tôi không biết những câu ấy ở đâu ra à?

Đại Ngọc nghĩ mãi mới nhớ hôm nọ mình không giữ gìn, có đọc hai câu trong chuyện "Mẫu đơn đình" và "Tây sương ký"(2), tự nhiên mặt đỏ lên, liền chạy lại ôm lấy Bảo Thoa cười nói:

- Chị ơi! Vì em quên đi, buột miệng đọc ra, chị bảo mới rõ. Từ giờ trở đi em không dám đọc những câu ấy nữa!

- Tôi cũng không hiểu, nghe thấy cô đọc hay quá, nên bây giờ hỏi lại cô.

- Chị ơi! Xin chị đừng nói với người khác, từ nay em không đọc những câu ấy nữa!

Bảo Thoa thấy Đại Ngọc thẹn đỏ mặt lên, cứ van xin mãi, nên cũng không hỏi vặn nữa, liền kéo Đại Ngọc ngồi xuống uống nước trà, và ân cần khuyên bảo:

- Cô cho tôi là người thế nào? Xưa nay tôi vốn bướng bỉnh. Từ khi bảy, tám tuổi, tôi đã làm rầy rà người ta. Nhà tôi vốn là nhà nho, ông cha cũng rất thích chứa sách. Khi trước nhà đông người, anh chị em tôi cùng ở một nơi, không ai thích xem sách đứng đắn cả. Có người thích thơ, có người thích từ, như "Tây sương", "Tỳ bà", "Nguyên nhân bách chủng", bộ gì cũng có. Họ cứ xem giấu chúng tôi, chúng tôi cũng xem giấu họ. Sau thầy tôi biết, đứa bị đánh, đứa bị mắng, sách lại bị đốt bị xé mất hết. Vì thế bọn con gái chúng ta không biết chữ càng tốt. Đám con trai học không hiểu nghĩa lý thì thà không học còn hơn; huống chi là tôi với cô? Ngay đến việc làm thơ, viết chữ, đã không phải là phận sự chị em mình, mà cũng không phải là phận sự của bọn con trai nữa. Người con trai đọc sách phải hiểu nghĩa lý để ra giúp nước trị dân mới đúng. Bây giờ không thấy những người như thế nữa, càng đọc sách bao nhiêu họ càng hư hỏng bấy nhiêu. Đó không phải là sách làm hư hỏng họ, tiếc rằng chính họ đã bôi nhọ sách. Bởi thế không bằng đi cày, đi buôn còn hơn. Còn bọn chúng ta, chỉ nên biết việc thêu thùa may vá mới phải, thế mà còn học đòi mấy chữ. Đã trót biết chữ thì nên chọn sách đứng đắn mà xem, chứ xem loại sách nhảm, sẽ đổi hẳn tâm tính đi, không thể sửa lại được.

Đại Ngọc cứ ngồi im cúi đầu uống nước, trong bụng thầm phục Bảo Thoa, chỉ trả lời một câu "phải" mà thôi. Chợt thấy Tố Vân đến nói:

- Mợ tôi mời hai cô đến bàn việc cần. Cô Hai, cô Ba, cô Tư, cô Sử, cậu Bảo cũng đương chờ đấy.

Bảo Thoa hỏi:

- Lại có việc gì?

Đại Ngọc nói:

- Chúng ta đến đấy sẽ biết.

Đại Ngọc, Bảo Thoa sang Đạo Hương thôn. Mọi người đã ở cả đấy.

Lý Hoàn trông thấy hai người đến, cười bảo:

- Thi xã chưa mở đã có người chực trốn việc rồi. Cô Tư xin nghỉ một năm đấy!

Đại Ngọc cười nói:

- Chỉ vì hôm nọ cụ nói một câu, bảo cô ta phải vẽ một bức tranh trong vườn, thành ra cô ta vịn cớ xin nghỉ.

Thám Xuân cười nói:

- Đừng trách cụ, cũng chỉ vì một câu nói của già Lưu đấy thôi.

Đại Ngọc cười nói:

- Đúng đấy! Đúng là vì câu nói của bà ấy đấy. Không biết bà ta là bà già nhà nào? Cứ gọi bà ta là "con cào cào mẹ" mới phải!

Mọi người cười ầm lên. Bảo Thoa cười nói:

- Tất cả chuyện trên đời này, hễ đến miệng chị Phượng là xong hết. Nhưng may chị ấy không thông chữ lắm, nên những câu nói của chị ấy đều là tục, chỉ để cười đùa thôi. Con Tần này miệng lưỡi mới là quỷ quái. Nó dùng lối bút pháp kinh xuân thu, nhặt nhưng tiếng tục ở nơi đầu đường xó chợ rút ra những lời chủ chốt, bớt chỗ rườm rà, rồi tô điểm thêm lên, nên nói câu nào ra câu ấy. Ba chữ "cào cào mẹ" đủ vẽ ra được cái hình ảnh hôm nọ. Kể ra nó nghĩ cũng nhanh đấy!

Mọi người đều cười nói:

- Lời giảng giải của cô cũng chằng kém gì hai cô kia.

Lý Hoàn nói:

- Tôi mời chị em đến đây để bàn xem nên cho cô ấy nghỉ bao nhiêu ngày? Tôi cho cô ấy nghỉ một tháng, nhưng cô ấy kêu ít, thế thì các cô định thế nào?

Đại Ngọc nói:

- Cứ lẽ ra thì một năm cũng chẳng lấy gì làm nhiều, cái vườn này một năm mới xây dựng xong. Bây giờ muốn vẽ cũng phải mất hai năm, vì còn phải mài mực dầm bút, trải giấy, tô màu, lại còn phải...

Nói đến đây, Đại Ngọc không nhịn được, lại cười nói:

- Lại còn phải theo đúng kiểu, thong thả vẽ, thế mà không đến hai năm à.

Mọi người nghe nói đều vỗ tay cười ầm lên. Bảo Thoa cười nói:

- Câu cuối cùng "lại còn phải theo đúng kiểu, thong thả vẽ" hay lắm. Vì thế, những câu nói đùa hôm nọ tuy buồn cười thật, nhưng nghĩ lại chẳng có gì là thú. Chúng ta nghĩ kỹ xem, mấy câu nói của cô Tần tuy chẳng có gì cả, nhưng lại có nhiều ý vị làm cho tôi cười lăn ra được!

Tích Xuân nói:

- Vì chị Bảo khen nó, nên nó càng làm bộ, giờ lại mang tôi ra làm trò cười.

Đại Ngọc kéo Tích Xuân, cười nói:

- Tôi hãy hỏi cô, giờ chỉ vẽ cái vườn thôi, hay là vẽ cả mọi người chúng tôi ở trong vườn ấy?

- Trước chỉ định vẽ cái vườn không thôi, nhưng hôm nọ cụ lại bảo, vẽ cái vườn không, thành ra vẽ kiểu nhà mất. Người bảo tôi phải vẽ cả người nữa, như là bức tranh hành lạc mới đẹp. Tôi cũng không biết vẽ tỉ mỉ những lâu đài và nhân vật, nhưng không dám trái lời, vì thế khó nghĩ quá.

Đại Ngọc nói:

- Vẽ nhân vật thì còn dễ, chứ sâu bọ thì không vẽ nổi đâu .

Lý Hoàn nói:

- Cô nói câu ấy lại không thông rồi. Trong ấy làm gì phải vẽ đến sâu bọ? Hoặc chỉ tô điểm một vài con chim thôi.

Đại Ngọc cười nói:

- Sâu khác chẳng vẽ thì thôi, chứ con "cào cào mẹ" hôm nọ, không vẽ thì thiếu mất điển tích đấy.

Mọi người nghe nói đều cười ầm lên. Đại Ngọc vừa ôm bụng cười vừa nói:

- Thôi cô cứ vẽ đi, tôi đã có sẵn cả chữ đề rồi. Tôi sẽ đặt tên bức tranh là "Huề hoàng đại tước đồ"(3).

Mọi người nghe nói càng cười ngặt nghẹo. "Thình" một tiếng, không biết là cái gì đổ, mọi người vội nhìn thì ra Tương Vân ngồi ngả người về đằng sau cười sặc sụa, không dè chừng, ghế chệch chân nghiêng về một bên, cả người lẫn ghế đều lăn ra. May có ván vách giữ lại, nên không ngã xuống đất. Mọi người trông thấy càng cười rộ lên. Bảo Ngọc vội đến đỡ dậy, mới dần dần bớt cười.

Bảo Ngọc đưa mắt cho Đại Ngọc, Đại Ngọc hiểu ý, chạy vào nhà trong bỏ cái khăn che gương ra soi, thấy hai bên mái tóc hơi xõa, liền mở hộp trang sức của Lý Hoàn lấy cái lược ra, soi gương chải lại đầu, xong chạy ra chỉ vào Lý Hoàn nói:

- Tưởng chị bảo chúng tôi học thêu thùa, học điều hay lẽ phải, ai ngờ chị lại gọi chúng tôi đến để cười đùa ầm ĩ thế này à?

Lý Hoàn cười nói:

- Các cô xem cô ta nói điêu thế kia. Chính cô ta làm đầu têu cho người ta cười, lại đổ lỗi cho tôi! Giận quá! Tôi chỉ mong sau này cô vớ một bà mẹ chồng cay nghiệt và mấy cô chị em chồng đanh ác, xem cô còn điêu được như thế nữa hay không?

Đại Ngọc đỏ mặt lên, kéo Bảo Thoa nói:

- Thôi chúng ta cho cô ấy nghỉ một năm.

Bảo Thoa nói:

- Tôi cứ công bằng mà nói, các chị nghe xem sao: con bé Ngẫu Tạ tuy biết vẽ, nhưng cũng chỉ vẽ được mấy nết tả ý thôi. Bây giờ vẽ cái vườn, nếu trong bụng không có một hiểu biết rộng thì vẽ sao nổi. Cái vườn này cũng giống như bức tranh, nào là đá núi, cây cối, nào là lâu đài nhà cửa, gần xa, thưa nhặt, đừng ít quá cũng đừng nhiều quá mà phải đúng mức. Nếu cứ theo thế vẽ lên trên giấy thì đẹp làm sao được. Phải xem khuôn khổ tờ giấy, nên để xa gần, nhiều ít thế nào, nên chia phần chính phần phụ ra sao, chỗ nào đáng thêm thì thêm, chỗ nào đáng bỏ, đáng bớt thì bỏ đi, bớt đi, cái gì đáng để lộ mới để lộ. Bắt đầu phải vẽ phác rồi ngắm nghía tính toán cẩn thận, mới thành công được bức vẽ. Điều thứ hai là, lâu đài nhà cửa phải chia giới hạn, sơ ý một tí là bao lan cũng lệch, cột cũng nghiêng, cửa sổ sẽ dựng ngược lên, thềm cũng không đúng chỗ, thậm chí bàn ghế cũng chen lên tường, chậu hoa bày ở trên màn. Như thế chẳng phải là vẽ ra một bức tranh để cười ư? Điều thứ ba là, phải xếp đặt nhân vật thưa hay nhặt, cao hay thấp, đều cho đúng chỗ. Nếp quần, dây lưng, ngón tay, bước chân cũng rất quan trọng; nếu sai một nét, không sưng tay cũng hóa kiễng chân, đến như bộ mặt mái tóc chỉ là việc nhỏ. Cứ như ý tôi, vẽ bức tranh này khó lắm đấy. Cho phép một năm thì nhiều quá, một tháng thì ít quá, cứ cho nghỉ nửa năm, lại giao cậu Bảo phải đến giúp đỡ cô ấy. Không phải vì cậu Bảo biết vẽ mà đến dạy cô ấy đâu. Như vậy lại càng hỏng việc. Chỉ cần chỗ nào cô ấy không biết hay xếp đặt lúng túng, cậu Bảo sẽ mang ra hỏi các vị họa sư bên ngoài, cho dễ làm việc.

Bảo Ngọc mừng lắm nói:

- Câu đó rất đúng. Ông Thiềm Tử Lượng vẽ lâu đài rất đẹp, ông Trình Nhật Nhưng vẽ mỹ nhân càng tuyệt, tôi sẽ đi hỏi hai ông ấy.

Bảo Thoa nói:

- Tôi đã bảo anh là người không có việc mà lại bận rộn. Vừa mới nói thế anh đã chực đi hỏi người ta rồi. Để bàn tính đã rồi hãy đi. Trước hết nên vẽ bằng giấy gì?

Bảo Ngọc nói:

- Ở nhà có giấy tuyết lãng, vừa rộng khổ, vừa ăn mực.

Bảo Thoa cười nhạt:

- Anh thật là vô dụng! Giấy tuyết lãng để viết chữ, để vẽ bức họa tả ý, hoặc để người biết vẽ sơn thủy vẽ tranh sơn thủy nhà Nam Tống, giấy vừa ăn mực mà lại không nhăn nhòe. Nếu vẽ vườn này bằng giấy ấy thì không ăn màu, lại khó khô, vẽ cũng không đẹp, phí cả giấy. Tôi bảo anh cách này: trước khi xây dựng cái vườn đã có một bức bản đồ vẽ tỉ mỉ rồi. Tuy là thợ vẽ vẽ ra, nhưng khuôn khổ, phương hướng đều rất đúng cả. Anh vào xin bà Hai bức vẽ ấy, đem ra xem rộng hẹp thế nào, rồi bảo chị Phượng cho một mảnh lụa, mang ra bên ngoài cho các họa sư bảo họ cứ theo khuôn khổ bức vẽ ấy, thêm bớt thành một bức vẽ, sau thêm nhân vật vào là được. Ngay đến pha màu thanh lục, màu kim nhũ, ngân nhũ, cũng phải nhờ họ pha cho. Còn phải có một cái lò, chuẩn bị nấu keo, lấy keo ra rửa bút, rồi kê một cái bàn sơn dầu rải thảm lên trên. Ngay đĩa và bút của nhà cũng không đủ, phải sắm một ít mới được.

Tích Xuân nói:

- Tôi làm gì có đồ vẽ? Chẳng qua vẽ bằng bút thường thôi. Còn màu sắc thì chỉ có màu đỏ, màu xanh, màu vàng, màu son. Bút cũng chỉ có hai cái để tô màu.

Bảo Thoa nói:

- Sao cô không bảo trước? Những thứ ấy bên tôi có, chỉ sợ cô không dùng đến, cho cũng phí thôi. Tôi vẫn cất đi, khi nào cô dùng, tôi sẽ đưa cho. Những thứ ấy chỉ để vẽ quạt thôi, nếu vẽ bức to thì cũng đáng tiếc. Giờ tôi kê hộ cái đơn, cô theo đơn đó xin với cụ mua cho. Các chị em chưa chắc đã biết hết đâu, tôi đọc cho cậu Bảo viết.

Bảo Ngọc đã sắp sẵn bút mực để ghi, sợ không nhớ hết, giờ thấy Bảo Thoa nói thế, mừng lắm, liền cầm bút lắng tai nghe.

Bảo Thoa đọc:

- Bút quét loại nhất bốn chiếc, loại nhì bốn chiếc, loại ba bốn chiếc; bút chấm loại lớn bốn chiếc, loại vừa bốn chiếc, loại nhỏ bốn chiếc; bút vắt ngòi lớn mười chiếc, vắt ngòi nhỏ mười chiếc; bút kẻ mày mười chiếc, bút tô màu loại lớn hai mươi chiếc, loại nhỏ hai mươi chiếc; bút vẽ mặt mười chiếc, bút cành liễu hai mươi chiếc; son nhọn đầu, son nam, thạch hoàng, thạch thanh, thạch lục, quản hoàng, mỗi thứ bốn lạng; quảng hoa tám lạng, bột chì bốn hộp, phấn yên chi mười hai thếp; bột đỏ, bột lá mạ mỗi thứ hai trăm thếp; keo quảng quân, phèn lọc mỗi thứ bốn lạng. Keo phèn để quét lụa không kể, cứ đưa lụa cho họ để họ quét lấy. Những thuốc pha màu ấy, chúng ta phải nghiền nhỏ lọc sạch. Như thế vừa chơi vừa dùng, cô có thể dùng trọn đời cũng đủ. Lại phải lấy vợt lụa mau bốn cái, vợt lụa thưa hai cái; gác bút bốn cái, bát nghiền to nhỏ bốn cái, bát sành lớn hai mươi cái, đĩa to năm tấc mười cái đĩa sành trắng hai mươi cái, lò hai cái, nồi đất lớn nhỏ bốn cái, vại mới hai cái, thùng đựng nước mới hai cái, túi vải trắng dài một thước bốn cái, than xốp hai mươi cân, than gỗ liễu vài cân, hòm ba ngăn một cái, lụa dày một trượng, gừng sống hai lạng, tương nửa cân.

Đại Ngọc cười nói:

- Chảo một cái, bàn sản một cái.

Bảo Thoa nói:

- Để làm gì?

- Chị bảo cần có gừng sống và tương thì tôi bảo lấy chảo hộ chị để nấu những thứ màu ấy mà ăn.

Mọi người đấu cười ầm lên. Bảo Thoa cười nói:

- Cô thì biết cái gì? Những cái đĩa sành ấy không chịu được lửa, nếu không lấy nước gừng và tương xát dưới đáy trước mà đem đốt, gặp lửa một cái là nó nổ ngay.

Mọi người đều nói: "Phải đấy".

Đại Ngọc xem đơn một lượt, kéo Thám Xuân khẽ nói:

- Cô xem vẽ một bức vẽ mà phải dùng đến vại và hòm, thực là lẩn thẩn. Chắc cái đơn này sắm cả đồ cưới của cô ấy đấy.

Thám Xuân không nhịn cười được, nói:

- Chị Bảo sao không véo mồm nó một cái? Nó đang đặt chuyện để chế giễu chị đấy.

Bảo Thoa cười nói:

- Không phải hỏi, mồm chó làm gì có ngà voi?

Vừa nói, vừa chạy đến vật Đại Ngọc xuống giường, định véo vào mặt. Đại Ngọc cười rồi van lạy:

- Chị ơi, tha cho em! Em trẻ người non dạ, nói không biết cân nhắc, làm chị thì phải dạy bảo em chứ? Chị không tha cho em thì em còn cầu cứu ai được nữa?

Mọi người không biết câu nói có ý, đều cười nói:

- Câu nói đáng thương thực! Ngay chúng tôi cũng động lòng, thôi tha cho nó.

Bảo Thoa nguyên chỉ định đùa Đại Ngọc thôi, nhưng sau nghe Đại Ngọc nhắc lại câu chuyện lần trước về việc xem sách nhảm, nên không tiện đùa nữa, liền buông ra. Đại Ngọc cười nói:

- Đấy là chị đấy, chứ phải em thì em không tha đâu!

Bảo Thoa cười, trỏ Đại Ngọc nói:

- Không trách cụ thương cô, mọi người yêu cô tinh lanh, ngay tôi cũng phải thương cô. Đến đây tôi sửa lại tóc cho.

Đại Ngọc quay người lại, Bảo Thoa lấy tay sửa hộ tóc. Bảo Ngọc ngồi ở bên cạnh nhìn, thấy càng đẹp, bất giác hối hận: "Không nên để Bảo Thoa vuốt tóc cho Đại Ngọc, cứ để thế rồi mình đến vuốt ve cho thì hơn". Đương nghĩ vớ vẩn, thấy Bảo Thoa nói:

- Viết xong rồi, ngày mai vào trình cụ. Thứ gì trong nhà có rồi thì thôi, thứ gì chưa có, xin tiền đi mua, tôi sẽ pha hộ.

Bảo Ngọc vội cất đơn đi. Mọi người lại nói phiếm một lúc nữa, sau bữa cơm chiều lại đến buồng Giả mẫu hỏi thăm. Giả mẫu nguyên không có bệnh gì, chỉ vì mệt, lại hơi cảm một tí, nghỉ ngơi một ngày, uống một vài chén thuốc phát tán, đến chiều lại khỏe như thường.

--------------------------

(1). Nguyên văn là "Khả xảo", già Lưu nghe vậy mới đặt tên là "Xảo Thư".

(2). Khi Uyên Ương đọc "tửu lệnh", Đại Ngọc theo lệnh hai câu thơ lấy trong "Mẫu đơn đình" và "Tây Sương ký": "Ngày vui cảnh đẹp tự giời biết sao" và "song the nào thầy ả Hồng báo tin" (xem hồi 40).

(3). Bức tranh vẽ mang con cào cào đi cắn.

Hồi thứ bốn mươi ba

Ngồi rỗi bày trò, góp tiền ăn sinh nhật

Mối tình không dứt, vốc đất viếng oan hồn

Vương phu nhân thấy Giả mẫu hôm ấy ở vườn Đại Quan chỉ bị cảm xoàng, không đến nỗi nặng, mời thầy thuốc uống vài thang là khỏi, nên mới bảo Phượng Thư sắp sửa đồ vật gửi cho Giả Chính. Đương khi bàn bạc thì Giả mẫu cho người lại gọi, Vương phu nhân dẫn Phượng Thư đến, hỏi:

- Hôm nay cụ đã khoan khoái hẳn chưa?

- Khá lắm rồi. Vừa rồi chị đưa sang bát canh thịt gà rừng tôi nếm thấy ngon, lại ăn vài miếng thịt, trong bụng dễ chịu.

Vương phu nhân cười nói:

- Đó là canh chị Phượng nấu dâng cụ đấy. Chị ấy thành tâm hiếu thảo, không uổng công cụ ngày thường thương yêu chị ấy.

Giả mẫu gật đầu cười nói:

- Đáng khen nó có lòng nghĩ đến ta. Nếu còn thịt sống, mang rán vài miếng rồi ướp muối, ăn với cháo thì ngon hơn. Canh ấy ngon thực, nhưng không hợp vị với cháo.

Phượng Thư nghe nói, sai người đến bảo nhà bếp. Giả mẫu lại cười bảo Vương phu nhân:

- Ta sai người gọi chị đến, nói chuyện. Đến ngày mồng hai này là sinh nhật của cháu Phượng. Hai năm trước ta vẫn muốn làm sinh nhật cho nó, nhưng cứ gần đến ngày lại bận việc, rồi quên khuấy đi. Năm nay con cháu đầy đủ chắc cũng rỗi việc, chúng ta nên làm một bữa tiệc cho vui.

Vương phu nhân cười nói:

- Con cũng nghĩ thế. Giờ cụ đã cao hứng thì nên bàn sẵn việc ấy đi.

- Ta nhớ mấy năm trước không cứ sinh nhật của cháu nào, đều đem lễ vật đến mừng, như thế vừa tục, mà tình lại thêm sơ. Ta nghĩ một cách mới, vừa thân mật lại vui hơn.

- Cụ thấy nên làm thế nào thì làm.

- Nay chúng ta học lối nhà thường dân, mỗi người góp phần mình vào, được bao nhiêu tiền lấy cả ra sửa tiệc, như thế có được không?

- Tốt lắm. Nhưng không biết góp thế nào cho phải?

Giả mẫu nghe nói, rất vui, liền sai người mời Tiết phu nhân, Hình phu nhân, các cô, Bảo Ngọc, Vưu Thị, vợ Lại Đại và những người quản sự đến. Bọn a hoàn, bà già thấy Giả mẫu rất cao hứng, cũng đều vui mừng, vội chia nhau đi mời, đi báo tin các nơi.

Một lúc, già trẻ, trên dưới đến chật ních cả nhà. Tiết phu nhân ngồi đối diện với Giả mẫu; Hình phu nhân và Vương phu nhân ngồi hai cái ghế trước cửa buồng; chị em Bảo Thoa năm sáu người ngồi cả trên bục; Bảo Ngọc ngồi vào lòng Giả mẫu; còn những người khác đều đứng đầy cả nhà. Giả mẫu vội bảo mang mấy cái ghế nhỏ lại cho mẹ Lại Đại và mấy bà già có thể diện ngồi. Theo tục lệ phủ Giả, những người hầu bố mẹ mà đã có tuổi, thì có thể diện hơn những người chủ còn trẻ tuổi. Vì thế Vưu Thị, Phượng Thư phải đứng. Mẹ Lại Đại và ba bốn người già xin lỗi rồi ngồi xuống ghế. Giả mẫu cười kể lại câu chuyện lúc nãy cho mọi người biết. Nghe vậy, ai chẳng muốn góp vui? Những người thân với Phượng Thư thì bằng lòng, cũng có người lại muốn chiều chuộng Phượng Thư. Vả chăng họ đều là những người có thể bỏ tiền được, nên vừa nghe thấy, ai nấy đều vui vẻ vâng lời.

Giả mẫu nói trước:

- Ta bỏ ra hai mươi lạng.

Tiết phu nhân cười nói:

- Tôi cũng theo cụ, xin bỏ hai mươi lạng.

Hình phu nhân, Vương phu nhân cười nói:

- Chúng con không dám sánh với cụ, xin kém một bực, mỗi người góp mười sáu lạng thôi.

Vưu Thị và Lý Hoàn cũng cười nói:

- Chúng cháu thế nào cũng phải kém một bực, mỗi người xin góp mười hai lạng.

Giả mẫu liền bảo Lý Hoàn:

- Cháu là đàn bà góa không làm gì, lấy tiền đâu ra mà góp. Thôi ta góp hộ cho.

Phượng Thư vội cười nói:

- Xin cụ đừng cao hứng quá, nên tính kỹ đã rồi hãy chuốc lấy việc. Một mình cụ đã phải nhận hai phần, bây giờ lại góp cho chị Lý. Lúc cao hứng cụ nói thế, chốc nữa nghĩ xót ruột lại lẩm bẩm: chỉ vì con Phượng mà ta phải tốn kém. Rồi ngon ngọt dỗ dành cháu phải bù ngấm bù ngầm ba bốn lần tiền vào đó. Cháu có phải mơ ngủ đâu!

Mọi người nghe nói cười ầm lên.

Giả mẫu cười nói:

- Cứ như ý cháu thì làm thế nào?

Phượng Thư cười nói:

- Chưa đến ngày sinh nhật, cháu đã thấy khó chịu rồi. Tự mình chẳng bỏ ra lấy một đồng, mọi người phải lo lắng hộ, như thế cháu chẳng đành lòng tí nào. Chi bằng để cháu góp hộ phần cho chị Lý. Đến hôm ấy cháu ăn thêm mấy miếng nữa, thế là sung sướng lắm rồi.

Bọn Hình phu nhân đều cho là phải, Giả mẫu mới nghe lời.

Phượng Thư lại cười nói:

- Cháu còn muốn nói một câu này nữa; riêng phần cụ đã hai mươi lạng, lại còn phải góp phần cho cô Lâm và chú Bảo; phần dì Tiết đã hai mươi lạng, lại phải góp cho cô Bảo, như thế là công bằng. Còn hai mẹ, mỗi vị có mười sáu lạng, phần mình đã ít lại không hề góp cho ai, như thế chẳng công bằng tý nào. Cụ chịu thiệt nhiều quá!

Giả mẫu cười ầm lên, nói:

- Cháu Phượng lúc nào cũng về hùa với ta. Nó nói rất phải. Nếu không có cháu thì ta bị bọn họ lừa rồi!

Phượng Thư cười nói:

- Xin cụ cứ bắt hai mẹ phải nhận phần của hai người kia, mỗi vị góp thêm một phần là đúng.

Giả mẫu nói:

- Công bằng lắm, cứ nên làm như thế.

Mẹ Lại Đại đứng dậy cười nói:

- Như thế là không đúng! Tôi tức thay cho hai bà. Một bên là nàng dâu, một bên là cháu gái nội, mà không về hùa với mẹ chồng và bà cô(1), lại đi bênh người khác, như thế là nàng dâu cũng như người ngoài, cháu nội thành ra cháu gái ngoại mất!

Giả mẫu và mọi người nghe nói cười ầm lên.

Mẹ Lại Đại lại hỏi:

- Các mợ góp mười hai lạng thì chúng tôi phải kém đi một bực chứ?

Giả mẫu nói:

- Không được, các bà tuy đáng kém một bực, nhưng tôi biết các bà đều là tài chủ cả. Địa vị tuy kém, nhưng tiền thì lại nhiều hơn họ. Các bà nên đóng bằng họ mới phải.

Giả mẫu lại nói:

- Còn các cô, chằng qua góp tý thôi, mỗi người góp một tháng lương là đủ.

Lại quay lại bảo Uyên Ương:

- Bọn chúng bay họp nhau lại bàn việc góp tiền đi.

Uyên Ương vâng lời, đi một lúc rồi dắt Bình Nhi, Tập Nhân, Thái Hà đến, lại còn mấy a hoàn nữa, người hai lạng, kẻ một lạng, ai nấy đều góp cả.

Giả mẫu hỏi Bình Nhi:

- Không nhẽ mày không làm sinh nhật cho chủ mày à? Sao lại góp vào đám này?

- Cháu làm riêng không kể, đây là việc công, cháu cũng xin góp một phần.

- Con bé này thế mới ngoan chứ.

Phượng Thư lại cười nói:

- Trên dưới góp đủ rồi. Còn hai bà dì, có đóng hay không, cũng nên hỏi một lời cho phải lẽ, nếu không các bà lại cho là khinh.

Giả mẫu nói:

- Phải đấy! Quên họ thế nào được? Chỉ sợ họ không được rỗi, bảo một đứa a hoàn đến hỏi xem.

A hoàn đi một lúc về trình: "Mỗi vị xin góp hai lạng."

Giả mẫu vui cười nói:

- Mang bút giấy lại đây, tính xem được bao nhiêu.

Vưu thị khẽ mắng Phượng Thư:

- Con ranh con tham quá! Các bà các thím góp tiền lại làm sinh nhật cho mày, còn chưa đủ à? Sao mày kéo cả hai người nghèo xác này vào!

Phượng Thư khẽ cười nói:

- Đừng có nói bậy! Chốc nữa ra ngoài tôi sẽ kể tội cho chị! Họ làm gì mà khổ? Họ có tiền đem cho người khác cũng uổng, chi bằng giữ lại để chúng ta cùng vui.

Số tiền đã góp đầy đủ cộng lại được hơn một trăm năm mươi lạng.

Giả mẫu nói:

- Làm tiệc vui một ngày không hết đâu.

Vưu Thị nói:

- Không mời khách ngoài, tiệc rượu lại không tốn mấy, món tiền này tiêu làm ba ngày cũng đủ. Trước hết, hát không phải mất tiền, đỡ được món ấy.

Giả mẫu nói:

- Cháu Phượng xem bọn nào hát hay thì gọi!

Phượng Thư nói:

- Bọn hát ở nhà, chúng ta đã nghe chán rồi. Bây giờ chịu tốn ít tiền, gọi bọn khác đến hát.

Giả mẫu nói:

- Việc này ta giao cho vợ cháu Trân, đừng để cho cháu Phượng phải lo nghĩ đến, cho nó nghỉ một ngày mới phải.

Vưu thị vâng lời, nói chuyện một lúc, ai cũng biết Giả mẫu mệt, liền dần dần ra về.

Vưu Thị đưa Hình phu nhân, Vương phu nhân ra, rồi đến đằng Phượng Thư bàn việc làm sinh nhật, Phượng Thư nói:

- Chị không cần hỏi tôi, chỉ theo ý cụ mà làm là đủ.

- Cái con ranh này, mày tốt số quá! Tao tưởng có việc gì kia! Thành ra gọi chúng tao đến chỉ có việc ấy thôi. Góp tiền chưa đủ, lại còn phải lo liệu các cái nữa. Mày định tạ tao cái gì nào?

- Chị đừng giở trò nữa! Tôi có gọi chị đến đâu mà phải tạ! Nếu chị sợ phải lo thì vào trình với cụ sai người khác cũng được.

- Xem kìa, nó vênh cái mặt lên thế đấy! Tao bảo cho mày hay, hãy dẹp cái lối ấy đi. Nước đầy thì trào đấy!

Hai người lại nói chuyện một lúc nữa, Vưu Thị mới ra về.

Hôm sau, Vưu Thị vừa mới dậy rửa mặt, chải đầu, đã thấy có người mang tiền đến phủ Ninh, Vưu Thị hỏi:

- Ai mang tiền đến đấy?

- Già Lâm đấy.

- Gọi bà ấy vào.

Bọn a hoàn xuống buồng dưới gọi vợ Lâm Chi Hiếu lên.

Vưu Thị mời ngồi xuống ghế thấp, rồi vừa chải đầu vừa hỏi:

- Trong gói ấy có bao nhiêu tiền đấy?

- Tiền này là của bọn chúng tôi góp lại mang đến trước. Còn cụ và các bà chưa góp.

Đương nói thì bọn a hoàn đến trình:

- Bên bà Cả và Tiết phu nhân cho người mang phần tiền đến.

Vưu Thị cười mắng:

- Bọn ranh con này! Chỉ nhớ nhưng việc không đâu ấy thôi! Chẳng qua hôm qua cụ cao hứng, cố ý học cách nhà thường dân góp tiền, thế mà chúng mày cứ nhớ mãi, cho là việc to tát, sao không nhận lấy, mời họ uống nước trà rồi cho họ về.

Bọn a hoàn cười rồi mang tiền vào. Tất cả là hai gói, có cả phần tiền của Đại Ngọc và Bảo Thoa.

Vưu Thị hỏi:

- Còn thiếu ai nữa?

Vợ Lâm Chí Hiếu nói:

- Còn thiếu cụ, bà Hai, các cô và bọn chị em chúng tôi.

- Còn của mợ Cả các chị đâu?

- Mợ qua bên nhà, số tiền ấy mợ Hai đã cầm cả rồi.

Vưu Thị rửa mặt chải đầu xong, sai người kéo xe đến phủ Vinh. Trước hết đến buồng Phượng Thư. Thấy Phượng Thư đã gói tiền cẩn thận, đương định đưa sang. Vưu Thị hỏi:

- Đã đủ cả chưa?

- Đủ rồi! Cầm đi, mất thì tôi không chịu lỗi đâu!

- Tao không tin, phải đếm ngay ở đây.

Vưu Thị đếm lại, thấy không có phần Lý Hoàn, cười nói:

- Mày lại định giở trò ma đấy! Sao không thấy phần chị Cả mày?

- Như thế không đủ à? Thiếu một phần cũng được, nếu không đủ tôi sẽ đưa sau.

- Hôm qua mày làm bộ trước mặt mọi người, bây giờ lại chối với tao, tao không nghe đâu. Tao cứ đến hỏi cụ.

- Chị ghê gớm lắm! Hễ sau này có việc gì tôi cứ làm cho rõ môn rõ khoai, lúc ấy chị đừng có trách.

- Thôi phần ấy không đưa cũng được. Nếu ngày thường mày không tử tế với tao, khi nào tao chịu nghe?

Nói xong, lấy phần Bình Nhi ra, và bảo:

- Bình Nhi! Lại lấy phần của mày về, hễ không đủ tao sẽ bù cho.

Bình Nhi hiểu ý, cười nói:

- Xin mợ hãy cứ tiêu đi, nếu thừa sẽ đưa lại cháu cũng được.

- Thế ra chỉ để cho chủ mày làm bậy, chứ không cho tao được làm ơn hay sao?

Bình Nhi đành phải nhận lấy tiền.

Vưu Thị lại nói:

- Tao xem chủ mày thật là khôn khéo! Vớ món tiền này định tiêu vào việc gì? Tiêu không hết sau này bỏ vào quan tài mà mang chôn à!

Nói xong, đi đến buồng Giả mẫu, hỏi thăm và nói mấy câu chuyện phiếm rồi đến buồng Uyên Ương bàn công việc. Vưu Thị nhất thiết đều theo ý Uyên Ương, cốt làm thế nào cho Giả mẫu vui lòng là được. Hai người bàn định xong xuôi. Khi trở về Vưu Thị lấy hai lạng bạc giả lại cho Uyên Ương, và nói: "Tiêu không hết đâu."

Nói xong, đi đến buồng Vương phu nhân nói chuyện. Nhân lúc Vương phu nhân đi vào Phật đường, Vưu Thị giả lại phần tiền cho Thái Vân. Vì Phượng Thư không ở đấy, nên Vưu Thị giả cả hai phần tiền cho dì Chu và dì Triệu nữa. Họ không dám nhận. Vưu Thị nói:

- Đáng thương các dì quá, làm gì có tiền mà góp? Nếu thím Phượng biết thì tôi nhận cho.

Hai người cám ơn rối rít rồi nhận lấy món tiền.

Chả mấy lúc đã đến ngày mồng hai tháng chín. Người trong vườn đều nghe nói Vưu Thị bày biện linh đình lắm, không những có tuồng, còn có cả các trò chơi và cô gái mù kể chuyện nữa, nên ai đấy đều sắp sẵn đến xem để góp vui, Lý Hoàn lại bảo các chị em:

- Hôm nay là ngày họp thi xã, đừng ai quên đấy. Bảo Ngọc không thấy đến, chắc là không biết, hay lại ham chơi ở đâu mà quên hẳn việc này?

Nói xong, liền bảo a hoàn đi xem Bảo Ngọc làm gì, mời ngay lại đây. A hoàn đi một lúc về nói:

- Tập Nhân nói là cậu ấy đi từ sáng sớm rồi:

Mọi người đều lấy làm lạ, nói:

- Không lẽ cậu ấy lại đi vắng. Con a hoàn này lẩn thẩn lắm.

Rồi lại sai Thúy Mặc đi. Một lúc Thúy Mặc về, nói:

- Cậu ấy đi vắng thật. Nghe nói có người bạn nào chết, cậu ấy đi viếng tang đấy.

Thám Xuân nói:

- Nhất định không đúng. Dầu sao hôm nay anh ấy cũng không thể đi đâu được. Mày gọi Tập Nhân đến đây để tao hỏi.

Vừa nói xong, Tập Nhân đến, bọn Lý Hoàn đều nói:

- Dù hôm nay có việc gì, chú ấy cũng không nên ra khỏi nhà: một là ngày sinh nhật thím Hai, cụ rất cao hứng, mọi người trong hai phủ đều góp vui, thế mà chú ấy lại đi à? Hai là, hôm nay là ngày chính thi xã đầu tiên, chú ấy không xin phép lại dám tự tiện lẻn đi?

Tập Nhân thở dài nói:

- Chiều hôm qua cậu ấy nói sớm hôm nay có việc cần phải đến phủ Bắc Tĩnh vương, rồi về ngay. Tôi có khuyên cậu ấy đừng đi, cậu ấy nhất định không nghe. Sớm dậy, cậu ấy mặc quần áo trắng đi ra, chắc là trong phủ Bắc Tĩnh vương có người hầu nào mất, cũng chưa biết chừng.

Bọn Lý Hoàn nói:

- Nếu quả thực thế, chú ấy cũng nên đi, nhưng phải về ngay chứ.

Nói xong, mọi người lại bàn định: "Chúng ta cứ làm thơ trước đi, khi anh ấy về sẽ phạt." Vừa lúc ấy, Giả mẫu sai người lại mời. Mọi người rủ nhau đến, Tập Nhân trình việc Bảo Ngọc đi vắng. Giả mẫu không vui, sai người đi đón.

Nguyên là Bảo Ngọc có một tâm sự riêng, hôm trước đã dặn Dính Yên:

- Ngày mai ta phải đi sớm, mày sắp hai con ngựa ở cửa sau chờ đấy, không cần người đi theo nữa. Mày bảo cả Lý Quý biết là ta sang phủ Bắc Tĩnh vương. Nếu có ai đi tìm, bảo nó ngăn lại, không cần phải đi, cứ nói rằng phủ Bắc Tĩnh vương mời ta ở lại, thế nào ta cũng về ngay.

Dính Yên không hiểu đầu đuôi làm sao, đành phải vâng lời, sắp hai con ngựa từ sớm, chờ ở cửa sau vườn, Khi trời sáng, Bảo Ngọc mặc thuần đồ trắng từ cửa bên đi ra, không nói một lời, lên ngựa, cúi lưng phóng thẳng theo đường phố. Dính Yên đành cũng lên ngựa quất roi đi theo sau, rồi hỏi:

- Cậu đi đâu đấy?

- Đường này đi đâu?

- Đây là đường ra cửa bắc, đi đường này vắng lắm, chẳng có gì vui đâu.

- Chính ta muốn đến chỗ thanh vắng.

Nói xong, Bảo Ngọc cùng ra roi. Ngựa đã ngoặt qua hai quãng đường vòng, ra khỏi cửa thành.

Dính Yên càng ngơ ngác, đành cứ theo riết, đi một mạch đến bảy, tám dặm đường. Chỗ này người ở thưa thớt. Bảo Ngọc mới dừng ngựa, quay lại hỏi Dính Yên:

- Ở đây có bán hương không?

- Có, nhưng không biết cậu cần dùng thứ gì?

Bảo Ngọc nghĩ một lúc rồi nói:

- Thứ hương khác không tốt, phải có thứ đàn hương, vân hương, giáng hương mới được.

- Ba thứ hương này khó tìm lắm.

Bảo Ngọc có ý băn khoăn. Dính Yên thấy thế, liền hỏi:

- Cậu cần hương để làm gì? Cháu thấy cậu thường đeo hương tán sẵn ở trong túi, sao không lấy ra mà dùng?

Bảo Ngọc nhớ ra, đưa tay sờ vào cái túi đeo trong áo, thấy hai thỏi nằng nặng, mừng quá, nhưng lại sợ không được thành kính. Suy nghĩ: "Hương đeo trong mình còn tốt hơn là hương mua ở ngoài". Rồi lại hỏi đến lư hương. Dính Yên nói:

- Thôi đi, ở nơi đồng không mông quạnh này làm gì có lư? Muốn dùng lư sao cậu không bảo trước để cháu mang sẵn ở nhà đi có được không?

- Đồ gà mờ! Nếu mang được ở nhà đi thì chả phải chạy mửa mật như thế này.

Dính Yên nghĩ một lúc cười nói:

- Cháu nghĩ ra rồi, không biết bụng cậu thế nào. Cháu tưởng không những cậu cần cái ấy, mà còn cần cái khác nữa. Ở đây chắc không sẵn. Bây giờ chúng ta chịu khó đi đến am Thủy Tiên, chừng hai dặm thôi.

- Am Thủy Tiên ở đây à? Tốt lắm! Chúng ta đi đi.

Bảo Ngọc ra roi chạy trước, ngoảnh lại bảo Dính Yên:

- Sư cô ở am Thủy Tiên thường lui tới nhà ta, giờ đến đấy mượn cái lư hương chắc người cũng bằng lòng.

- Không cứ là nhà ta thường đến lễ ở đó mà ngay những chùa chúng ta không quen biết, họ cũng chẳng dám từ chối. Chỉ có một điều: cậu xưa nay vẫn ghét am Thủy Tiên, thế mà tại sao bây giờ thấy nói đến đấy, cậu lại vui mừng thế?

- Ngày thường ta rất ghét người đời không hiểu gì cả, bạ thần nào cũng cúng, miếu nào cũng xây. Đó đều là các cụ hoặc các bà ngày trước có tiền mà ngu xuẩn, hễ thấy nói có thần là xây miếu thờ ngay. Trong dã sử hay tiểu thuyết nói gì thì họ cho là có thực, chứ chẳng biết thần ấy là người nào. Ví như trong am Thủy Tiên thờ Lạc Thần(2), nên gọi là am Thủy Tiên, chứ làm gì có vị Lạc Thần. Đó là lời của Tào Tử Kiến bịa đặt ra, ai ngờ bọn ngu xuẩn lại đắp tượng để thờ. Giờ nhân tiện hợp với ý muốn của ta, nên đến đấy mượn để dùng thôi.

Nói xong hai người đã đến cửa am. Sư già thấy Bảo Ngọc đến bất ngờ, mừng quá như thấy rồng trên trời rơi xuống, liền chạy lại chào, rồi sai bà vãi đến giữ ngựa. Bảo Ngọc vào am, không lạy tượng Lạc Thần, chỉ đứng ngắm nhìn thôi. Tuy là tượng đất, nhưng cũng có cái dáng bay vút như chim hồng kinh, sợ uốn lượn như con rồng lẩn khúc, hoa sen mọc trên sóng biếc, mặt trời chiếu ráng sớm mai. Bảo Ngọc tự nhiên nước mắt nhỏ xuống.

Sư già mời vào uống nước, Bảo Ngọc mượn cái lư để đốt hương. Sư già đi một lúc, sắp cả hương và ngựa giấy mang đến. Bảo Ngọc nói:

- Các thứ tôi không dùng, chỉ dùng lư hương thôi.

Liền sai Dính Yên mang lư hương ra vườn sau, tìm một chỗ sạch sẽ, nhưng không được. Dính Yên hỏi:

- Trên bờ giếng kia có được không?

Bảo Ngọc gật đầu, cùng đi đến đó, đặt lư hương xuống. Dính Yên đứng sang một bên, Bảo Ngọc lấy hương ra đất, rơm rớm nước mắt, vái một cái rồi quay lại bảo cất đi. Dính Yên vâng lời, nhưng chưa cất, liền cúi đầu lễ mấy lễ và khấn:

- Tôi là Dính Yên đã hầu cận cậu Hai mấy năm nay, chỉ có ngày hôm nay đi lễ, cậu ấy không bảo gì tôi, mà tôi cũng không dám hỏi. Tuy tôi không biết tên tuổi vị âm hồn được tế này là gì, nhưng chắc là một vị chị em, vào bậc thông minh thanh nhã, có một không hai ở trên đời này. Tâm sự cậu Hai không nói ra được, vậy tôi xin khấn thay: cậu Hai tôi tưởng nhớ người như thế này, nếu người có linh thiêng, nên thường thường đến thăm nom cậu Hai tôi. Người ở cõi âm, phù hộ cho cậu Hai tôi kiếp sau sinh làm con gái, để cùng chị em các người vui đùa một nơi, không còn là hạng mày râu nhơ bẩn nữa.

Khấn xong, Dính Yên lạy mấy lạy rồi bò dậy.

Bảo Ngọc chưa nghe nó khấn hết, đã không nhịn được cười liền đá nó một cái và nói:

- Đừng nói bậy, người ta biết lại cười cho đấy!

Dính Yên đứng dậy, mang lư hương, cùng đi với Bảo Ngọc rồi nói:

- Cháu đã nói với nhà sư là cậu chưa ăn sáng, bảo họ tiện thể dọn mấy thứ, cậu chịu khó ăn tạm một ít. Cháu biết hôm nay ở nhà bày tiệc to, vui nhộn lắm, vì thế cậu mới lánh đến đây. Ở đây yên tĩnh một ngày cũng đủ vui rồi. Nếu cậukhông ăn thì không thể chịu được đâu.

- Không uống rượu vui, nghe hát, ở đây tuỳ tiện ăn một ít cũng chẳng sao.

- Thế mới phải. Nhưng cháu xin nói điều này: chúng ta đi đến đây, ở nhà tất có người không yên tâm. Nếu không, đến chiều về cũng chẳng sao. Nhưng vì có người không yên tâm, thì cậu nên về nhà ngay mới phải. Một là để cụ và bà Hai yên lòng, hai là lễ ở đây đã xong rồi, chẳng qua chỉ có thế thôi. Về nhà nghe hát uống rượu, dù không phải là ý muốn của cậu, nhưng cũng để hầu cha mẹ cho trọn đạo hiếu. Nếu chỉ vì việc lễ này, cậu không nghĩ đến cụ và bà đương mong đợi, thì âm hồn nào nhận lễ của cậu cũng không an tâm. Cậu nghe xem cháu nói thế có phải không?

Bảo Ngọc cười nói:

- Ta đoán được ý mày rồi, chắc mày nghĩ rằng chỉ có một mình mày đi theo ta thôi. Khi về mày sợ bị lỗi, nên giở những điều to lớn ra khuyên ta. Ta đến đây chỉ cốt làm lễ xong sẽ về uống rượu nghe hát, chứ không phải bỏ đi suốt ngày. Giờ đã thoả được ý muốn rồi, nên về nhà mau để cho mọi người yên tâm.

- Thế phải lắm.

Hai người vào đến chùa, nhà sư đã dọn lên một mâm cơm chay.

Bảo Ngọc ăn qua loa một ít. Dính Yên cũng ăn. Xong rồi hai người lên ngựa theo đường cũ về nhà. Dính Yên ở đằng sau dặn:

- Cậu đi ngựa cẩn thận đấy. Con ngựa này không quen cưỡi mấy, phải cầm cương cho chặt.

Hai người về đến thành, vẫn theo cửa sau vội đi về viện Di Hồng. Bọn Tập Nhân đi vắng, chỉ có mấy bà già trông nhà, thấy Bảo Ngọc về, đều mừng rỡ, nói:

- A di đà phật! Cậu về rồi! Tý nữa thì chị Tập Nhân điên mất! Ở trên ấy đương uống rượu đấy, cậu lên ngay đi.

Bảo Ngọc nghe nói, vội cởi quần áo trắng ra, mặc quần áo đẹp, hỏi:

- Tiệc bày ở đâu?

- Ở nhà hoa lơn mới dựng.

Bảo Ngọc chạy vội đến nhà hoa, đã văng vẳng nghe thấy tiếng đàn sáo ca hát. Vừa đến bên nhà trống, thấy Ngọc Xuyến ngồi một mình ở dưới thềm sùi sụt khóc. Thấy Bảo Ngọc đến, Ngọc Xuyến thở dài một cái, chép miệng nói:

- Úi chà! Phượng hoàng đã đến rồi! Đi vào ngay đi! Chốc nữa không về có lẽ cả nhà nhao lên đấy.

Bảo Ngọc cười nói:

- Chị thử đoán xem tôi đi đâu nào?

Ngọc Xuyến quay đi, chỉ lau nước mắt thôi. Bảo Ngọc rầu rầu đi lên nhà hoa chảo Giả mẫu và Vương phu nhân. Mọi người mừng rỡ như được thấy chim phượng hoàng.

Bảo Ngọc vội đến chúc mừng Phượng Thư. Giả mẫu và Vương phu nhân đều nói:

- Em mày chả biết hay dở gì cả. Có việc cần, sao không nói trước mà lại lẻn đi? Thế còn ra làm sao nữa! Lần sau còn thế thì chờ bố mày về, ta sẽ mách nó đánh cho.

Giả mẫu lại mắng người hầu:

- Tại sao chúng mày cứ nghe lời nó? Nó bảo đi đâu cứ cúi đầu mà đi, không trình qua một tiếng?

Rồi lại hỏi Bảo Ngọc:

- Cháu đi đâu về đấy? Đã ăn uống gì chưa? Có bị sợ gì không?

- Người nàng hầu của Bắc Tĩnh vương Chết, hôm nay cháu đến chia buồn. Cháu thấy đức vương khóc nhiều quá, không tiện bỏ về ngay, vì thế phải ngồi lại một lúc.

- Từ nay cháu còn lẻn đi như thế, không trình ta trước, nhất định ta bảo bố mày đánh cho!

Bảo Ngọc vâng lời. Giả mẫu lại muốn đánh người đi hầu, nhưng mọi người khuyên:

- Xin cụ bớt giận, cậu ấy đã hứa xin chữa. Vả chăng cậu ấy đi về không xảy ra chuyện gì, cả nhà cũng nên yên lòng để vui một lúc.

Lúc đầu, Giả mẫu còn nóng ruột, giờ thấy Bảo Ngọc về vui quá, hết cả giận, nên việc công bỏ qua. Giả mẫu lại sợ Bảo Ngọc khó chịu, hoặc chưa ăn uống, hay đi đường bị sợ hãi, nên tìm hết cách dỗ dành. Tập Nhân cũng chạy đến phục dịch. Mọi người lại ra xem hát.

Hôm đó diễn vở Kinh thoa ký(3), Giả mẫu và Tiết phu nhân đều mủi lòng rơi lệ, có người cười, người giận, lại có người mắng nữa.

-----------------------------

(1). Tức Vương phu nhân.

(2). Lạc Thần tên là Bật Phi, tương truyền là con gái họ Nhân. Khi Tào Tháo đánh Viên Thiệu, bắt được NhânThị mang về. Tào Thực xin không cho, đem cho con trưởng là Tào Phi. Tào Phi lập Nhân Thị làm hoàng hậu, sau có tội bị chết. Tào Thực nhớ Nhân Thị quá khi đến bến Lạc Thủy thấy Nhân Thị hiện ra. Thào Thực vui mừng làm bài Lạc Thần Phú.

(3). Tích vợ Vương Thạch Bằng là Tiến Ngọc Liên nghe đồn chồng lấy vợ lẽ, đâm đầu xuống sông tự tử, nhưng lại có người cứu. Vương Thạch Bằng cũng nghe đồn vợ đã chết rồi liền đặt một bàn tế.

Hồi thứ bốn mươi bốn

Chuyện xảy bất ngờ, Phượng Thư đâm ghen

Mừng ngoài tưởng tượng, Bình Nhi trang điểm

Bảo Ngọc cùng chị em đang ngồi xem diễn vở Kinh thoa ký, Đại Ngọc xem đến hồi "Người chồng ra tế vợ", liền bảo Bảo Thoa:

- Vương Thập Bằng không thông một tí nào. Tế chỗ nào chẳng được, lại cứ phải ra tận bờ sông? Tục ngữ nói: "Trông thấy vật lại nhớ đến người", nước ở khắp mặt đất đều do một nguồn mà ra, múc một bát nước ở nơi nào cũng được, rồi nhìn vào đấy mà khóc, thế cũng đã hết lòng với người khuất rồi.

Bảo Thoa không trả lời, Bảo Ngọc nghe xong lại ngẩn người ra.

Giả mẫu nghĩ bụng: "Hôm nay khác mọi ngày, phải làm thế nào cho cháu Phượng vui suốt ngày mới được". Nhưng vì người mệt, Giả mẫu đành chỉ ngồi ngả ở trên giường cùng Tiết phu nhân xem hát, muốn ăn gì thì chọn mấy thứ bày ở trên kỷ, vừa ăn vừa nói chuyện. Còn hai bàn rượu của mình thì đem thưởng cho bọn a hoàn và nhưng người đàn bà đứng hầu không có cỗ ăn, bảo họ mang ra thềm trước cửa sổ mà ngồi, muốn gì tùy ý, không cần phải câu nệ lễ phép. Vương phu nhân và Hình phu nhân ngồi trước cái bàn cao kê ở dưới. Các chị em ngồi ở mấy bàn rượu bên ngoài. Giả mẫu thỉnh thoảng dặn bọn Vưu Thị:

- Mời cháu Phượng ngồi vào ghế trên, rồi các chị thay ta tiếp nó, để bõ công nó vất vả quanh năm.

Vưu Thị vâng lời, cười nói:

- Thím ấy nói không quen ngồi cỗ trên, gò bó ngượng nghịu lắm. Ngay rượu cũng chẳng chịu uống.

Giả mẫu cười nói:

- Cháu không biết mời, để bà ra mời nó vậy.

Phượng Thư vội chạy lại cười nói:

- Xin bà đừng nghe chị ấy, cháu đã uống những mấy chén rồi.

Giả mẫu cười, sai bọn Vưu Thị:

- Kéo nó ra, ấn nó xuống ghế, các người phải thay nhau mời rượu, nếu nó vẫn không chịu uống, ta sẽ thân hành đến mời mới được.

Bọn Vưu Thị cười, rồi kéo Phượng Thư ngồi xuống, sai người lấy chén rót rượn, nói:

- Đầu năm chí cuối, thím hết lòng chiều chuộng cụ, bà Hai và chúng tôi. Tôi chẳng có gì đáp lại. Hôm nay xin thân rót chén rượu này chúc mừng thím. Ngoan này! Thím uống ngay chén rượu ở tay tôi đi.

Phượng Thư cười nói:

- Nếu chị có lòng kính tôi, thì quỳ xuống đây tôi mới uống.

- Đừng làm bộ nữa! Bảo cho mà biết: chăng dễ mà gặp được dịp này đâu. Mai sau liệu có được ngày nay mãi không? Hãy cố mà uống mấy chén.

Phượng Thư thấy không từ chối được, đành phải uống hai chén. Rồi đến bọn chị em lại mời, Phượng Thư đành phải uống hai hớp. Già Lại thấy Giả mẫu cao hứng, cũng phải góp vui, dẫn các già khác đến mời rượu. Phượng Thư không thể từ chối được, đành phải uống hai hớp. Bọn Uyên Ương cũng đến mời, Phượng Thư không uống được nữa, vội van vỉ:

- Các chị ơi, tha cho tôi, ngày mai tôi sẽ uống.

Uyên Ương cười nói:

- Nếu thế thì chẳng hóa ra chúng tôi bẽ mặt lắm hay sao? Ngay đến bà Hai cũng còn có lòng vì nể giữ thể diện cho chúng tôi. Hôm nay đứng trước mọi người, mợ lại ra bộ bà chủ. Thế ra chúng tôi không đáng đến mời. Thôi, mợ không uống thì chúng tôi đi vậy.

Nói xong nguây nguẩy đi ra. Phượng Thư vội kéo lại cười nói:

- Chị ơi, thôi để tôi uống vậy.

Liền rót đầy chén rượu uống hết. Uyên Ương mới cười, rồi về chỗ ngồi.

Phượng Thư đã say, trong bụng cồn cào khó chịu, muốn về nhà nghỉ, nhân thấy bọn con hát lên, liền bảo Vưu Thị:

- Sắp sẵn tiền thưởng ra, tôi phải đi rửa mặt đây.

Vưu Thị gật đầu, Phượng Thư thấy không ai để ý, liền đi ra ngoài theo thềm nhà sau đi về. Bình Nhi biết ý, vội theo ra, Phượng Thư vịn vào Bình Nhi, đi đến dưới thềm, thấy một đứa hầu bé trong nhà đứng ở đấy. Trông thấy hai người về, đứa hầu vội quay người chạy. Phượng Thư ngờ, gọi nó lại. Trước nó còn giả vờ như không nghe. Sau thấy Bình Nhi cũng gọi, không làm thế nào được, nó đành phải quay lại.

Phượng Thư càng ngờ, liền cùng Bình Nhi lên thềm gọi đứa bé ấy vào, rồi mở cánh cửa ra. Phượng Thư ngồi ngay ở trên thềm, bắt đứa bé quỳ xuống, rồi hét bảo Bình Nhi:

- Bảo hai đứa hầu ở cửa ngoài mang thừng roi vào đây, đem con ranh con này đánh chết đi cho tao. Nó chẳng biết tao là ai à?

Đứa bé hồn vía lên mây, vừa khóc vừa van lạy xin tha. Phượng Thư hỏi:

- Tao có phải là ma đâu. Mày trông thấy, không biết đứng lại, sao cứ chạy đi?

- Cháu thực không trông thấy mợ, và nhớ trong nhà không còn ai, nên mới chạy về.

- Trong nhà đã không có ai, thì ai bảo mày đến đây? Dù mày không trông thấy, nhưng tao và chị Bình ở đằng sau rát cổ gọi mày đến mười mấy lần, càng gọi mày càng chạy. Có xa xôi gì đâu mày điếc à? Lại còn cãi?

Nói xong, giơ tay tát một cái, đứa bé chúi đầu xuống, rồi lại tát một cái nữa, hai má nó sưng vù lên. Bình Nhi vội can:

- Thôi mợ ạ, không lại đau tay!

Phượng Thư nói:

- Đánh nữa đi, hỏi nó vì sao mà chạy, nó không nói thì đánh vỡ mồm nó ra.

Đứa bé trước còn chối cãi, sau thấy Phượng Thư bảo nung đỏ thanh sắt dí vào mồm, nó mới khóc nói:

- Cậu Hai ở nhà bảo cháu đến đây gác, thấy mợ về thì báo tin cho cậu biết. Không ngờ bây giờ mợ đã về.

Phượng Thư thấy câu nói có ý, liền hỏi:

- Bảo mày gác tao để làm gì? Không nhẽ lại cấm tao về à? Tất có duyên cớ làm sao đây. Mày phải nói ngay, tao sẽ thương mày, nếu không tao lấy dao xẻo thịt!

Nói xong, lấy cái trâm ở trên đầu ra đâm vào mồm đứa bé. Nó sợ quá, vừa tránh vừa khóc:

- Cháu xin nói thực, nhưng mợ đừng bảo là cháu nói!

Bình Nhi vừa ngăn Phượng Thư, vừa giục nó nói ngay đi. Đứa bé nói:

- Cậu Hai về đến nhà, ngủ một lúc mới dậy, cho người đến xem mợ đã sắp về chưa. Nghe nói mợ vừa mới vào tiệc, cậu ấy liền mở ngay hòm lấy hai nén bạc, hai cái trâm, hai tấm lụa, bảo cháu lẻn đưa cho vợ Bão Nhị và gọi nó lại. Nó nhận các thứ ấy rồi đi đến nhà ta. Cậu Hai bảo cháu đứng đây gác. Còn việc về sau thế nào cháu không biết.

Phượng Thư nghe nói, tức run người, đứng dậy đi thẳng về nhà. Vừa đến sân, thấy một đứa hầu đứng ở trong cửa ló đầu ra. Trông thấy Phượng Thư, nó cắm đầu chạy. Phượng Thư gọi hẳn tên nó, bảo đứng lại. Đứa bé này vốn láu lỉnh, thấy không chạy thoát, nên quay lại cười nói:

- Cháu đang định đi mách mợ, may mợ đã về.

- Mách tao việc gì?

- Cậu Hai ở nhà...

Rồi nó kể lại một lượt như đứa trước vừa nói.

Phượng Thư quát:

- Từ nãy mày làm gì? Bây giờ tao trông thấy rồi, mày mới tìm cách đổ quanh.

Nói xong, giơ tay tát một cái, làm cho đứa hầu ngã lạng choạng, Phượng Thư rón rén đi đến trước cửa sổ, nghe thấy ở trong có tiếng người đàn bà cười nói:

- Bao giờ bà vợ Diêm Vương của cậu chết đi thì hay!

- Nếu nó chết, ta lấy một mụ khác, cũng giống như thế, thì làm thế nào?

- Nếu nó chết thì đem cô Bình làm vợ cả, có lẽ còn hơn đấy.

- Nó chẳng để cho ta đụng chạm đến con Bình một tý nào, chính con Bình cũng ấm ức không dám nói ra. Số kiếp ra sao mà lại gặp phải sao Dạ Soa thế này!

Phượng Thư nghe nói, tức run người lên. Lại nghe thấy họ đều khen Bình Nhi, liền ngờ cho Bình Nhi ngày thường vắng mình, chắc cũng ngỏ lời oán trách. Hơi rượu càng hăng lên, không nghĩ ngợi gì cả. Phương Thư quay ngay người lại tát Bình Nhi hai cái; đạp cửa vào, không nói năng gì, túm lấy vợ Bão Nhị đánh xé. Lại sợ Giả Liễn trốn đi, liền đứng chặn lấy cửa và mắng:

- Con đĩ này! Mày đã cướp chồng chủ mày, lại định giết cả vợ chủ mày nữa à! Bình Nhi lại đây! Bọn đĩ này cùng về hùa với nhau để hại ta! Ngoài mặt thì vẫn thơn thớt dỗ dành ta.

Nói xong lại đánh Bình Nhi mấy cái. Làm Bình Nhi không có chỗ kêu oan, tức quá phát khóc lên và mắng:

- Các người đã làm việc xấu xa này, không dưng lại kéo cả tôi vào làm gì!

Nói xong, túm lấy vợ Bảo Nhị đánh xé.

Giả Liễn vì uống nhiều rượu, đang khi hứng lên, không đề phòng cẩn thận, thì Phượng Thư về, nên lính quýnh không biết làm thế nào; lại thấy Bình Nhi cũng to tiếng, thành ra hơi men càng hăng lên. Thấy Phượng Thư đánh vợ Bão Nhị, hắn vừa tức vừa xấu hổ, nhưng không tiện nói ra; bây giờ thấy Bình Nhi cũng đánh vợ Bảo Nhị, hắn đứng dậy đá rồi mắng:

- Con đĩ kia! mày cũng đánh người à!

Bình Nhi sợ quá, ngừng tay, khóc nói:

- Các người chuyện trò thầm vụng với nhau, tại sao còn kéo tôi vào?

Phượng Thư thấy Bình Nhi sợ Giả Liễn, càng tức, chạy lại đánh Bình Nhi, và bắt phải đánh vợ Bảo Nhị. Bình Nhi tức quá chạy đi tìm dao định tự tử. Bọn bà già và người hầu bên ngoài vội ngăn lại khuyên răn.

Phượng Thư thấy Bình Nhi đi tự tử, liền đập đầu vào Giả Liễn, kêu ầm lên:

- Chúng nó vào hùa với nhau để hại ta, bị ta bắt được, lại còn dọa ta! Cậu bóp chết tôi đi!

Giả Liễn tức quá, rút kiếm ở trên tường xuống, nói:

- Không cần phải tự tử! Tao điên tiết lên rồi đây! Giết tất cả rồi tao đền mạng, thế là hết chuyện!

Đương lúc ầm ĩ, thì bọn Vưu Thị đến nói:

- Làm cái gì đấy? Tự dưng vô cớ sao lại to tiếng thế?

Giả Liễn thấy có người đến, liền mượn hơi men càng làm già cứ đòi giết Phượng Thư. Phượng Thư thấy người đến, không lồng lộn như trước nữa, liền bỏ mọi người, rồi khóc lóc ầm ĩ và chạy sang bên Giả mẫu.

Lúc đó tuồng đã tan, Phượng Thư chạy đến lăn vào lòng Giả mẫu nói:

- Bà cứu cháu với! Cậu Liễn định giết cháu đấy!

Giả mẫu, Hình phu nhân, Vương phu nhân vội hỏi "Sao thế?" Phương Thư khóc nói:

- Cháu về nhà thay quần áo, không ngờ cậu Liễn rước gái về trò chuyện. Cháu tưởng có khách đến chơi, sợ không dám vào; đứng ở ngoài nghe, thì ra cậu ấy đang bàn với vợ Bão Nhị, bảo là cháu ghê gớm lắm, định cho cháu uống thuốc chết đi, rồi lấy Bình Nhi làm vợ cả. Cháu tức quá, nhưng không dám cãi nhau với cậu ấy, chỉ đánh con Bình hai cái, hỏi nó vì sao định hại cháu. Cậu ấy xấu hổ nên chực giết cháu.

Giả mẫu nghe xong, tin là thực, nói:

- Như thế thì chịu sao được? Mau mau lôi cổ thằng khốn nạn ấy đến đây!

Nói chưa dứt lời, thấy Giả Liễn cầm kiếm chạy đến, có nhiều người theo sau. Giả Liễn xưa nay cậy Giả mẫu vẫn thương mình, ngay mẹ và thím cũng không nỡ ngăn cản, nên càng hung hăng chạy đến làm ầm lên. Hình phu nhân và Vương phu nhân trông thấy, giận quá vội ngăn lại mắng:

- Thằng khốn nạn này! Mày định làm loạn đấy à! Cụ ngồi kia kìa?

Giả Liễn lừ mắt nhìn, nói:

- Chỉ vì cụ nuông nó quá, nó mới dám thế. Nó mắng cả cháu nữa.

Hình phu nhân giận quá, giằng lấy kiếm quát:

- Mày bước ngay ra ngoài kia!

GIả Liễn giơ bộ mặt dày, lè nhè nói mãi.

Giả mẫu giận mắng:

- Tao biết mày không coi chúng tao ra gì! Gọi bố nó đến đây xem nó có bước hay không!

Giả Liễn thấy vậy, mới loạng choạng bước ra. Giận dỗi không về nhà, đi ra thư phòng phía ngoài.

Hình phu nhân và Vương phu nhân cũng trách Phượng Thư. Giả mẫu nói:

- Việc có quan hệ gì đâu. Bọn trai trẻ chúng nó, thấy gái khác nào mèo thấy mỡ, giữ làm sao được? Lúc còn trẻ ai mà chẳng thế? Việc này lỗi tại ta bảo mày uống thêm vài chén rượu mày lại uống phải giấm chua!(1)

Nói xong, mọi người cười ầm lên. Giả mẫu lại nói:

- Mày cứ yên tâm, mai ta sẽ bắt chồng mày đến xin lỗi, bây giờ đừng về mà nó bẽ mặt đấy.

Rồi lại mắng:

- Con Bình ranh con, ngày thường ta cứ tưởng nó khá, thế mà vắng mặt nó lại tệ thế!

Vưu Thị cười nói:

- Bình Nhi chẳng có lỗi gì, đó là thím Phượng giận cá chém thớt đấy thôi. Hai bên cãi nhau đều mang Bình Nhi ra hành hạ cho hả. Nó oan ức thế mà cụ lại còn mắng nó!

Giả mẫu nói:

- Phải đấy. Ta vẫn biết con bé ấy không phải là quân hay ton hót gì đâu. Đáng thương cho nó bị mắng oan.

Rồi gọi Hổ Phách đến bảo:

- Mày kể lại lời ta nói cho Bình Nhi nghe; ta biết nó bị oan, ngày mai ta sẽ bắt chủ nó đến xin lỗi. Hôm nay là ngày sinh nhật của chủ nó, đừng để cho nó làm ầm lên.

Lý Hoàn đã dắt Bình Nhi vào vườn Đại Quan rồi. Bình Nhi nghẹn ngào không biết nói làm sao. Bảo Thoa khuyên:

- Chị là người hiểu biết, xưa nay mợ chị đối đãi với chị thế nào. Hôm nay mợ chị say rượu, không đem dằn vặt để hả giận, thì biết đem ai? Chị đừng để người ta cười mợ là quá say. Chị chỉ nghĩ cái oan lúc này, chả hóa ra những cái tốt của mình trước đây đều là giả dối hay sao?

Ngay lúc ấy Hổ Phách đến, kể lại những lời của Giả mẫu cho Bình Nhi nghe. Bình Nhi cảm thấy mình còn chút thể diện, dần dần nguôi giận, cũng không về nhà nữa.

Bọn Bảo Thoa nghỉ một lúc rồi đến thăm Giả mẫu và Phượng Thư. Bảo Ngọc mời Bình Nhi đến viện Di Hồng. Tập Nhân ra đón, cười nói:

- Tôi định mời chị trước, nhưng vì mợ Cả và các cô đều mời, nên tôi đành phải để lại.

Bình Nhi cười nói:

- Xin cám ơn. Không biết chuyện này ở đâu mà ra! Bỗng dưng vô cớ tôi bị mắng oan một trận!

Tập Nhân cười nói:

- Mợ Hai xưa nay đối với chị vẫn tốt, chẳng qua nhất thời bực lên đó thôi.

- Mợ Hai có nói gì đâu, chỉ vì con đĩ nó làm tội tôi, nó mang tôi ra làm trò đùa. Lại còn cái cậu hồ đồ ấy quay ra đánh tôi nữa!

Bình Nhi ức quá, không cầm được nước mắt. Bảo Ngọc vội khuyên:

- Chị đừng buồn nữa, tôi xin lỗi thay cho hai người ấy.

Bình Nhi cười nói:

- Nào có việc gì đến cậu?

Bảo Ngọc cười nói:

- Anh em chị em chúng tôi cũng như là một, nếu họ có lỗi với ai, tôi cũng đáng xin lỗi thay cho họ.

Lại nói:

- Đáng tiếc bộ quần áo mới của chị bị lấm cả! Ở đây em Hoa của chị có quần áo, sao chị không lấy mà thay rồi đem phun rượu, là lại bộ quần áo và chị cũng nên chải lại đầu đi.

Vừa nói vừa sai bọn hầu nhỏ: "Múc nước rửa mặt và đốt bàn là đem đến đây!"

Bình Nhi xưa nay vẫn nghe nói Bảo Ngọc biết cách chiều chuộng bọn con gái. Bảo Ngọc ngày thường vì thấy Bình Nhi là nàng hầu yêu của Giả Liễn và lại là người tâm phúc của Phượng Thư nên không dám gần gũi. Bới vậy, thường ân hận không biết làm thế nào tỏ hết được lòng tốt của mình đối với chị ta. Bình Nhi thấy Bảo Ngọc ân cần như thế, nghĩ bụng: "Quả nhiên Bảo Ngọc đối xử chu tất quá, thật tiếng đồn không sai!"

Lại thấy Tập Nhân mở ngay hòm, lấy ra bộ quần áo ít hay mặc đến. Bình Nhi vội đi rửa mặt. Bảo Ngọc đứng bên cười nói:

- Chị cũng nên đánh tý phấn vào, kẻo người ta lại bảo giận nhau với chị Phượng đấy. Vả chăng hôm nay là ngày sinh nhật của chị ấy và cụ cũng đã sai người đến an ủi chị rồi.

Bình Nhi nghe nói có lý, liền đi tìm phấn, nhưng không thấy. Bảo Ngọc vội chạy đến đài trang, mở cái hộp sứ Châu Tuyên ra, trong hộp đựng một lượt mười thoi phấn hoa ngọc trâm, lấy ra một thoi đưa cho Bình Nhi, cười nói:

- Đây không phải là phấn thường đâu, là giống hoa dạ hương nghiền nát ra, chế với thứ bột thượng hảo hạng đấy.

Bình Nhi để lên trên tay xem, quả nhiên vừa nhẹ, vừa trắng, vừa đỏ, vừa thơm, xoa lên mặt thấy da mịn và mát, không bết như thứ phấn khác. Sau thấy một cái hộp ngọc trắng nhỏ, trong đựng một hộp sáp màu đỏ tươi như cao văn khôi, chứ không phải từng tờ một. Bảo Ngọc cười nói:

- Sáp bán ở hiệu không sạch, màu lại chóng bay. Đây là hạng sáp tốt nhất, vắt nước ra, lọc sạch rồi hòa lẫn với sương ở trong hoa, đem nấu lên. Chỉ lấy cái trâm nhỏ khêu một tí xát vào môi; lại lấy một giọt hòa lẫn nước với sáp vào lòng bàn tay rồi xoa lên mặt cũng đủ.

Bình Nhi cứ theo thế trang điểm, thấy tươi đẹp khác thường và mùi thơm ngào ngạt. Bảo Ngọc lại lấy một cành hoa huệ ở trong chậu dùng dao tre cắt đem cắm lên đầu cho Bình Nhi. Chợt thấy Lý Hoàn cho người sang gọi, Bình Nhi vội vàng đi sang.

Bình Nhi là cô gái thông minh, xinh đẹp vào bậc nhất, chứ không như những bọn tục tằn ngu xuẩn. Thế mà Bảo Ngọc xưa nay không được gần gũi săn sóc, nên rất lấy làm ân hận. Vả hôm nay là ngày sinh nhật của Kim Xuyến, nên suốt ngày Bảo Ngọc không vui. Không ngờ sau khi xảy ra việc này, Bảo Ngọc được tỏ hết nỗi lòng với Bình Nhi, thực là một niềm vui mà trong đời chưa hề nghĩ đến. Vì thế cậu ta nằm ngả xuống giường, trong bụng lấy làm khoan khoái. Chợt nghĩ đến Giả Liễn chỉ biết thỏa lòng dục vọng của mình, chứ không biết nâng niu các bạn son phấn. Rồi nghĩ đến Bình Nhi không có cha mẹ, không có anh chị em, trơ trọi một mình, phải hầu hạ hai vợ chồng Giả Liễn. Giả Liễn thì thô tục, Phượng Thư thì tàn nhẫn, thế mà Bình Nhi vẫn chiều chuộng được chu tất. Hôm nay lại gặp bàn tay ác nghiệt, thực là mệnh bạc hơn cả Đại Ngọc! Nghĩ đến đây, Bảo Ngọc lại càng thương cảm. Rồi đứng dậy, thấy quần áo phun rượu đã gần khô, Bảo Ngọc liền đem đi là và gấp lại cẩn thận. Thấy cái khăn mặt của Bình Nhi bỏ quên đấy, hãy còn vết nước mắt. Bảo Ngọc giặt đi rồi đem phơi. Vừa mừng vừa thương, ngồi thừ ra một lúc, rồi sang thôn Đạo Hương nói chuyện, đến khi lên đèn mới về.

Bình Nhi ngủ lại nhà Lý Hoàn một đêm. Phượng Thư ngủ ở bên nhà Giả mẫu. Giả Liễn tối về, thấy vắng tanh, không tiện đi gọi, đành phải nằm ngủ trần một đêm. Hôm sau trở dậy, nghĩ đến việc hôm qua, thấy bẽ mặt, hắn hối hận không kịp. Hình phu nhân nhớ lại câu chuyện hôm qua, liền đến gọi Giả Liễn sang nhả Giả mẫu. Giả Liễn đành phải nuốt nhục theo sang, quỳ trước Giả mẫu.

Giả mẫu hỏi:

- Tại sao vậy?

- Hôm qua cháu say rượu quá, làm phiền lòng bà, hôm nay sang xin nhận tội.

- Đồ khốn nạn! Uống cho bứ họng ra, rồi không biết yên phận dẫn xác đi cho rảnh, lại còn đánh vợ! Ngày thường con Phượng ăn nói như Hạng Võ, thế mà hôm qua trông nó run sợ thực đáng thương! Nếu không có tao, mày sẽ giết nó thì bây giờ còn ra làm sao nữa.

Giả Liễn trong bụng ấm ức nhưng không dám cãi lại, chỉ đành nhận lỗi. Giả mẫu lại nói:

- Con Phượng và con Bình không đẹp à? Mày còn chưa chán sao? Hàng ngày mày cứ thậm thậm thụt thụt, bất cứ hạng bẩn thỉu nào cũng lôi về nhà. Lại vì con đĩ ấy mà đánh vợ, đánh người hầu, thế cũng đòi là cậu ấm con nhà quan, tự mình trát trấu vào mặt! Nếu mày biết sợ tao thì phải đứng dậy xin lỗi vợ mày đi, rồi dắt nó về nhà, tao mới vui lòng và tha tội cho mày. Không thì mày bước ngay, tao không dám nhận lễ lạy của mày nữa!

Giả Liễn nghe vậy, lại thấy Phượng Thư đứng ở bên cạnh khóc sưng cả mắt lên, không trang điểm son phấn, mặt vàng khè, so với ngày thường lại càng đáng thương đáng yêu. Bụng nghĩ: "Thôi chi bằng xin lỗi đi thì đôi bên lại được thuận hòa mà cụ cũng vui lòng." Liền cười nói:

- Bà dạy thế nào cháu cũng phải vâng lời, nhưng chỉ sợ lại đâm nuông nó thôi.

Giả mẫu cười nói:

- Nói bậy! Tao biết nó là đứa có lễ phép, không hay va chạm đến ai. Nếu sau này nó có lỗi với mày tao sẽ làm chủ cho mày trị nó.

Giả Liễn nghe nói, đứng dậy vái Phượng Thư một cái, cười nói:

- Đó là tôi không phải, xin mợ Hai đừng giận nữa.

Cả nhà đều cười ầm lên. Giả mẫu cười nói:

- Con Phượng không được giận nữa. Mày còn giận thì tao càng thêm bực.

Nói xong lại sai người đi gọi Bình Nhi đến, bảo Phượng Thư và Giả Liễn phải an ủi Bình Nhi mấy câu. Giả Liễn trôngthấy Bình Nhi, thực là "vợ cả không bằng nàng hầu, nàng hầu không bằng làm cách thầm vụng". Thấy Giả mẫu bảo thế, Giả Liễn chạy ngay lại nói:

- Thực là tôi không phải, nên cô bị oan, cũng vì tôi mà mợ ấy có lỗi với cô, về phần tôi xin lỗi đã đành, tôi lại xin lỗi thay mợ ấy nữa.

Nói xong, vái một cái, làm cho Giả mẫu cười, Phượng Thư cũng cười.

Giả mẫu lại bắt Phượng Thư đến an ủi Bình Nhi mấy câu. Bình Nhi vội chạy lại vái Phượng Thư, nói:

- Ngày sinh nhật của mợ, tôi làm cho mợ bực tức, tội tôi đáng chết.

Phượng Thư xấu hổ vì hôm qua uống nhiều rượn, không nghĩ đến tình nghĩa xưa nay, đâm ra nóng nảy, nghe người ngoài nói, vô cớ làm cho Bình Nhi bẽ mặt. Nay thấy thế, vừa xấu hổ vừa đau xót, vội đỡ Bình Nhi dậy, nước mắt nhỏ xuống. Bính Nhi nói:

- Tôi hầu mợ bấy nhiêu năn, không bao giờ mợ động đến nửa móng tay. Hôm qua bị đòn, tôi cũng không dám oán mợ, chỉ vì con đĩ ấy làm hại, tránh nào mợ chả tức giận!

Nói xong nước mắt cũng tràn ra. Giả mẫu liền sai người đưa họ về nhà và nói:

- Đứa nào còn nhắc lại chuyện này phải đến trình ta ngay; bất kỳ là ai, ta cũng đánh cho một trận.

Ba người lại tạ Giả mẫu, Hình phu nhân và Vương phu nhân. Bà già vâng lời, đưa họ về nhà.

Về đến buồng, Phượng Thư thấy không có người liền nói:

- Tôi đâu phải giống vua Diêm Vương, giống quỷ Dạ Soa? Con đĩ ấy rủa tôi chết, cậu cũng theo nó rủa tôi. Nghìn ngày chả tử tế với nhau thì cũng phải có một ngày chứ. Tội nghiệp cho tôi không bằng cả con đĩ, thì còn mặt mũi nào sống ở trên đời nữa.

Nói xong lại khóc. Giả Liễn nói:

- Thế còn chưa đủ à? Mợ thử nghĩ xem hôm trước ai có lỗi nhiều? Hôm nay trước mặt mọi người, tôi phải quỳ, lại phải xin lỗi, như thế mợ đã hãnh diện rồi. Bây giờ lại còn cằn nhằn, chẳng lẽ lại bắt tôi quỳ nữa mới chịu thôi hay sao? Được đà lại cứ lên mặt mãi, như thế không tốt đâu!

Phượng Thư không nói lại được. Bình Nhi phì cười một tiếng. Giả Liễn cũng cười nói:

- Thế là xong. Tôi thật hết cách rồi!

Chợt một bà già đến trình:

- Vợ Bão Nhị thắt cổ chết rồi!

Giả Liễn, Phượng Thư đều giật nảy mình. Nhưng Phượng Thư vội làm ra vẻ cứng, liền quát:

- Nó chết thì thôi. Việc gì bà phải nhớn nha nhớn nhác.

Một lúc, vợ Lâm Chi Hiếu đến nói khẽ với Phượng Thư:

- Vợ Bảo Nhị thắt cổ chết rồi, họ hàng nhà nó định đi kiện mợ đấy!

- Càng hay, tôi cũng đang định đi kiện nó đây!

- Chúng tôi vừa khuyên họ một lúc, rồi lại dọa cho họ một trận, hứa sẽ cho họ ít tiền, nghe đã xuôi rồi.

- Tôi chẳng có đồng nào. Nếu có tiền cũng chẳng cho nó! Cứ bảo nó đi mà kiện! Đừng ai ngăn nó và cũng không cần phải dọa nó. Nó muốn đi kiện đâu thì đi. Nếu nó không kiện, tôi sẽ kiện lại nó là "mang xác người chết ra vu vạ!"

Vợ Lâm Chí Hiếu đương lúc khó nghĩ, thì Giả Liễn liếc mắt một cái, chị ta hiểu ngay, liền ra ngoài chờ.

Giả Liễn nói:

- Tôi đi ra xem sao?

Phượng Thư nói:

- Không được cho nó tiền!

Giả Liễn chạy ra bàn với Lâm Chí Hiếu, sai người đến vừa dỗ vừa dọa và cho hai trăm lạng bạc. Giả Liễn lại sợ sẽ còn xảy ra chuyện lôi thôi, liền sai người đến nói với bọn quan lại rồi gọi mấy người lính canh và người chôn cất đến giúp đỡ việc tang. Bọn kia thấy thế, muốn làm cho ra nhẽ, nhưng không dám, đành phải im hơi lặng tiếng vậy. Giả Liễn lại bảo Lâm Chí Hiếu biên hão hai trăm lạng bạc vào các khoản chi tiêu khác lấp liếm cho qua chuyện. Rồi lấy tiền riêng của mình cho Bão Nhị, an ủi nó, và nói: "Sau này ta sẽ hỏi cho mày một con vợ đẹp khác". Bão Nhị vừa có thể diện, lại vừa được tiền, làm gì mà chẳng bằng lòng, nên vẫn chiều chuộng Giả Liễn như trước.

Ở nhà, Phượng Thư trong bụng vẫn lo, nhưng ngoài mặt lại làm ra bộ không thèm để ý đến. Nhân lúc vắng người, Phượng Thư cười bảo Bình Nhi:

- Hôm nọ ta uống nhiều rượu, em đừng giận nhé. Đánh vào đâu? Ta xem nào?

Bình Nhi nghe nói, mắt đỏ hoe lên, nhưng vội nhịn ngay:

- Đánh cũng chả đau lắm.

Rồi nghe ở ngoài có người nói:

- Các mợ các cô đến chơi đấy!

------------------------

(1). Ý nói hay ghen tuông.

Hồi thứ bốn mươi lăm

Bạn kim lan ngỏ chuyện kim lan

Đêm mưa gió ngâm bài mưa gió

Phượng Thư đang vỗ về Bình Nhi, thấy chị em đến chơi, liền mời ngồi. Bình Nhi đi pha trà. Phượng Thư cười nói:

- Sao hôm nay đến chơi đông, như là có thiếp mời ấy.

Thám Xuân cười nói:

- Chúng tôi đến đây có hai việc: một là việc của tôi; hai là việc của cô Tư, lại kèm theo cả lời của cụ nữa.

- Việc gì mà cần thế?

- Chúng tôi mở thi xã, lần đầu không được đủ, mọi người nể nhau nên sai cả lệ. Chị là người thành thật không thiên vị ai, nên tôi muốn mời chị làm "giám xã ngự sử". Hai là cô Tư đang vẽ bức tranh cái vườn, không đủ đồ dùng, đã trình cụ rồi, người bảo: "Có lẽ dưới lầu còn những thứ ấy. Thử tìm xem, còn thì đem mà dùng, hết thì bảo người đi mua".

Phượng Thư cười nói:

- Tôi chỉ biết ăn thôi, ngoài ra chẳng hiểu nếp tẻ gì cả.

- Chị không hiểu cũng không cần chị phải làm, chỉ nhờ chị xem xét trong đám chúng tôi có ai lười biếng đáng phạt thì phạt, thế là được rồi.

- Các cô đừng lừa tôi. Tôi đã đoán ra rồi. Đâu có phải mời tôi làm "giám xã ngự sử"? Rõ ràng là bảo tôi làm người lái "buôn đồng" để nộp tiền thôi. Các cô mở thi xã, tất phải thay phiên nhau làm chủ thết rượu. Vì không đủ tiền, nên bày ra cách này lôi tôi vào để lấy tiền đó thôi. Có phải thế không?

Mọi người đều cười nói: "Chị đoán đúng đấy!"

Lý Hoàn cười nói:

- Mày thật là người pha lê mà ruột thủy tinh!

Phượng Thư cười nói:

- Khen cho chị là chị cả! Các cô ấy muốn nhờ chị dìu dắt học hành, học khuôn phép, học may vá. Bây giờ mở thi xã hết bao nhiêu tiền mà chị không dám nhận. Cụ, bà Hai thì không nói làm gì, vì là các vị "phong quân"(1) già. Còn chị mỗi tháng được mười lạng bạc lương, so với chúng tôi nhiều hơn gấp hai lần. Thế mà Cụ và bà Hai cứ thương chị là đàn bà góa, không làm gì, không đủ tiền tiêu, lại có đứa con bé được thêm mỗi tháng mười lạng nữa, như thế thì lương bằng Cụ và bà Hai rồi còn gì. Chị lại được miếng vườn cho thuê, số tiền thưởng cuối năm chị cũng được nhiều hơn. Mẹ con, thầy tớ nhà chị tất cả chưa đầy mười người, ăn mặc các cái vẫn là của trong kho chi ra. Tính ra ít nhất chị cũng có bốn, năm trăm lạng bạc. Bây giờ mỗi năm chị bỏ ra độ một hay hai trăm lạng bạc cho họ vui chơi, kể cũng được mấy năm. Sau này họ lấy chồng rồi, chẳng lẽ chị còn phải bù nữa chăng? Bây giờ chị sợ phải tiêu tiền, xui họ đến quấy rầy tôi, để ăn cho núi lở non mòn, tôi lại chả biết hay sao?

Lý Hoàn cười nói:

- Các cô nghe đấy, tôi nói có một, nó đã điên lên nói ra hàng tràng những câu mất dạy! Thực là hạng lái buôn, chuyên nghề so kè tính toán, bủn xỉn từng ly từng tý! Cái hạng này may là một vị tiểu thư đẻ ra ở nhà thi thư, sĩ hoạn, lại được lấy chồng thế này mà cũng còn quá quắt như thế, nếu là con nhà nghèo hèn, làm hạng con hầu đứa ở, thì không biết đê tiện đến thế nào. Khắp gầm trời ai cũng kêu mày xoay xở quá lắm. Hôm qua lại đánh cả con Bình, sao mày bạo tay thế? Thật là đem rượu ngọt đổ vào bụng chó! Tức quá, tao chỉ muốn báo thù hộ con Bình thôi. Nghĩ mãi, không mấy khi gặp "ngày vui của con chó dài đuôi", lại sợ cụ khó chịu, vì thế tao không nói ra, nhưng trong bụng vẫn tức. Thế mà hôm nay mày lại giở chuyện trêu tao. Kể ra mày xách giày cho con Bình cũng chưa đáng! Mày và con Bình nên đổi địa vị cho nhau mới phải!

Mọi người nghe nói đều cười ầm lên.

Phượng Thư cười nói:

- Ô! Tôi biết rồi! Thế ra các chị tìm tôi không phải vì thơ vì vè, chỉ để báo thù cho con Bình đấy thôi. Tôi thật không ngờ con Bình đã có một người để tựa lưng như chị. Tôi biết thế này, dù có ma quỷ kéo tay tôi đánh nó, tôi cũng không dám. Chị Bình lại đây, tôi xin lỗi chị trước mặt mợ Cả và các cô của chị, cứ cho tôi là "quá chén mất khôn thôi"!

Mọi người nghe nói đều cười ầm lên.

Lý Hoàn cười hỏi Bình Nhi:

- Thế nào? Tôi phải nói cho chị hả giận mới thôi!

Bình Nhi cười nói:

- Dù các mợ nói đùa, tôi cũng không dám nhận.

Lý Hoàn nói:

- Sao lại không dám! Đã có tôi đây! Thôi, đi lấy chìa khóa, bảo chủ chị mở cửa lấy các đồ dùng ra.

Phượng Thư cười nói:

- Chị ơi! Chị hãy vào trong vườn với họ đã. Tôi vừa định mang sổ gạo ra tính với họ một lúc, mẹ tôi bên kia lại sai người sang gọi, không biết là bảo việc gì, tôi phải đi sang đó mới được. Lại còn quần áo cuối năm cho các cô, tôi phải sắp sẵn cho người ta may nữa.

Lý Hoàn cười nói:

- Mặc kệ! Thím cứ làm xong việc này cho tôi đi nghỉ, để các cô ấy khỏi quấy rầy tôi.

Phượng Thư vội cười nói:

- Chị ơi! Hãy để cho em rỗi một tý đã, xưa nay chị vẫn thương em, sao bây giờ vì việc Bình Nhi, chị lại không thương em nữa? Chị thường khuyên em: "Tuy nhiều việc, nhưng cũng nên giữ gìn sức khỏe, được rỗi lúc nào cũng nên nghỉ ngơi". Thế mà hôm nay chị lại bắt ép em quá như thế à. Vả chăng, những quần áo cuối năm của người khác mà chậm thì không can gì, chứ quần áo của các cô mà chậm thì trách cứ ở chị đấy. Chị đã chẳng chịu làm gì, lại không nói giúp lấy một lời, lẽ nào cụ chả trách chị. Tôi thà đành nhận lỗi một mình, chứ không khi nào dám làm lụy đến chị.

Lý Hoàn cười nói:

- Các cô nghe kìa, nó nói thế có được không? Thế mà vẫn cho nó là biết ăn nói đấy, Tôi hãy hỏi: thím có nhận trông nom việc thi xã này không?

Phượng Thư cười nói:

- Sao chị lại nói thế? Nếu tôi không tốn mấy đồng tiền cho thi xã thì chẳng hóa ra tôi là kẻ lật lọng ở vườn Đại Quan này, còn hòng ăn ở đây được nữa không? Sớm mai tôi xin đến nhậm chức. Xuống ngựa nhận ấn, là tôi bỏ ngay ra năm mươi lạng bạc để chị em làm tiền mở tiệc họp thi xã tiêu dần. Sau này tôi không biết làm thơ làm văn, chẳng qua chỉ là một người rất tục thôi. Giám sát hay chẳng giám sát nữa cũng được, đã có tiền, chẳng còn lo chị em đuổi tôi ra nữa!

Mọi người đều cười. Phượng Thư lại nói:

- Lát nữa tôi sẽ mở buồng gác, còn thứ gì cho người mang xuống để chị em xem. Thứ gì dùng được để lại mà dùng, thiếu gì cứ chiếu đơn của chị em cho người đi mua là được rồi. Lụa vẽ tôi sẽ cắt. Tấm bản đồ không để ở bên cụ đâu, anh Trân giữ đấy. Nói cho các người biết khỏi phải tìm tòi lôi thôi. Tôi bảo người đi lấy về và đưa cả lụa cho bọn thợ vẽ hồ nước phèn, có được hay không?

Lý Hoàn gật đầu cười nói:

- Thế thì cảm ơn thím. Được như thế là xong việc. Thôi chúng ta về đi, nếu thím ấy không sai người mang đến, tôi lại phải đến quấy rầy lần nữa.

Nói xong, dẫn các chị em về.

Phượng Thư nói:

- Việc này chẳng phải tại ai, đều tự chú Bảo bới việc ra cả.

Lý Hoàn nghe nói, quay lại cười nói:

- Chính vì chú Bảo mới đến đây, thế mà lại lãng quên đi! Cuộc họp thơ đầu tiên, chú ấy đã làm lỡ việc. Chúng tôi nể quá, nay thím bảo nên phạt như thế nào?

Phượng Thư nghĩ một lúc rồi nói:

- Chẳng có cách nào khác, chỉ bắt chú ấy quét một lượt các nhà cửa của chị em là đủ.

Mọi người đều cười nói: "Phạt thế phải lắm".

Mọi người định ra về, thấy một a hoàn nhỏ dắt bà Lại đến. Phượng Thư vội đứng dậy cười nói: "Mời bà ngồi chơi". Rồi họ đều ngỏ lời mừng bà ấy. Bà Lại ngồi xuống cạnh giường, cười nói:

- Tôi mừng, các vị chủ nhà cũng mừng. Nếu không nhờ được ơn chủ, thì tôi làm gì có việc mừng này? Hôm nọ mợ lại sai anh Thái mang đến cho đồ mừng. Cháu tôi đã bái vọng tạ ơn rồi.

Lý Hoàn cười nói:

- Bao giờ anh ấy đi nhậm chức?

- Bao giừ nó đi thì đi, chứ tôi cô biết đâu? Hôm nọ nó đến lạy tôi, tôi cũng chăng biết nói gì hơn, chỉ dặn nó: "Cháu đừng tưởng được làm quan là tha hồ ngang tàng bậy bạ! Nay mày đã ba mươi tuổi, tuy là con nhà tôi tớ, nhưng vừa mới lọt lòng mẹ đã được ơn chủ buông tha ra, trên nhờ hồng phúc của chủ, dưới nhờ có bố mẹ, cũng như các cậu, mày được đọc sách biết chữ, có bà già, a hoàn, có vú nuôi nâng niu như chim phượng hoàng. Giờ nhớn như thế, liệu mày đã biết viết hai chữ "nô tài"(2) thế nào chưa? Hay chỉ biết hưởng phúc mà không hiểu ông mày, bố mày đã chịu bao nhiêu khổ nhục, hai ba đời người vất vả mới nặn ra được mày như thế này! Từ lúc bé, mày bị bao nhiêu là tai nạn, tốn kém bao nhiêu là tiền bạc, giá đúc lại cũng bằng người mày rồi ấy. Đến năm mày ngoài hai mươi tuổi, lại nhờ ơn chủ, quyên cho một chức. Mày có biết chính trong họ nhà chủ cũng còn bao nhiêu người nhịn đói nhịn khát đấy không? Mày là con nhà tôi tớ, giờ hồn đấy, khéo không lại hết phúc! Mười năm trời sung sướng không biết mày giở trò ma quỷ thế nào, van xin chủ, lại được ra làm quan. Chức quan huyện tuy nhỏ, nhưng trách cứ rất lớn. Làm quan ở vùng nào tức là cha mẹ dân vùng ấy. Nếu mày không biết làm tròn phận sự, hết lòng giúp nước thờ chủ, thì trời cũng không dung cho mày đâu!"

Lý Hoàn, Phượng Thư đều cười nói:

- Bà hay lo xa, chúng tôi xem anh ấy cũng tốt đấy chứ. Trước kia anh ấy còn đến đây vài lần, nhưng mấy năm nay không thấy anh ấy đến. Lễ sinh nhật cuối năm ngoái, chỉ thấy tên của anh ấy thôi. Hôm nọ anh ấy đến chào cụ và bà Hai khi ở bên nhà cụ, chúng tôi thấy anh ấy mặc quân phục mới, trông càng oai vệ và béo hơn trước nhiều. Giờ anh ấy được làm quan, bà nên vui mới phải, tội gì mà buồn? Nếu anh ấy không tốt, đã có cha mẹ anh ấy, bà cứ yên hưởng phúc nhà là đủ rồi. Khi nào rỗi, bà đi kiệu sang đánh bài với cụ chúng tôi, nói chuyện cho vui, ai nỡ khinh rẻ bà? Ở nhà lại có cửa cao lầu rộng, ai chả kính nể? Bà thật cũng như một vị phong quân già vậy.

Bình Nhi pha nước mang đến, bà Lại vội đứng dậy nói:

- Xin cô đừng làm phiền, cứ bảo đứa hầu nhỏ nào pha cũng được.

Bà ta ta uống nước vừa nói:

- Mợ không biết, đám trẻ con này cần phải dạy bảo nghiêm ngặt. Nghiêm như thế mà chúng còn lén lút làm bậy, để người nhớn phải bận lòng. Người biết ra bảo tính trẻ con bướng bỉnh; người không biết lại bảo là chúng nó cậy của, cậy thế khinh người, làm cho chủ nhà cũng mang tiếng. Nhiều khi tức quá, tôi không làm thế nào được, phải gọi bố chúng đến, mắng cho một trận mới yên.

Bà ta lại chỉ Bảo Ngọc nói:

- Cậu giận tôi cũng cứ nói, bây giờ hễ ông nhà có răn bảo cậu một chút, cụ đã chằm chặp bênh. Chứ khi ông nhà còn bé, bị cụ ông đánh luôn, ai mà không biết? Ông nhà hồi còn bé có ngỗ ngược như cậu thế này đâu! Lại còn ông bác ở bên kia hay nghịch ngợm thực, nhưng không ru rú ở trong nhà như cậu, thế mà ngày nào cũng bị đòn. Lại còn ông thân của cậu Trân ở bên phủ Đông, tính nóng như lửa, hễ nổi cơn giận chẳng kể gì con, đánh như tra giặc vậy! Bấy giờ tôi mắt thấy tai nghe, thì bác Trân dạy con cũng theo khuôn phép của cụ trước, nhưng chỉ có cái là gặp đâu nói đấy. Chính bản thân bác ấy cũng không kiềm chế được mình, trách sao được con cháu nó không sợ? Cậu hiểu ra sẽ cho tôi nói là phải, không hiểu thì ngoài mặt không nói, nhưng trong bụng có lẽ cậu chửi thầm tôi đấy!

Chợt thấy vợ Lại Đại đến, rồi vợ Chu Thụy và vợ Trương Tài cũng đến trình việc. Phượng Thư cười nói:

- Nàng dâu đến đón mẹ chồng đấy.

Vợ Lại Đại cười nói:

- Không phải tôi đến đón mẹ tôi về đâu, đến dò xem các mợ các cô có nghĩ đến thể diện cho không?

Bà Lại nghe thấy thế cười nói:

- Tôi lẩn thẩn thật! Cái việc đáng nói lại không nói, chỉ nói những chuyện dây mơ rễ má đâu đâu ấy thôi. Vì cháu nó được bổ làm quan, bạn hữu đều định đến mừng, thế nào cũng phải bày tiệc rượu. Tôi nghĩ đã bày tiệc rượn, mời người nọ không mời người kia thì không tiện. Sau lại nghĩ, nhờ ơn chủ mới được vẻ vang thế này, dù sạt nghiệp tôi cũng vui lòng, vì thế tôi bảo bố nó phải bày tiệc rượu ba ngày liền. Hôm đầu bày mấy bàn rượu và một rạp hát ở vườn hoa, mời cụ, các bà, các mợ, các cô đến giải buồn một hôm; nhà khách bên ngoài cũng bày một rạp hát, mấy bàn rượu mời các ông, các cậu đến cho được thơm lây. Hôm thứ hai mời các bạn thân. Hôm thứ ba mời bè bạn hai phủ. Vui nhộn luôn ba ngày, gọi là nhờ hồng phúc của chủ, được chút thể diện.

Phượng Thư, Lý Hoàn đều cười nói:

- Định hôm nào đấy? Thế nào chúng tôi cũng sang. Chưa biết chừng cụ cao hứng cũng sang đấy.

Vợ Lại Đại vội nói:

- Chọn vào ngày mười bốn, xin các mợ nể lời bà tôi.

Phượng Thư cười nói:

- Ai không biết, chứ tôi thì nhất định đi. Nhưng phải nói trước, tôi không có lễ mừng, mà cũng không thưởng tiền gì cả. Chỉ ăn xong rồi về thôi, đừng cười nhé.

Vợ Lại Đại cười nói:

- Sao mợ lại nói thế? Khi mợ vui dù thưởng cho chúng cháu vài ba vạn bạc cũng có.

Bà Lại cười nói:

- Tôi vừa đến mời cụ, người đã nhận lời đi, thế mới biết tôi nói còn đắt nhời.

Nói xong, lại dặn một lượt nữa, rồi đứng dậy muốn về. Chợt trông thấy vợ Chu Thụy, lại nhớ ra một việc, bà Lại nói:

- Tôi còn có một điều muốn hỏi mợ: thằng bé con chị Chu phạm lỗi gì mà đuổi nó ra không dùng nữa?

Phượng Thư cười nói:

- Tôi đang định nói với nàng dâu của bà đấy. Nhưng lắm việc cũng quên đi mất. Chị Lại về bảo cho chồng chị biết, trong hai phủ không ai được chứa thằng con Chu Thụy nữa, bảo nó đi đâu thì đi.

Vợ Lại Đại đành phải nhận lời. Vợ Chu Thụy liền quỳ xuống van xin. Bà Lại vội nói:

- Việc gì thế? Nói ra để tôi bàn hộ.

Phượng Thư nói:

- Hôm nọ ngày sinh nhật tôi, trong nhà chưa ai uống rượu, con nó đã say khướt rồi. Bên nhà mẹ tôi đưa lễ sang, nó không ở ngoài trông nom, cũng không chịu mang lễ vật vào, lại ngồi mắng người ta. Hai người con gái mang đến, nó mới dẫn bọn trẻ con bưng vào. Bọn trẻ con bưng tử tế, còn nó thì đánh rơi một cái hộp bánh hấp đổ tung ra nhà. Người ta về rồi, tôi sai Thái Minh ra gọi, nó lại mắng Thái Minh một trận. Cái hạng ranh con láo lếu coi trời bằng vung ấy, không đuổi đi để làm gì?

Bà Lại nói:

- Tôi tưởng là việc gì, hóa ra việc ấy. Xin mợ hãy nghe lời tôi: nếu nó có lỗi, đánh mắng một trận để cho nó chừa đi thì phải hơn; chứ đuổi nó đi thì quyết không nên. Nó không phải như con đẻ của tôi tớ nhà ta, mà là người hầu của bà Hai đem sang. Nếu mợ đuổi nó đi, đối với bà Hai cũng khó coi. Theo ý tôi, mợ nên đánh nó mấy roi để bận sau nó chừa đi, rồi cứ cho nó ở lại. Dù không nể mẹ nó, cũng nên nể bà Hai chứ.

Phượng Thư nghe nói, liền bảo vợ Lại Đại:

- Đã thế, ngày mai bắt nó lại đây đánh bốn mươi trượng, từ nay cấm không cho uống rượu nữa.

Vợ Lại Đại vâng lời. Vợ Chu Thụy lạy tạ đứng dậy, muốn lạy tạ cả bà Lại, nhưng vợ Lại Đại kéo lên mới thôi. Sau đó ba người cùng đi ra. Bọn Lý Hoàn cũng về trong vườn.

Đến chiều, Phượng Thư sai người mang những đỗ vẽ vào trong vườn. Bọn Bảo Thoa chọn một lúc, chỉ dùng được một nửa. Còn thiếu một nửa, liền biên vào đơn đưa cho Phượng Thư theo thế mà mua.

Một hôm, thợ vẽ bên ngoài đã hồ lụa xong, kẻ thành mẫu mang vào. Bảo Ngọc hàng ngày đến giúp Tích Xuân. Bọn Thám Xuân, Lý Hoàn, Nghênh Xuân, Bảo Thoa cũng đến chơi, vừa xem vẽ vừa họp nhau nói chuyện.

Bảo Thoa thấy trời mát, đêm lại hơi dài, liền đến bàn với mẹ mang ít đồ thêu thùa sang. Ban ngày, hai lần sang thăm Giả mẫu và Vương phu nhân, có khi lại phải ngồi tiếp chuyện cho vui. Khi rỗi lại sang bên vườn nói chuyện phiếm với chị em, vì thế bận suốt ngày, đêm lại phải thắp đèn thêu thùa đến canh ba mới ngủ.

Đại Ngọc hàng năm cứ đến kỳ xuân phân, thu phân, là bệnh ho lại phát. Mùa thu năm nay, vì Giả mẫu cao hứng quá, phải dự tiệc vui hai lần, đâm ra mệt. Gần đây bệnh ho trở lại và nặng hơn trước, vì thế không ra ngoài được, chỉ tĩnh dưỡng ở trong buồng thôi. Lúc nào buồn thì mong chị em đến nói chuyện cho khuây khỏa; đến khi bọn Bảo Thoa tới thăm, nói được dăm ba câu lại uể oải không muốn tiếp. Mọi người đều biết Đại Ngọc đương ốm, vả lại ngày thường thân thể gầy yếu, hễ buồn phiền một tí là không chịu được, vì thế dù cô ta tiếp đãi không được chu tất cũng chẳng ai trách.

Hôm ấy, Bảo Thoa đến thăm Đại Ngọc, nhân nhắc đến bệnh, Bảo Thoa nói:

- Ở đây đã mời mấy thầy thuốc, nhưng có uống cũng không thấy khỏi, chi bằng mời một danh sư khác đến chữa thì hơn. Năm nào cứ đến mùa xuân, mùa hạ lại ốm, bé đã qua già chưa đến, cứ mãi thế này thì còn ra làm sao?

- Không ăn thua gì đâu. Tôi biết bệnh tôi không thể chữa được. Không cứ lúc có bệnh, ngay lúc khỏe trông thân hình tôi cũng đủ biết.

- Chính là như thế. Cổ nhân có câu "Có ăn được cơm mới sống", nhưng ngày thường cô vẫn ăn cơm mà không bồi bổ được tinh thần khí huyết, tất không phải là việc tốt đâu.

Đại Ngọc thở dài nói:

- "Sống chết có số, phú quý ở trời", người ta muốn cũng không được! Bệnh tôi năm nay xem ra có phần nặng hơn năm ngoái.

Trong khi nói chuyện, Đại Ngọc ho đến ba, bốn lần.

Bảo Thoa nói:

- Hôm nọ tôi xem đơn thuốc của cô, thấy nhiều nhân sâm, nhục quế lắm. Tuy bảo là ích khí bổ thần, nhưng không nên dùng vị nóng quá. Cứ ý tôi, trước hết phải bình can dưỡng vị. Can hỏa mà bình thì không khắc tỳ thổ, vị khí tự khắc không có bệnh, ăn uống vào mới có thể bổ dưỡng được. Cứ mỗi sáng lấy một lạng yến sào thượng hạng hòa với năm đồng cân đường miếng, lấy cái ấm bạc đun thành cháo, nếu ăn quen còn hay hơn thuốc, nó rất tư âm bổ khí.

Đại Ngọc thở dài:

- Chị ngày thường đối với mọi người rất tốt, nhưng tôi là người đa nghi, cứ cho chị là ác ngàm. Từ hôm nọ, chị bảo tôi không nên xem sách nhảm, giờ lại khuyên tôi câu này, tôi rất là cảm động. Trước đây tôi nhầm, nhầm mãi đến bây giờ. Ngẫm nghĩ từ khi mẹ tôi chết, tôi không có anh chị em, năm nay đã mười lăm tuổi, không có một người nào dạy bảo tôi như lời chị nói hôm trước. Không trách được, cô Vân bảo chị là người tốt. Trước đây thấy cô ấy khen chị, tôi vẫn khó chịu; hôm nọ chính tôi gặp mới biết rõ. Ví như chị nói câu nào, tôi hay chấp nhặt, chị cũng không để ý, lại còn lấy những lời khuyên tôi. Thế mới biết là tự tôi nhầm. Nếu hôm nọ tôi không nhận ra, có lẽ hôm nay tôi cũng không nói với chị những câu này đâu. Vừa rồi, chị bảo tôi ăn cháo yến sào, tuy yến sào cũng dễ kiếm đấy, nhưng chỉ vì người yếu năm nào cũng mắc bệnh. Kể ra bệnh không lấy gì làm quan hệ, nhưng cũng phải mời thầy bốc thuốc, uống nhân sâm, nhục quế đủ làm nghiêng trời lệch đất rồi. Bây giờ lại giở cái món cháo yến sào mới lạ ra, bà tôi, dì tôi và chị Phượng thì chẳng nói gì đâu, nhưng đám bà già và a hoàn chắc sẽ cho tôi bới chuyện. Chị xem bọn họ thấy bà tôi thương Bảo Ngọc và Chị Phượng hơn, họ còn nhìn chòng chọc, bày chuyện nói vụng, huống chi là tôi? Vả chăng tôi không phải là chủ nhà, chỉ vì không có chỗ nương tựa, nên mới đến đây, họ đã khó chịu với tôi lắm rồi. Bây giờ tôi lại không biết điều, để cho người ta phải nguyền rủa mình nữa hay sao?

- Cô đừng nói thế, tôi cũng như cô.

- Chị sao lại ví với tôi? Chị còn có mẹ, có anh; ở nhà, chị có nhà có ruộng, đến đây lại có đất, có cửa hàng. Chị chẳng qua vì chỗ bà con nên mới đến đây, việc lớn nhỏ không phải nhờ ai một đồng nào, lúc nào muốn đi thì đi. Tôi không có một tí gì, ăn mặc tiêu pha lại đều được đối đãi như các cô ở nhà này. Như thế bọn tiểu nhân lẽ nào họ không chán ghét mình?

Bảo Thoa cười nói:

- Sau này chỉ tốn thêm một bộ đồ cưới thôi, bây giờ hãy chưa cần nghĩ đến.

Đại Ngọc đỏ mặt lên, cười nói:

- Tưởng chị đứng đắn, nên người ta mới kể những nỗi buồn phiền ra cho nghe, thế mà chị lại đem tôi ra làm trò cười!

- Tuy tôi nói đùa, nhưng là chuyện thực. Cô cứ yên tâm, tôi còn ở đây ngày nào, sẽ làm cho cô được khuây khỏa ngày ấy. Cô có điều gì bực tức khó khăn, cứ nói cho tôi biết, có thể đỡ đần được, thế nào tôi cũng đỡ đần cho cô. Tôi tuy có anh, chắc cô cũng đã biết anh tôi như thế nào rồi, tôi chỉ hơn cô ở chỗ còn mẹ thôi. Chúng ta là người cùng bệnh nên thương lẫn nhau. Cô là người hiểu đời, tội gì lại than thở như Tư Mã Ngưu(3) ngày trước? Câu vừa rồi cô nói phải đấy, "thêm một việc chẳng bằng bớt một việc". Có lẽ nhà tôi còn yến sào, tôi sẽ về nói với mẹ tôi đưa đến cho cô mấy lạng, mỗi ngày bảo bọn a hoàn nấu lên, vừa tiện vừa không bận đến ai.

- Vật tuy nhỏ, nhưng chị có lòng tốt như thế, thật là đáng quý.

- Cái đó có gì đáng nói? Chỉ sợ không được vừa lòng mọi người thôi. Bây giờ sợ cô mệt, tôi về đây.

- Tối chị lại đến chơi nói chuyện với tôi.

Bảo Thoa nhận lời rồi về.

Đại Ngọc húp mấy ngụm cháo rồi nằm ngả ở trên giường. Không ngờ về chiều giở trời, mưa xuống tầm tã, mây kéo đùn đùn, khi mưa khi tạnh. Lúc ấy đã về chiều, trời tối sầm xuống, nước mưa nhỏ róc rách vào những cành trúc, càng thêm buồn tẻ. Biết Bảo Thoa không thể đến được, Đại Ngọc ngồi bên đến cầm quyển sách xem, quyển Nhạc phủ tạp cảo(4), trong đó có hai bài từ "thu khuê oán" và "biệt ly oán". Đại Ngọc trong lòng cảm xúc, làm ngay một bài Đại biệt ly theo điệu "Xuân giang hoa nguyệt dạ"(5) đặt tên từ là "Thu song phong vũ tịch"(6) như sau:

Sang thu hoa cỏ úa vàng,

Đèn thu trằn trọc đêm trường đầy thu.

Song thu thu vẫn trơ trơ.

Lạnh lùng giờ lại gió mua thêm càng.

Đòi cơn mưa gió phũ phàng,

Sang thu tan giấc mơ màng từ đây.

Bận lòng nào nỡ ngủ say,

Bình kia bước tới, sáp này khêu cao,

Tờ mờ ngọn sáp dọi vào,

Này buồn, này giận nao nao khôn cầm.

Nhà nào gió chẳng tới thăm?

Nơi nào mưa chẳng rì rầm bên song?

Gió thu lạnh toát chăn hồng,

Mưa thu như giục tiếng đồng hồ reo.

Đêm đêm rả rích rì rào,

Trước đèn như muốn nghẹn ngào cùng ai.

Buồn tênh khói lạnh phía ngoài,

Trúc thưa cửa vắng bên tai lầm rầm.

Lúc nào gió tắt mưa cầm,

Thì đây lệ đã ướt đầm song the.

Ngâm xong, Đại Ngọc gác bút lên định đi ngủ, có a hoàn vào báo: "Cậu Bảo đã đến". Nói chưa dứt lời, đã thấy Bảo Ngọc đội nón lá, khoác áo tơi đến, Đại Ngọc phì cười nói:

- Chàng đánh cá này ở đâu đến đây?

Bảo Ngọc liền hỏi:

- Hôm nay có đỡ chưa? Uống thuốc gì? Ăn được bao nhiêu cơm?

Vừa nói vừa bỏ nón xuống, cởi áo tơi ra, một tay cầm đèn, một tay che ánh đèn, soi vào mặt Đại Ngọc, nhìn một lúc rồi cười nói:

- Hôm nay thần sắc khá rồi đấy.

Khi Bảo Ngọc cởi áo tơi ra, Đại Ngọc thấy trong người cậu ta chỉ mặc một áo lụa đỏ ngắn hơi rung rúc, lưng buộc khăn xanh, mặc quần áo lụa xanh cải hoa, chân đi bí tất sợi dệt lẫn chỉ kim tuyến, đôi giày bươm bướm vờn hoa, Đại Ngọc hỏi:

- Trên đầu anh sợ mưa, sao dưới chân lại đi giày và bít tất này vẫn khô thế?

- Nguyên là anh mặc cái bộ như thế này. Vừa đi cả đôi guốc gỗ đường, lên đến thềm thì bỏ ra.

Đại Ngọc lại thấy áo tơi và nón rất tinh xảo nhẹ nhàng, không phải là đồ bán ở chợ, liền hỏi:

- Đan bằng cỏ gì thế? Thảo nào mặc những đồ này không lù xù như là lông dím.

- Ba thứ này là của Bắc Tĩnh vương cho. Khi trời mưa, Đức vương ở nhà thường dùng những thứ này, nếu em thích, anh sẽ kiếm một bộ đưa cho. Thứ khác không nói, chỉ có chiếc nón này là thích nhất: cái chóp ở trên có thể mở ra đóng vào được, gặp khi có tuyết đội mũ vào rút cái que cài ra, bỏ chóp trên đi, chỉ còn lại một cái vành thôi. Lúc có tuyết thì con trai con gái đều đội được cả. Anh đưa cho em một cái để mùa đông có tuyết sẽ đội.

Đại Ngọc cười nói:

- Em không cần, nếu đội cái này thành ra một bà đánh cá vẽ ở trong tranh hay là diễn ở trên sân khấu mất.

Nói đến câu này, Đại Ngọc mới nhớ ngay ra câu mình vừa nói ăn khớp với câu nói đùa Bảo Ngọc lúc nãy nên cứ hối mãi, rồi đỏ ửng mặt lên, gục xuống án ho.

Bảo Ngọc không để ý, thấy trên án có bài thơ, liền lấy ra xem, khen hay mãi. Đại Ngọc vội giật lấy đốt đi. Bảo Ngọc cười nói:

- Đốt cũng không can chi, anh đã thuộc hết rồi.

- Em khỏi nhiều rồi, cảm ơn anh hàng ngày lại thăm em mấy lần, mưa cũng lại. Bây giờ đêm khuya rồi, em muốn đi nghỉ, anh hãy về đi, mai lại đến.

Bảo Ngọc nghe nói, móc ra một cái đồng hồ vàng to bằng hạt đào để xem, thấy kim đã chỉ vào chỗ cuối giờ tuất đầu giờ hợi, vội vàng cất đi và nói:

- Đáng lẽ em đi nghỉ rồi, anh lại đến quấy rầy em một lúc.

Nói xong, đội nón khoác áo đi ra, bỗng quay lại hỏi:

- Em muốn ăn cái gì cứ nói, sáng mai anh sẽ trình với cụ. Anh nói lại không rõ ràng hơn bọn bà già à?

- Để đến đêm em nghĩ xem đã, sáng mai sẽ nói. Anh xem, lại mưa to rồi, về đi thôi. Có ai đi theo hầu đấy không?

Hai bà già trả lời:

- Thưa cô, đã có người ở ngoài này cầm dù và thắp đèn lồng rồi.

Đại Ngọc cười nói:

- Giời này mà thắp đèn lồng à?

Bảo Ngọc nói:

- Không việc gì, đèn kiểu sừng dê đấy, không sợ mưa.

Đại Ngọc nghe nói, lấy cái đèn pha lê hình quả cầu ở trên tủ sách xuống, sai thắp một cây nếp nhỏ, đưa cho Bảo Ngọc, nói:

- Đèn này sáng hơn đèn kia, dùng để đi mưa đấy.

- Anh cũng có một cái đèn kiểu này, nhưng sợ họ trượt chân ngã thì vỡ mất, nên không mang đi.

- Vỡ đèn hơn hay người ngã đáng kể hơn? Anh lại không quen đi guốc gỗ. Cái đến lồng kia để họ thắp mang đi trước, còn cái đèn này vừa nhẹ vừa sáng, chỉ để cho một người dùng khi đi mưa thôi. Anh cầm lấy cái đèn này thì hơn, ngày mai sẽ mang sang giả em. Nếu nhỡ tay đánh vỡ cũng chẳng là bao, việc gì mà lại giở cái lối "mổ bụng giấu ngọc"(7) ấy?

Bảo Ngọc nghe nói, cầm lấy đèn. Đằng trước, hai bà già che dù và cầm đèn sừng dê; đằng sau lại có hai a hoàn nhỏ che dù. Bảo Ngọc đưa cái đèn cho một a hoàn cầm, rồi vịn vào vai nó đi về.

Có hai bà già ở Hành Vu Uyển, cũng che dù, xách đến đến đưa cho Đại Ngọc một gói yến sào lớn, một gói đường mai hoa trắng và nói:

- Những thứ này tốt hơn của đi mua. Cô chúng tôi bảo: "Cô cứ ăn đi, hết lại đưa sang".

Đại Ngọc nói: "Làm phiền cô nhà quá". Rồi mời họ ra ngoài uống nước. Bà già cười nói:

- Chúng tôi không uống, còn phải đi có việc.

Đại Ngọc cười nói:

- Tôi cũng biết các bà bận. Hôm nay mát trời, đêm lại dài, càng nên chơi mấy ván bài.

Một bà già cười nói:

- Chẳng giấu gì, năm nay cũng có phần khá; vả chăng đêm nào cũng phải có mấy người canh, nếu để lỡ giờ không được, chi bằng họp nhau đánh bạc để vừa ngồi cầm canh vừa giải buồn. Đêm nay đến phiên tôi, hễ đóng cửa vườn là chúng tôi lại sắp đánh đấy.

Đại Ngọc cười nói:

- Phiền các bà phải đi giữa mưa vất vả, lại làm cho các bà lỡ dịp phát tài.

Rồi sai người đưa cho họ mấy trăm đồng tiền, đem mua rượu uống để chống lạnh. Hai bà già cười nói:

- Lại quấy quả cô phải thưởng rượu.

Nói xong, họ chào rồi ra ngoài nhận tiền, che dù ra về.

Tử Quyên cất yến sào rồi tắt đèn, buông rèm, hầu hạ Đại Ngọc đi ngủ. Đại Ngọc nằm nghĩ cảm ơn Bảo Thoa, lại mừng cho chị ta còn có mẹ có anh, một lúc lại nghĩ Bảo Ngọc thường ngày thân mật với chị ta, vẫn có chỗ đáng ngờ vực. Bỗng nghe giọt mưa róc rách trên tàu chuối và cành trúc, gió lạnh thổi qua màn, tự nhiên nước mắt Đại Ngọc lại tràn ra, đến canh tư mới ngủ được.

---------------------

(1). Thời phong kiến, những người được phong chức tước hoặc con làm quan to mà cha mẹ được phong, đều gọi là phong quân hoặc phong ông.

(2). Những người làm tôi tớ cho bọn quý tộc địa chủ trong thời phong kiến.

(3). Tư Mã Ngưu: học trò Khổng Tử, không có anh em nào.

(4). Các bài thơ trong Nhạc phủ.

(5). Đêm giăng hoa ở sông mùa xuân.

(6). Buổi chiều mưa gió trước cửa sổ mùa thu.

(7). Trọng của hơn người.

Hồi thứ bốn mươi sáu

Người liều lĩnh khó thoát việc liều lĩnh

Gái Uyên Ương thề dứt bạn uyên ương

Phượng Thư thấy Hình phu nhân gọi, không biết là việc gì, liền mặc áo lên xe đi sang. Hình phu nhân đuổi những người trong nhà ra, rồi khẽ bảo Phượng Thư:

- Gọi con đến đây, vì có một việc khó nghĩ quá. Cha con bảo ta điều này, ta chưa biết nghĩ sao, hãy bàn với con trước. Cha con trông thấy con Uyên Ương ở đằng nhà cụ, muốn lấy nó làm nàng hầu bảo ta đến xin cụ. Ta nghĩ cũng là một việc thường, nhưng chỉ sợ người không cho. Con có cách gì giúp được việc này không?

Phượng Thư cười nói:

- Cứ ý con thì không nên đụng vào cái đinh ấy. Cụ mà dứt con Uyên Ương ra thì sẽ ăn không ngon ngủ không yên đâu. Vả chăng ngày thường lúc vui chuyện, người vẫn nói: cha con bây giờ đã có tuổi rồi, thế mà nàng hầu ở trong nhà cứ kè kè bên này một đứa bên kia một đứa. Điều thứ nhất là làm nhỡ nhàng con gái nhà người ta, điều thứ hai là không biết giữ gìn thân thể, việc quan làm cũng chẳng ra gì, cả ngày chỉ chè chén với bọn hầu trẻ! Mẹ nghe đấy, bà có ưa gì cha con đâu? Bây giờ muốn tránh đi chả được, lại còn định cầm gậy rơm thọc vào mũi hùm hay sao? Xin mẹ đừng giận, con không dám nói việc ấy đâu. Rõ ràng nói cũng chẳng ăn thua gì, mà lại gây thêm những điều không hay. Cha con bây giờ đã già rồi, việc làm cũng có khi nhầm lẫn, mẹ nên khuyên ngăn mới phải. Nếu lúc còn trẻ mà làm những việc ấy thì cũng không sao. Bây giờ anh em con cháu hàng đàn rồi, lại còn gây chuyện như thế, chẳng khó coi với người ta lắm hay sao?

Hình phu nhân cười nhạt nói:

- Nhà quan năm thiếp bảy thê cũng là thường, riêng nhà ta lại không được à? Mẹ có ngăn cha con cũng chẳng nghe đâu. Con Uyên Ương dù là người hầu thân yêu của cụ, nhưng một ông con cả đầu râu đốm bạc; lại làm quan, muốn lấy nó làm nàng hầu, chắc nó cũng chả từ chối. Ta gọi chị đến đây, chẳng qua để bàn thôi, thế mà chị đã nói ra hàng tràng không nên. Lẽ nào ta lại bảo chị đi? Tất nhiên ta phải đi lấy. Chị lại còn bảo ta không biết can ngăn. Chị không biết tính bố chồng chị à! Can không được lại đâm ra cãi nhau với ta thôi.

Phượng Thư thấy Hình phu nhân tính vốn khờ dại nhút nhát, chỉ tìm cách chiều chuộng Giả Xá để được yên thân, và tham vớ được nhiều tiền là thích, còn việc lớn nhỏ trong nhà đều mặc Giả Xá sắp đặt. Những khoản chi thu nào vào tay bà ta, thì tìm cách bớt xén thậm tệ. Bà ta thường lấy cớ Giả Xá hay hoang phí, ta phải tằn tiện, mới có thể bù vào. Trong bọn con gái, người hầu, không tin ai và cũng chẳng nghe ai. Phượng Thư biết bà ta lại giở tính, dù can ngăn cũng chẳng được nào, liền cười nói:

- Mẹ nói rất phải. Con hãy còn dại, chưa biết đắn đo. Con nghĩ rằng đã xin trước cha mẹ, thì không những một con a hoàn, dù người ngọc đi nữa cụ chả cho cha con còn cho ai? Những lời nói vắng mặt, tin làm sao được? Con thực là ngu ngốc! Ngay như cha con, khi có điều gì không phải, cha mẹ giận, muốn lôi ngay đến đánh chết, nhưng khi thấy mặt là xong hết, rồi lại lấy những vật quý đem ra cho. Cứ ý con, hôm nay cụ đang vui, mẹ đến xin ngay đi. Con hãy đến trước chuyện trò cho cụ vui, khi mẹ đến con sẽ kiếm cách đem tất cả người hầu trong nhà lảng ra một chỗ. Khi ấy mẹ tha hồ nói với người, nếu người cho càng hay, không cũng chẳng sao, chả ai biết cả.

Hình phu nhân thấy Phượng Thư nói thế, liền vui vẻ bảo:

- Ta định không nên thưa với cụ vội, nếu nói trước, người không nghe sẽ hỏng mất việc. Ta nghĩ nên bảo khẽ Uyên Ương trước đã. Dù nó xấu hổ, ta sẽ nhỏ to bảo nó rạch ròi, nó không nói gì tức là yên chuyện. Bấy giờ ta mới trình cụ, dù người không bằng lòng cũng không thể ngăn cấm được ý muốn của nó. Người ta thường nói "người đã định không nên giữ lại, như vậy mới là ổn thỏa".

Phượng Thư cười nói:

- Mẹ nhiều mưu trí thực, thế là êm thấm vạn phần. Đừng nói là con Uyên Ương, dù ai đi nữa, cũng chẳng muốn trèo cao trông lên, để mong được mở mày mở mặt hay sao? Nó bỏ danh giá nửa bà chủ không làm, đâm đầu đi làm a hoàn, sau này lấy một thằng ranh con, thế là xong đời.

Hình phu nhân cười nói:

- Nói thế phải đấy. Không cứ con Uyên Ương, ngay cả đến những a hoàn lớn coi việc, ai mà chẳng thích được như thế? Giờ chị hãy sang trước đi, chớ để lộ chuyện đấy, ta ăn cơm xong sẽ sang ngay.

Phượng Thư nghĩ thầm: "Con Uyên Ương thực đáng ghét. Nhưng chắc đâu nó bằng lòng? Nếu mình sang trước, nó bằng lòng ra thì không có chuyện gì, nếu không bằng lòng, mẹ ta là người đa nghi, lại ngờ ta nói lộ chuyện, để cho nó làm bộ. Bấy giờ mẹ ta thấy đúng như lời ta nói, đâm xấu hổ, đem ta ra giày vò cho hả giận, như thế không hay. Chi bằng ta cùng đến với mẹ ta, dù nó bằng lòng hay không, chắc mẹ chẳng ngờ đến ta". Liền cười nói:

- Lúc nãy con vừa về đến nhà, bên nhà mợ con mang cho hai lồng gà gô, con đã bảo chúng nó quay rồi, định đến bữa cơm chiều đưa sang biếu mẹ. Khi mới đến cửa ngoài, thấy bọn hầu nhỏ kéo xe đi, nói: "Xe của mẹ bật mui, phải đem đi sửa". Chi bằng bây giờ mẹ ngồi xe của con cùng đến thì hơn.

Hình phu nhân nghe nói, liền gọi người đến lấy quần áo thay, Phượng Thư vội vàng hầu hạ một lúc, rồi hai mẹ con cùng ngồi xe đi, Phượng Thư lại nói:

- Mẹ đến đằng cụ, nếu con cùng đi, người hỏi đến làm gì sẽ không tiện; vậy mẹ đến trước, con về thay quần áo rồi sẽ sang sau.

Hình phu nhân nghe nói có lý, liền một mình đến chỗ Giả mẫu, chuyện phiếm một lúc rồi ra, nói vờ là sang nhà Vương phu nhân. Theo lối cửa sau tìm đến buồng Uyên Ương, thì thấy nó đang ngồi thêu. Thấy Hình phu nhân đến, Uyên Ương đứng dậy. Hình phu nhân cười hỏi:

- Cô làm gì thế?

Vừa hỏi vừa cầm lấy bức thêu ở tay Uyên Ương ra xem, rồi nói:

- Ta xem hoa của cô thêu nào.

Ngắm một lúc rồi nói: "Đẹp lắm". Liền bỏ bức thêu xuống, ngắm nghía suốt người Uyên Ương, thấy nó mặc áo lụa màu hoa sen rung rúc, đeo cái khoác vai bằng nhiễu xanh, mặc quần màu nước biển, thắt đáy lưng ong, mặt trái xoan, tóc đen láy, mũi dọc dừa, hai má có mấy nốt rỗ nhỏ.

Uyên Ương thấy Hình phu nhân nhìn mình, đâm ra ngượng, trong bụng lấy làm lạ, cười hỏi:

- Thưa bà, bây giờ giữa chừng giữa buổi, bà sang có việc gì?

Hình phu nhân đưa mắt, bọn người hầu lui ra ngoài. Hình phu nhân ngồi xuống, cầm lấy tay Uyên ương cười nói:

- Ta sang cốt để mừng cho cô đây.

Uyên Ương nghe nói, trong bụng đã đoán được vài ba phần, đỏ mặt cúi đầu, không nói câu gì. Hình phu nhân nói:

- Chắc cô cũng biết, ông nhà hiện giờ không có người hầu nào đáng tin cậy cả. Định bụng mua một người, nhưng lại sợ những người của bọn lái buôn đưa đến không được tử tế, nhỡ ra phải người có tật xấu gì, mua về được vài ba ngày lại đâm giở quẻ. Muốn tìm một người con gái ở ngay trong nhà, nhưng không có người nào khá cả: kẻ thì xấu người, kẻ thì xấu nết, được đằng nọ, hỏng đằng kia. Ta để ý đến nửa năm nay, chỉ có cô là hơn cả: dáng người đẹp, thạo công việc, tính nết ôn hòa, có thể tin cậy, thật là được cả người lẫn nết, ý ta muốn trình cụ lấy cô em về nhà. Cô không phải như người ở ngoài mới mua về, cứ về đến nhà là sẽ phong ngay làm dì Hai, vừa có thể diện, vừa được tôn quý. Tục ngữ nói: "người vàng lại đổi lấy vàng", ngờ đâu lại vừa mắt ông nhà như thế! Bây giờ cô về bên nhà, sẽ được thỏa lòng mong muốn cao quý xưa nay, lại bịt miệng được những kẻ vẫn không ưa cô. Cô theo tôi về trình cụ đi.

Nói xong định kéo tay Uyên Ương đi.

Uyên Ương đỏ bừng mặt lên, giật tay lại không đi. Hình phu nhân tưởng cô ta xấu hổ, liền nói:

- Việc gì mà cô phải xấu hổ? Cô không phải nói câu gì cả, chỉ theo tôi đi là được rồi.

Uyên Uơng chỉ cúi đầu không đi. Hình phu nhân thấy thế liền hỏi:

- Không lẽ cô còn không bằng lòng hay sao? Nếu quả có thế thì cô khờ dại quá. Không muốn làm bà chủ, lại muốn làm con hầu à! Vài ba năm nữa, cô đi lấy một thằng bé con, đầy tớ lại hoàn đầy tớ. Nay về với chúng tôi, chắc cô đã biết tính tôi, hiền lành, hay dung kẻ dưới, ông nhà lại đối đãi tử tế với cô. Độ chừng một năm, năm bảy tháng sinh được đứa con, thế là cô bằng vai với tôi rồi. Cô muốn sai bảo người trong nhà ai chẳng phải nghe? Danh giá bà chủ mà không chịu làm, sau này lỡ dịp có hối cũng muộn!

Uyên Ương vẫn cúi đầu, không chịu nói một câu. Hình phu nhân lại nói:

- Cô xưa nay là người nhanh nhẹn kia mà, sao bây giờ lại thẫn thờ ra thế? Có điều gì không bằng lòng cô cứ nói, tôi hứa sẽ làm cho cô được vừa ý".

Uyên Ương vẫn không nói gì. Hình phu nhân lại cười nói:

- Chắc cô còn bố mẹ ở nhà, tự mình không nói ra, sợ xấu hổ, phải chờ bố mẹ cô hỏi mới nói ra chăng? Như thế cũng đúng lý. Vậy để tôi đi hỏi, rồi bảo bố mẹ cô đến. Có điều gì cô cứ nói với bố mẹ cô cũng được.

Nói xong liền đi đến nhà Phượng Thư.

Phượng Thư đã thay quần áo xong, nhân tiện trong nhà vắng người, liền đem việc này nói cho Bình Nhi biết. Bình Nhi lắc đầu cười nói:

- Cứ ý tôi việc này chưa chắc đã ổn. Những khi vắng người, chúng tôi thường gợi chuyện, nhưng xem ý chị ta chưa chắc đã chịu. Thôi hãy cứ nói xem sao.

Phượng Thư nói:

- Bà Cả tất phải đến đây bàn việc ấy, nó bằng lòng còn khá nếu không, chỉ thêm bẽ mặt với các chị thôi, nghĩ cũng khó coi đấy. Chị đi bảo họ quay gà gô, làm thêm mấy món ăn nữa, sắp sửa bữa cơm rồi chị đi ra đâu đó, lúc nào bà ấy về hãy vào.

Bình Nhi nghe nói, truyền bảo bọn bà già, rồi đủng đỉnh đi qua bên vườn.

Uyên Ương thấy Hình phu nhân đi rồi, chắc thế nào cũng đến bàn với Phượng Thư và sẽ có người đến hỏi mình, chi bằng tránh đi một chỗ cho xong. Uyên Ương liền tìm Hổ Phách bảo:

- Cụ có hỏi tôi, chị cứ bảo tôi khó ở, sáng nay không ăn cơm, đi vào trong vườn chơi một chốc sẽ về.

Hổ Phách nhận lời. Uyên Ương qua vườn chơi, không ngờ lại gặp Bình Nhi. Bình Nhi thấy không có ai, liền cười nói:

- Bà dì mới đã đến đấy à?

Uyên Ương đỏ mặt nói:

- Không trách được chúng mày thông đồng với nhau định kế hại tao! Tao sẽ đến làm to chuyện với mụ chủ nhà mày xem!

Bình Nhi thấy Uyên Ương giận dỗi ra mặt, tự hối mình đã lỡ lời, liền kéo chị ta đến gốc cây phong, ngồi xuống hòn đá, kể rõ đầu đuôi câu chuyện Phượng Thư vừa nói. Uyên Ương đỏ mặt lên, cười nhạt, bảo Bình Nhi:

- Tôi nghĩ chị em chúng ta vẫn ăn ở tốt với nhau: như các chị Tập Nhân, Hổ Phách, Tố Vân, Tử Quyên, Thái Hà, Ngọc Xuyến, Xạ Nguyệt, Thúy Mặc, cùng chị Thúy Lũ theo hầu cô Sử, chị Khả Nhân và chị Kim Xuyến đã chết rồi, chị Phiến Tuyết đã đi rồi, kể cả chị với tôi nữa tất cả hơn mười người, từ khi còn bé, điều gì mà chẳng nói với nhau, việc gì mà chẳng bàn với nhau? Bây giờ đã lớn cả rồi, ai có thân người ấy lo,nhưng bụng tôi thì vẫn như trước: có điều gì, việc gì, tôi không giấu các chị. Câu này thì tôi nói, chị hãy để bụng, đừng nói cho mợ Hai biết: đừng nói ông ấy muốn tôi làm vợ lẽ, chứ dù bây giờ, bà ấy chết đi, ông ấy mối lái năm lần bảy lượt lấy tôi về làm vợ cả, tôi cũng chẳng nghe!

Bình Nhi muốn nói nữa, thấy đằng sau núi có tiếng cười ha hả nói:

- Thật cái con không biết thẹn! Nói không biết ngượng mồm!

Hai người nghe nói giật nảy mình, vội chạy ra sau núi tìm, thấy Tập Nhân đang cười rồi chạy đến hỏi:

- Có việc gì thế? Nói cho tôi nghe với.

Rồi ba người cùng ngồi trên hòn đá, Bình Nhi kể lại chuyện vừa rồi cho Tập Nhân nghe. Tập Nhân nói:

- Nhẽ ra chúng ta không nên nói: lão già này thực là đê tiện quá! Hễ thấy ai hơi dễ coi là lão không chịu buông tha.

Bình Nhi nói:

- Chị đã không bằng lòng, tôi xin bảo cách cho chị.

Uyên Ương hỏi: "cách gì?"

- Chị cứ nói với cụ rằng, đã cho cậu Liễn rồi, như thế ông Cả sẽ không thể đòi nữa.

Uyên Ương nhổ toẹt một cái nói:

- Mày còn nhắc đến cái của ấy làm gì? Hôm trước chủ mày chả đã nói bậy đó sao? Không ngờ bây giờ tao mới rõ.

Tập Nhân cười nói:

- Chị không bằng lòng hai người kia, theo ý tôi, chị nên nói với cụ, nhờ người bảo rằng đã cho cậu Bảo rồi, như thế ông Cả cũng sẽ dứt lòng đòi hỏi.

Uyên Ương vừa tức vừa thẹn, vừa nổi nóng, liền mắng:

- Hai con khốn nạn này! Chúng mày không được chết tử tế đâu! Người ta có việc khó xử, tưởng chúng mày là người đứng đắn, nên bàn cách giúp, chúng mày chẳng nghĩ hộ được gì, lại thay nhau đem tao ra làm trò cười Chúng mày tưởng rằng rồi đây sẽ tốt cả đấy! Sẽ làm dì Hai cả đấy? Cứ ý tao, việc ở trên đời này chưa chắc đã được như ý cả đâu. Chúng mày hãy xếp lại, vừa vừa chứ, đừng có hí hửng vội.

Hai người thấy Uyên Ương nóng lên, liền cười nói:

- Chị đừng nên ngờ vực, chúng ta từ bé đến giờ đã thân mật với nhau như chị em ruột, chẳng qua lúc vắng người, chúng tôi nói đùa để cười cho vui đấy thôi. Chị định thế nào cứ nói cho chúng tôi biết, không ngại gì đâu.

- Chả có ý định gì. Tôi cứ không đi là xong.

Bình Nhi lắc đầu nói:

- Chị không đi, chưa chắc người ta đã để cho chị yên. Tính ông Cả thế nào, chị đã biết rồi đấy. Tuy chị là người hầu bên cụ, bây giờ lão chẳng dám làm gì chị đâu, nhưng không dễ chị theo hầu cụ suốt đời? Cũng có lúc phải đi chứ. Bấy giờ mà lọt vào tay lão thì không ra gì đâu!

Uyên Ương cười nhạt:

- Cụ còn sống ngày nào tôi nhất định không rời chỗ này! Nếu người quy tiên, thế nào lão ta cũng phải để tang ba năm, không có lẽ mẹ vừa chết lại đi lấy vợ lẽ! Chờ hết ba năm, xem cơ mầu thế nào bấy giờ sẽ liệu. Nếu khi nguy cấp khó xử, tôi đành cắt tóc đi tu! Không thì chết là cùng! Suốt đời chẳng lấy chồng đã làm sao? Lại càng khỏi vướng.

Bình Nhi và Tập Nhân cười nói:

- Con bé này thật không biết thẹn, thuận miệng cứ lau láu nói ra hết cả.

- Đã đến nông nỗi này thẹn mà làm gì? Các chị không tin, sau này sẽ biết! Bà ấy nói sẽ đi tìm bố mẹ tôi. Cứ cho đến tận Nam Kinh mà tìm!

Bình Nhi nói:

- Ông bà nhà chị đều trông nhà cho chủ ở Nam Kinh không đến đây bao giờ, lâu rồi cũng sẽ tìm được. Nhưng hiện giờ có anh và chị dâu chị ở đây. Tiếc rằng chị là người sinh ra ở nhà này, chứ không như hai chúng tôi chỉ có một mình đến đây thôi.

Uyên Ương nói:

- Sinh ra ở nhà này thì đã làm sao? "Trâu không muốn uống nước cố đè sừng" liệu có được chăng? Tôi không bằng lòng chẳng lẽ giết cả bố mẹ tôi?

Đương nói thì chị dâu Uyên Ương đến. Tập Nhân nói:

- Bây giờ họ không tìm đến bố mẹ chị, chắc họ đã nói chuyện với chị dâu chị.

Uyên Ương nói:

- Con đĩ ấy chỉ chuyên làm nghề "bán rau chào khách", nghe thấy vậy làm gì mà nó chẳng chiều chuộng đi ngay.

Vừa lúc ấy người chị dâu đến nơi, cười nói:

- Cô ở đây à? Tôi đi tìm mãi không thấy. Cô lại đằng này tôi nói câu chuyện.

Bình Nhi, Tập Nhân đều mời ngồi. Người chị dâu nói:

- Các cô cứ ngồi, tôi cùng cô em nói câu chuyện riêng.

Tập Nhân và Bình Nhi giả cách không biết, đều cười nói:

- Chuyện gì mà cần thiế? Chúng tôi thử đoán xem, chờ đoán xong rồi hãy đi.

Uyên Ương nói:

- Chuyện gì đấy? Chị cứ nói đi.

Người chị dâu cười nói:

- Cô cứ lại đây tôi sẽ nói, thế nào cũng có chuyện hay.

- Có phải là việc bà ấy đã nói với chị không?

- Cô đã biết lại còn hỏi vặn gì tôi! Mau mau lại đây! Tôi nói rạch ròi cho mà nghe. Việc vui mừng to như trời ấy!

Uyên Ương nghe nói, đứng ngay dậy, nhìn thẳng vào mặt chị dâu nhổ toẹt một cái, mắng:

- Thôi hãy ngậm ngay cái mồm l... ấy lại, cút khỏi chỗ này cho rảnh. Chuyện gì hay? Chuyện con khỉ ăn gừng! Chuyện gì mừng? Chuyện ông huyện về quê!(1) Thảo nào ngày thường các người cứ thèm thuồng bọn a hoàn nhà khác được làm bà trẻ, để cả nhà cậy thế làm càn, cả nhà đều được làm bà trẻ! Thấy thế là các người nóng mắt lên, chực đẩy tôi vào lò lửa. Nếu tôi đắc thế, các người ở ngoài tha hồ ngang tàng làm bậy, tự phong cho mình là ông cậu. Nếu tôi không ra gì, gặp lúc thất thế, các người sẽ rụt cổ lại, sống chết bỏ mặc tôi.

Uyên Ương vừa nói vừa khóc. Bình Nhi, Tập Nhân tìm cách khuyên giải. Người chị dâu ngượng mặt quá, liền nói:

- Bằng lòng hay không, cô cũng nói tử tế, việc gì mà phải xỉa xói nhau. Tục ngữ có câu: "Trước mặt người lùn chớ nói chuyện lùn". Cô mắng tôi, tôi không dám nói lại; nhưng hai cô này có trêu ghẹo gì cô, thế mà cô cũng nhai nhải như bà trẻ thế này, bà trẻ thế nọ, như thế có ngượng mặt cho các cô không?

Bình Nhi, Tập Nhân vội nói:

- Chị đừng nói những câu như thế. Chị ấy có nói gì đến chúng tôi đâu, chị đừng có gắp chúng tôi vào. Chị đã thấy các ông bà nào cất nhắc chúng tôi lên làm bà trẻ chưa. Vả chăng hai người chúng tôi chẳng có anh em, bố, mẹ nào ở đây để nhờ thế lực chúng tôi mà làm bậy! Chị ấy muốn mắng người nào tha hồ mà mắng, chúng tôi không việc gì phải chạnh lòng.

Uyên Ương nói:

- Nó thấy tôi mắng, đâm ra xấu hổ, không biết làm thế nào cho khỏi bẽ mặt, mới kiếm lời xúc xiểm hai chị đấy thôi. May mà hai chị là người hiểu đời. Vì tôi quá nóng, nói không biết giữ lời, nó mới nhân đó bày chuyện.

Chị dâu cụt hứng, hầm hầm bỏ đi.

Uyên Ương tức quá vẫn còn mắng theo. Bình Nhi, Tập Nhân can ngăn một lúc mới yên. Bình Nhi hỏi Tập Nhân:

- Chị núp ở đây làm gì thế? Chúng tôi không trông thấy chị.

Tập Nhân nói:

- Tôi nhân sang buồng cô Tư thăm cậu Bảo. Không ngờ chậm một chút, nghe nói cậu ấy đã về rồi. Tôi đang ngờ, sao lại không gặp? Tôi định sang bên cô Lâm tìm, lại gặp người nhà cô ấy bảo là cậu ấy không sang đấy. Tôi ngờ cậu ấy đi ra ngoài vườn. Ngay lúc đó gặp chị ở đằng kia lại. Tôi tránh ra một bên, chị không trông thấy. Sau chị Uyên Ương đến, tôi liền ở trong gốc cây chạy về phía sau núi giả, thấy hai chị đương ngồi nói chuyện. Thế mà bốn con mắt không trông thấy tôi.

Nói chưa dứt lời, chợt đằng sau có người nói:

- Bốn con mắt không trông thấy chị à? Giờ cả sáu con mắt cũng không trông thấy tôi đấy!

Ba người giật mình quay lại nhìn, té ra Bảo Ngọc.

Tập Nhân cười nói:

- Cậu ở đâu đến đây? Làm tôi tìm mãi.

- Tôi ở đằng cô Tư về, thấy chị đi đến, chắc là chị tìm tôi, nên tôi nép vào một chỗ để lừa chị. Trông thấy chị ngơ ngác đi qua, vào nhà rồi lại ra, gặp ai cũng hỏi, tôi buồn cười quá. Có ý chờ chị đến gần sẽ dọa lên một tiếng cho giật mình. Sau lại thấy chị cũng lẩn lẩn lút lút, biết là chị lại định dọa ai. Tôi ló đầu ra nhìn thấy hai chị kia, tôi liền đi vòng đến sau lưng chị. Chị đi rồi, tôi nấp vào chỗ của chị.

Bình Nhi cười nói:

- Chúng ta ra phía sau tìm xem chưa biết chừng lại vớ được một đôi nữa đấy.

Bảo Ngọc cười nói:

- Không còn ai nữa đâu.

Uyên Ương biết là Bảo Ngọc nghe hết chuyện này rồi, nên chỉ gục đầu xuống hòn đá giả cách ngủ. Bảo Ngọc lay dậy cười bảo:

- Đá này lạnh lắm, chúng ta về nhà ngủ chẳng hơn ư?

Nói xong, kéo Uyên Ương dậy, lại mời cả Bình Nhi về nhà uống nước, và cùng Tập Nhân khuyên Uyên Ương đi, Uyên Ương mới chịu đứng dậy. Bốn người cùng đến viện Di Hồng. Những câu chuyện vừa rồi, Bảo Ngọc đã nghe thấy cả, nên trong bụng cũng khó chịu thay cho Uyên Ương, cứ lặng lẽ nằm ngủ trên giường, mặc cho ba người cười nói ở nhà ngoài.

Hình phu nhân hỏi Phượng Thư về bố mẹ Uyên Ương, Phượng Thư nói:

- Bố nó tên là Kim Thái, hai vợ chồng đều trông nom nhà cửa ở Nam Kinh không hay về đây. Anh nó là Văn Tường, hiện giữ việc mua bán cho cụ. Chị dâu nó cũng trông coi việc giặt rửa ở nhà cụ.

Hình phu nhân sai người gọi vợ Kim Văn Tường đến, nói rạch ròi cho nghe. Chị ta lấy làm thích lắm, hăm hở đi tìm Uyên Ương, chắc mẩm nói một câu là xong ngay; ai ngờ bị Uyên Ương mắng cho một trận, lại bị Tập Nhân, Bình Nhi nói cho mấy câu, xấu hổ quá, về nói với Hình phu nhân:

- Chẳng ăn thua gì, tôi lại bị nó mắng cho một trận.

Vì có Phượng Thư ở đấy, chị ta không dám nói đến Bình Nhi chỉ nói:

- Tập Nhân lại hùn thêm vào, nói tôi nhiều câu chẳng ra gì, không thể kể với bà được. Bà bàn với ông đi mua đám khác vậy thôi. Chắc con ranh ấy chẳng có số tốt, mà nhà chúng tôi cũng chẳng làm gì có phúc lớn như thế.

Hình phu nhân nói:

- Việc gì đến con Tập Nhân? Sao nó lại biết được?

Rồi lại hỏi:

- Còn có ai ở đấy nữa không?

Vợ Kim Văn Tường nói:

- Còn có cô Bình nữa.

Phương Thư vội nói:

- Sao chị không lôi cổ nó về cho tôi? Tôi vừa mới đi khỏi, nó đã chạy biến rồi, về đến nhà chẳng thấy bóng vía đứa nào! Chắc nó cũng hùn thêm mấy câu chứ gì?

- Cô Bình không đứng gần đấy, tôi nhìn xa hình như cô ta, nhưng không chắc có đúng không, tôi đoán chừng đấy thôi.

Phượng Thư liền sai người:

- Mau đi gọi Bình Nhi, nói ta đã về rồi, bà cũng ở đây, bảo nó phải về ngay.

Phong Nhi liền thưa:

- Cô Lâm cho người mang giấy đến mời ba, bốn lần chị ấy mới đi. Lúc mợ vừa về đến cửa, tôi đi gọi chị ấy ngay. Nhưng cô Lâm nói: "về thưa với mợ, ta nhờ chị ấy một việc".

Phượng Thư nghe vậy mới thôi, lại cố ý nói:

- Có việc gì mà ngày nào cũng nhờ nó thế?

Hình phu nhân không làm thế nào được, ăn xong cơm chiều rồi về nói với Giả Xá, Giả Xá nghĩ một lúc, liền gọi Giả Liễn đến bảo:

- Nhà cửa ở Nam Kinh còn có nhiều người khác trông nom, chứ không phải một mình Kim Thái, phải gọi ngay nó về đây.

Giả Liễn thưa:

- Lần trước ở Nam Kinh đưa tin về nói Kim Thái bị chứng đờm, thường mê man bất tỉnh, đã cho cả tiền mua sẵn áo quan rồi. Không biết bây giờ nó còn sống hay chết. Nếu nó sống cũng chẳng biết việc gì, gọi về cũng vô ích. Còn vợ nó thì lại điếc.

Giả Xá nghe xong quát mắng:

- Đồ ngu biết gì? Mày không cút ngay đi à?

Giả Liễn sợ quá lùi ra. Một lúc lại cho gọi Kim Văn Tường đến, Giả Liễn đành đứng chờ ngoài thư phòng, không dám về, cũng không dám gặp bố.

Một lúc, Kim Văn Tường đến. Bọn hầu nhỏ dẫn hắn vào cửa thứ hai, lâu lắm mới thấy hắn ra về. Giả Liễn không dám hỏi chuyện. Một lúc sau, thấy Giả Xá ngủ rồi mới dám về nhà. Đến tối, Phượng Thư kể lại chuyện, hắn mới hiểu rõ.

Uyên Ương suốt đêm không ngủ. Đến hôm sau, người anh cô ta đến xin Giả mẫu cho cô ta về nhà chơi, Giả mẫu bằng lòng. Uyên Ương không muốn về, nhưng sợ Giả mẫu ngờ, nên đành phải đi. Người anh đem những lời của Giả Xá nói cho cô ta biết, lại hứa hẹn nào là được thể diện, được làm dì Hai, trông nom việc nhà. Uyên Ương chỉ cắn răng không bằng lòng. Người anh không biết làm thế nào, đành phải về trình Giả Xá. Giả Xá tức giận nói:

- Ta bảo cho mà biết, mày về bảo vợ mày rằng: xưa nay "chị hằng yêu tuổi trẻ" chắc nó chê ta già, có lẽ nó chỉ yêu các cậu trẻ thôi! Chắc chắn là nó đã nhắm vào Bảo Ngọc, có lẽ cả thằng Liễn nữa. Nếu nó có bụng ấy thì bảo nó hãy mau mau xếp lại. Ta muốn lấy, nó không bằng lòng, sau còn ai dám lấy nó nữa? Đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai nó tưởng cụ thương nó, sau này sẽ chính thức gả nó cho một người ở ngoài phủ này. Bảo nó nghĩ kỹ đi: dù nó lấy ai nữa, cũng khó thoát khỏi tay ta! Trừ phi nó chết đi, hay suốt đời không lấy chồng, ta mới chịu! Nếu không, bảo nó nên mau mau nghĩ lại, sẽ có nhiều điều hay đấy.

Giả Xá nói một câu, Kim Văn Tường "vâng" một câu. Giả Xá lại bảo:

- Không được nói dối ta, ngày mai ta lại bảo bà mày đến hỏi thẳng Uyên Ương. Mày nói nó không bằng lòng, sẽ không có lỗi; nếu ta hỏi nó bằng lòng thì mày liệu hồn đấy!

Kim Văn Tường vâng dạ luôn mồm. Về đến nhà, không kịp bảo vợ đi nói, hắn tự mình đến bảo thẳng Uyên Ương; Uyên Ương tức quá không trả lời được câu gì. Nghĩ một lúc, Uyên Ương nói:

- Dầu tôi bằng lòng, cũng phải mang tôi đến trình cụ đã.

Người anh và chị dâu đều cho Uyên Ương đã nghĩ lại, vui mừng khôn xiết. Người chị dâu liền dẫn Uyên Ương đến trình Giả mẫu.

Vừa gặp lúc Vương phu nhân, Tiết phu nhân và bọn chị em Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Thoa cùng mấy người đàn bà coi việc có thể diện đang nói chuyện vui ở đấy. Uyên Ương mừng lắm, kéo chị dâu vào quỳ trước mặt Giả mẫu, vừa khóc vừa kể lại những câu Hình phu nhân nói thế nào, chị dâu nói ở trong vườn thế nào, nay người anh lại nói như thế nào. "Vì cháu không bằng lòng, ông Cả bảo là cháu mê cậu Bảo Ngọc, nếu không thì cũng đợi lấy người ngoài, bảo cháu có chạy lên trời suốt đời cũng không thoát khỏi tay ông ấy. Thế nào ông ấy cũng báo thù! Lòng cháu đã lạnh tắt rồi! Cháu nói trước mặt mọi người ở đây, đừng nói là Bảo Ngọc, chứ dù "Bảo Kim", "bảo Ngân", "Bảo Thiên Vương", "Bảo Hoàng Đế" nào nữa, cháu cũng chẳng lấy, cứ ở vậy suốt đời là xong chuyện! Nếu cụ ép quá, cháu đành một nhát dao là xong đời, chứ không thể nào tuân lời được. Tốt phúc ra, cháu được chết trước cụ, nếu không may, cháu cũng đành nhất định hầu hạ đến khi cụ quy tiên, cháu sẽ không về với bố mẹ và anh em cháu đâu, hoặc tự tử, hoặc gọt đầu đi tu. Nếu bảo cháu không thực bụng, chỉ tạm thời tình cách chống đỡ, thì đã có giời đất, quỷ thần, mặt trời, mặt trăng chứng minh, sẽ bóp cháu sưng cổ nổ hầu ra mà chết!

Trước lúc Uyên Ương đến, trong tay áo đã giấu sẵn một cái kéo, nay vừa nói vừa đưa kéo lên cắt tóc. Bọn bà già, a hoàn trông thấy vội giữ lại, thì đã cắt mất một nửa nắm rồi. May tóc cô ta quá rậm, cắt vẫn không việc gì, mọi người vội vàng giúp cô ta búi lên.

Giả mẫu nghe nới, giận quá, người run cầm cập, rít giọng nói:

- Ta chỉ còn có một người trông cậy được, chúng nó lại định tìm cách cướp đi.

Nhân thấy Vương phu nhân đứng bên cạnh, liền bảo:

- Các người xưa nay đều lừa ta cả! Ngoài mặt ra vẻ hiếu thảo trong bụng lại ngấm ngầm chực hại ta. Có của gì tốt cũng đến lấy, có người nào tốt cũng đến đòi; còn có một con bé, thấy ta yêu nó, tự nhiên các người đâm tức, định xách nó đi, để rồi tha hồ mà làm hại ta.

Vương phu nhân đứng dậy, không dám nói lại một câu gì. Tiết phu nhân thấy Vương phu nhân cũng bị quở, nên không tiện khuyên giải; Lý Hoàn vừa nghe thấy những câu nói của Uyên Ương, đã dẫn chị em đi ra rồi. Thám Xuân là người biết nghĩ: biết Vương phu nhân bị mắng oan không dám nói lại; Tiết phu nhân là em ruột Vương phu nhân, không tiện cãi hộ cho chị; Bảo Thoa cũng không thể nói hộ cho dì; Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Ngọc lại càng không dám lên tiếng; chỉ còn nhờ có bọn cháu gái; nhưng Nghênh Xuân thì thực thà, Tích Xuân hãy còn bé. Vì vậy, chị ta đang đứng ngoài cửa sổ nghe ngóng, vội chạy ngay vào cười nói với Giả mẫu:

- Việc này có liên can gì đến mẹ cháu đâu? Bà nghĩ lại xem: ông anh Cả muốn lấy người trong nhà, thì em dâu biết làm sao được? Mà dù có biết cũng phải chịu thôi.

Thám Xuân chưa nói dứt lời, Giả mẫu cười nói:

- Thật ta già lẫn rồi! Bà dì đừng cười tôi nhé? Chị bà là người rất hiếu thuận, không như chị dâu cả của tôi, một tí gì cũng sợ chồng, trước mặt mẹ chồng chẳng qua cũng chỉ dựa dẫm cho xuôi chuyện thôi. Thật là tôi nói oan cho chị ấy.

Tiết phu nhân chỉ vâng dạ, rồi lại nói:

- Cụ hơi thiên vị, có lẽ cũng vì thương con dâu út hơn.

Giả mẫu nói:

- Tôi không thiên vị đâu!

Lại nói:

- Bảo Ngọc, bà mắng nhầm mẹ cháu, sao cháu không nhắc để mẹ cháu bị mắng oan?

Bảo Ngọc cười nói:

- Không có nhẽ cháu lại bênh mẹ cháu mà nói bác giai và bác gái à? Chung quy cũng có người không phải, nhưng nếu mẹ cháu không nhận thì còn đổ cho ai? Cháu nhận lỗi về cháu chắc bà cũng chẳng tin nào.

Giả mẫu cười nói:

- Thế cũng có nhẽ. Nay cháu quỳ xuống trước mặt mẹ cháu nói: Mẹ đừng bực nữa, bà đã có tuổi rồi, xin mẹ hãy nhìn Bảo Ngọc này thôi.

Bảo Ngọc chạyđến quỳ xuống định nói, Vương phu nhân vội cười kéo Bảo Ngọc dậy:

- Đứng dậy, không thể thế được, lễ nào mày lại thay bà đến xin lỗi ta à?

Bảo Ngọc nghe nói liền đứng dậy:

Giả mẫu cười nói:

- Cháu Phượng cũng chẳng nhắc gì bà!

Phượng Thư cười nói:

- Cháu chưa vạch những điều không phải của bà ra, bà đã lại quặc cả cháu vào.

Giả mẫu nghe nói, cùng mọi người cười ầm lên:

- Thế mới lạ chứ! Ta cần nghe điều nào là điều không phải?

Phượng Thư nói:

- Ai bảo bà khéo chải chuốt cho người? Chải chuốt đến nỗi nó đẹp mơn mởn lên, trách nào người ta chả thích? May cháu là dâu đấy, chứ là cháu trai, thì cháu đòi bà đã lâu rồi, không còn chờ đến bây giờ.

- Đó là điều không phải của ta à?

- Đúng là điều không phải của bà.

- Đã thế thì ta không cần nó nữa, cháu đem nó về.

- Để cháu tu hết kiếp này, đến kiếp sau được làm con trai, cháu mới cần đến nó.

- Cháu mang nó về cho thằng Liễn, để xem ông bố chồng mặt dày của cháu còn đòi nữa hay thôi!

- Cháu Liễn không xứng đáng, nó chỉ xứng đáng với cháu và Bình Nhi là hai chiếc "bánh cháy" đấy thôi.

Mọi người nghe nói cười ầm lên.

A hoàn vào trình:

- Bà Cả đã đến.

Vương phu nhân vội ra đón.

------------------------

(1). Nguyên văn truyện con cắt của vua Huy Tông đời Tống, con ngựa của Triệu Tử Ngang và truyện quan trạng lên đậu mùa đang mưng.

Hồi thứ bốn mươi bảy

Tiết Bàn đa tình bị đánh

Tương Liên sợ tội trốn đi

Vương phu nhân thấy Hình phu nhân đến, liền ra đón. Hình phu nhân chưa hiểu Giả mẫu đã biết việc Uyên Ương, định đến thăm dò tin tức. Vào đến cửa, được bọn bà già khẽ mách, Hình phu nhân mới biết. Định quay về, nhưng người trong nhà đã trông thấy; lại thấy Vương phu nhân ra đón, nên đành phải vào chào Giả mẫu. Giả mẫu không thèm bắt lời. Hình phu nhân tự nghĩ xấu hổ. Phượng Thư mượn cớ tránh đi chỗ khác. Uyên Ương tức giận về buồng. Tiết phu nhân và Vương phu nhân sợ Hình phu nhân sượng mặt, cũng dần dần lui ra. Hình phu nhân đành phải ngồi lại. Giả mẫu thấy không có ai, mới bảo:

- Ta nghe nói, chị đi làm mối cho ông nhà chị phải không? Chị cũng làn hạng có đủ "tam tòng tứ đức" đấy. Nhưng cái hiền hậu của chị thật là quá đáng. Bây giờ nhà chị, con cháu đã đầy đàn rồi, thế mà chị còn sợ ông ấy. Tại sao chị không can ngăn câu nào, cứ mặc cho ông ấy muốn giở tính gì thì giở.

Hình phu nhân đỏ bừng mặt lên, thưa:

- Con đã khuyên ngăn nhiều lần, mà không nghe. Mẹ còn lạ gì nữa? Con cũng bất đắc dĩ phải chiều đấy thôi.

Giả mẫu nói:

- Thế nó bắt chị giết người, chị cũng giết à? Chị thử nghĩ xem, em dâu chị xưa nay vốn là người thực thà, lại hay đau ốm. Nhưng có việc gì mà không qua nó. Tuy có con dâu chị giúp đỡ nhưng cứ "buông dầm cầm chèo", trăm việc đến tay. Mặc dù ta đã bớt việc cho nó nhiều rồi, nhưng cũng có khi cả hai người không nghĩ xiết, thì đã có con Uyên Ương cẩn thận, biết lo toan ít nhiều đến việc riêng của ta. Cái gì cần nó lấy ngay cho ta; cái gì đáng thêm, nó lựa dịp bảo họ thêm cho ta. Nếu không được con Uyên Ương thì các việc trong ngoài lớn nhỏ, chỉ có hai mẹ con nó, làm gì chằng có thiếu sót? Bây giờ lại còn để ta phải lo lắng, để ta ngày nào cũng tính toán đòi thứ này thứ nọ hay sao? Cả nhà này, chỉ còn một mình nó lớn tuổi, nó đã biết nết ta, hợp tính với ta, nó lại không hề mượn tiếng ta đòi bà này cho áo quần, bà nọ cho tiền bạc bao giờ. Vì thế mấy năm nay, hễ nó nói việc gì, thì từ em dâu chị, nàng dâu chị, cho chí lớn bé trong nhà, chẳng ai là không tin nó. Bởi vậy không những một mình ta nhờ cậy nó, mà cả em dâu chị, nàng dâu chị, cũng đỡ phải lo toan. Có con bé ấy, dù việc gì con dâu, cháu dâu không nghĩ xiết, ta cũng không phải thiếu thốn và cũng không có gì phải bực mình. Bây giờ lấy nó đi, các chị định cho ai đến hầu ta? Dù các chị có đem đến một người đẹp như châu báu mà không biết nói năng gì thì cũng vô ích. Ta đang định sai người đến bảo ông chồng chị muốn lấy ai, ta có tiền đây, nó lấy tám nghìn, một vạn đi mua cũng được, chứ đòi con bé này thì không xong đâu! Để nó hầu hạ ta mấy năm, cũng như chính chồng chị giữ đạo hiếu hết lòng hầu hạ ta. Nay vừa hay chị đến đây, chị sẽ đem lời ta về nói cho chồng chị biết, để cho êm chuyện.

Nói rồi, gọi người đến bảo: "Mời bà dì và các cô đến đây, đang nói chuyện vui, sao lại về cả thế?"

A hoàn vội đi tìm. Mọi người lại đều sang cả. chỉ có Tiết phu nhân bảo a hoàn:

- Ta vừa sang rồi, giờ còn sang làm gì nữa? Chị về nói là ta đã ngủ rồi.

A hoàn nói:

- Trăm lạy bà dì! Ngàn lạy bà dì! Cụ cháu đang giận đấy! Nếu bà không sang thì làm sao cho êm chuyện được. Xin được thương các cháu với! Nếu bà ngại đi, cháu xin cõng bà sang.

Tiết phu nhân cười nói:

- Đồ ranh con! Việc gì phải sợ! Chẳng qua bị mắng mấy câu thôi.

Nói xong, đành cùng a hoàn đi sang. Giả mẫu mời ngồi, rồi cười nói:

- Chúng ta đánh bài chứ! Bà đánh bài cũng vẫn còn thấp, chúng ta ngồi một chỗ đừng để con Phượng ăn gian.

Tiết phu nhân cười nói:

- Phải đấy! Xin cụ xem hộ bài cho. Chỉ có bốn bà cháu đánh thôi, hay phải thêm một vài người nữa?

Vương phu nhân cười nói:

- Bốn người thôi!

Phượng Thư nói:

- Thêm một người nữa càng vui.

Giả mẫu nói:

- Gọi con Uyên Ương đến đây, cho nó ngồi tay dưới. Mắt bà dì đã kém, cho nó trông cả bài của hai chúng ta.

Phượng Thư cười bảo Thám Xuân:

- Các cô biết chữ, sao không đi học xem bói.

Thám Xuân nói:

- Thế mới lạ chứ, bây giờ chị không cố nghiền ngẫm để kiếm mấy đồng của bà, lại nghĩ đến xem bói?

Phượng Thư nói:

- Tôi đương muốn bói xem hôm nay thua hết bao nhiêu, chứ tôi lại còn mong gì được nữa! Cô thử xem, chưa đánh bài mà hai bên đã sẵn sàng mai phục cả rồi.

Giả mẫu và Tiết phu nhân cười ầm lên.

Một lúc, Uyên Ương đến ngồi ở dưới cánh Giả mẫu. Dưới cánh Uyên Ương là Phượng Thư. Thảm đỏ giải ra, lần lượt trang bài, bắt cái. Năm người cầm bài lên đánh một lúc. Uyên Ương thấy bài của Giả mẫu đã thập thành, chỉ chờ một quân "nhị bính" thôi, liền ra hiệu cho Phượng Thư. Đến lượt đánh ra, Phượng Thư cố ý ngần ngừ một lúc, rồi nói:

- Nếu cháu đánh quân này thì đúng vào quân chờ của dì. Nếu cháu không đánh thì dì không ù được.

Tiết phu nhân nói:

- Tôi không chờ quân của chị đánh ra đâu.

- Để rồi cháu xem bài dì.

- Chị cứ việc xem bài. Thôi hãy đánh đi, xem quân gì nào?

Phượng Thư liền để ngay quân bài ra trước mặt Tiết phu nhân. Tiết phu nhân xem là quân "nhị bính", cười nói:

- Ta không cần quân này, chỉ sợ cụ ù đấy thôi!

Phượng Thư cười nói:

- Cháu đánh nhầm rồi!

Giả mẫu hạ ngay bài xuống, cười nói:

- Mày dám rút về à? Ai bảo mày đánh nhầm?

Phượng Thư nói:

- Cháu đã nói là phải bói một quẻ mới được! Tự mình đánh ra, không còn dám trách ai!

Giả mẫu cười nói:

- Thế là tự mày vả vào mồm lại còn hỏi mình xem có đúng hay không?

Lại cười bảo Tiết phu nhân:

- Không phải tôi thích được tiền, cốt để làm vui đấy thôi.

Tiết phu nhân cười nói:

- Chúng cháu ai mà chả nghĩ thế. Đâu lại có người vớ vẩn dám bảo cụ chỉ thích tiền.

Phượng Thư đang đếm tiền, nghe thấy nói thế, liền xâu tiền vào, cười bảo mọi người:

- Thế là tôi hòa vốn rồi! Bà không thích tiền, chỉ thích vui thôi. Tôi bủn xỉn thật, đánh thua là đếm tiền, thôi cất đi vậy.

Giả mẫu vẫn quen lối để Uyên Ương trang bộ bài, rồi cười nói với Tiết phu nhân. Nhưng không thấy Uyên Ương trang bài. Giả mẫu nói:

- Mày giận gì thế? Bài cũng chẳng buồn trang cho tao?

Uyên Ương cầm bài lên cười nói:

- Mợ không xỉa tiền ra cho bà?

Giả mẫu nói:

- Nó không xỉa tiền cho tao, thế là nó đếm hộ tao rồi đấy.

Liền sai a hoàn nhỏ lấy hết chuỗi tiền của Phượng Thư về. A hoàn cầm lấy chuỗi tiền, để bên cạnh Giả mẫu, Phượng Thư cười nói:

- Bà cho cháu xin lại chuỗi tiền! Cháu thua bao nhiêu bà lấy đủ số thôi, còn thừa bà trả lại cháu.

Tiết phu nhân cười nói:

- Chị Phượng này bủn xỉn thật, bà đùa đấy thôi!

Phượng Thư nghe nói, đứng dậy kéo Tiết phu nhân, quay lại trỏ vào cái hòm đựng tiền của Giả mẫu, cười nói:

- Dì xem kìa, không biết trong hòm này đã "đùa" bao nhiêu tiền của cháu rồi đấy! Chuỗi tiền này chơi chưa đầy nửa giờ, tiền ở trong hòm đã vẫy tay gọi, chờ khi nào chuỗi tiền này rơi vào hòm rồi thì chả cần đánh bài và bà cũng hết cả giận. Thế là bà lại sai cháu đi làm việc khác ngay.

Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Giữa lúc ấy Bình Nhi lại mang một chuỗi tiền đến, vì sợ không đủ đánh, Phượng Thư nói:

- Không cần phải để trước mặt ta, cứ để bên cạnh bà. Đưa cả số tiền một lúc cho gọn, không cần phải đưa hai lần, sợ số tiền ở trong hòm thêm bận việc.

Giả mẫu cười, bài ở trên tay rơi cả xuống bàn, liền đẩy Uyên Ương bảo:

- Mau đến rạch mồm nó ra coi!

Bình Nhi theo lời, đặt tiền xuống, cười một lúc mới về. Vừa đến cửa, Giả Liễn hỏi:

- Bà bây giờ ở đâu? Ông bảo ta mời về.

- Bà đứng hầu cụ lâu lắm, chẳng dám động đậy gì, cũng chỉ muốn có dịp là lẻn về thôi. Cụ tức giận mãi, may có mợ Hai pha trò một lúc mới hơi nguôi nguôi.

- Giờ ta sang hỏi cụ xem hôm mười bốn này có sang nhà Lại Đại không, để sắp kiệu sẵn. Ta đến vừa mời bà về, vừa góp vui, thế có được không?

- Cứ ý tôi, cậu không nên sang là phải, cả nhà này, ngay đến bà Hai và Bảo Ngọc cũng còn có lỗi nữa là, bây giờ cậu sang chỉ tội rước vạ vào mình mà thôi.

- Câu chuyện đã xong rồi, không lẽ lại còn kéo cả ta vào hay sao? Vả chăng việc này không liên can gì đến ta. Ông bảo ta phải đi tìm bà về. Nếu biết ta sai người khác đi, trong lúc ông đang giận, sẽ lại mượn cớ để mắng ta cho hả.

Bình Nhi thấy Giả Liễn nói có lý, cũng theo cả sang. Lên đến thềm, Giả Liễn rón rén đi, ngó đầu vào trong nhà, thấy Hình phu nhân đang đứng ở đấy. Phượng Thư trông thấy trước liền đưa mắt bảo hắn đừng vào; lại đưa mắt cho Hình phu nhân. Hình phu nhân không tiện đi ngay, liền rót một chén nước dâng Giả mẫu. Giả mẫu quay lại, Giả Liễn không kịp tránh. Giả mẫu liền hỏi:

- Ai ở ngoài kia? Trông như đứa bé con nào thò đầu vào đấy.

Phượng Thư đứng dậy nói:

- Cháu cũng thoáng nhìn thấy có bóng một người.

Vừa nói vừa đứng dậy đi ra.

Giả Liễn liền đi vào cười nói:

- Cháu đến hỏi xem hôm mười bốn này bà có đi chơi không để sắp sẵn kiệu.

Giả mẫu nói:

- Sao mày không vào ngay, lại thậm thụt ngoài ấy như con ma ấy?

- Thấy bà đang đánh bài, cháu không dám vào, gọi nhà cháu ra ngoài hỏi đấy thôi.

- Làm gì mà vội thế? Chờ khi nó về nhà, hỏi có được không? Sao trước kia không thấy mày cẩn thận như thế? Không biết mày đến đây để lắng tin hay dò xét việc gì! Cứ thập thò như ma, làm tao giật cả mình! Cái thằng đê tiện kia! Vợ mày đánh bài với tao, được lúc vắng nhà, mày hãy về mà bàn với con vợ Triệu Nhị tìm cách hại vợ mày đi!

Nói xong, mọi người cười ầm lên. Uyên Ương cười nói:

- Vợ Bão Nhị chứ! Bà lại kéo vợ Triệu Nhị vào.

Giả mẫu cười nói:

- Thế à? "Bão" hay "bội" tao nhớ thế nào được(1). Nhắc đến chuyện này làm tao thêm bực mình! Khi tao về nhà này làm chắt dâu, đến bây giờ tao cũng có chắt dâu rồi. Trước sau năm mươi tư năm, bao nhiêu việc rùng rợn quái gở đều đã qua cả, nhưng chưa từng gặp việc nào như thế! Mày còn không bước khỏi chỗ này à!

Giả Liễn không dám nói câu gì, vội chạy ra. Bình Nhi chờ ở ngoài cửa sổ, khẽ cười nói:

- Tôi đã bảo cậu không nghe, để đến nỗi sa vào lưới!

Đương nói thì Hình phu nhân cũng ra. Giả Liễn nói:

- Chỉ vì cha sinh chuyện, bây giờ trút cả tội cho mẹ con ta!

Hình phu nhân nói:

- Cái giống bất hiếu trời đánh này! Người ta chết thay cho cha còn được nữa là; mới bị mắng có mấy câu mà đã kêu ca ầm lên. Mày hãy liệu chừng! Mấy hôm nay bố mày tức giận, giờ hồn không lại bị đòn đấy!

- Thôi mẹ về đi, cha con bảo đi mời mẹ đã lâu rồi.

Nói xong Giả Liễn đưa mẹ hắn về nhà.

Hình phu nhân đem chuyện vừa rồi kể qua mấy câu, Giả Xá không còn cách gì, đâm ra xấu hổ. Từ đấy, liền cáo bệnh, không dám đến hầu Giả mẫu, chỉ sai Hình phu nhân và Giả Liễn hàng ngày đến thăm. Rồi sai người đi tìm kiếm các nơi, sau cùng, bỏ ra năm trăm lạng bạc, mua một đứa con gái mười bảy tuổi, tên là Yên Hồng đem về.

Thấm thoát đã đến ngày mười bốn. Tờ mờ sáng, vợ Lại Đại lại đến mời. Giả mẫu cao hứng, dẫn Vương phu nhân, Tiết phu nhân và chị em Bảo Ngọc đến vườn hoa nhà Lại Đại ngồi một lúc. Vườn hoa này tuy không bằng vườn Đại Quan, nhưng cũng rộng rãi ngăn nắp, rừng suối lâu đài, cũng có nhiều chỗ đẹp làm cho người ta say sưa mến cảnh. Ở bên ngoài, có Tiết Bàn, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung cùng mấy người họ gần đều đến cả. Lại Đại cũng mời mấy người quan lại đương chức và một số con nhà đại gia đến tiếp. Trong đám ấy có Liễu Tương Liên mà trước đây Tiết Bàn đã được gặp một lần, trong bụng vẫn quyến luyến không quên. Lại nghe thấy hắn thích chơi tuồng hát, và trong đó chơi toàn những vai học trò, vai nữ rất tài hoa. Tiết Bàn nhận nhầm hắn là con nhà ăn chơi, muốn kết thân với hắn, nhưng không có người đưa đón. May sao hôm đó gặp hắn, Tiết Bàn vui quá, mê tít. Bọn Giả Trân cũng hâm mộ tiếng hắn, liền mượn hơi men nói với hắn hát cho nghe hai vở. Sau lại sang ngồi bên cạnh, hỏi tẩn mẩn chuyện nọ chuyện kia.

Liễu Tương Liên nguyên là con nhà thế gia, vì học không đỗ lại gặp cha mẹ mất sớm. Hắn vốn tính hào hiệp, không câu nệ những việc vặt, lại thích chơi thương múa kiếm, rượu chè, cờ bạc, trai gái, đàn hát, cái gì cũng biết. Vì hắn trẻ tuổi xinh trai, những người không biết rõ tung tích, đều nhận nhầm là hạng phường chèo con hát. Con Lại Đại là Lại Thượng Vinh thường chơi thân với hắn, nên hôm nay cũng mời hắn đến dự tiệc. Không ngờ sau khi say rượu, người khác còn khá, chứ Tiết Bàn thì lại trở lại bệnh cũ. Vì thế, Liễu Tương Liên trong bụng không vui, định lừa dịp ra về cho xong chuyện. Không ngờ Lại Thượng Vinh đến nèo nằng mãi:

- Vừa rồi cậu Bảo dặn tôi; cậu ấy vừa vào đến cửa, tuy trông thấy anh, nhưng đông người không tiện nói chuyện, bảo tôi dặn anh, khi tan tiệc anh đừng về vội, cậu ấy có câu chuyện muốn nói với anh. Nếu anh nhất định đòi về, để tôi gọi cậu ấy ra, hai người gặp nhau đã, như thế thì không can gì đến tôi.

Nói xong, liền sai đứa hầu bé vào trong nhà bảo khẽ bà già mời cậu Bảo đến. Đứa bé vào một lát thì Bảo Ngọc đi ra. Lại Thượng Vinh cười bảo Bảo Ngọc:

- Thưa chú, tôi giao anh này cho chú, để tôi đi tiếp khách đây.

Nói xong đi ngay.

Bảo Ngọc kéo Liễu Tương Liên đến thư phòng bên cạnh hỏi chuyện:

- Lâu nay anh có đến thăm mộ Tần Chung không?

- Có đến. Hôm nọ mấy người chúng tôi đi săn, cách mộ anh ấy chỉ có vài dặm. Tôi nghĩ mùa hạ năm nay nhiều mưa, sợ mộ lở, liền lẻn đến đấy xem, thì có chỗ bị lở. Khi về nhà kiếm được mấy trăm đồng tiền, đến sáng hôm thứ ba, tôi thuê mấy người đến đắp lại tử tế rồi.

- Thảo nào. Tháng trước sen trong ao vườn Đại Quan nở hoa, tôi ngắt mười cái, sai Dính Yên đem đến viếng mộ anh ấy. Khi về tôi hỏi: trời mưa thế, mộ có bị lở không? Dính Yên nói: Không những không lở mà lại mới hơn trước. Tôi chắc là có người bạn nào đã đến sửa dọn. Tiếc rằng ngày nào tôi cũng bị giữ rịt ở nhà không được đi đâu, hơi làm việc gì người nhà cũng biết, không người này ngăn thì người khác khuyên, chỉ nói được chứ không làm được! Dù có tiền đấy, tôi cũng không được tiêu.

- Anh không cần phải để ý đến việc ấy, bên ngoài đã có tôi, chỉ cần anh có bụng nghĩ đến cậu ấy là được rồi. Tôi đã sắp sẵn một món tiền để đến ngày mồng một tháng mười sắp tới sẽ tiêu về việc thăm mộ. Anh cũng biết đấy, tôi nghèo rớt mồng tơi, trong nhà chung dành dụm được gì, hễ kiếm được đồng nào lại tiêu hết sạch. Nên nhân dịp này, tôi dành lại một món, để đến khi ấy khỏi phải chạy vạy.

- Cũng chính vì việc ấy mà tôi định sai Dính Yên đi tìm anh, nhưng anh không mấy khi ở nhà, biết anh thường nay đây mai đó, không ở chỗ nào nhất định.

- Anh không cần phải tìm tôi, tôi làm việc này chẳng qua chỉ vì hết lòng với bạn. Bây giờ tôi lại phải đi xa, có lẽ năm, ba năm tôi mới về.

Bảo Ngọc nghe nói, vội hỏi:

- Tại sao lại thế?

Liễu Tương Liên cười nhạt nói:

- Tâm sự của tôi, chờ khi đến nơi sẽ biết. Giờ xin tạm biệt.

- Không mấy khi được gặp nhau, anh nên đợi đến chiều chúng ta cùng về một thể có hơn không?

- Anh con nhà dì của anh vẫn giữ cái thói ấy, nếu tôi ngồi lại, không khỏi có chuyện, chi bằng tôi tránh đi là hơn.

Bảo Ngọc nghĩ một lúc, nói:

- Đã thế thì anh tránh hẳn đi là phải. Nhưng nếu anh quả thực định đi xa, cũng nên nói trước cho tôi biết, chứ nhất thiết đừng lẳng lặng mà đi!

Nói xong, nước mắt tràn ra.

Liễu Tương Liền nói:

- Thế nào tôi cũng phải từ biệt anh, nhưng anh đừng nói cho ai biết.

Nói xong liền đứng dậy chực đi, lại nói:

- Thôi anh vào đi, không cần phải tiễn tôi.

Vừa nói vừa ra khỏi thư phòng. Mới đi đến cửa ngoài, đã thấy Tiết Bàn đứng đấy gọi ầm lên:

- Ai cho chú Liễu đi đấy?

Liễu Tương Liên nghe hắn nói, bốc nóng lên, giận không đánh được một cái cho chết ngay. Nhưng rồi lại nghĩ, khi say rượu mà đánh người, chỉ làm ngượng mặt Lại Thượng Vinh, nên đành phải nén giận. Tiết Bàn thấy Liễu Tương Liên đi ra, mừng như được của báu, vội loạng choạng chạy theo nắm lấy cười hỏi:

- Em ơi! Đi đâu đấy?

- Đi một tí rồi về ngay.

- Em mà đi thì anh mất vui. Em thương anh với, hãy ngồi một tí đã. Có việc gì cần, em cứ giao cho anh, đừng vội vã như thế. Em có người anh này, thì muốn làm quan, phát tài, cái gì cũng dễ thôi!

Tương Liên thấy Tiết Bàn nói những câu khó chịu quá, trong lòng bực bội, nghĩ ngay một kế, liền kêu hắn ra chỗ vắng, cười nói:

- Anh thực bụng yêu em hay là nói dối em đấy?

Tiết Bàn nghe nói, trong lòng rạo rực, liếc mắt nói:

- Em ơi! Sao em lại hỏi anh câu ấy? Nếu có bụng giả dối, anh chết ngay ở đây!

- Đã thế, ở đây không tiện, anh hãy ngồi lại một chốc, rồi em đi trước, anh sẽ theo sau. Khi về nhà em, chúng ta nhất định uống rượu suốt đêm. Ở nhà em còn có hai đứa bé con rất đẹp, chưa hề tiếp khách bao giờ. Anh không cần phải mang ai đi theo, đến đấy có sẵn người hầu.

Tiết Bàn nghe nói, mừng quá tỉnh hẳn rượu, nói:

- Có thật thế không?

- Người ta thực bụng đối với anh, anh lại không tin à?

- Anh có phải thằng ngốc đâu, sao lại không tin? Nếu em đi trước, anh không biết chỗ, làm thế nào tìm được em?

- Nhà em ở ngoài cửa Bắc, anh có thể ra đó ngủ một đêm được không?

- Đã có em thì anh còn cần gì đến nhà nữa?

- Đã thế em chờ anh ở đầu cầu ngoài cửa Bắc. Chúng ta hãy vào uống rượu đã. Khi nào em đi rồi, anh hãy đi theo, như thế họ không để ý.

Tiết Bàn nhận lời.

Hai người lại vào uống rượu một lúc. Tiết Bàn không nén nổi, cứ đưa mắt nhìn Tương Liên, trong bụng càng nghĩ càng vui sướng, hết be rượu nọ đến be rượu kia, cứ tự rót uống, không cần phải ai mời. Không ngờ hơi men đã hăng lên tám chín phần. Thấy không ai để ý, Tương Liên đứng dậy đi ra ngoài cửa, bảo hầu nhỏ là Hạnh Nô:

- Mày về trước đi, tao đi ra ngoài thành đã rồi về sau.

Nói xong, cưỡi ngựa ra thẳng cửa Bắc, đến cầu chờ Tiết Bàn. Độ chừng ăn xong bữa cơm, thấy Tiết Bàn cưỡi ngựa chạy đến, phùng má trợn mắt, đầu lắc lư, hết nhìn bên nọ lại quay sang bên kia. Khi hắn đi đến trước ngựa Tương Liên, mắt cứ nhìn về đằng xa, không để ý đến xung quanh. Tương Liên vừa bật cười, vừa tức giận, liền lùi ngựa về đằng sau. Tiết Bàn đi mãi, thấy đã dần dần thưa vắng bóng người, liền quay ngựa trở lại gặp ngay Tương Liên. Hắn vui mừng như được ngọc báu, vội cười nói:

- Anh chắc em không khi nào sai hẹn.

- Đi mau lên, cẩn thận không có người ta trông thấy lại chẳng ra làm sao!

Nói xong Tương Liên tế ngựa đi trước. Tiết Bàn theo sát đằng sau.

Tương Liên thấy trước mặt vắng người, lại có một bãi sậy, liền xuống buộc ngựa vào cây, rồi cười bảo Tiết Bàn:

- Anh xuống ngựa đi, chúng ta hãy thề trước đã, nếu sau này ai thay lòng đổi dạ, nói cho người khác biết, sẽ chịu tội như lời thề.

- Em nói phải đấy.

Rồi cũng buộc ngựa vào cây, Tiết Bàn quỳ xuống thề:

- Nếu anh ngày sau thay lòng đổi dạ, nói cho người khác biết, thì trời tru đất diệt...

Nói chưa dứt lời, thấy đằng sau "choang" một tiếng như chùy sắt giáng xuống, Tiết Bàn mặt tối sầm lại, mắt nổ đom đóm, người lảo đảo, ngã lăn xuống đất. Biết hắn không chịu quen đòn, Tương Liên mới tát nhẹ mấy cái, hắn đã mặt mũi thâm tím như quả bồ quân. Tiết Bàn trước muốn chống đỡ, định đứng dậy, nhưng bị Tương Liên lấy chân đá một cái, lại ngã vật xuống. Hắn liền làu nhàu:

- Hai người đều bằng lòng cả! Nếu em không nghe thì cứ nói, việc gì lại lừa tôi đến đây để đánh tôi?

Rồi hắn mắng ầm lên. Tương Liên nói:

- Tao bảo cho thằng mù này! Mày có biết cụ Liễu là ai không? Mày không van xin, lại dám nói láo! Tao đánh chết mày cũng vô ích, chỉ đánh cho mày ốm đòn thôi.

Nói xong, lại lấy roi ngựa, đánh ba bốn chục roi vào lưng và đùi.

Tiết Bàn đã gần tỉnh rượu, đau quá không chịu nổi, kêu lên một tiếng "úi chao". Tương Liên cười nhạt nói:

- Mới có thế thôi! Tao cứ tưởng mày dạn đòn!

Vừa nói vừa kéo chân trái Tiết Bàn dìm xuống bãi sậy, bùn lấm be bét, đầy người, lại hỏi:

- Mày đã biết tay tao chưa?

Tiết Bàn không trả lời, chỉ nằm gục xuống rên hừ hừ. Tương Liên lại vất roi đi, nắm tay đấm mấy quả. Tiết Bàn kêu rối rít lên:

- Xương tôi gãy cả rồi! Tôi biết em là người đứng đắn, chỉ vì tôi nghe người ta đồn nhầm đấy thôi!

- Không được kéo người ta vào. Mày chỉ được nói chuyện hiện giờ thôi.

- Hiện giờ tôi không có gì đáng nói cả? Chẳng qua em là người đứng đắn, tôi trót nhầm đấy thôi!

- Phải nói nhũn nữa, tao mới tha cho.

Tiết Bàn rén hừ hừ, nói: "Bạn ơi". - Tương Liên lại đấm cho một quả nữa. Tiết Bàn kêu lên một tiếng, rồi nói: "Ông anh ơi" - Tương Liên lại đấm luôn cho hai quả nữa. Tiết Bàn vội kêu lên "úi chao ơi", rồi nói:

- Ông ơi! ông tha cho con là thằng mù không có mắt! Từ nay trở đi, con kinh người, sợ lắm rồi.

- Mày phải uống hai ngụm nước bùn này đi!

- Nước này bẩn quá, con uống thế nào được?

Tương Liên lại giơ tay lên đấm. Tiết Bàn vội nói:

- Con xin uống... Con xin uống... -

Nói xong hắn đành phải cúi đầu xuống gốc sậy uống một ngụm, chưa kịp nuốt đã ọe ngay ra, bao nhiêu thức ăn mửa ra hết cả. Tương Liên nói:

- Mày phải ăn hết những đồ thối tha này tao mới tha cho!

Tiết Bàn lạy thì thụp nói:

- Xin ông làm phúc tha cho con, đến chết con cũng không ăn được đâu!

- Đồ thối xác này, làm bẩn lây cả đến tao!

Nói xong Tương Liên bỏ mặc Tiết Bàn ở đấy, rồi lên ngựa đi.

Tiết Bàn thấy Tương Liên đi rồi mới yên tâm, tự hối mình không nên nhận nhầm người ta. Muốn gượng đứng dậy, nhưng khắp người đau đớn không chịu được.

Bọn Giả Trân không thấy Tiết Bàn và Tương Liên ở trong tiệc, đi tìm các nơi cũng không thấy. Có người nói: "Thấy họ đi vội ra cửa Bắc rồi." Đứa hầu nhỏ của Tiết Bàn xưa nay vẫn sợ hắn, thấy hắn bảo không được theo, nó còn dám đi sao được? Giả Trân không yên tâm, sai Giả Dung dẫn bọn hầu nhỏ đi tìm; ra thẳng cửa Bắc, đi qua cầu độ hai dặm đường, chợt trông thấy ngựa của Tiết Bàn buộc ở bên bãi sậy. Mọi người đều nói: "May quá! Có ngựa tất phải có người!" Rồi cùng đến chỗ buộc ngựa, nghe trong đám sậy có người rên rỉ. Mọi người chạy đến xem, thấy quần áo Tiết Bàn rách tươm, mặt mũi sưng vù lên, khắp người ướt như lợn sề đẫm bùn.

Giả Dung đã đoán được tám chín phần, liền xuống ngựa sai người kéo hắn lên, cười nói:

- Chú Tiết ngày nào cũng giở thói lẳng lơ, hôm nay lại lẳng lơ đến bãi sậy này, chắc hẳn ông long vương yêu chú là người phong nhã, muốn vời chú đến làm phò mã, chú đã va phải sừng rồng rồi đấy!

Tiết Bàn xấu hổ quá, không thể chui ngay xuống hố được, còn mặt mũi nào trên lên ngựa nữa. Giả Dung liền sai người ra cửa ô thuê một cái kiệu nhỏ cho Tiết Bàn ngồi, rồi cùng về trong thành. Giả Dung lại muốn khiêng hắn vào dự tiệc ở nhà họ Lại, nhưng Tiết Bàn vật vã van xin đừng cho ai biết. Giả Dung mới chịu thôi. Giả Dung lại đến nhà họ Lại trình Giả Trân việc này. Giả Trân cũng biết là hắn bị Tương Liên đánh, liền cười nói:

- Cho nó như thế mới đáng kiếp!

Đến chiều về, Giả Trân đến hỏi thăm, Tiết bàn nằm ở trong nhà, cáo ốm không ra.

Giả mẫu về rồi, mọi người đâu về đấy cả. Tiết phu nhân và Bảo Thoa về, thấy Hương Lăng khóc sưng cả mắt, hỏi nó đầu đuôi rồi vội đến thăm Tiết Bàn, thấy trên mặt và mình đầy thương tích, nhưng không đến nỗi sai gân gẫy xương gì.

Tiết phu nhân vừa thương vừa giận, mắng Tiết Bàn, rồi lại mắng Tương Liên, muốn nói với Vương phu nhân sai người đi bắt hắn. Nhưng Bảo Thoa ngăn lại nói:

- Việc này không quan trọng gì, chẳng qua họ uống rượu với nhau, quá say thường hay giở mặt. Kẻ say bị đánh đau cũng là lẽ thường. Vả chăng ai còn chả biết cái anh bạo thiên nghịch địa của nhà ta. Chẳng qua chỉ tại mẹ quá thương anh ấy thôi. Muốn hả giận cũng dễ, chờ năm, ba ngày nữa anh ấy khỏi, đi ra ngoài được, bên bác Trân và cậu Liễn chưa chắc đã chịu bỏ qua việc này, nhất định sẽ đứng ra dàn xếp, mẹ sẽ bắt hắn xin lỗi anh con ở trước mặt mọi người là được rồi. Nếu mẹ coi việc này là to tát, đi nói với mọi người chỉ tỏ ra mẹ quá nuông chiều, để anh ấy gây chuyện với người ta, nay anh ấy mới bị đánh đau một lần, mẹ đã làm ầm lên, dựa thần dựa thế bà con để đè nén người ta à.

Tiết phu nhân nói:

- Con ơi! Con nghĩ phải đấy, mẹ vì một lúc tức giận đâm ra hồ đồ.

Bảo Thoa cười nói:

- Thế mới được. Anh ấy không sợ mẹ, không nghe người ta khuyên ngăn, càng ngày càng ngông cuồng; có bị vài ba lần như thế mới chừa.

Tiết Bàn nằm trên giường, chửi mắng Tương Liên luôn miệng, lại sai người hầu đến phá nhà, đánh chết hắn, rồi đi kiện. Tiết phu nhân quát ngăn bọn hầu lại, bảo:

- Tương Liên lúc say rượu ngông cuồng, bây giờ tỉnh rượu hối lại sợ tội, đã trốn đi mất rồi.

------------------------

(1). "Bão" là ôm, "bội" là cõng. Người Trung Quốc thường dùng chữ trong khi khôi hài. Việc Giả Liễn ngoại tình với vợ Bão Nhị xem ở hồi 41.

Hồi thứ bốn mươi tám

Dùng bậy chữ tình, nhầm về tình, chàng đi buôn bán

Mến yêu gái nhã, gặp cuộc nhã, nàng mải ngâm thơ

Tiết Bàn nghe thấy Tương Liên trốn đi rồi mới đỡ giận. Mấy hôm sau, hắn bớt đau, nhưng thương tích chưa lành, đành phải giả ốm ở nhà, không dám ló mặt đến thăm bè bạn.

Thấm thoát đã đến tháng mười, trong số người làm công ở các cửa hiệu, cuối năm tính tiền xong, họ muốn về nhà, nên phải sửa rượu tiễn. Trong đó có một người tên là Trương Đức Huy, từ bé vẫn làm quản lý cho hiệu cầm đồ của nhà Tiết Bàn. Gia tài hắn có đến hai, ba nghìn vàng. Năm nay hắn cũng muốn về quê, sang xuân mới đến, liền nói với Tiết Bàn:

- Năm nay giấy sắc và các loại hương khan hiếm, sang năm tất phải đắt. Ra giêng tôi sẽ cho đứa con lớn của tôi đến trông nom cửa hiệu, trước tết Đoan Ngọ, tôi tiện đường đi mua một số giấy sắc và hương bánh về bán. Trừ nộp thuế và tiêu pha, ít nhất cũng có thể được lãi gấp mấy lần.

Tiết Bàn nghe nói, nghĩ bụng: "Giờ mình bị đòn, không mặt mũi nào nhìn thấy người ngoài, muốn tránh đi ít lâu, nhưng không có chỗ, nếu ngày nào mình cũng giả cách ốm, chẳng lẽ cứ ốm mãi sao được. Vả chăng mình đã lớn rồi, vẫn văn dốt vũ dát, nói là đi buôn, nhưng cân kẹo, bàn tính không sờ đến bao giờ; thổ ngơi, phong tục, đường sá xa gần cũng chẳng biết gì cả. Chi bằng ta thu xếp ít tiền vốn, đi theo Trương Đức Huy độ một năm, lỗ lãi không cần, hãy tránh đi cho đỡ xấu hổ đã. Mặt khác, đi ra để xem phong cảnh các nơi cũng hay". Đến khi tan tiệc, hắn liền vui vẻ bảo Trương Đức Huy hãy chờ một vài ngày nữa, hắn cùng đi một thể.

Đến tối, Tiết Bàn nói việc ấy với mẹ. Tiết phu nhân nghe nói tuy cũng thích đấy, nhưng lại sợ con ra ngoài sinh sự, còn việc tiêu mất tiền vốn chỉ là điều nhỏ thôi. Vì thế không muốn cho hắn đi và nói:

- Mày thế nào cũng phải ở gần tao, tao mới yên lòng. Vả chăng cũng không cần mày phải đi buôn, không phải chờ mấy trăm bạc lãi của mày mới có mà tiêu. Mày ở nhà yên phận làm ăn, còn hơn là được mấy trăm bạc lãi.

Nhưng khi nào Tiết Bàn lại chịu nghe, liền nói:

- Ngày thường mẹ vẫn bảo con không biết việc đời, cái này không biết, cái kia không hay. Bây giờ con cố cắt đứt những việc chơi phiếm, để đi lập thân, học buôn học bán, mẹ lại không để cho con đi à! Vậy mẹ bảo con làm gì bây giờ? Con không phải là con gái, cứ giam hãm ở nhà, thì bao giờ mới khá ra được? Vả chăng Trương Đức Huy là người có tuổi, nhà ta quen ông ta từ lâu, việc gì con cũng hỏi ông ấy, thì nhầm thế nào được? Nhỡ con có sơ hở việc gì, ông ta tất phải khuyên bảo. Món hàng đắt rẻ thế nào, ông ấy thông thạo cả, cái gì con cũng hỏi ông ấy rồi mới mua, thì thuận lợi biết chừng nào! Thế mà mẹ lại không cho con đi! Mấy hôm nữa con không nói gì với nhà, cứ việc sửa soạn đi. Sang năm phát tài trở về, lúc đó mẹ mới biết tay con!

Nói xong, hắn hậm hực đi ngủ.

Tiết phu nhân liền bàn với Bảo Thoa. Bảo Thoa cười nói:

- Quả thực anh ấy muốn ra đời làm ăn đứng đắn thì cũng được đấy. Chỉ sợ ở nhà nói hay, đến khi ra ngoài lại chứng nào tật ấy, thì khó mà ngăn giữ được. Thôi mẹ chẳng hơi đâu mà lo nhiều thế. Nếu anh ấy biết sửa lỗi, thì phúc cho cả đời anh ấy; bằng không mẹ cũng chẳng còn cách nào hơn. Ta chỉ biết hết sức người thôi, còn hay dở là nhờ trời. Giờ anh ấy đã lớn rời, mẹ không cho anh ấy đi ra khỏi cửa, không cho làm việc gì, năm nay ru rú trong nhà, sang năm cũng lại thế thôi. Anh ấy đã nói, có phần danh chính ngôn thuận, thì mẹ cũng nên nghĩ kỹ, bỏ ra một nghìn hay tám trăm lạng bạc giao cho anh ấy đi thử một chuyến xem sao. Dầu sao đã có bạn buôn giúp đỡ chắc họ cũng không nỡ lừa dối anh ấy đâu. Vả lại anh ấy đi ra ngoài, bên cạnh không có ai xúi giục làm bậy, không có chỗ dựa để cậy thần cậy thế. Mỗi người ở mỗi nơi thì còn ai sợ ai nữa? Có thì ăn, hết thì nhịn, chung quanh không có người nương tựa, biết thân như thế, anh ấy sẽ đỡ sinh chuyện cũng chưa biết chừng.

Tiết phu nhân ngẫm nghĩ một lúc, nói:

- Con nói phải đấy, để cho nó đi học khôn, có tốn ít tiền cũng đáng.

Đến sáng hôm sau, Tiết phu nhân sai người mời Trương Đức Huy đến, bảo Tiết Bàn thết rượu ở ngoài thư phòng, còn mình ngồi ở sau hành lang cách cửa số, dặn đi dặn lại, nhờ Trương Đức Huy trông nom con hộ. Trương Đức Huy vâng dạ luôn mồm. Ăn cơm xong, hắn cáo từ ra về, và nói:

- Ngày mười bốn này xuất hành rất tốt, xin cậu sắp sẵn hành lý, thuê một con lừa, đến sáng hôm ấy chúng ta cùng đi.

Tiết Bàn mừng lắm, kể lại cho Tiết phu nhân nghe.

Tiết phu nhân, Bảo Thoa và Hương Lăng cùng mấy bà già sửa soạn hành lý trong mấy ngày liền, sai bõ già của Tiết Bàn, và hai người hầu đã quen việc cùng hai đứa hầu cận đi theo, tất cả là sáu người. Thuê ba cỗ xe lớn chở hành lý, lại thuê bốn con lừa đi đường trường. Tiết Bàn cưỡi con lừa lớn màu xám của nhà nuôi, lại dắt thêm một con ngựa nữa đi theo. Mọi việc xong xuôi, Tiết phu nhân và Bảo Thoa suốt đêm khuyên bảo Tiết Bàn.

Đến ngày mười ba, Tiết Bàn sang chào mợ trước, rồi đi chào những người trong nhà họ Giả. Bọn Giả Trân cũng đều chào lại, không cần kể rõ. Đến sáng ngày mười bốn, Tiết phu nhân và Bảo Thoa tiễn Tiết Bàn ra cửa ngoài, hai mẹ con nhìn hắn đi khuất rỗi mới quay về.

Khi Tiết phu nhân vào kinh, chỉ mang theo bốn năm gia đinh người nhà, vài ba bà già và lũ hầu con thôi. Bây giờ trừ những người đi theo Tiết Bàn ra, ở nhà chỉ còn có vài đứa hầu trai. Vì thế, hôm đó Tiết phu nhân đến thu dọn ngay những đồ chơi và rèm màn ở thư phòng Tiết Bàn đem về, rồi gọi vợ của hai người hầu trai đi theo Tiết Bàn cũng vào trong nhà ngủ. Lại bảo Hương Lăng: "Xếp đặt cẩn thận trong nhà, khóa cửa lại, tối đến lên ngủ với ta".

Bảo Thoa nói:

- Mẹ đã có những người này ở bên cạnh rồi, nên cho chị Lăng đến ở với con. Trong vườn vắng, đêm lại dài, đêm nào con cũng làm việc, nếu thêm được một người chẳng vui hay sao?

Tiết phu nhân cười nói:

- Phải đấy, ta quên mất, nên cho nó sang ở với con là phải. Hôm đó, ta đã bảo anh con: Văn Hạnh còn bé, nói trước quên sau, một mình Oanh Nhi hầu không xuể. Cần phải mua thêm cho con một con hầu nữa.

- Không biết lai lịch mà cứ mua người về, lỡ ra không vừa ý, tốn tiền không đáng kể, lại thêm bực mình nữa. Mẹ hãy để thong thả xem đã, biết rõ người rồi sẽ mua.

Vừa nói vừa bảo Hương Lăng thu dọn chăn đệm, hòm rương, sai một bà già và Trần Nhi mang đến Hành Vu Uyển, rồi Bảo Thoa và Hương Lăng cùng vào trong vườn.

Hương Lăng nói với Bảo Thoa:

- Tôi vẫn muốn nói với mẹ, khi cậu ấy đi rồi, tôi sẽ đến ở với cô. Nhưng lại sợ mẹ ngờ vực bảo tôi chỉ thích sang vườn để chơi đùa, không ngờ bây giờ cô lại nói cho.

Bảo Thoa cười nói:

- Tôi vẫn biết chị thích vườn này đã lâu, chỉ vì không có dịp thôi. Thỉnh thoảng đến một lần, chị lại vội vội vàng vàng, chẳng có thú gì. Vì thế, nhân dịp này, tôi xin cho chị ở lâu, chừng một năm. Tôi thì có thêm bạn, chị thì được thỏa lòng.

- Cô ơi! Nhân dịp này, cô dạy tôi làm thơ nhé!

- Chị thật là được đất Lũng lại mong đất Thục(1). Tôi khuyên chị hãy thong thả. Hôm nay mới đến, trước hết chị ra phía cửa Đông, đến chào cụ, rồi chào tất cả mọi người, nhưng không nên nói cho họ biết vì cớ làm sao mà chị lại dọn sang ở bên vườn này. Có ai hỏi, chỉ nói là tôi bảo chị sang ở với tôi cho vui. Xong rồi chị vào vườn thăm các cô.

Hương Lăng vâng lời, khi sắp đi, thấy Bình Nhi vội vàng chạy đến. Hương Lăng liền hỏi thăm. Bình Nhi cũng cười đáp lại. Bảo Thoa cười bảo Bình Nhi:

- Hôm nay tôi đem chị Hương Lăng đến ở với tôi, định sang nói với mợ chị đây.

- Sao cô lại nói câu ấy? Làm tôi không thể trả lời được.

- Như thế mới đúng nhẽ. "Nhà phải có chủ, đền phải có ông từ chứ". Tuy việc không to tát, nhưng cũng phải nói qua, để những người canh gác trong vườn biết là có thêm hai người, tiện cho họ trong khi đóng mở cửa ngõ. Chị về nói hộ, tôi khỏi phải sai người sang nữa.

Bình Nhi vâng lời, lại hỏi Hương Lăng:

- Chị đến ở đây sao không đi chào bà con hàng xóm?

Bảo Thoa cười nói:

- Tôi đang bảo chị ấy đi đấy.

Bình Nhi nói:

- Chị đừng đến nhà tôi vội, cậu Hai đương ốm nằm ở nhà đấy.

Hương Lăng vâng lời, đến chào Giả mẫu trước.

Bình Nhi thấy Hương Lăng đi rồi, liền kéo Bảo Thoa khẽ hỏi:

- Cô có nghe thấy bên nhà tôi mới xảy ra việc gì không?

- Không. Vì mấy hôm nay bận tiễn anh tôi đi, nên việc bên nhà các chị, tôi chẳng biết gì cả. Ngay các chị em mấy hôm nay tôi cũng không được gặp.

- Ông tôi vừa mới đánh cậu ấy một trận nhừ tử. Thế mà cô không biết à?

- Sáng ngày mới thoảng nghe, nhưng tôi chưa tin là thực. Tôi định sang thăm mợ chị, lại gặp chị đến. Tại sao ông lại đánh cậu ấy thế?

Bình Nhi nghiến răng nói:

- Chỉ vì lão Giả Vũ Thôn "Vũ xã"(2) nào ấy, bỗng dưng vác cái mặt vọ ở đâu lần đến. Mới nhận họ chưa đầy mười năm, nó đã sinh ra bao nhiêu chuyện rắc rối! Mùa xuân năm nay, không biết ông tôi trông thấy mấy cái quạt cũ ở đâu khi về, xem tất cả những quạt ở nhà đều không có cái nào đẹp bằng. Thế là ông tôi lập tức sai người đi tìm các nơi. Ai ngờ có một tên oan gia không sợ chết, người ta đặt đùa cho nó cái hiệu thằng "ngốc đá". Nó nghèo xác, cơm cũng không có mà ăn, nhưng trong nhà lại có đến hai mươi cái quạt. Nó chết cũng không chịu mang ra khỏi nhà. Cậu tôi nhờ người nói lót mãi mới được gặp; nói đến hai, ba lần, nó mới chịu mời đến nhà chơi và giở quạt ra cho xem qua một tí. Theo lời cậu tôi, hạng quạt ấy làm bằng loại trúc Tương phi(3) và ngọn trúc... lại đều có nét vẽ và chữ đề của người xưa. Cậu tôi về trình, ông tôi liền bảo đi mua, hết bao nhiêu tiền cũng trả cho nó. Nhưng thằng "ngốc đá" nói: "Tôi thà chết đói chết rét, chứ một nghìn lạng bạc một cái, cũng không bán". Ông tôi không biết làm thế nào, ngày nào cũng cứ mắng cậu tôi là không làm được việc gì. Cậu ấy đã hứa đưa trước cho nó năm trăm lạng bạc, sau mới lấy quạt, nhưng nó nhất định không bán, chỉ nói: "Muốn lấy quạt thì hãy giết tôi trước đã!" Cô thử nghĩ xem còn có cách gì nữa không? Ngờ đâu lão Vũ Thôn là hạng không có lương tâm, nghe thấy thế, liền bày mưu vu cho nó thiếu tiền công, bắt nó đến cửa quan, bảo: Mày thiếu tiền công, phải bán gia tài để nộp Rồi tịch thu số quạt, tính thành quan giá, mang đi! Hiện giờ thằng "ngốc đá" không biết còn sống hay chết. Ông tôi mới hỏi cậu tôi: "Sao người ta lại lấy đước về đây?" Cậu ấy chỉ nói có một câu: "Vì một việc nhỏ làm người ta khuynh gia bại sản cũng không phải là giỏi". Ông tôi nổi giận, bảo là cậu ấy đem lời chẹn họng ông tôi. Đó là việc lớn thứ nhất. Mấy ngày sau, lại có mấy việc nhỏ nữa, tôi không nhớ hết; vì thế ông tôi góp cả tội lại, đánh cậu tôi một trận. Chẳng biết đánh đấm thế nào, không đánh bằng roi, bằng vọt, bạ cái gì ông tôi đánh cái ấy, làm mặt cậu tôi bị toạc hai chỗ. Thấy nói bên bà dì có một thứ thuốc chữa khỏi vết đòn, nên đến nhờ cô tìm hộ cho tôi xin một viên.

Bảo Thoa sai Oanh Nhi lấy hai viên thuốc đưa cho Bình Nhi, rồi nói:

- Như thế tôi không sang nữa, nhờ chị về nói hộ, tôi gửi lời hỏi thăm.

Bình Nhi nhận lời rồi về.

Hương Lăng đi chào mọi người xong, về nhà ăn cơm chiều. Ăn xong, bọn Bảo Thoa đến cả đằng Giả mẫu, Hương Lăng liền sang quán Tiêu Tương. Bấy giờ Đại Ngọc đã đỡ nhiều rồi, thấy Hương Lăng vào ở trong vườn, tự nhiên cũng vui thêm. Hương Lăng cười nói:

- Em sang ở đây, lúc nào rỗi, đến nhờ cô dạy làm thơ thì phúc cho em lắm.

Đại Ngọc cười nói:

- Chị đã muốn làm thơ thì phải gọi tôi bằng thầy. Tôi không giỏi, cũng dạy nổi chị.

- Nếu thực thế, em xin gọi cô là thầy, xin cô đừng ngại.

- Làm thơ có gì khó mà phải học? Chẳng qua chỉ có khai, thừa, chuyển, hợp, trong đó thừa và chuyển đều là hai vế đối nhau, chữ bằng đối với chữ trắc, hư đối với hư, thực đối với thực. Nếu được câu hay khác thường thì bằng trắc hư thực không cần phải đối nhau cũng được.

- Thảo nào khi rảnh, em thường lấy quyền thơ cũ ra xem mấy bài, có câu đối nhau rất chỉnh, có câu lại không đối. Lại nghe người ta nói, các chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không cần, chỉ có các chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu là phải rõ ràng. Xem thơ của cổ nhân, có khi đúng như thế, có khi những chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu lại không thế. Vì vậy lúc nào em cũng lấy làm ngờ. Bây giờ cô nói, thì ra khuôn phép ấy không cần lắm, chỉ cần lời và câu văn cho mới lạ là hay thôi.

- Đúng đấy. Nhưng lời và câu văn là việc phù du, cần nhất phải đặt từ cho sát. Nếu từ sát thực thì lời và câu văn không cần điêu luyện cũng vẫn hay. Như thế gọi là: "Không nên lấy lời hại ý".

- Em chỉ thích câu thơ của Lục Phóng Ong(4), lời rất thiết thực:

Rèm mau không cuộn hơơng còn mãi,

Nghiên cổ hơi sâu mực đọng nhiều.

- Chớ nên xem loại thơ ấy. Vì chị chưa biết làm thơ, nên thấy những câu nông cạn đã thích ngay. Nếu mắc vào khuôn sáo ấy thơ sẽ không tiến được nữa. Chị hãy nghe tôi: chị thích học, ở đây tôi có toàn tập thơ Vương Ma Cật, chị hãy chịu khó nghiền ngẫm kỹ càng một trăm bài thơ ngũ ngôn của ông ta, rồi sau đọc một trăm hai mươi bài thất ngôn của Đỗ Phủ, sau nữa lại đọc độ một, hai trăm bài thất ngôn tuyệt cú của Lý Bạch. Phải lót dạ thơ của ba thi hào ấy đã, sau mới xem đến thơ của Đào Uyên Minh, Ứng Dịch, Lưu Vũ Tích, Tạ Diểu, Nguyễn Tịch, Dữu Lượng, Bão Chiếu. Chị là người thông minh nhanh nhẹn, học chừng trong một năm sẽ thành nhà thơ.

- Cô ơi, đã thế cô cho em mượn sách mang về, đến đêm em đọc mấy bài.

Đại Ngọc bảo Tử Quyên đưa tập thơ ngũ ngôn của Vương Ma Cật cho Hương Lăng và bảo:

- Chị xem những bài nào có khuyên đỏ là tôi đã chọn rồi, có bài nào học bài ấy. Nếu không hiểu nghĩa, chị sẽ hỏi cô Bảo, hoặc gặp tôi, tôi sẽ giảng cho.

Hương Lăng cầm tập thơ về Hành Vu Uyển, chẳng nhìn đến công việc gì, thắp ngay đèn đọc hết bài này đến bài khác. Bảo Thoa mấy lần giục cũng không đi ngủ. Bảo Thoa thấy Hương Lăng mài miệt quá, đành phải để tùy ý.

Một hôm, Đại Ngọc vừa rửa mặt chải đầu xong, thấy Hương Lăng cười hớn hở đem đến giả tập thơ cũ, và mượn tập thơ Đỗ Phủ. Đại Ngọc cười nói:

- Nhớ được tất cả bao nhiêu bài rồi?

- Nhưng bài có khuyên đỏ, em đọc hết cả.

- Đã lĩnh hội được ít nào chưa?

- Em đã lĩnh hội được một ít, nhưng chưa biết có đúng không. Em nói cho cô nghe nhé.

- Cần phải nhận xét bàn bạc mới tiến được. Chị hãy nói cho tôi nghe nào.

- Cứ ý em thì những chỗ hay của bài thơ, có nhiều ý tứ không thể nói ra được, nhưng ngẫm nghĩ lại rất thiết thực; có nhiều câu thơ như là vô lý, nhưng nghĩ rất có lý có tình.

- Nói thế là chị đã có ít nhiều thi tứ rồi đấy! Nhưng do đâu mà chị biết được như thế?

- Em xem bài "Ngoài cửa ải" có câu:

Bãi rộng khói đùn làn thẳng tắp;

Sông dài ác xế mặt tròn vành.

Em nghĩ khói thì "thẳng" thế nào được? Mặt trời tất nhiên là "tròn" rồi. Thế thì chữ "thẳng" như là vô lý, mà chữ "tròn" hình như rất tục. Nhưng sau gấp sách lại ngẫm nghĩ, hình như mắt trông thấy hẳn cái cảnh ấy. Muốn tìm hai chữ khác thay vào nhưng không sao tìm được. Lại còn câu:

Trắng xóa sông ngòi khi ác lặn;

Xanh lè giời đất lúc trào dâng.

Hai chữ "trắng" và "xanh , mới nghe cũng hình như vô lý, nhưng nghĩ kỹ ra thì chỉ có hai chữ ấy mới hình dung hết được phong cảnh. Đọc lên thấy nặng chình chịch như miệng ngậm quả trám ấy. Lại có câu:

Mặt trời rớt lại rơi đầu bến;

Đám khói trơ ra bốc giữa làng.

Chữ "rớt" và chữ "trơ" sao mà họ khéo nghĩ được như vậy. Năm trước, khi chúng em lên kinh, một hôm về chiều, thuyền đậu trên bờ, người vắng, chỉ có mấy cái cây, đằng xa có mấy nhà đang nấu cơm chiều, khói bốc lên màu xanh biếc lẫn với đám mây. Ngờ đâu đêm qua đọc đến hai câu thơ này, mắt em như lại trông thấy cảnh ấy.

Đang nói chuyện thì Bảo Ngọc và Thám Xuân đến, đều vào ngồi nghe Hương Lăng nói về thơ. Bảo Ngọc cười nói:

- Đã thế thì không cần phải xem thơ nữa. Chỗ lãnh hội không phải ở đâu xa xôi, cứ nghe nói hai câu ấy đủ biết về chị đã nắm được mấu chốt của cách làm thơ rồi.

Đại Ngọc cười nói:

- Chị bảo mấy chữ "đám khói trơ ra" là hay, nhưng chị chưa biết đó là bắt chước ý câu thơ của người trước. Tôi cho chị xem câu này, so với câu kia nhẹ nhàng và thiết thực hơn.

Nới xong, liền đưa cho Hương Lăng xem câu thơ của Đào Uyên Minh:

Tờ mờ xóm làng xa,

Trơ vơ khói trên bãi.

Hương Lăng xem rồi gật đầu khen ngợi mãi, cười nói:

- Thế thì chữ "trơ" là do ý hai chữ "trơ vơ" mà ra!

Bảo Ngọc cười to nói:

- Thế là chị đã hiểu lắm rồi, không cần phải giảng giải nữa. Nếu còn giảng giải đâm ra loãng mất. Bây giừ chị cứ làm thơ đi, nhất định là hay.

Thám Xuân cười nói:

- Ngày mai tôi viết thêm một cái thiếp, mời chị vào thi xã.

Hương Lăng nói:

- Cô ơi, sao cứ trêu chọc em thế? Chẳng qua thích thơ, em học để mà chơi đấy thôi.

Thám Xuân, Đại Ngọc đều cười nói:

- Ai chẳng chơi? Không lẽ chúng tôi mới là người biết làm thơ à? Nếu bảo chúng tôi biết làm thơ, tiếng đồn ra khỏi vườn này, có lẽ người ta cười đến vỡ bụng mất!

Bảo Ngọc nói:

- Thế là mình coi rẻ mình rồi. Hôm trước tôi ra bàn việc vẽ với các ông họa sư ở ngoài kia, họ nghe thấy chúng ta mở thi xã đều xin tôi đưa tập thơ cho họ xem. Tôi viết mấy bài đưa cho họ, ai cũng phải thán phục. Họ đã chép để mang đi khắc rồi.

Thám Xuân, Đại Ngọc hỏi:

- Có thật thế không?

- Tôi mà nói dối thì cũng như con vẹt trên cây này.

- Anh thật bậy quá! Đừng nói thơ chẳng ra thơ, mà có ra thơ chăng nữa cũng không nên mang bút tích của chúng tôi ra ngoài.

- Sợ cái gì? Nếu bút tích của những người trong khuê các trước kia không truyền ra ngoài, bây giờ biết sao được những bài thơ của họ.

Chợt thấy Tích Xuân sai Nhập Họa đến mời Bảo Ngọc. Bảo Ngọc vừa đi thì Hương Lăng lại xin đổi lấy tập thơ Đỗ Phủ, và nói với Đại Ngọc, Thám Xuân:

- Xin hai cô ra đầu bài cho em về làm thử; làm xong, nhờ hai cô chữa hộ.

Đại Ngọc nói:

- Đem qua trăng đẹp quá, tôi đang định làm một bài, nhưng chưa nghĩ xong. Chị làm đi. Hạn vần thập tứ hàn, chị muốn dùng chữ nào trong vần ấy thì dùng.

Hương Lăng mừng quá, mang tập thơ về, nghĩ một lúc, làm được hai câu. Nhưng lại tiếc thơ Đỗ Phủ, nên mải miết đọc vài bài, không thiết đến ăn uống, nằm ngồi cũng không yên. Bảo Thoa nói:

- Làm gì chị phải đeo khổ vào mình thế? Chỉ tại cái cô Tần cám dỗ chị, để tôi kể tội cho nó. Xưa nay chị vốn là ngớ ngẩn, giờ đến việc này, lại cảng ngớ ngẩn thêm.

- Cô ơi! Cô đừng làm rầy tôi nữa.

Hương Lăng vừa nói vừa đưa bài thơ mới làm cho Bảo Thoa xem. Bảo Thoa cười nói:

- Bài này không được, không phải lối làm như thế. Nhưng đừng xấu hổ, cứ mang sang cho cô Đại Ngọc, xem cô ta bảo thế nào.

Hương Lăng cầm bài thơ sang đưa cho Đại Ngọc, Đại Ngọc xem thơ thấy:

Đêm lạnh vừng trăng đừng giữa giời,

Tròn xoe trong vắt bóng chơi vơi.

Nhà thơ hứng quá trừmg đôi mắt,

Khách ẩn buồn tênh lảng một nơi.

Lầu thúy gương đâu treo xế cạnh,

Rèm châu băng những giắt bên ngoài.

Đêm nay đuốc bạc chi cần đốt,

Bức vẽ lan can đã sáng ngời.(5)

Đại Ngọc cười nói:

- Ý tứ thì có, nhưng lời không được nhã, chỉ vì chị xem thơ ít nên bị nó gò bó. Bỏ bài này đi, chị làm bài khác. Cần phải mạnh dạn mà làm.

Hương Lăng nghe nói, lẳng lặng về nhà, không buồn vào buồng, lại đến gốc cây bên bờ ao, khi thờ thẫn trên hòn đá, khi ngồi xuống vạch đất. Những người qua lại đều lấy làm lạ. Bọn Lý Hoàn, Bảo Thoa, Thám Xuân và Bảo Ngọc đều đứng ở sườn núi đằng xa nhìn mà cười. Thấy Hương Lăng lúc cau mày, lúc mỉm cười một mình, Bảo Thoa cười nói:

- Chị này nhất định điên rồi! Đêm qua chị ta lầm rầm đến tận canh năm mới ngủ. Nằm được một lúc giời sáng, đã lại thấy dậy rồi, vội vàng chải đầu sang ngay bên cô Tần. Khi về thẫn thờ một lúc, làm được một bài nhưng không hay, chắc bây giờ chị ta lại làm bài khác đấy.

Bảo Ngọc cười nói:

- Thật đúng là "đất thiêng thì người giỏi!" Trời đã sinh ra người, không bao giờ bỏ phí tính tình của người. Ngày thường chúng ta vẫn phàn nàn, tiếc cho chị ấy là người tục! Ngờ đâu bây giờ lại thế này! Mới biết trời đất rất công bằng.

Bảo Thoa cười nói:

- Anh chịu khó được như chị ấy, thì học cái gì mà chẳng thành tài?

Bảo Ngọc không trả lời. Chọt thấy Hương Lăng hớn hở chạy sang bên Đại Ngọc. Thám Xuân cười nói:

- Chúng ta đi sang đó, xem thơ của chị ta có hay không?

Liền cùng nhau đến quán Tiêu Tương, thấy Đại Ngọc đang xem và giảng giải bài thơ của Hương Lăng. Mọi người hỏi Đại Ngọc:

- Thơ làm ra sao rồi?

- Kể ra chị ta cũng đáng khen rồi đấy, nhưng vẫn chưa được. Bài thơ này lại gọt quá, còn phải làm lại.

Mọi người xem, thì thấy:

Bạc hay là nước dọi ngoài song,

Mâm ngọc nhìn xem giữa ánh hồng.

Hương đượm hoa mai màu nhạt nhạt,

Móc tan tơ liễu sợi thòng thòng.

Thềm vàng xoa phấn thừa, đâu đấy?

Giàn ngọc dây sương nhẹ phải không?

Tỉnh giấc lâu tây người vắng ngắt,

Ngoài rèm còn đấy mảnh gương trong.

Bảo Thoa cười nói:

- Không phải là vịnh trăng. Theo tứ bài này, dưới chữ trăng phải thêm chữ "sắc" nữa mới được. Chị xem đấy, câu nào cũng là vịnh "sắc trăng" cả. Nhưng thôi, xưa nay thơ vẫn là nói phiếm hết, chị cứ làm ít lâu nữa, thơ sẽ hay đấy.

Hương Lăng vẫn cho bài thơ này đã hay lắm rồi, giờ nghe nói thế, đâm ra cụt hứng, không chịu bỏ qua, lại muốn nghiền ngẫm ngay. Thấy các chị em đang cười nói, Hương Lăng ra đứng trước cây trúc dưới thềm, dốc cả tâm trí vào thơ, tai không cần nghe, mắt không cần nhìn đến nhưng sự việc ở chung quanh. Một lúc Thám Xuân đứng ở trong cửa sổ cười nói:

- Cô Lăng ơi, hãy "nhàn nhàn" một tí đã.

Hương Lăng giật mình trả lời:

- Chữ "nhàn" ở vần thập ngũ san kia, cô nhầm rồi.

Mọi người nghe nói, cười ầm lên. Bảo Thoa nói:

- Thực là con ma thơ! Chỉ tại con Tần cám dỗ chị ấy.

Đại Ngọc cười nói:

- Thánh nhân nói "dạy người không biết chán", chị ta cứ hỏi đến tôi, lẽ nào tôi lại không bảo?

Lý Hoàn cười nói:

- Chúng ta kéo chị ấy đến nhà cô Tư xem bức vẽ, để chị ấy tỉnh lại mới được.

Nói xong, đứng dậy, kéo Hương Lăng đi sang Ngẫu Hương tạ. Vào đến ổ Noãn Hương, thấy Tích Xuân đang mệt, nằm ngủ trưa trên giường, bức vẽ dựng cạnh vách, ngoài có the phủ. Mọi người gọi Tích Xuân dậy, mở the ra xem, thấy mười phần mới vẽ xong được ba. Trong bức vẽ có mấy vị mỹ nhân, Hương Lăng liền chỉ vào đó nói:

- Vị này là các cô, vị kia là cô Lâm.

Thám Xuân cười nói:

- Những người nào biết làm thơ, đều được vẽ vào bức tranh này, chị cố học thơ đi.

Mọi người cười đùa một lúc, rồi đâu lại về đấy.

Hương Lăng trong bụng lúc nào cũng nghĩ đến thơ. Buổi tối ngồi thờ thẫn ở trước đèn cho đến hết canh ba mới lên giường nằm, hai mắt cứ trừng trừng cho đến canh năm mới ngủ được một tí.

Một lúc trời sáng, Bảo Thoa trở dậy. Lắng nghe Hương Lăng đang ngủ say, nghĩ bụng: "Chị ta trằn trọc, cả đêm không biết đã làm xong thơ chưa? Bây giờ chắc mệt, ta đừng gọi vội". Bỗng thấy Hương Lăng nói mê:

- Thơ xong rồi! Lẽ nào bài này lại không hay?

Bảo Thoa nghe vậy, vừa bực mình vừa buồn cười, liền gọi Hương Lăng dậy hỏi:

- Đã xong thơ chưa? Lòng thành của chị đã thấu đến trời rồi. Khéo không thơ chẳng học nổi, lại đeo cái ốm vào người đấy!

Vừa nói vừa đi rửa mặt chải đầu, rồi cùng chị em sang bên Giả mẫu. Nguyện Hương Lăng cố chí mài miệt học làm thơ, tinh thần để cả vào đấy, ban ngày chẳng nghĩ được câu gì, chợt trong giấc mộng, lại nghĩ được cả tám câu. Rửa mặt chải đầu xong, chị ta vội vàng viết ngay ra, đem đến đình Thấm Phương, thấy Lý Hoàn cùng các chị em vừa ở bên Vương phu nhân về, Bảo Thoa nói với họ là chị ta ngủ mê cũng làm thơ. Mọi người đang cười, ngẩng đầu lên, đã thấy Hương Lăng đến rồi, liền tranh nhau xem thơ.

-----------------------

(1). Ý nói được cái nọ lại mong cái kia.

(2). Nguyên văn: Vũ thôn "phong thôn".

(3). Vợ vua Thuấn là Tương phu nhân. Khi vua Thuấn chết, bà khóc nhiều quá, nước mắt nhỏ vào cành trúc đến đâu thì có vần đến đấy, nên gọi là Tương phi trúc.

(4). Tức Lục Du, người đời Tống, làm thơ rất giỏi.

(5). Nguyên văn "Hàn", vì hạn chế của dịch, phải dịch theo vần khác.

Hồi bốn mươi chín

Cõi lưu ly mai hồng tuyết trắng;

Gái son phấn, ăn sống nuốt tanh.

Hương Lăng thấy mọi người đang cười mình, liền đi lại cười nói:

- Các cô xem bài thơ này được thì tôi còn học nữa; nếu không, tôi cũng chán chết về thơ thôi.

Nói xong đưa bài thơ cho Đại Ngọc và mọi người xem, thì thấy:

Tinh hoa đâu để giấu cho mình.

Bóng vẫn run run vẻ vẫn xinh.

Nghìn dặm chày vang khi giặt lụa,

Nửa vừng gà giục lúc dòn canh.

Sáo nghe mặt nước thu buồn ngắt,

Áo tựa bên lầu đêm vắng tanh.

Hãy hỏi mình xem này chị Nguyệt,

Khi tròn khi khuyết mãi sao đành.

Mọi người xem xong cười nói:

- Bài này không những hay mà lại có ý mới mẻ khéo léo. Mới biết tục ngữ nói "Đời không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền". Nhất định chúng tôi phải mời chị vào thi xã.

Hương Lăng nghe nói, trong bụng vẫn không tin, cho là bọn họ nói dối, lại cứ xoắn hỏi Đại Ngọc và Bảo Thoa.

Chợt bọn a hoàn và bà già vội vàng chạy đến, cười nói:

- Có các cô các mợ nào đến chơi ấy, chúng tôi không biết là ai; các cô các mợ về mà nhận bà con.

Lý Hoàn cười nói:

- Làm gì có chuyện ấy? Các người cứ nói rõ xem, bà con của ai nào?

- Hai cô em của mợ đều đến; lại có một cô nữa, nói là em của cô Tiết, còn một cậu thì nghe nói là em của cậu Tiết. Tôi đi mời bà dì đây! Mợ và các cô hãy về trước.

Nói xong họ đi thẳng. Bảo Thoa cười nói:

- Không lẽ là Tiết Khoa nhà chúng tôi và em gái nó đến chơi chăng?

Lý Hoàn cười nói:

- Có lẽ thím tôi cũng lại vào Kinh đây? Tại sao bọn họ lại cùng đi với nhau một chuyến? Chuyện này cũng lạ thật.

Mọi người sang bên Vương phu nhân, thấy chật ních cả nhà. Lại có chị dâu của Hình phu nhân đem con gái là Tụ Yên đến Kinh nhờ vả Hình phu nhân. Vừa gặp lúc anh Phượng Thư là Vương Nhân cũng vào Kinh, nên hai nhà cùng đến một lúc. Đi đến nửa đường khi thuyền đậu lại, gặp thím của Lý Hoàn đem theo hai con gái cô lớn là Lý Văn, cô nhỏ là Lý Ỷ, cũng lên Kinh. Mọi người kể chuyện, té ra đều là chỗ bà con cả. Vì thế ba nhà cùng đi một đường. Sau lại có em họ Tiết Bàn là Tiết Khoa, mang theo em gái là Tiết Bảo Cầm vào Kinh để đính hôn, vì trước đây cha hắn đã hứa gả Bảo Cầm cho con quan hàn lâm họ Mai. Nay nghe Vương Nhân vào Kinh, nên hắn đem em gái đi theo. Hôm nay mọi người cùng đến, người nào hỏi thăm vào nhà bà con người ấy.

Giả mẫu và Vương phu nhân rất đỗi vui mừng, Giả mẫu cười nói:

- Thảo nào, đêm qua ngọn đèn cứ nở hoa mãi, thì ra báo điềm cho ngày hôm nay.

Mọi người kể lể chuyện nhà, thu nhận quà bánh, rồi mời khách ở lại cơm rượu, Phượng Thư tất nhiên đã bận lại càng bận thêm. Lý Hoàn và Bảo Thoa kể lể những chuyện xa cách lâu ngày với thím và các chị em. Đại Ngọc thấy thế, trước còn vui, sau nghĩ người ta đều có bà con, chỉ mình là trơ trọi, nước mắt tự nhiên lại chảy ra. Bảo Ngọc hiểu ý, khuyên ngăn an ủi mãi mới thôi.

Bảo Ngọc vội về viện Di Hồng, cười bảo Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Tình Văn:

- Các chị không đi mà xem! Ai ngờ anh ruột chị Bảo như thế, mà em con nhà chú hình dáng đi đứng khác hẳn. Thật giống hệt em ruột chị Bảo vậy. Còn lạ hơn nữa là ngày thường các chị nói chị Bảo rất đẹp, nay hãy so với cô em chị ấy xem. Lại còn hai cô em chị Cả nữa, tôi không thể tả ra hết được! Trời ơi! Có bao nhiêu tinh hoa đúc ra được lớp người đẹp đẽ tuyệt vời như vậy! Thế mới biết tôi là "con ếch dưới giếng". Ngày thường cứ nói mấy người ở đây đẹp có một không hai, ngờ đâu không phải tìm đâu xa, chỉ ở trong vùng này cũng mỗi người mỗi vẻ. Giờ tôi lại hiểu thêm được một bậc nữa. Ngoài mấy người này ra, biết đâu chẳng có những người đẹp hơn nữa?

Bảo Ngọc nói rồi lại cười một mình.

Tập Nhân thấy Bảo Ngọc nói có ý vớ vẩn, không thèm đi xem. Bọn Tình Văn đi xem về ngặt nghẽo cười bảo Tập Nhân:

- Chị đi mà xem! Cháu gái Hình phu nhân, em gái cô Bảo, hai em gái mợ Cả, trông đều ngồn ngộn như đám hành non.

Nói chưa dứt lời, thấy Thám Xuân hớn hở tìm Bảo Ngọc nói:

- Thi xã của chúng ta có lẽ thịnh vượng đấy.

- Phải đấy. Vì chúng ta có hứng mở thi xã nên quỷ thần xui khiến những người ấy đến đây. Có điều, không hiểu họ đã biết làm thơ chưa?

-Em có hỏi, họ đều nói nhũn, nhưng xem ra có lẽ ai cũng biết cả. Nếu họ chưa biết cũng chẳng khó gì. Anh cứ xem Hương Lăng đủ biết.

Tập Nhân cười nói:

- Nghe đâu em cô Bảo đẹp lắm, cô Ba xem thấy thế nào?

- Đúng đấy. Cứ theo ý tôi, ngay chị Bảo và những người ở đây cũng không ai bằng.

Tập Nhân lấy làm lạ, cười nói:

- Lạ nhỉ! Ở đâu còn tìm người đẹp hơn thế nữa? Tôi phải đi xem mới được.

Thám Xuân nói:

- Cụ mới trông thấy Bảo Cầm đã mừng rối lên, bắt mẹ tôi phải nhận cô ấy làm con nuôi. Cụ định mang cô ấy về nuôi đấy.

Bảo Ngọc cười hỏi:

- Em nói có thực không?

- Khi nào em lại nói dối. - Lại cười nói - Giờ cụ đã có cô cháu gái đẹp ấy, chắc sẽ bỏ quên anh là cháu giai!

- Cái đó không sao, đúng lẽ ra cũng nên thương cháu gái hơn mới phải. Mai là ngày mười sáu, chúng ta nên mở thi xã đi thôi.

- Cô Lâm vừa ốm khỏi, chị Phượng cũng ốm, được người nọ lại mất người kia.

- Chị Phượng không biết làm thơ, thiếu chị ấy cũng không sao.

- Thôi hãy cố chờ mấy hôm nữa, để những người mới đến làm quen với nhau đã, chúng ta sẽ mời họ chẳng hơn ư? Hiện giờ chị Lý và chị Bảo chắc không còn bụng nào nghĩ đến chuyện làm thơ nữa. Vả chăng Tương Vân chưa đến, cô Tần mới khỏi, còn những người khác đều chưa hợp lệ. Chi bằng hãy chờ Tương Vân sang, mấy người mới đến dần dần quen thuộc nhau, cô Tần khỏi hắn, chị Lý và chị Bảo trong bụng thư thái. Hương Lăng làm thơ đã khá, bấy giờ chúng ta mới họp thi xã thực đầy đủ, như thế chẳng vui hơn ư? Nay chúng ta hãy sang bên cụ nghe ngóng xem, cô em chị Bảo nhất định ở lại nhà chúng ta rồi, còn ba cô kia nếu không ở lại, chúng ta xin với cụ cho họ ở trong vườn, như thế lại thêm được mấy người nữa, chẳng hay hay sao.

Bảo Ngọc hớn hở cười nói:

- Em nghĩ sáng suốt quá. Anh thực là hồ đồ, chỉ mừng hão một lúc, chứ không nghĩ được đến đấy.

Nói xong. hai anh em sang bên Giả Mẫu. Quả nhiên Vương phu nhân đã nhận Tiết Bảo Cầm làm con nuôi. Giả mẫu rất là vui mừng, không cho Bảo Cầm sang ở bên vườn, bắt phải ngủ ở đây với mình. Tiết Khoa thì đến ở buồng của Tiết Bàn. Giả mẫu bảo Hình phu nhân:

- Chị không cần phải mang cháu gái chị về nhà vội, cứ để nó ở trong vườn chơi mấy hôm đã. Anh và chị dâu Hình phu nhân vì nhà túng thiếu, chuyến này vào Kinh cốt để nhờ Hình phu nhân giúp đỡ cho nhà cửa và tiêu pha. Nay nghe nói thế, lẽ nào họ lại không vui lòng.

Hình phu nhân liền giao Hình Tụ Yên cho Phượng Thư. Phượng Thư nghĩ chị em trong vườn thì nhiều, tính tình mỗi người một khác, sợ Hình Tụ Yên ở riêng một nơi không tiện. Chi bằng đưa nó đến ở với Nghênh Xuân, sau này nó có điều gì không vừa lòng. Hình phu nhân có biết cũng chẳng liên lụy gì đến mình.

Từ đó trở đi, trừ khi Hình Tụ Yên về nhà không kể, nếu ở lại trong vườn Đại Quan độ một tháng trở lên, Phượng Thư cũng cấp tiền lương cho cô ta như Nghênh Xuân. Phượng Thư thấy Tụ Yên tâm tính ôn hòa, đáng mến, không giống như Hình phu nhân và cha mẹ nó, lại nhà nghèo vất vả, nên thương nó hơn các chị em khác. Hình phu nhân thì chẳng để ý gì đến.

Giả mẫu và Vương phu nhân vẫn mến Lý Hoàn là người hiền lành, góa chồng từ trẻ, mà vẫn giữ được tiết. Nay thấy bà thím của Lý Hoàn đến, liền không cho ra ở ngoài. Tuy bà thím không bằng lòng, nhưng vì Giả mẫu nhất định giữ lại nên đành phải mang Lý Văn, Lý Ỷ vào ở trong Đạo Hương thôn.

Công việc xếp đặt xong. Chợt Trung Tĩnh hầu là Sử Đỉnh phải đổi ra làm quan ở tỉnh ngoài, sắp sửa mang gia quyến đi nhậm chức. Giả mẫu không rời được Tương Vân, liền đem cô ta sang bên này và bảo Phượng Thư sắp đặt một chỗ cho ở. Sử Tương Vân xin đến ở với Bảo Thoa.

Bấy giờ trong vườn Đại Quan lại nhộn nhịp hơn trước: Lý Hoàn là đầu, còn nữa là Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, Bảo Thoa, Đại Ngọc, Tương Vân, Lý Văn, Lý Ỷ, Bảo Cầm, Hình Tụ Yên, lại thêm Phượng Thư và Bảo Ngọc, tất cả mười ba người. Kể tuổi ra, Lý Hoàn lớn hơn, Phượng Thư thứ hai. Còn mấy người kia chỉ chừng mười lăm, mười sáu, mười bảy tuổi, hoặc cùng năm khác tháng, hoặc cùng ngày khác giờ, ngay bọn họ cũng không thể nhớ rõ ai là lớn, ai là bé được, thành ra bốn tiếng "chị", "em", "anh", "em", muốn gọi thế nào thì gọi.

Hương Lăng đang hăm hở thích làm thơ nhưng không dám quấy rầy Bảo Thoa. May sao có Sử Tương Vân đến, Tương Vân rất thích nói chuyện, tránh sao Hương Lăng chả lại nhờ chỉ bảo cách làm thơ? Tương Vân thấy vậy càng cao hứng, suốt ngày đêm trò chuyện huyên thiên. Bảo Thoa cười nói:

- Điếc tai quá, không thể chịu được. Chúng mình là gái lại thích thơ, coi việc làm thơ là chính, như vậy chỉ tổ làm cho bọn có học cười thôi, họ lại cho là mình không biết yên phận. Một mình Hương Lăng đang làm nhộn nhà rồi, lại thêm cái lưỡi gầu dai của cô nữa, luôn mồm luôn miệng nào là thơ của Đỗ Công Bộ(1) uất ức âm thầm; thơ của Vi Tô Châu(2) thanh đạm tao nhã; thơ của Ôn Bát Soa(3) đẹp nhời; thơ của Lý Nghĩa Sơn(4) kín đáo sắc sảo. Cô bỏ hai nhà thơ hiện đại không nói, lại cứ nhắc đến những nhà thơ trước làm gì?

Tương Vân nghe xong cười hỏi:

- Hai nhà thơ hiện đại là ai?

Bảo Thoa cười nói:

- Nỗi lòng chật vật của Hương Lăng ngốc và lời nói ba hoa của Tương Vân điên.

Hương Lăng và Tương Vân nghe vậy đều cười ầm lên.

Chợt Bảo Cầm khoác áo đi mưa vàng xanh lấp lánh, không biết làm bằng thứ gì, từ ngoài đi vào. Bảo Thoa hỏi:

- Cái áo này em lấy ở đâu đấy?

- Vì trời xuống tuyết, cụ tìm cái này cho em đấy.

Hương Lăng đứng lên xem, nói:

- Thảo nào, trông đẹp quá, dệt bằng lông công đấy.

Tương Vân cười nói:

- Có phải lông công đâu? Là lông mào vịt trời đấy. Thế mới biết cụ thương cô thực. Người thương Bảo Ngọc đến thế cũng không cho anh ấy.

Bảo Thoa cười nói:

- Tục ngữ nói rất đúng: "Mỗi người có một số phận riêng". Tôi không ngờ nó đến đây, lại được cụ thương như thế.

Tương Vân nói:

- Cô ở bên nhà cụ, hoặc sang bên vườn, nơi nào cũng tha hồ chơi đùa ăn uống. Còn khi đến nhà bà Hai, người ở nhà, cô có thể ngồi lâu nói cười không sao, nếu người đi vắng, cô đừng nên vào. Vì ở đấy họ đều xấu bụng, chỉ muốn trêu chọc chúng ta thôi.

Bảo Thoa, Bảo Cầm, Hương Lăng, Oanh Nhi nghe vậy đều bật cười. Bảo Thoa nói:

- Cứ tưởng chị là người vô tâm, mà hóa ra con người hay để ý. Thực ra chị có để ý đấy, nhưng có gì lại nói tuột ra. Em Cầm nhà tôi cũng giống chị. Trước đây, chị muốn nhận tôi làm chị, bây giờ tôi bảo chị nên nhận nó là em đi.

Tương Vân lại nhìn Bảo Cầm cười nói:

- Chỉ có cô ấy mới đáng mặc cái áo này, chứ người khác thì không xứng.

Lúc đó Hổ Phách chạy đến cười nói:

- Cụ bảo: Cô Cầm hãy còn bé, cô Bảo không được thằng thúc cô ấy quá. Cô ấy thích cái gì. muốn cái gì cũng nên chiều, đừng xét nét lắm.

Bảo Thoa vội đứng dậy vâng lời, lại đẩy Bảo Cầm cười nói:

- Phúc em đấy! Thôi về đi, kẻo lại bảo là chị quấy rầy em. Thật không ngờ chị lại không bằng em.

Đương nói thì Bảo Ngọc, Đại Ngọc đến. Bảo Thoa vẫn còn cười đùa. Tương Vân cười nói:

- Chị Bảo ơi, tuy chị nói đùa, nhưng biết đâu có người lại thật lòng nghĩ như thế đấy.

Hổ Phách cười nói:

- Kể ra cũng chẳng ai bực tức đâu. có chăng chỉ người này thôi.

Miệng nói tay chỉ vào Bảo Ngọc. Bảo Thoa, Tương Vân đều cười nói:

- Anh ấy không phải là người như thế đâu.

Hổ Phách lại cười nói:

- Không phải cậu đấy thì là cô này.

Vừa nói, vừa chỉ vào Đại Ngọc. Tương Vân không nói gì, Bảo Thoa cười nói:

- Cũng không đúng nữa. Em tôi cũng như em cô ấy, có lẽ cô ấy lại vui thích hơn tôi nữa kia, việc gì mà bực tức. Chị nghe chị Vân nói nhảm, chẳng có gì đứng đắn cả.

Bảo Ngọc xưa nay biết rõ Đại Ngọc có tính hẹp hòi, nhưng chưa biết câu chuyện giữa Đại Ngọc và Bảo Thoa. Nay thấy Giả mẫu thương Bao Cầm quá, Bảo Ngọc sợ Đại Ngọc trong bụng khó chịu, giờ thấy Tương Vân nhắc đến, Bảo Thoa lại đưa thêm, nhưng nét mặt Đại Ngọc không có gì thay đổi, lại hùa theo với Bảo Thoa, nên Bảo Ngọc trong bụng không hiểu ra sao, liền nghĩ: "Xưa nay hai người này không như thế bao giờ, nay xem ra lại thấy họ đối xử với nhau tốt hơn người khác nhiều". Một chốc lại thấy Đại Ngọc gọi Bảo Cầm là em, chứ không gọi đến tên họ, coi như chị em ruột vậy. Bảo Cầm lại trẻ người hăng hái, thông minh nhanh nhẹn, từ bé đi học, nay đến phủ Giả mới vài ngày, đã quen biết hầu hết mọi người, thấy đám chị em không phải là bọn gái khinh bạc, đối xử tử tế với chị mình, nên không dám khinh nhờn ai. Cô ta lại rất kính mến Lâm Đại Ngọc là người xuất sắc nhất. Bảo Ngọc thấy vậy, trong bụng càng lấy làm lạ.

Sau khi chị em Báo Thoa đến nhà Tiết phu nhân. Tương Vân về nhà Giả mẫu. Đại Ngọc về buồng nghỉ. Bảo Ngọc liền đến tìm Đại Ngọc, cười nói:

- Trước anh xem Tây Sương ký có mấy câu rõ nghĩac anh thường nói để mà cười, em lại sinh ra tức giận. Bây giờ nghĩ lại còn có một câu không hiểu, anh đọc ra đây, em giảng cho anh nghe nhé.

Đại Ngọc nghe nói, biết Bảo Ngọc lại có ý tứ gì đây, liền cười nói:

- Anh cứ đọc cho em nghe đi.

- Trong khúc "Náo giản" có một câu rất hay: "Tự bao giờ Mạnh Quang đỡ án trước Lương Hồng?"(5) Câu này chẳng qua là điển có sẵn, nhưng ba chữ "tự bao giờ" ý hỏi rất thú vị. Vậy thì họ đỡ án tự bao giờ? Em nói cho anh nghe.

Đại Ngọc nghe xong. cười nói:

- Nguyên câu hỏi ấy là hay. Họ hỏi cũng hay, nay anh hỏi lại càng hay.

- Trước kia em cứ ngờ anh, bây giờ chắc em không ngờ nữa.

- Ngờ đâu chị Bảo thực là người tốt, trước em vẫn cứ cho chị ta là hạng ác ngầm.

Rồi Đại Ngọc đem việc nói nhầm tửu lệnh, Bảo Thoa dặn bảo thế nào, khi có bệnh, Bảo Thoa đến chuyện trò và cho yến sào ra sao, kể hết cho Bảo Ngọc nghe. Bảo Ngọc mới biết rõ đầu đuôi, liền cười nói:

- Đã biết mà, anh đang băn khoăn về việc "Tự bao giờ Mạnh Quang đỡ án trước Lương Hồng" thì ra đỡ từ lúc "Đồ trẻ con nói chẳng nể lời"(6) ấy.

Nhân câu chuyện Bảo Cầm, Đại Ngọc nghĩ ngay mình không có chị em, nên lại không cầm được nước mắt. Bảo Ngọc vội vàng khuyên:

- Thật là em chuốc lấy phiền não vào người. Em thử nhìn xem, năm nay lại gầy hơn năm ngoái đấy. Thế mà không biết giữ gìn, hàng ngày bỗng dưng vô cớ, em cứ phải khóc được một lúc mới coi như xong việc một ngày.

Đại Ngọc gạt nước mắt nói:

- Gần đây em cảm thấy trong lòng chua xót, nước mắt ít hơn năm ngoái. Lòng càng đau xót, thì nước mắt lại càng ít đi!

- Vì em khóc quen rồi, nên ngờ thế thôi, chứ nước mắt có bao giờ ít đi.

Đương nói chuyện, một a hoàn đưa cái áo khoác da vượn đến, nói:

- Mợ Cả vừa cho người đến bảo: "Giờ đã có tuyết, muốn bàn ngày mai mời mọi người đến làm thơ đấy."

Bỗng cả a hoàn của Lý Hoàn đến mời Đại Ngọc. Bảo Ngọc liền rủ Đại Ngọc cùng đến Đạo Hương thôn. Đại Ngọc thay đôi giày da dê thêu hoa nạm kim tuyến, khoác một cái áo da cáo trắng, ngoài bằng lông chim màu đỏ, thắt một cái dây lưng như ý xanh vàng lấp lánh, đầu đội mũ che tuyết. Hai người giẫm tuyết cùng đến, đã thấy bọn chị em ở cả đấy rồi. Người nào cũng mang áo khoác màu đỏ, bằng lông chim, riêng Lý Hoàn mặc một cái áo nỉ rộng, Tiết Bảo Thoa mặc một cái áo gấm thêu hoa. Hình Tụ Yên vẫn mặc áo thường, không có áo đi mưa.

Một lúc, Tương Vân đến, khoác một cái áo của Giả mẫu cho, bên ngoài bằng da con rái cá, bên trong bằng da chuột đen, đầu trùm một cái khăn kiểu Chiêu Quân dệt bằng da vượn màu đỏ giát vàng, lại quấn một cái khăn quàng cổ, bằng da rái cá. Đại Ngọc cười nói:

- Các chị xem kìa, Tôn Hành Giả đến đây rồi. Cũng một thứ áo che tuyết, mà nó cố ý làm ra vẻ tao nhã lắm đấy.

Tương Vân cười nói:

- Các chị xem bên trong tôi mặc đây này.

Vừa nói vừa cởi áo ngoài ra, thấy bên trong mặc một cái áo ngắn kín vạt bằng da chuột bạch đã hơi rung rúc, cổ áo giát vàng, tay áo hơi hẹp, thêu rồng bằng chỉ ngũ sắc, mặc cái quần đoạn thủy hồng lót bằng da cáo, lưng thắt một cái dây dài năm màu tết hình con bướm, chân đi đôi giày da hươu. Trông người càng tỏ ra thướt tha uốn éo, như lưng ong mình vượn, dáng hạc hình ve. Mọi người cười nói:

- Cô ấy thích mặc kiểu cậu bé, vì kiểu ấy trông sắc sảo lanh lợi hơn là kiểu cô bé.

Tương Vân cười nói:

- Hãy bàn việc làm thơ đi! Cho tôi biết ai là chủ đây?

Lý Hoàn nói:

- Theo ý tôi, hôm qua là ngày chính đã qua, nếu lại chờ đến ngày chính nữa, sợ lâu quá. Nay lại có tuyết, chi bằng chúng ta họp nhau đầy đủ, vừa để mừng khách mới đến, vừa để làm thơ. Chị em nghĩ thế nào?

Bảo Ngọc nói ngay:

- Chị nói rất phải nhưng hôm nay đã muộn, ngày mai lỡ không có tuyết thì còn thú gì.

Mọi người đều nói:

- Mai chắc chưa tạnh, có tạnh nữa thì trong đêm nay tuyết còn xuống cũng đủ thưởng rồi.

Lý Hoàn nói:

- Họp ở đây cũng được, nhưng ra Lư Tuyết am tốt hơn. Tôi đã sai người đào lò sưởi rồi, chúng ta sẽ đến đấy sưởi lò làm thơ. Cụ chưa chắc đã thích đến. Vả chăng đây là cuộc chơi đùa của chúng tao chỉ nên cho thím Phượng biết thôi. Chị em mỗi người bỏ ra một lạng, đưa lại đây cho tôi.

Rồi trỏ Hương Lăng, Bảo Cầm, Lý Văn, Lý Ỷ, Tụ Yên nói:

- Năm người này không phải góp, trong bọn chúng ta, cô Hai ốm, cô Tư xin nghỉ, đều không kể, còn bốn phần của chị em mang lại dây, tôi bỏ thêm năm, sáu lạng là đủ.

Bọn Bảo Thoa nhận lời, rồi bàn đến việc ra đầu bài và hạn vần, Lý Hoàn cười nói:

- Tôi đã định trước rồi. Để đến ngày mai thế nào sẽ biết.

Nói xong, mọi người chuyện phiếm, một lúc, rồi sang bên Giả mẫu.

Cả đêm, Bảo Ngọc thắc thỏm không sao ngủ được. Hôm sau, trời vừa sáng, đã trở dậy mở màn ra xem thì cửa sổ còn đóng, nhưng trông sáng lóa cả mắt, trong bụng ngần ngại, thầm trách trời đã lạnh và mặt trời đã lại mọc rồi. Bảo Ngọc vội đứng dậy, mở cửa sổ, từ trong cửa kính nhìn ra, té ra không phải ánh sáng mặt trời, mà là tuyết rơi đêm qua đọng dày gần một thước, trên trời còn trắng xóa như bông. Bảo Ngọc sung sướng lắm, gọi người dậy, rửa mặt súc miệng xong, mặc cái áo bằng da cáo khổ rộng màu tím lại thêm cái áo bằng da con cắt bể, thắt lưng, ngoài khoác cái áo tơi giát ngọc, đội nón mây vàng, đi đôi guốc gỗ đường, vội vàng đến Lư Tuyết am. Nhìn ra ngoài cửa, bốn bề trắng xóa một màu, xa xa là tùng xanh trúc biếc, chẳng khác nào mình đứng trong chậu pha lê vậy. Bảo Ngọc đi đến dưới dốc núi vừa vòng qua chân núi, đã ngửi thấy mùi hương lạnh. Quay lại, am Lũng Thúy của Diệu Ngọc ngay đó có mấy chục cây hồng mai, đỏ thắm như son, chiếu xuống màn tuyết càng thêm chói lọi, trông rất đẹp mắt. Bảo Ngọc đứng lại ngắm nghía một lúc rồi mới đi. Thấy trên cầu Phong Yên có một người che dù đi đến, đó là người của Lý Hoàn sai đi mời Phượng Thư. Bảo Ngọc đến Lư Tuyết am, thấy bọn bà già a hoàn đương quét tuyết dọn đường. Am này làm dựa vào núi trông ra sông, một dãy mấy gian nhà gianh tường đất, cửa trúc giậu găng, mở cửa ra đã có thể buông câu, bốn mặt lau sậy che kín, có một lối quanh co lách qua lau sậy đi ra, đến ngay cái cầu trúc ở Ngẫu Hương tạ. Các bà già, a hoàn thấy Bảo Ngọc mặc áo tơi, đội nón đến, đều cười nói:

- Chúng tôi vừa nói chỉ thiếu có một ông câu cá thôi, giờ đủ cả rồi. Các cô ăn cơm xong mới đến, cậu vội vã quá.

Bảo Ngọc nghe nói, đành quay trở về. Đến đình Thấm Phương, thấy Thám Xuân ở Thu Sảng trai ra, khoác cái áo tơi màu đỏ, đội mũ quan âm, vịn vào vai a hoàn, đằng sau có một người đàn bà che dù lụa xanh. Bảo Ngọc biết Thám Xuân đến nhà Giả mẫu liền đứng lại chờ, rồi hai người cùng đi ra vườn. Bảo Cầm đương rửa mặt chải đầu và thay quần áo ở trong buồng.

Một lúc, chị em đến đủ cả. Bảo Ngọc kêu đói cứ đòi ăn cơm. Chờ mãi mới có cơm bưng lên, món đầu là dê bao tử hầm với sữa. Giả mẫu nói:

- Đó là vị thuốc của người già đấy. Những thứ chưa ra bóng mặt trời thì các cháu còn bé không nên ăn. Hôm nay có món thịt hươu tươi, các cháu hãy chờ mà ăn.

Mọi người vâng lời.

Bảo Ngọc không chờ được, lấy nước chè chan vào cơm, ăn với thịt gà rừng, và lấy và để cho xong bữa. Giả mẫu nói:

- Ta biết các cháu hôm nay có việc bận, nên chẳng thiết gì đến ăn.

Liền gọi:

- Để lại món thịt hươu, đến chiều cho chúng nó ăn.

Phượng Thư vội nói:

- Hãy còn nhiều, cứ ăn cho hết đi.

Tương Vân bàn với Bảo Ngọc:

- Có thịt hươu mới, chi bằng chúng ta xin một miếng mang vào vườn, rồi vừa ăn vừa chơi.

Bảo Ngọc xin Phượng Thư một miếng, sai bà già mang vào trong vườn.

Mọi người đến Lư Tuyết am để nghe Lý Hoàn ra đầu bài và hạn vần, nhưng không thấy Tương Vân và Bảo Ngọc đâu. Đại Ngọc nói:

- Hai người ấy cùng đi với nhau, sẽ sinh lắm chuyện. Nhất định bây giờ họ chỉ bàn tính cái món thịt hươu đấy thôi.

Đương nói thì thím Lý chạy đến xem và hỏi Lý Hoàn:

- Tại sao một cậu đeo ngọc, một cô đeo kỳ lân vàng, trông vẻ thanh tú, lại không phải thiếu ăn, thế mà họ đương bàn với nhau ăn thịt sống đấy. Tôi không tin, thịt sống lại ăn được à?

Mọi người đều cười:

- Khá thật! Gọi ngay hai đứa về đây!

Đại Ngọc cười nói:

- Chỉ tại cô Vân bày chuyện ra thôi. Tôi đoán không sai mà!

Lý Hoàn vội chạy đi tìm hai người, bảo:

- Hai đứa chúng bay muốn ăn thịt sống, ta đưa đến chỗ cụ cho mà ăn, chỉ sợ không ăn hết cả con hươu thôi. Sau này có sinh bệnh cũng chả việc gì đến ta. Tuyết xuống nhiều, lạnh dữ, khéo lại làm tội ta đấy!

Bảo Ngọc vội cười nói:

- Có ăn thịt sống đâu! Chúng tôi nướng rồi mới ăn đấy.

Lý Hoàn nói:

- Thế thì được.

Rồi thấy bọn bà già mang lò sắt, xiên sắt, vỉ sắt đến, Lý Hoàn nói:

- Cẩn thận đấy, lỡ đứt tay lại khóc!

Phượng Thư ở nhà đường bận việc phát tiền thưởng hàng năm, nên sai Bình Nhi đi trả lời là không đến được. Tương Vân gặp Bình Nhi, khi nào cho về ngay? Bình Nhi vốn thích chơi đùa, ngày thường ở với Phượng Thư cũng cứ chơi bừa bãi, giờ thấy thế, càng vui, liền tháo ngay vòng ở tay ra, ba người ngồi quanh lò lửa, Bình Nhi muốn nướng ba miếng ăn trước. Bảo Thoa, Đại Ngọc ngày thường đã trông quen rồi, không lấy làm lạ. Bảo Cầm và thím Lý cho là việc chưa từng có. Thám Xuân cùng Lý Hoàn đã bàn nhau ra bài hạn vần rồi. Thám Xuân cười nói:

- Các chị ngửi xem, ở đây cũng sực cả mùi thơm, tôi đi ăn đây.

Nói xong, chạy ngay đến chỗ mấy người nướng thịt. Lý Hoàn cũng theo ra nói:

- Khách đến đủ cả rồi, các người còn ăn chưa chán à?

Tương Vân vừa ăn vừa nói:

- Ăn đến món này muốn uống rượu. Có uống rượu mới ra thơ chứ. Nếu không cò món thịt hươu này, hôm nay chắc không làm được thơ.

Chợt thấy Bảo Cầm mặc báo cừu thêu đàn le, đứng đó cười. Tương Vân cười nói:

- Đồ ngốc! Lại đây mà nếm xem!

Bảo Cầm cười nói:

- Bẩn lắm!

Bảo Thoa cười nói:

- Em thử nếm xem, ngon lắm đấy! Chị Lâm người yếu, ăn không tiêu, chứ không thì chị ấy cũng thích lắm!

Bảo Cầm nghe nói, đến ăn một miếng thấy ngon, lại ăn nữa.

Phượng Thư cho a hoàn đến gọi Bình Nhi. Bình Nhi nói:

- Mày cứ về trước đi, cô Sử còn giữ tao ở lại đây.

A hoàn về. Một lúc thấy Phượng Thư khoác áo tơi đến, cười nói:

- Ăn gì ngon thế, lại không gọi tôi?

Nói xong liền ngồi xuống ăn. Đại Ngọc cười nói:

- Ở đâu kéo đến một lũ ăn mày thế kia? Thôi, thôi! Hôm nay Lư Tuyết am thực là đốn kiếp, chỉ tại con Vân làm hại thôi. Ta phải khóc cho Lư Tuyết am mới được.

Tương Vân cười nhạt:

- Chị biết cái gì: "Là danh sĩ thật phải phong lưu". Các người chỉ giả làm bộ thanh cao, đáng ghét nhất! Bây giờ chúng tôi ăn uống nhồm nhoàm, tuy tanh hôi thật, nhưng chốc nữa sẽ là bụng gấm miệng thêu cả đấy.

Bảo Thoa cười nói:

- Lát nữa làm thơ không hay, sẽ móc hết thịt ra, rồi lấy lau sậy dính tuyết tọng vào họng họ để cho hết kiếp đi.

Ăn xong, mọi người đi rửa tay.

Bình Nhi định đeo vòng vào tay, thấy thiếu một cái, tìm trước tìm sau, chẳng thấy đâu cả. Mọi người đều lấy làm lạ. Phượng Thư cười nói:

- Cái vòng đi đâu, tôi đã biết rồi. Các chị cứ việc làm thơ, chúng ta cũng không cần phải tìm. Độ ba ngày nữa thế nào cũng thấy.

Nói xong lại hỏi:

- Các chị hôm nay làm thơ gì đấy? Cụ bảo bây giờ gần hết năm, sang giêng nên bày cuộc đố thơ đèn để mọi người cùng vui.

Mọi người đều cười nói:

- Phải đấy, thế mà quên mất. Bây giờ làm sẵn mấy bài thật hay, để ra giêng chơi.

Nói xong mọi người cùng vào nhà có lò sưởi ngầm. Ở đây mâm bát hoa quả đã bày đủ cả, trên tường đã dán đầu bài, vần thơ và thể lệ làm thơ. Bảo Ngọc, Tương Vân vội đến xem, thấy đầu đề: Tức cảnh liên cú ngũ ngôn bài luật nhất thủ, hạn nhị tiêu vận.(7) Nhưng dưới chưa kê thứ tự. Lý Hoàn nói:

- Tôi không quen làm thơ mấy. Tôi chỉ xướng ra ba câu thôi, còn sau ai nghĩ được trước làm trước.

Bảo Thoa nói:

- Phải viết thứ tự ra chứ.

----------------------------------

1. Tức Đỗ Phủ.

2. Tức Vi Ứng Vật, người đời Huyền Tông và Đức Tông nhà Đường.

3. Tức Ôn Đình Quân người đời nhà Đường,làm thơ rất nhanh, xoa tay tám lần là làm xong bài thơ, vì thế người ta gọi là Ôn Bát Soa.

4. Đã chú thích ở hồi 40.

5. Mạnh Quang là vợ Lương Hồng, nhà nghèo, nhưng vẫn kính trọng nhau như chủ với khách. Khi đưa đồ ăn cho chồng, Mạnh Quang dâng khay lên đến tận lông mày.

6. Chữ trong "Tây Sương ký"

7. Một bài thơ Đường luật 5 chữ, tả cảnh trước mắt, mỗi người nối một câu, hạn vần "nhị tiêu".

Hồi thứ năm mươi

Am Lư Tuyết nối nhau thơ tức cảnh;

Ổ Noãn Hương khéo đặt câu đố đèn.

Bảo Thoa nói:

- Cần phải định thứ tự, để tôi viết ra.

Nói xong, liền bảo mọi người rút thăm. Người bắt đầu chính là Lý Hoàn, rồi theo thứ tự mà rút.

Phượng Thư nói:

- Đã thế tôi cũng đọc một câu.

Mọi người đều cười nói:

- Thế thì càng hay.

Bảo Thoa viết một chữ "phượng" ở trên chữ "Đạo Hương lão nông". Lý Hoàn giảng nghĩa đầu bài cho Phượng Thư nghe.

Phượng Thư nghĩ một lúc, cười nói:

- Chị em đừng cười tôi nhé, tôi chỉ có một câu nôm na thôi, còn sau không biết gì hết.

Mọi người đều cười nói:

- Càng nôm na càng hay. Chị cứ đọc ra đây, rồi đi làm việc của chị.

Phượng Thư cười nói:

- Khi tuyết xuống thế nào cũng có gió bấc. Đêm qua nghe gió bấc thổi, tôi có một câu: "một đêm gió bấc ào ào", được hay không, tôi cũng chẳng cần.

Mọi người nhìn nhau cười nói:

- Câu này tuy nôm na, nhưng chưa nói hết ý. Đó chính là biết cách mở đầu bài thơ đấy. Không những hay, mà còn để lại rất nhiều ý tứ cho người làm sau. Vậy cứ lấy câu này làm đầu, Đạo Hương lão nông tiếp luôn đi.

Phượng Thư cùng thím Lý và Bình Nhi lại uống hai chén rượu rồi đi.

Lý Hoàn viết:

Một đêm gió bấc ào ào(1),

Rồi đọc câu của mình:

Cửa ngoài còn thấy tuyết giào giạt bay.

Thương thay thân trắng bùn dây,

Hương Lăng:

Tiếc thay ngọc lại rắc đầy khắp nơi.

Muốn cho cỏ héo lại tươi,

Thám Xuân:

Còn như mầm lụa tưới hoài công thôi.

Rượu quê giá đã lên rồi,

Lý Ỷ :

Được mùa kho thóc khá dồi dào thay.

Gió lay ống sậy, gió bay,

Lý Văn:

Giời kia ló mặt, sao này quay chuôi.

Hàn sơn xanh đã kém mùi,

Tụ Yên:

Nước chiều gặp lạnh đọng rồi không dâng.

Trên cành liễu, bám lưng chừng,

Tương Vân:

Chuối kia lá rách, đong chăng được nào.

Đỉnh vàng mùi xạ ngạt ngào,

Bảo Cầm:

Vạt tay áo lụa ủ vào kim điêu.

Trước song sáng lấn gương treo,

Đại Ngọc:

Mùi thơm quyện lẫn hạt tiêu trên tường.

Vẫn còn ngọn gió tạt ngang,

Bảo Ngọc:

Ai người tỉnh giấc mơ màng là ai

Nơi nào tiếng sáo hoa mai?

Bảo Thoa:

Nhà nào đương thổi mấy bài ngọc tiêu?

Cua buồn trục đất sắp xiêu,

Lý Hoàn cười nói:

- Để tôi đi xem rượu nóng cho các chị thôi.

Bảo Thoa nhắc Bảo Cầm đọc tiếp, Tương Vân đứng ngay lên đọc:

Đuổi nhau rồng đánh tan vèo đám mây.

Chiếc thuyền bến nội về đây,

Bảo Cầm:

Bá kiều roi trỏ chốn này tặng thơ.

Áo cừu cho tướng nơi xa,

Tương Vân đâu có chịu kém. Vả lại, không ai nhanh bằng cô ta, nên đều trừng mắt nhìn cô ta đọc:

Áo bông này thiếp gửi đưa tới chàng.

Tổ xây kiến khéo lo lường,

Bảo Thoa khen hay luôn miệng, rồi đọc tiếp:

Cành kìa lá nọ xem nhường lung lay.

Sáng trong nhẹ bước đường mây,

Đại Ngọc:

Uốn lưng thoăn thoắt múa may giữa trời.

Đòi khi trà đắng thưởng chơi,

Đại Ngọc vừa đọc vừa đẩy Bảo Ngọc bảo đọc tiếp. Bảo Ngọc đương mải nhìn Bảo Cầm, Bảo Thoa, Đại Ngọc hùa nhau đấu với Tương Vân, rất lấy làm thú, còn nghĩ gì đến thơ nữa. Bây giờ bị Đại Ngọc đẩy, mới đọc:

Rắc đầy hoa muối nhớ lời ca xưa.

Câu buông, tơi khoác trên bờ,

Bảo Cầm:

Tiếng tiêu văng vẳng vọng qua rừng nào.

Voi quỳ nghìn ngọn núi cao,

Tương Vân:

Một đường rắn lượn ngoằn ngoèo đằng xa.

Hoa này lạnh mới chồi hoa,

Bảo Thoa cùng mọi cười đều khen hay. Thám Xuân đọc tiếp:

Màu này nào sợ sương sa kém màu.

Trong nhà sẻ lạnh xôn xao,

Tương Vân đương khát, vội đi uống nước, bị Tụ Yên đọc cướp:

Cú già trên núi nghẹn ngào buồn tênh.

Trên thềm lên xuống lượn quanh,

Tương Vân vội vất chén nước xuống, đọc luôn:

Nước ao mặc sức bập bềnh khắp nơi.

Trong veo khi mới sáng trời,

Đại Ngọc:

Đến đêm khuya lại tơi bời bay cao.

Lòng thành biết lạnh đâu nào.

Tương Vân:

Điềm lành sua nóng tan vào từng mây.

Nằm khèo ai hỏi ta đây,

Bảo Cầm vội đọc:

Chơi ngông có bạn rủ ngay đi cùng.

Dây lưng trắng đứt trên không,

Tương Vân:

Lụa giao chợ bể chớ mong sánh cùng.

Đại Ngọc ngắt ngay Tương Vân:

Vẻ buồn che kín lầu hồng,

Tương Vân đọc cướp:

Giỏ bầu nghèo xác nhớ ông Nhan Hồi.

Bảo Cầm cũng không chịu thua, đọc ngay:

Trà pha nước mới gần sôi,

Tương Vân thấy thế, rất lấy làm thú, vừa cười vừa đọc:

Lá tươi nấu rượu lá đời nào khô?

Đại Ngọc cười đọc:

Chổi đâu sư muốn quét chùa,

Bảo Cầm cười đọc:

Đàn vui đâu để trẻ khua gậy tìm.

Tương Vân cười ngặt nghẽo, định đọc luôn một câu.

Mọi người cười hỏi:

- Cô định đọc câu gì đây?

Tương Vân đọc:

Hạc trên lầu đã ngủ yên,

Đại Ngọc ôm bụng cười rồi đọc to:

Quen người, mèo cũng ủ rền nệm nhung.

Bảo Cầm:

Trong trăng sóng bạc trập trùng,

Tương Vân:

Thành mây thấp thoáng vầng hồng trên cao.

Đại Ngọc:

Hương mai hãy nhấm xem nào,

Bảo Thoa cười khen hay rồi đọc:

Rượu pha nước trúc nhấp vào càng say.

Bảo Cầm:

Uyên ương lưng ướt đầm dây,

Tương Vân:

Kìa chim phỉ thúy dính đầy cả đuôi.

Đại Ngọc:

Tiếng đâu như gió thổi ngoài,

Bảo Cầm:

Tiếng đâu sầm sập như trời đổ mưa.

Tương Vân gục xuống, cười rũ rượi. Mọi người thấy ba người này đối chọi nhau, không ai nghĩ đến làm thơ, chỉ nhìn mà cười. Đại Ngọc lại giục Tương Vân đọc luôn nữa và bảo:

- Mày đến lúc tài cùng lực kiệt rồi sao? Tao xem mày còn nỏ mồm nữa thôi?

Tương Vân cứ gục vào lòng Bảo Thoa cười mãi. Bảo Thoa đẩy dậy, nói:

- Mày có giỏi gieo hết cả vần nhị tiêu tao mới phục.

Tương Vân đứng dậy cười nói:

- Không phải làm thơ đâu, tôi đọc liều đấy thôi.

Mọi người cười nói:

- Chính là tự cô nói ra đấy!

Thám Xuân nghĩ mình không thể đọc chen vào chỗ nào được nữa, liền viết ra rồi nói:

- Chưa kết thúc đâu.

Lý Văn cầm lấy đọc một câu:

Sớm nay hỏi đã vui chưa?

Lý Ỷ đọc kết một câu:

Mượn thơ để chúc Đường Ngu thanh bình.

Lý Hoàn nói:

- Thôi đủ rồi! Tuy chưa làm hết vần nhưng gò ép mãi, nặn thêm ra lại không hay.

Nói xong, mọi người lại bình phẩm một lần nữa, có thơ Tương Vân là nhiều hơn. Họ đều cười nói:

- Đó là công lao của miếng thịt hươu đấy.

Lý Hoàn cười nói:

- Cứ theo từng câu mà cắt nghĩa, đều liền mạch cả, chỉ có Bảo Ngọc là hỏng thôi.

Bảo Ngọc cười nói:

- Tôi vốn không biết làm thơ liên cú, phải nơi nới cho tôi mới được.

Lý Hoàn cười nói:

- Không lẽ lần nào họp thi xã cũng nới cho chú, khi chú bảo vần khó, khi làm dở bài, nay lại bảo không biết làm liên cú. Hôm nay nhất định tôi phải phạt chú. Tôi vừa trông thấy những cây hồng mai trong am Lũng Thúy rất đẹp, muốn bẻ một cành để cắm lọ, nhưng tôi ghét Diệu Ngọc, không muốn gặp cô ta. Bấy giờ chú phải đến đấy lấy một cành mang về thưởng chơi.

Mọi người đều nói:

- Cách phạt này vừa nhã lại vừa thú!

Bảo Ngọc thấy thế cũng thích, nhận lời đi ngay. Tương Vân, Đại Ngọc đều nói:

- Ngoài ấy lạnh lắm, anh uống một chén rượu nóng rồi hãy đi.

Lúc đó Tương Vân đã hâm sẵn bình rượu rồi. Đại Ngọc cầm lên rót đầy một chén lớn. Tương Vân cười nói:

- Anh uống chén rượu này của chúng tôi, nếu không lấy được hoa về, sẽ lại phạt thêm!

Bảo Ngọc uống ngay một chén, rồi đi ra ngoài tuyết.

Lý Hoàn sai người đi theo. Đại Ngọc ngăn lại nói:

- Không cần. Có người nữa đi theo sẽ không lấy được hoa đâu.

Lý Hoàn gật đầu nói: "Phải đấy".

Rồi sai a hoàn mang đến một cái bình vẽ một mỹ nhân nhún vai, đổ nước vào để chờ cắm cành mai, lại cười nói:

- Nếu mang về, ta phải làm bài thơ vịnh hồng mai mới được

Tương Vân nói:

- Tôi làm trước một bài.

Bảo Thoa cười nói:

- Hôm nay không cho cô làm nữa! Cô cướp mất cả để người khác ngồi không thì chẳng có thú gì. Khi nào Bảo Ngọc về sẽ bắt phạt cậu ta cứ nói là không biết liên cú. Đã vậy bắt cậu ta phải làm bài thơ này.

Đại Ngọc cười nói:

- Phải lắm. Tôi không có ý định ấy. Những người vừa rồi không liên cú được nhiều, bây giờ phải làm thơ hồng mai.

Bảo Thoa cười nói:

- Phải lắm. Vừa rồi các cô Hình, cô Lý không được thi tài, và lại là khách. Cô Cầm, cô Tần và cô Vân làm tranh mất nhiều, chúng ta không ai nên làm nữa, cứ để cho các cô ấy làm mới phải.

Lý Hoàn nói:

- Cô Ỷ không quen làm thơ lắm, nên để cho em Cầm làm thôi.

Bảo Thoa đành phải nhận lời, rồi nói:

- Thế thì dùng ba chữ "hồng mai hoa" làm vận, mỗi người làm một bài thất ngôn: cô Hình làm vần "hồng", cô Lý làm vần "mai" cô Cầm làm vần "hoa".

Lý Hoàn nói:

- Nếu tha cho Bảo Ngọc, tôi không phục.

Tương Vân nói:

- Có một đầu bài hay lắm, bắt anh ấy làm.

Mọi người hỏi: "Đầu bài gì?"

Tương Vân nói:

- Bắt anh ấy làm bài thơ "Đến thăm Diệu Ngọc xin cành hồng mai", như thế chẳng thú lắm hay sao?

Mọi người đều nói: "Thú đấy!"

Nói chưa dứt lời thì Bảo Ngọc hớn hở cầm cành hồng mai về. Bọn a hoàn vội ra đỡ lấy cắm vào lọ, mọi người đều đến ngắm nghía. Bảo Ngọc cười nói:

- Bây giờ chị em thưởng ngoạn đi, không biết mất bao nhiêu hơi sức mới xin được đấy!

Thám Xuân đã mang một cốc rượu ấm đến. Bọn a hoàn đi lấy nón, áo tơi rồi đập tuyết đi. Người hầu ở các nhà đều mang thêm quần áo đến. Tập Nhân cũng sai người mang cái áo khoác da cáo còn rung rúc đến. Lý Hoàn sai người mang một khay khoai luộc, hai mâm cam, quất và trám đưa cho Tập Nhân. Tương Vân nói lại cho Bảo Ngọc biết đầu bài thơ vừa rồi, và giục làm ngay, Bảo Ngọc nói:

- Xin các chị em đừng hạn vần, để tôi chọn lấy.

Mọi người đều nói:

- Anh muốn làm vần nào thì làm.

Mọi người vừa nói, vừa ngắm cành mai. Cành cao gần hai thước, bên cạnh có một nhánh đâm ngang dài độ hai, ba thước. Nhánh ấy lại có nhiều nhánh nhỏ đâm ra, nhánh như ly cuộn tròn, nhánh như giun nằm thẳng, nhánh khẳng khiu như cái bút, nhánh rườm rà như rừng cây. Thật là hoa khoe son phấn, hương lấn huệ lan. Mọi người xem đều khen ngợi. Ngờ đâu Tụ Yên, Lý Văn, Bảo Cầm đã làm xong thơ, viết ra cả rồi. Mọi người theo thứ tự xem chữ hồng, chữ mai, chữ hoa. Đầu tiên là bài Hồng mai hoa của Hình Tụ Yên.

Kìa đào kia hạnh chửa đâm bông.

Mai đã ngoài sương cợt gió đông,

Đại Dĩu(2) hồn bay xuân khó biết,

La Phù(3) ráng phủ mộng chưa thông.

Cuống xanh đuốc rợi tô màu đẹp,

Rượu choáng tiên dìu vượt quãng không.

Nhìn kỹ sắc này hồ dễ có,

Ở hàng băng tuyết nhạt pha nồng.

Lý Văn:

Bạch mai biếng vịnh, vịnh hồng mai,

Đón khách say hoa, trổ mọi tài.

Mặt lạnh nổi hằn dây những máu,

Lòng chua thành bụt giận gì ai.

Uống nhầm viên thuốc xương thay hẳn,

Ăn trộm đào tiên kiếp đổi rồi.

Giang Bắc, Giang Nam xuân chói lọi,

Bướm ong thôi chớ đắn đo hoài.

Bảo Cầm:

Cành lá lơ thơ hoa chói màu,

Chị em trang điểm khéo đua nhau.

Cửa cong sân vắng trời tan tuyết,

Nước chảy non cao ráng dọi đầu,

Mộng kín lạnh lùng vang sáo ngọc,

Chèo tiên ngào ngạt lướt sông Ngâu.

Dao đài kiếp trước là ai đấy,

Sắc tướng này xem có khác đâu.

Mọi người xem xong, đều cười khen ngợi và cho bài cuối cùng hay hơn. Bảo Ngọc thấy Bảo Cầm trẻ hơn cả lại có tài nhanh nhẹn. Đại Ngọc, Tương Vân mỗi người rót một chén rượu nhỏ mừng Bảo Cầm, Bảo Thoa cười nói:

- Cả ba bài đều có câu hay. Ngày thường các chị trêu tôi chán rồi, bây giờ lại trêu đến em nó.

Lý Hoàn lại hỏi Bảo Ngọc:

- Chú đã làm xong thơ chưa?

Bảo Ngọc vội nói:

- Tôi đã làm xong rồi, nhưng khi xem ba bài này lại sợ quá quên mất cả. Để tôi nghĩ lại xem.

Tương Vân nghe nói, liền cầm cái đũa đồng gõ vào lồng ấp cười nói:

- Tôi gõ hết hồi mà anh không làm xong thì lại phải phạt đấy.

Bảo Ngọc cười nói:

- Tôi có thơ rồi.

Đại Ngọc cầm bút cười nói:

- Anh đọc đi, em viết hộ.

Tương Vân gõ một cái, cười nói:

- Thế là hết một hồi rồi.

Bảo Ngọc cười nói:

- Có thơ rồi, em viết đi.

Mọi người nghe Bảo Ngọc đọc:

Thơ chửa làm xong rượu chửa mời.

Đại Ngọc viết rồi lắc đầu cười nói:

- Câu mở đầu thường lắm.

Tương Vân lại nói:

- Đọc nhanh lên!

Bảo Ngọc cười đọc:

Tìm xuân, hỏi chạp tới bồng lai.

Đại Ngọc, Tương Vân đều gật đầu cười nói:

- Cũng hơi có tứ đấy.

Bảo Ngọc lại đọc:

Cần chi Đại Sĩ lưng bình móc,

Xin hẳn Sương Nga một nhánh mai.

Đại Ngọc viết rồi lấc đầu nói:

- Chỉ khéo vặt đấy thôi.

Tương Vân lại gõ một cái, Bảo Ngọc cười đọc:

Gạt tuyết đỏ đi đời bớt lạnh,

Kéo mây tía xuống bụi thêm mùi.

Nhà thơ ai tiếc thân gầy guộc,

Áo dính đầy rêu trước phật đài.

Đại Ngọc viết xong, Tương Vân đương bàn thơ, thấy mấy a hoàn chạy đến nói:

- Cụ đến đấy!

Mọi người vội ra đón, cười nói:

- Sao người cao hứng thế?

Nói xong, trông đằng xa thấy Giả mẫu khoác áo che tuyết đội mũ bằng lông chuột, ngồi trên kiệu nhỏ, che dù xanh, bọn Hổ Phách, Uyên Ương và năm sáu a hoàn, cầm dù đỡ kiệu đi đến. Bọn Lý Hoàn vội chạy ra đón. Giả mẫu bảo họ đứng lại, nói:

- Thôi, các cháu cứ đứng ở đấy được rồi.

Giả mẫu xuống kiệu cười nói:

- Ta trốn mẹ mày và cháu Phượng đến đây. Tuyết xuống nhiều, ta ngồi kiệu không sao, chứ không nên để cho mẹ con nó phải dầm tuyết.

Mọi người vâng dạ, đều cầm lấy áo tơi và đỡ Giả mẫu xuống.

Giả mẫu vào trong nhà, cười nói:

- Hoa mai đẹp nhỉ! Các cháu chỉ biết vui lấy một mình ta không tha cho đâu!

Lý Hoàn sai người lấy một cái nệm da chó sói đến trải giữa. Giả mẫu ngồi xuống cười nói:

- Các cháu cứ việc chơi đùa ăn uống. Mùa này ngày ngắn, ta không muốn ngủ trưa. Đánh một hồi bài, chợt nghĩ đến các cháu, nên ta lại đây để góp vui.

Lý Hoàn lại mang cái lồng ấp đến. Thám Xuân lấy riêng đũa chén, rót rượu ấm mời Giả mẫu. Giả mẫu uống một hớp, hỏi:

- Ở mâm kia có những thứ gì đấy?

Mọi người liền bưng lại, nói:

- Đây là món gà gô om rượu.

Giả mẫu nói:

- Được rồi, xé một miếng đùi mang lại đây.

Lý Hoàn vâng lời đi rửa tay, xé một miếng mang đến.

Giả mẫu nói:

- Các cháu cứ ngồi xuống, coi như ta không đến đây mới được, nếu không ta sẽ về ngay.

Mọi người nghe nói, mới theo thứ tự ngồi xuống. Lý Hoàn ngồi ở tận bên dưới. Giả mẫu hỏi:

- Các cháu chơi gì đấy?

- Chúng cháu đang làm thơ.

- Làm thơ chẳng bằng làm mấy câu đố đèn để ra giêng chơi.

Mọi người vâng lời.

Cười nói một lúc, Giả mẫu nói:

- Chỗ này ẩm ướt, các cháu đừng ngồi lâu, sợ bị cảm lạnh. Nhà cháu Tư ấm hơn, chúng ta đến xem bức vẽ của nó xem cuối năm liệu có xong được không.

Mọi người cười nói:

- Cuối năm nay xong thế nào được? Có lẽ đến tiết đoan ngọ sang năm mới xong.

- Như thế sao được? Thật lại tốn công hơn là làm cái vườn này.

Nói xong, Giả mẫu ngồi vào kiệu, mọi người đi theo, qua Ngẫu Hương tạ, đi vào một con đường hẹp, hai bên đông tây đều là cửa đi ra phố, trên cửa lầu, trong ngoài đều có biển đá. Đi vào cửa tây, có biển phía ngoài khắc hai chữ xuyên vân, biển bên trong khắc hai chữ độ nguyệt. Lên đến thềm, vào cửa giữa hướng nam, Giả mẫu xuống kiệu. Tích Xuân ra đón. Đi qua dãy hành lang, đến buồng ngủ Tích Xuân. Dưới mái treo cái biển có chữ Noãn Hương ổ, đã có mấy người đứng mở bức rèm da vượn màu đỏ, hơi ấm bốc ngay lên mặt.

Mọi người vào trong nhà, Giả mẫu không ngồi, hỏi ngay Tích Xuân:

- Vẽ đến đâu rồi?

- Trời lạnh lắm, keo rắn lại không chảy, sợ vẽ không đẹp nên cháu phải cất đi.

- Cuối năm nay thế nào cũng phải xong, cháu đừng giở lối lười ra; hãy mang ra vẽ đi cho ta.

Nói chưa dứt lời, thấy Phượng Thư mặc áo nhung màu tía, cười hì hì đi vào, nói:

- Hôm nay bà lẻn đi một mình, chẳng nói cho ai biết, làm cháu phải đi tìm mãi!

Giả mẫu thấy Phượng Thư, trong bụng mừng lắm, nói

- Ta sợ cháu rét, nên không cho cháu biết. Cháu thật là con ma khôn, cũng biết tìm đến đây. Cứ lý ra có phải hiếu kính ở chỗ ấy đâu.

Phượng Thư cười nói:

- Có phải là cháu hiếu kính mà đi tìm bà đâu? Vì cháu đến đó, thấy im lặng như tờ, hỏi bọn hầu nhỏ, chúng không chịu bảo, cháu đành phải vào vườn tìm. Đương lúc nghi hoặc thấy có hai sư cô đến, cháu mới hiểu là các sư cô chắc lại đến đòi tiền sớ hay tiền hương đèn hàng năm gì chăng, chả vì cứ cuối năm là bà tiêu nhiều, nên phải đi trốn nợ. Cháu hỏi sư cô, quả thế thật. Cháu đã giả tiền lễ hàng năm cho họ về rồi. Thế là chủ nợ đã đi bà không cần phải trốn nữa. Cháu đã nấu sẵn gà gô non, mời bà về xơi cơm chiều, nếu để chậm sợ quá lửa mất.

Phượng Thư nói một câu làm mọi người lại cười ầm lên.

Phượng Thư không chờ Giả mẫu trả lời, cứ sai người khiêng kiệu đến. Giả mẫu cười, vịn tay Phượng Thư bước lên kiệu, dẫn mọi người, cười nói ra đến cửa Đông, nhìn lên xem bốn mặt đều trắng xóa như trát phấn, dát bạc. Trông thấy Bảo Cầm mặc áo cừu thêu đàn le, đang đứng đợi ở sau sườn núi, sau lưng có một a hoàn, bưng cái lọ cắm cành hồng mai. Mọi người đều cười nói:

- Thảo nào thiếu hai người, thì ra họ đến chờ ở đây, lại cũng đi kiếm hoa mai rồi!

Giả mẫu mừng quá, cười nói:

- Các cháu hãy nhìn xem, trên sườn núi tuyết này, có dáng người như thế, ăn mặc quần áo như thế, đằng sau lại có hoa mai như thế liệu giống cái gì?

Mọi người đều cười nói:

- Giống bức tranh Diễm tuyết đồ của Cừu Thập Châu(4) treo ở nhà cụ.

Giả mẫu lắc đầu, cười nói:

- Bức vẽ ấy đâu có quần áo như thế này? Người cũng không được đẹp như thế!

Nói chưa dứt lời, thấy phía sau Bảo Cầm có một người mặc áo da vượn màu đỏ đi đến. Giả mẫu hỏi:

- Lại cô ả nào nữa đấy?

- Chúng cháu ở đây cả, chắc là cậu Bảo Ngọc.

- Ta càng ngày càng sinh lóa mắt.

Hai người đi đến, chính là Bảo Ngọc và Bảo Cầm. Bảo Ngọc cười bảo bọn Bảo Thoa, Đại Ngọc:

- Tôi vừa đến am Lũng Thúy, cô Diệu Ngọc gửi biếu chị em mỗi người cành mai, tôi đã sai người đưa đến nhà rồi.

Mọi người đều cười nói:

- Cám ơn cậu có lòng nghĩ đến chúng tôi.

Mọi người ra khỏi cửa vườn, đến buồng Giả mẫu. Ăn cơm xong, lại chuyện trò một lúc. Chợt thấy Tiết phu nhân đến, nói:

- Tuyết xuống nhiều quá! Suốt ngày không đến thăm cụ được. Hôm nay sao người không cao hứng? Đáng lẽ người nên đi thưởng tuyết mới phải.

Giả mẫu cười nói:

- Sao lại không cao hứng? Tôi đã đến chỗ chị em chúng nó thưởng tuyết một lúc rồi.

Tiết phu nhân cười nói:

- Chiều hôm qua tôi định đến mượn dì nó cái vườn một ngày, bày vài bàn rượu, mời cụ hôm nay đến đó thưởng tuyết. Nhưng thấy người đã đi nghỉ rồi, tôi lại nghe cháu Bảo nói là người không được khoan khoái. Vì thế tôi không dám quấy rầy. Nếu biết thế này, tôi phải đến mời người mới phải.

Giả mẫu cười nói:

- Bây giờ là tháng mười mới bắt đầu có tuyết, sau này còn nhiều, sẽ còn làm phiền đến bà dì, lúc ấy cũng chưa muộn.

Tiết phu nhân cười nói:

- Được như vậy cũng bõ lòng thành kính của tôi.

Phượng Thư cười nói:

- Chỉ sợ dì lại quên chăng? Chi bằng bây giờ dì cân ngay năm mươi lạng bạc giao cho cháu, khi nào có tuyết, cháu sẽ sắm sửa tiệc rượu. Như thế, người không phải để ý đến và cũng không quên được nữa.

Giả mẫu cười nói:

- Đã vậy bà dì cứ giao hẳn cho nó năm mươi lạng và nó sẽ chia đôi mỗi người một nửa. Hôm nào có tuyết, tôi giả cách người khó ở để lấp liếm cho xong chuyện. Như thế bà dì không phải bận lòng, mà tôi và cháu Phượng sẽ được hưởng món lộc đó.

Phượng Thư vỗ tay cười nói:

- Hay lắm! Bà nói rất hợp ý cháu.

Mọi trời đều cười.

Giả mẫu cười nói:

- Hừ! Không biết xấu! Cứ định nhờ bão bẻ măng. Sao mày chẳng nói: bà dì là khách, đến ở nhà ta, chúng ta nên bày tiệc mời bà dì mới phải, lẽ nào để bà dì tốn tiền! Mày lại còn giở mặt ra đòi bà dì năm mươi lạng bạc, thật không biết xấu hổ!

Phượng Thư cười nói:

- Bà tinh lắm, cháu mới nói thử đấy thôi. Nếu bà dì nhẹ dạ bỏ ra năm mươi lạng bạc, bà sẽ chia ngay cho cháu đấy. Bây giờ bà đắn đo biết là không ăn thua gì, nên trở mặt đem cháu ra làm bung xung, nói những câu ra vẻ đứng đắn. Thế thì bây giờ cháu cũng không lấy bạc của bà dì nữa, cháu sẽ ứng tiền ra làm tiệc rượu mời bà đến ăn, rồi lại gói thêm năm mươi lạng bạc nữa đem biếu bà, coi như bà phạt cháu hay ôm đồm những việc không đâu. Thế có được không?

Mọi người nghe nói cười lăn ra.

Nhân nói tới việc Bảo Cầm bẻ cành mai dưới tuyết, đẹp hơn trong tranh, Giả mẫu lại hỏi tỉ mỉ về ngày sinh tháng đẻ cùng tình cảnh gia đình của Bảo Cầm. Tiết phu nhân biết ý, có lẽ lại muốn dạm hỏi cho Bảo Ngọc đây, trong bụng cũng rất vui, nhưng đã trót hẹn gả cho nhà họ Mai rồi; vì Giả mẫu chưa nói rõ, nên tự mình cũng không tiện nói ra, cứ nửa kín nửa hở nói với Giả mẫu:

- Tiếc rằng cháu nó kém phúc! Cha cháu mất năm trước rồi. Từ bé cháu vất vả nhiều, theo cha đi khắp đó đây, hễ nó buôn bán ở đâu là đem gia quyến đi theo. Năm nay chơi tỉnh này một năm, sang năm chơi tỉnh khác mấy tháng, vì thế trong nước mười phần cháu đi tới năm sáu. Mấy năm trước đây, cha cháu đã hứa gả cháu cho con quan hàn lâm họ Mai. Năm sau cha cháu mất, rồi mẹ cháu lại bị bệnh suyễn...

Chưa chờ dứt câu, Phượng Thư đã thở dài giậm chân nói:

- Thực không may! Tôi đang định làm mối cho cô ấy, đã lại nhận lời người khác mất rồi!

Giả mẫu cười hỏi:

- Cháu muốn làm mối cho ai?

- Bà không cần phải nghĩ nữa. Trong bụng cháu đã nhằm sẵn rồi. Hai người ấy xứng đôi lắm. Nhưng bây giờ đã có người khác hỏi, nói cũng vô ích, thà chẳng nêu ra cho xong.

Giả mẫu cũng biết ý Phượng Thư, thấy đã gả cho người khác nên không nói nữa. Mọi người lại nói chuyện phiếm một lúc mới về.

Hôm sau tạnh tuyết. Ăn cơm xong, Giả mẫu lại dặn Tích Xuân:

- Bất cứ lạnh hay ấm, cháu phải vẽ đi, cuối năm chưa xong cũng được. Có điều cần nhất là cháu phải theo đúng cảnh Bảo Cầm cùng a hoàn và hoa mai, mà vẽ thêm vào đấy.

Biết là khó, Tích Xuân cũng vẫn phải nhận lời. Một lúc, mọi người đến xem, thấy Tích Xuân đang ngồi thừ người ra. Lý Hoàn cười bảo mọi người:

- Chúng ta hãy nói chuyện với nhau, để cho cô ấy nghĩ. Hôm nọ cụ bảo phải làm mấy bài thơ đố đèn, về đến nhà không ngủ được, tôi đã đặt hai câu đố về "Tứ thư". Còn cô Ỷ và cô Văn mỗi người cùng đặt hai câu.

Mọi người đều cười nói: "Cái đó cần phải làm. Chị hãy nói trước để chúng tôi đoán".

Lý Hoàn cười đọc:

- Quan âm vị hữu thế gia truyền(5), đố một câu ở trong "Tứ thư".

Tương Vân liền đọc câu:

- Tại chỉ ư chí thiện(6)

Bảo Thoa cười nói:

- Cô hãy nghĩ nghĩa ba chữ thế gia truyền đã rồi hãy đoán.

Lý Hoàn cười nói:

- Nghĩ nữa đi.

Đại Ngọc cười nói:

- Tôi đoán nhé. Có phải là câu "tuy thiện vô trưng"(7) hay không?

Mọi người đều cười nói:

- Câu ấy phải đấy.

Lý Hoàn lại đọc:

- Cỏ xanh ao nọ gọi tên gì?

Tương Vân nói:

- Nhất định là "lau sậy" có đúng không?

- Cô đoán tài đấy. Còn câu của cô Văn là "Nước trôi bên đá dòng càng lạnh", đố tên một người xưa.

Thám Xuân cười hỏi:

- Có phải là Sơn Đào(8) không?

- Đúng đấy.

Lý Hoàn lại nói:

- Câu đố của cô Ỷ là một chữ "huỳnh" (đom đóm), đoán ra một chữ.

Mọi người đoán một lúc, Bảo Cầm nói:

- Chữ này ý tứ rất sâu. Không biết có phải chữ "hoa" là hoa cỏ không(9)?

Lý Ỷ cười nói: "Phải đấy".

Mọi người hỏi: "Đom đóm với hoa có liên can gì với nhau?"

Đại Ngọc cười nói:

- Hay lắm! Đom đóm không phải là cỏ hóa ra à?

Mọi người hiểu ý, đều cười nói: "hay"

Bảo Thoa nói:

- Những câu này tuy hay đấy, nhưng không hợp với ý cụ. Chi bằng chúng ta tìm những vật gần gũi dễ trông thấy để người nhã hay người tục đều thưởng thức được cả mới vui.

Mọi người đều nói

- Cũng nên làm câu đố những vật gì gần gũi dễ thấy mới phải.

Tương Vân nghĩ một lúc, cười nói:

- Tôi đặt một khúc hát "điểm giáng thần"(10) thật là một vật tục, các chị thử đoán xem. - Nói xong liền đọc:

Suối khe nỡ bỏ mà đi,

Bụi hồng nào có thú gì mà chơi ?

Hão huyền danh lợi một đời.

"Việc sau" thôi thế thì thôi còn gì.

Mọi người đều không hiểu, nghĩ một lúc, có người đoán là ông sư, có người đoán là đạo sĩ, có người đoán là con rối. Bảo Cầm cười một lúc rồi nói:

- Không đúng cả. Tôi đoán trúng rồi, nhất định là con khỉ nuôi để làm trò chơi.

Tương Vân cười nói: "Đúng đấy".

Mọi người nói:

- Câu đầu đúng, nhưng câu cuối cùng cắt nghĩa thế nào?

Tương Vân nói:

- Con khỉ nào để chơi mà chẳng chặt đuôi?

Mọi người đều cười nói:

- Nó đặt câu đố cũng lắt léo kỳ quái quá!

Lý Hoàn nói:

- Hôm qua bà dì nhân nói cô Cầm trải đời nhiều, đi đây đi đó cũng nhiều, cô cần phải làm câu đố. Vả chăng làm thơ cô lại hay, tại sao không biên mấy câu đố để cho chúng tôi đoán?

Bảo Cầm nghe nói, gật đầu mỉm cười, đang nghĩ. Bỗng Bảo Thoa đọc ngay một bài:

Gỗ đàn gỗ tử chạm trồng lên.

Thợ giỏi nào đây xếp đặt nên?

Mưa gió lưng trời dù tạt lại.

Chùa đâu nghe được tiếng chuông rền?

(Là một vật gì?)

Mọi người đang đoán, Bảo Ngọc cũng lại đọc một bài:

Tiên tục hai nơi khéo viển vông,

Ngọc đâu hòa nhịp vẳng trên không.

Tiếng loan tin hạc nghe cho kỹ.

Cũng thở than đi đáp tấm lòng.

Đại Ngọc cũng đọc một bài:

Ngựa tốt cần chi phải buộc thừng?

Lên thành xuống trại dáng hung hăng,

Gió mây chuyển động tùy tay chủ,

Núi cưỡi lưng ngao cũng khó bằng.

Thám Xuân cũng có một bài, định đọc, thì Bảo Cầm chạy đến cười nói:

- Từ bé tôi đã đi nhiều nơi, đã xem nhiều cổ tích. Tôi chọn mười nơi, làm ra mười bài hoài cổ. Thơ tuy quê, nhưng ghi lại được việc trước, và ám chỉ được mười vật thường trông thấy, các chị thử đoán xem.

Mọi người nghe xong, đều nói:

- Thế càng hay lắm. Sao không viết ra cho chị em xem?

--------------------------

1. Nguyên văn mỗi câu năm chữ. Muốn đọc dễ hiểu, chúng tôi xin dịch ra thể lục bát.

2. Núi Đại Dĩu cao tuyệt vời có nhiều hồng mại và bạch mai.

3. Cát Hồng đời Tấn tu tiên ở núi này.

4. Ông tên là Cửu Anh, người quận Thái Thương, nhà Minh, có tài vẽ, nhất là vẽ nữ sĩ, thì thần thái rất sinh động.

5. Đây là câu đố, chưa rõ nghĩa là gì.

6. Chữ ở sách Đại học, nghĩa là cốt ở chỗ làm điều lành.

7. Chữ trong sách Trung dung. Nghĩa là: tuy làm điều lành nhưng không có báo ứng.

8. Sơn Đào người đời Tấn. Theo nghĩa chữ Hán, "sơn" là núi, "đào" là sóng. Có nghĩa là nước ở trong núi. Đúng với nghĩa câu đố "nước ở bên đá chảy ra".

9. Theo chữ Hán, chữ "hoa" trên là bộ "thảo", dưới là chữ "hóa". Tục truyền giống đom đóm là do cỏ mục hóa ra, tức là chữ "thảo" và chữ "hóa", cho nên đố chữ "huỳnh", đoán chữ "hoa" là đúng.

10. Tên điệu hát.

Hồi thứ năm mươi mốt

Cô em họ Tiết làm thơ hoài cổ;

Lang băm họ Hồ dùng thuốc hổ lang.

Mọi người thấy Bảo Cầm lấy đề ở những nơi cổ tích trong các tỉnh mà mình đã đi qua, làm thành mười bài tuyệt cú hoài cổ, trong thơ ám chỉ mười vật, nên đều nói "Thế thì rất là mới lạ!"

Rồi tranh nhau xem:

1. Xích Bích hoài cổ:

Xích Bích sông kia nước chẳng trôi,

Truyền trơ tên họ chở đi thôi.

Ầm ầm gió thảm theo làn khói,

Biết mấy hồn thiêng quẩn đấy rồi.

2. Giao Chỉ hoài cổ:

Cột đồng đứng vững với thành vàng,

Tiếng rộn ngoài xa khắp bốn phương.

Mã Viện từ đây công rất lớn.

Cần chi nhờ đến sáo Trương Lương?

3. Chung Sơn hoài cổ:

Lợi danh ai nỡ buộc vào thân?

Bỗng chốc lôi nhau xuống cõi trần.

Dùng dẳng suốt đời không dứt được,

Cho người chế giễu lại băn khoăn.

4. Hoài Âm hoài cổ:

Tráng sĩ nên ngừa chó cắn càn,

Vua Tề là lúc sắp vào quan.

Bảo cho đời tục đừng khinh vội,

Một bữa cơm khi chết vẫn ơn.

5. Quảng Lăng hoài cổ:

Ve kêu quạ đậu chóng làm sao,

Giờ cảnh đê Tùy cảnh thế nào?

Vì nỗi xa hoa xưa chiếm hệt,

Cho đời mai mỉa miệng nhao nhao.

6. Đào Diệp độ hoài cổ:

Hoa tàn cỏ héo đợi trên ao,

Rời rã cành đào với lá đào.

Người cũ Lục triều giờ vắng cả,

Ảnh đề chỉ thấy vách treo cao.

7. Thanh Trửng hoài cổ:

Sông hắc mênh mông khéo nghẹn dòng,

Khúc đầu gạn hệt nỗi đau lòng;

Ngán cho chế độ vua nhà Hán,

Cậy gạo muôn năm đáng thẹn thùng.

8. Mã Ngôi hoài cổ:

Phấn son lặng lẽ đẫm mồ hôi,

Thoắt giã thân kia xuống bể khơi.

Vì dấu phong lưu còn sót lại.

Áo quần khe ấy vẫn thơm hoài.

9. Bồ Đông tự hoài cổ:

Tiểu hồng hèn hạ phận tôi đòi,

Lẻn lút đưa đi ghép lứa đôi;

Thôi mẫu dù tra ra việc ấy,

Ả kia đã bị rủ đi rồi.

10. Mai Hoa quán hoài cổ:

Nếu không bên liễu cũng bên mai,

Ai vẽ thuyền quyên vẽ cũng tài.

Sum họp Xuân Hương đừng nghĩ vội,

Gió tây lại vắng một năm trời.

Mọi người xem xong đều khen hay. Bảo Thoa nói:

- Sự tích tám bài đều có chép ở trong sử, còn hai bài cuối không có sách nào chép, chúng tôi không hiểu rõ, chi bằng làm lại hai bài khác thì hơn.

Đại Ngọc vội ngăn lại:

- Chị Bảo thật là "gắn phím gẩy đàn", câu nệ vẽ vời quá. Dù trong sử sách không chép, các truyện ngoài cũng không nói đến, nên không biết đầu đuôi ra sao, nhưng chúng ta chẳng đã xem thấy ở hai vở hát là gì? Đến đứa trẻ lên ba cũng còn biết nữa là.

Thám Xuân nói:

- Chị nói phải đấy.

Lý Hoàn lại nói:

- Vả chăng sách không chép thật, nhưng chính cô ấy đã đi đến các nơi đó. Xưa nay thường hay đồn nhảm nghe nhảm, những kẻ muốn bới việc thường cố ý bày ra chuyện cổ tích để lừa dối người đời. Ví như năm trước tôi vào kinh, thấy ba, bốn chỗ là mộ Quan Công. Sự nghiệp Quan Công trong sử đều chép rõ, nhưng sao lại có nhiều mộ thế? Chắc là người đời sau kính mến nhân phẩm Quan Công khi còn sống, rồi từ chỗ kính mến ấy họ bày đặt ra đấy thôi. Khi xem đến bộ Quảng dư ký, không chỉ riêng Quan Công, cả những người có danh tiếng xưa nay cũng có nhiều mộ. Trong nhiều cổ tích không tra cứu vào đâu được. Hai bài thơ này tuy không có căn cứ thực, nhưng nghe người kể chuyện, hát tuồng, hay xem thẻ, cũng đều nói đến. Những câu tục ngữ trước cửa miệng, bất kỳ trẻ, già, trai, gái ai ai mà chả biết, chả nói được? Vả chăng, nó có phải sách nhảm như những vở kịch Mẫu đơn đình, Tây sương ký đâu mà sợ? Vì vậy cứ nên để lại hai bài thơ ấy cũng không sao.

Bảo Thoa nghe nói mới thôi. Mọi người đoán một lúc, đều không đúng cả.

Mùa đông ngày ngắn, đã đến bữa cơm chiều, mọi người đều đi ăn cả. Có người trình Vương phu nhân:

- Anh Tập Nhân là Hoa Tự Phương đứng ở ngoài trình mẹ hắn ốm nặng, nhớ con gái lắm. Vì vậy hắn đến xin cho em gái về thăm nhà.

Vương phu nhân nói:

- Đó là tình mẹ con, lẽ nào ta lại không cho nó về!

Rồi sai người đến bảo Phượng Thư thu xếp cho Tập Nhân. Phượng Thư vâng lời, về nhà sai vợ Chu Thụy đến dặn:

- Chị cùng một người đàn bà và hai đứa a hoàn nhỏ đi theo Tập Nhân về. Chị cắt bốn người có tuổi đi theo xe. Các chị ngồi xe lớn, còn bọn a hoàn ngồi xe nhỏ.

Vợ Chu Thụy sắp đi, Phượng Thư lại bảo:

- Tập Nhân xưa nay vẫn quen lối giản dị, chị nói rằng tôi bảo chị ấy phải mặc bộ quần áo lịch sự, mang theo một bọc quần áo to và đẹp, lồng ấp cũng phải đem cái đẹp. Khi sắp đi, chị bảo chị ta phải đến đây cho tôi xem.

Vợ Chu Thụy vâng lời đi.

Một lúc ăn mặc xong, Tập Nhân đến, hai a hoàn cùng vợ Chu Thụy mang lồng ấp và bọc quần áo theo sau. Phượng Thư thấy trên đầu Tập Nhân cài mấy cành thoa vàng giắt hạt châu, rất là lộng lẫy; mặc cái áo da chuột bạch thêu hoa đào, quần bông màu thông lục thêu kim tuyến, ngoài khoác áo da chuột đen trong lót đoạn xanh. Phượng Thư cười nói:

- Ba bộ quần áo này đều là của u cho chị, còn đẹp lắm; nhưng áo khoác thì xoàng quá, bây giờ lạnh chị nên mặc thêm một cái áo lông nữa.

Tập Nhân cười nói:

- Bà Hai vừa cho tôi cái áo da chuột đen, lại còn một cái áo da chuột bạch nữa, người bảo cuối năm sẽ thêm cái áo lông.

Phượng Thư cười nói:

- Tôi cũng có một cái áo lông, nhưng vì lông đã thò ra ngoài, không được đẹp, tôi đương định thay, nay tôi hãy để cho chị mặc. Đến cuối năm bà cho chị cái khác, tôi sẽ đổi. Như thế cũng coi như chị đã giả tôi rồi.

Mọi người đều cười nói:

- Mợ thì cứ quen nói thế. Ngày thường mợ hay rộng rãi, không biết đã phải bù đắp ngấm ngầm cho bà bao nhiêu rồi. Những khoản bù không đâu ấy còn tính toán với bà sao được. Bây giờ mợ lại đem những chuyện bủn xỉn nói ra để làm trò cười.

Phượng Thư nói:

- Khi nào bà nghĩ đến chuyện ấy. Thật ra nó cũng chả phải là việc chính. Nhưng nếu tôi không trông nom vào đấy, thì còn ra thể diện nhà đại gia sao được. Thà mình tôi chịu thiệt, để mọi người ăn mặc tử tế, miễn sao tôi cũng được tiếng tốt, chứ các chị ăn mặc xấu xí như con ma ấy, thì người ta cười tôi trước, bảo tôi cai quản trong nhà lại để các chị như ăn mày cả một lũ.

Mọi người đều than thở:

- Có ai sáng suốt được như mợ! Trên được lòng bà, dưới biết thương yêu người hầu.

Phượng Thư sai Bình Nhi mang cái áo màu thạch thanh thêu tám chùm hoa mặc ngày hôm trước ra, đưa cho Tập Nhân. Lại trông thấy cái bọc áo nhỏ màu xam xám lót lụa đỏ, trong bọc chỉ có hai cái áo da bọc lông đã mặc dở chừng và cái áo khoác bằng da. Phượng Thư lại sai Bình Nhi đưa ra một cái bọc lụa màu trắng bọc thêm cái áo đi tuyết. Bình Nhi lấy ra một cái áo da vượn cũ màu đỏ, một cái nữa dệt bằng lông chim màu đỏ hơi rung rúc. Tập Nhân nói:

- Một cái còn không mang nổi nữa là.

Bình Nhi cười nói:

- Chị lấy cái áo da vượn này. Nhân tiện tôi lấy cái áo kia ra bảo người đưa cho cô Hình Tụ Yên. Hôm qua tuyết xuống nhiều, người ta ai cũng mặc áo da vượn, hoặc áo lông, hàng mười bộ quần áo, màu đỏ rọi xuống tuyết trắng, trông rất lịch sự! Chỉ có cô ta là mặc mấy cái quần áo cũ, xo vai rụt cổ, trông thực đáng thương! Giờ tôi mang cái áo này cho cô ấy.

Phượng Thư cười nói:

- Của tôi mà chị tự tiện mang cho người ta. Một mình tôi phung phí chưa đủ, lại còn thêm chị nhắc đi nữa, càng tốt.

Mọi người cười nói:

- Đó cũng là vì ngày thường mợ có bụng hiếu kính bà, thương yêu kẻ dưới; nếu mợ là người bủn xỉn, cái gì cũng cóp nhặt cho mình, không nghĩ đến kẻ dưới, thì cô ấy đâu dám như thế?

Phượng Thư cười nói:

- Cho nên có nó là biết lòng tôi ít nhiều thôi.

Nói xong, lại dặn Tập Nhân:

- Bà nhà chị khỏe thì thôi, nếu có mệnh hệ nào, chị cứ ở lại cho người về bảo tôi, tôi sẽ sai người mang chăn màn đến cho. Chị đừng nên dùng chăn màn và gương lược của ai.

Lại dặn vợ Chu Thụy:

- Chắc các chị đã biết khuôn phép nhà này rồi, tôi không phải dặn nhiều nữa.

Vợ Chu Thụy nói:

- Biết rồi ạ. Chúng tôi đến đấy, sẽ bảo người nhà họ phải tránh. Nếu cần ở lại, sẽ ở riêng một, hai gian buồng trong.

Nói xong, cùng Tập Nhân đi ra, lại dặn dò đám hầu nhỏ sắp sẵn đèn lồng, rồi lên xe đến nhà Hoa Tự Phương.

Phượng Thư lại gọi hai bà già ở viện Di Hồng đến bảo:

- Tập Nhân chưa về ngay được đâu. Ngày thường các người biết a hoàn lớn nào thạo việc thì sai đến trực đêm nhà chú Bảo. Các người phải trông nom cẩn thận, không được để chú ấy làm càn.

Hai bà già vâng lời đi ra, một lúc về trình:

- Đã cắt Tình Văn và Xạ Nguyệt ở trong nhà rồi, bốn người chúng tôi sẽ thay phiên nhau trực đêm.

Phượng Thư gật đầu, lại bảo:

- Tối đến bảo chú ấy phải đi ngủ sớm, sáng ra phải dậy sớm.

Bọn bà già vâng lời rồi về trong vườn.

Một lúc, vợ Chu Thụy về báo tin cho Phượng Thư biết:

- Mẹ Tập Nhân đã chết rồi, Tập Nhân không thể về được.

Phượng Thư đến trình Vương phu nhân, rồi sai người đến vườn Đại Quan lấy chăn nệm và hộp trang điểm của Tập Nhân. Bảo Ngọc trông cho Tình Văn, Xạ Nguyệt sửa soạn đâu vào đấy. Sau khi đưa người mang đi rồi, Tình Văn, Xạ Nguyệt cởi đồ trang sức và đi thay quần áo. Sau đó Tình Văn cứ ngồi sưởi ở cạnh lò. Xạ Nguyệt cười nói:

- Hôm nay chị đừng giở lối tiểu thư ra nữa, hãy mó tay vào việc một tí.

- Bao giờ các chị đi hết, tôi sẽ làm cũng chưa muộn. Có các chị ở đây ngày nào, tôi hãy chơi cho thỏa ngày ấy đi.

- Chị ơi, tôi đi trải giường đây, chị cao hơn tôi hãy bấm cái bấm ở trên đầu giá gương, để buông cái phủ gương xuống.

Nói xong, liền đi trải giường cho Bảo Ngọc. Tình Văn "hừ" một tiếng, cười nói:

- Người ta vừa mới ngồi ấm được một tí, chị lại đến quấy rầy!

Bấy giờ Bảo Ngọc đang ngồi buồn, nghĩ mẹ Tập Nhân không biết sống chết ra sao. Thấy Tình Văn nói thế, liền đứng ngay dậy, bấm cái nút cho vải phủ gương buông xuống, rồi đi đến cười nói:

- Tôi đã làm xong cả rồi, các chị cứ ngồi đấy cho ấm.

Tình Văn cười nói:

- Ngồi ấm mãi thế nào được. Tôi vừa nghĩ ra, còn chưa mang lồng ấp vào đây.

Xạ Nguyệt nói:

- Khen cho chị lại nghĩ đến điều đó. Ngày thường cậu ấy có dùng lồng ấp đâu, vì đã có lò sưởi, không lạnh như ở trong nhà trong, nên hôm nay không cần.

Bảo Ngọc cười nói:

- Đêm nay hai chị ngủ ở đằng này cả, bên ngoài chỗ tôi nằm không có người, tôi sợ lắm không ngủ được.

Tình Văn nói:

- Tôi ngủ ở đây, cậu bảo chị Xạ Nguyệt ra bên ngoài mà ngủ.

Khi nói chuyện thì đã hết canh hai, Xạ Nguyệt đã buông rèm màn xuống, cất đèn, thắp hương, sắp sửa cho Bảo Ngọc đi nằm, rồi hai người mới đi ngủ. Tình Văn ngủ ngay cạnh lò sưởi, Xạ Nguyệt ra ngủ ở ngoài noãn các.

Đến canh ba, Bảo Ngọc nằm mê, gọi Tập Nhân hai tiếng liền, không ai trả lời. Tỉnh dậy, biết là Tập Nhân không ở nhà.

Bảo Ngọc bật cười.

Tình Văn cũng tỉnh dậy gọi Xạ Nguyệt:

- Ngay cả tôi cũng đã tỉnh dậy. Thế mà nó nằm ngay ở bên cạnh đó lại không biết một tý gì, thật là cái thây chết!

Xạ Nguyệt giở mình ngáp dài, cười nói:

- Cậu gọi Tập Nhân, việc gì đến tôi.

Liền hỏi:

- Cậu cần gì?

- Tôi muốn uống nước.

Xạ Nguyệt dậy, chỉ mặc một cái áo bông lụa hồng. Bảo Ngọc nói:

- Khoác áo da của tôi mà đi, cẩn thận kẻo lạnh đấy.

Xạ Nguyệt nghe nói, quay lại khoác cái áo bằng da con rái cá lót bông của Bảo Ngọc, đi xuống rửa tay, rót một chén nước nóng, lấy ống nhổ cho Bảo Ngọc súc miệng, sau mới lấy chén ở tủ chè xuống, tráng qua nước sôi, rót nửa chén trà đưa cho Bảo Ngọc uống. Xạ Nguyệt cũng súc miệng, uống nửa chén nước. Tình Văn cười nói:

- Em ơi, cho chị một chén!

- Càng ngày chị càng lên mặt!

- Em ơi, tối mai em đừng làm gì, để chị hầu em cả đêm, có được không?

Xạ Nguyệt đành phải lấy nước súc miệng và rót nửa chén nước trà cho Tình Văn uống. Xạ Nguyệt cười nói:

- Cậu và chị Tình Văn đừng ngủ vội, hãy nói chuyện đi, tôi đi ra ngoài một lúc rồi về.

Tình Văn cười nói:

- Ngoài ấy có ma đang đợi em đấy.

Bảo Ngọc nói:

- Ngoài ấy trăng sáng lắm. Chúng tôi nói chuyện, chị cứ việc đi.

Vừa nói vừa ho mấy tiếng.

Xạ Nguyệt mở cửa đi ra đằng sau, vén màn nhung lên xem, thấy trăng sáng thực. Xạ Nguyệt đi ra, Tình Văn định chạy theo dọa đùa chơi. Tình Văn cậy mình xưa nay khỏe hơn mọi người, không sợ rét, chỉ mặc một cái áo lót, không mặc áo ngoài, rón rén bước khỏi lò sưởi. Bảo Ngọc ngăn lại:

- Thôi đi, trời rét đấy, không phải chuyện đùa đâu!

Tình Văn xua tay đi theo ra cửa, thấy trăng sáng lung linh. Bỗng có một cơn gió nhẹ, lạnh buốt đến xương, rởn cả gai ốc trong bụng nghĩ: "Chẳng trách người ta nói mình đương nóng không nên ra gió. Cơn gió này ghê thật!" Đương định dọa Xạ Nguyệt, thấy Bảo Ngọc ở trong gọi to:

- Chị Tình Văn ra đấy!

Tình Văn vội quay về cười nói:

- Nào đã dọa chết nó đâu? Cậu lại có vẻ lo lắng thắc thỏm như đàn bà ấy.

Bảo Ngọc cười nói:

- Không phải tôi sợ bị dọa chết chị ta đâu, một là chị bị lạnh không nên, hai là chị ta bất thình lình kêu lên, làm người khác giật mình tỉnh dậy, họ có biết là mình đùa đâu, lại cho là Tập Nhân mới đi vắng một đêm đã thấy ma thấy mãnh rồi. Chị đi lại kéo cái chăn lên cho tôi một tý.

Tình Văn chạy lại kéo chăn, rồi ủ ngay tay vào đó. Bảo Ngọc cười nói:

- Tay chị lạnh quá! Tôi đã bảo chị khéo bị rét mà!

Lại thấy hai má Tình Văn đỏ ửng lên, đặt tay vào, thấy lạnh giá. Bảo Ngọc nói:

- Mau mau vào chăn đây mà ủ đi.

Nói chưa dứt lời, thấy tiếng cửa kêu cạch một cái, Xạ Nguyệt hớt hải chạy vào cười nói:

- Tôi sợ đến rùng mình! Trông thấy cái gì như người chồm chỗm trong bóng tối ở đằng sau núi ấy. Tôi định kêu, té ra con gà rừng to. Trông thấy người nó mới bay ra chỗ sáng. Nếu kêu bừa lên, lại làm ầm ĩ cả nhà.

Vừa nói vừa đi rửa tay, lại cười nói:

- Cậu bảo Tình Văn ra đấy, sao tôi không trông thấy nó. Chắc nó lại định ra dọa tôi chứ gì?

Bảo Ngọc cười nói:

- Chả phải chị ấy đương ủ ở trong chăn đấy à? Nếu tôi không gọi mau, thế nào chị cũng bị giật mình.

Tình Văn cười nói:

- Tôi không cần phải dọa, con ranh ấy đã sợ run lên rồi.

Vừa nói vừa chui vào trong chăn, Xạ Nguyệt nói:

- Chị cứ ăn mặc cụt lủn đi ra ngoài phải không?

Bảo Ngọc cười nói:

- Ăn mặc như thế mà cũng đi ra ngoài đấy!

Xạ Nguyệt nói:

- Chị thì chết cũng chả cần phải chọn ngày. Hãy ra đây đứng một lúc xem lại không rét xé da ra à?

Nói xong mở nắp lò sưởi ra, cầm cái gạt than vùi than hồng xuống, bỏ thêm hai viên nữa, đậy nắp lại, rồi đến sau bình phong khêu đèn lên, xong mới đi ngủ.

Tình Văn lúc nãy bị lạnh, bây giờ ấm lên, hắt hơi mấy tiếng. Bảo Ngọc thở dài:

- Thế nào? Lại bị cảm rồi đấy.

Xạ Nguyệt cười nói:

- Sớm dậy chị ta đã kêu khó chịu, cả ngày không muốn ăn cơm, bây giờ lại không biết giữ mình, còn định chòng ghẹo người ta. Ngày mai mà ốm thực là thân làm tội thân!

Bảo Ngọc hỏi:

- Đầu có nóng không?

Tình Văn ho hai tiếng, nói:

- Không can gì, đâu đã yếu ớt đến thế.

Bỗng đồng hồ nhà ngoài keng keng hai tiếng, bà già canh đêm ho, rồi nói:

- Các cô đi ngủ, mai hãy cười đùa.

Bảo Ngọc khẽ cười, nói:

- Chúng ta đừng nói chuyện nữa, kẻo họ lại nói cho đấy.

Hôm sau trở dậy, quả nhiên Tình Văn thấy mũi tắc, tiếng nặng, chân tay rời rạc. Bảo Ngọc nói:

- Đừng ai nói ầm lên đấy! Lỡ bà biết, lại bắt về nhà nghỉ. Ở nhà vẫn tốt, nhưng sợ lạnh, không bằng ở đây. Chị cứ vào nằm trong nhà, tôi sẽ cho người đi mời thầy thuốc lẻn vào cửa sau xem bệnh cho.

Tình Văn nói:

- Dù thế mặc lòng, cậu cũng nên nói cho mợ Cả biết. Nếu không chốc nữa thầy thuốc đến, mợ ấy hỏi sẽ nói thế nào?

Bảo Ngọc nghe nói có lý, liền gọi một bà già bảo:

- Bà đi trình với mợ Cả là chị Tình Văn chỉ bị cảm lạnh qua loa, không nặng đâu. Chị Tập Nhân đi vắng, nếu chị ấy về nhà nghỉ, ở đây không còn ai trông nom. Tôi sẽ cho mời một thầy thuốc đi luồn cửa sau vào xem bệnh cho chị ấy, đừng nên để bà Hai biết.

Bà già đi một lúc về nói:

- Mợ Cả dặn là cho uống hai thang thuốc, khỏi thì chớ, nếu không, nên cho chị ấy về nhà nghỉ. Thời tiết bây giờ không tốt, lây sang người khác không sao, chứ lây sang các cô thì rầy rà lắm.

Tình Văn nằm ở trong noãn các đương ho, nghe thấy thế, tức kêu rầm lên:

- Tôi có bị bệnh dịch đâu mà sợ lây đến người khác? Tôi thử đi ra khỏi chỗ này, xem các người suốt đời có nhức đầu chóng mặt hay không?

Rồi định trở dậy, Bảo Ngọc vội ngăn lại cười nói:

- Đừng nóng thế, đó là mợ ấy sợ bà biết sẽ bị mắng, nên dặn qua đấy thôi. Chị xưa nay tính hay gắt, chắc bị bốc hỏa lên rồi.

Ngay lúc ấy có người vào trình "Thầy thuốc đã đến". Bảo Ngọc đứng dậy nép vào đằng sau tủ sách. Mấy bà già ở cửa sau, đưa thầy thuốc vào. A hoàn ở trong nhà đều lẩn đi hết, mấy bà già buông màn thêu màu hồng ở noãn các xuống. Tình Văn nằm ở trong màn thò tay ra. Thầy thuốc trông thấy tay có để hai móng dài độ hai, ba tấc, nhuộm màu hoa kim phượng, liền quay đầu đi. Bà già vội mang một mảnh lụa che lên tay. Thầy thuốc bắt mạch một lúc rồi ra nhà ngoài bảo bọn bà già:

- Bệnh của tiểu thư là ngoại cảm nội trệ. Mấy hôm nay thời tiết không tốt, chắc là bị cảm hàn xoàng thôi. May tiểu thư ngày thường ăn uống điều dộ, bệnh không đến nỗi nặng lắm, chẳng qua vì khí huyết yếu sẵn, nên cho uống vài thang sơ tán là khỏi.

Bấy giờ Lý Hoàn đã sai người bảo a hoàn ở cổng sau và các nơi tránh đi, nên thầy thuốc thấy trong vườn không có một người con gái nào. Một chốc ra cửa vườn, vào ngồi ở buồng canh của bọn hầu nhỏ để kê đơn. Bà già nói:

- Thầy đừng đi vội, cậu Hai tôi tính hay lôi thôi, sợ còn muốn hỏi gì chăng.

Thầy thuốc vội hỏi:

- Vừa rồi không phải là cô, mà là cậu à? Nhà ấy là buồng thêu, buông màn xuống để xem mạch, sao lại bảo là cậu.

Bà già cười nói:

- Thầy ơi! Thảo nào đứa bé vừa nói: Hôm nay mời một thầy thuốc mới đến xem mạch, nên người không biết trong nhà chúng tôi! Nhà ấy là nhà của cậu tôi, còn người bị bệnh là a hoàn trong nhà, lại là "đại thư" kia đấy, có phải là buồng thêu của tiểu thư nào đâu? Nếu tiểu thư ốm, thày đâu lại được vào dễ dàng như thế?

Nói xong cầm đơn thuốc đi.

Bảo Ngọc xem đơn, thấy có kê các vị tử tô, cát cánh, phòng phong, kinh giới; sau lại kê chỉ thực, ma hoàng. Bảo Ngọc liền nói:

- Chết thật! Hắn chữa bệnh cho con gái như là chữa cho con trai vậy, dùng thế nào được? Chị ấy có uất trệ chăng nữa, cũng không được dùng chỉ thực, ma hoàng. Ai mời hắn thế? Tống cổ ngay nó đi! Mời một thầy thuốc quen đến đây.

Bà già nói:

- Tôi không biết thuốc thày này có hay gì không. Bây giờ sai đứa hầu nhỏ đi mời thầy thuốc họ Vương đến cũng được. Nhưng còn thày này, thế nào cũng phải trả tiền xe cho họ, vì khi mời không nói cho phòng tổng quản biết.

- Giả cho nó bao nhiêu?

- Giả ít không tiện, xoàng ra cũng phải một lạng mới đúng lẽ của nhà ta.

- Trả thầy thuốc họ Vương bao nhiêu?

- Thầy thuốc họ Vương và thầy thuốc họ Trượng, mỗi khi đến xem bệnh, không phải trả tiền vặt, chẳng qua một năm bốn mùa, đưa lễ một lần thôi, đó là lệ nhất định hàng năm, còn thày này mới đến, nên trả cho họ một lạng.

Bảo Ngọc liền sai Xạ Nguyệt đi lấy tiền. Xạ Nguyệt nói

- Không biết chị Hoa cất ở đâu.

- Tôi vẫn thấy chị ấy lấy tiền ở cái hòm khảm xà cừ nhỏ, tôi và chị đi tìm xem.

Hai người vào buồng để đồ đạc của Tập Nhân, mở hòm khảm ra, thấy ngăn trên để bút mực, quạt, bánh hương túi và khăn mặt; ngăn dưới để mấy chuỗi tiền. Mở ngăn kéo ra, thấy trong hộp nhỏ có mấy cục bạc và một cái cân tiểu ly. Xạ Nguyệt lấy một cục bạc và cái cân, hỏi Bảo Ngọc:

- Cái hoa một lạng ở chỗ nào?

- Chị hỏi tôi hay thật, cứ làm như là người mới đến ấy.

Xạ Nguyệt cũng cười, rồi định đi hỏi người khác. Bảo Ngọc nói:

- Chọn cục nào to nhất trả cho hắn. Đây không phải là buôn bán, tính toán làm gì!

Xạ Nguyệt nghe nói, bỏ cân xuống, chọn một cục, nhấc đi nhấc lại, cười nói:

- Có nhẽ cục này một lạng đây. Thà cho hơn một tí, kẻo thầy kiết ấy không cười chúng ta không biết cân, lại cho là chúng ta bủn xỉn.

Bà già đứng ở cửa cười nói:

- Đó là một thỏi năm lạng, đã cắt đi một nửa rồi, cục này ít nhất cũng phải hai lạng đấy! Giờ không có dao chặt, cô hãy cất nó đi, chọn một cục nào nhỏ hơn.

Xạ Nguyệt đã khóa hòm, đi ra cười nói:

- Ai còn tìm được nữa, nhiều ít bà cũng cứ mang đi cho xong!

Bảo Ngọc nói:

- Bảo Dính Yên đi mời thầy thuốc khác đến.

Bà già cầm lấy cục bạc đi ra. Một lúc Dính Yên mời thầy thuốc họ Vương đến, ông ta trước xem mạch, sau gọi bệnh, khác hẳn thầy thuốc lúc nãy.

Trong đơn quả nhiên không có những vị chỉ thực, ma hoàng, lại kê những vị đương quy, trần bì, bạch thước, đồng cân đồng lạng cũng bớt hơn đơn trước. Bảo Ngọc vui mừng nói:

- Đây mới là thuốc cho con gái uống. Tuy có sơ tán, nhưng không mạnh quá. Năm ngoái tôi cũng bị cảm hàn, ăn uống không tiêu, ông ta xem mạch xong, bảo tôi không nên dùng những vị thuốc hùm thuốc beo như ma hoàng, thạch cao, chỉ thực. Tôi và các chị cũng như hoa hải đường trắng mới nở mà mùa thu vừa rồi cháu Vân đem đến biếu ấy. Tôi còn không dùng, thì các chị dùng thế nào được? Cũng như những cây dương lớn, người ta trồng ở trên mả, cành lá xanh tốt thực, nhưng ruột thì rỗng.

Xạ Nguyệt cười nói:

- Mồ mả ngoài đồng không lẽ chỉ có cây dương, mà không có cây tùng cây bách à? Người ta ghét nhất là cây dương, cây to như thế lại chỉ có một tí lá. Không có một tí gió nào, nó cũng cứ rào rào luôn. Thế mà cậu cứ so sánh với cây dương, thực là hèn quá!

Bảo Ngọc cười nói:

- Tôi không dám ví với tùng bách. Ngay Khổng Tử cũng còn nói "năm rét mới biết tùng bách héo sau"(1). Tùng bách là hai thứ cây cao nhã, người không biết xấu hổ mới đem nó ra ví bậy thôi.

Nói xong, thấy bà già mang thuốc về, Bảo Ngọc sai lấy cái ấm bạc đến, sắc ngay ở lò sưởi. Tình Văn nói:

- Cứ đưa cho phòng trà họ sắc! Chứ sắc ở đây mùi thuốc xông lên, chịu thế nào được.

Bảo Ngọc nói:

- Mùi thuốc còn thơm hơn các mùi hoa đấy! Ngay thần tiên còn hái thuốc, sắc thuốc, bậc cao nhân dật sĩ cũng hái thuốc trị bệnh nữa là. Thuốc là một thứ rất quí! Tôi nghĩ trong nhà này mùi thơm gì cũng có, chỉ còn thiếu mùi thuốc thôi, bây giờ có đủ cả.

Bảo Ngọc lại bảo Xạ Nguyệt sắp sửa các thứ, sai bà già đưa cho Tập Nhân, khuyên bảo chị ta ít khóc chứ. Mọi việc xong xuôi, Bảo Ngọc mới sang bên Giả mẫu và Vương phu nhân hỏi thăm rồi ăn cơm.

Phượng Thư bàn với Giả mẫu và Vương phu nhân:

- Ngày vừa ngắn, vừa lạnh, từ nay trở đi, chị Cả cứ cho các cô ăn cơm ở trong vườn. Khi nào trời ấm sẽ sang đây cũng được.

Vương phu nhân cười nói:

- Chị bàn thế phải đấy. Khi có gió tuyết cũng tiện. Bụng vừa đói vừa lạnh, lại ăn thức ăn vào, không tốt lắm đâu. Chi bằng lấy năm gian nhà ở phía sau cửa vườn và hai người trong bọn đàn bà canh đêm ở bên ấy ra thổi nấu cho chị em họ ăn. Các thứ rau tươi đã chia phần rồi, do phòng tổng quản chi ra, hoặc lấy tiền, hoặc lấy món ăn. Còn các thứ dã vị như gà rừng, hươu, nai... cứ chia phần cho họ là được.

Giả mẫu nói:

- Ta cũng muốn thế, nhưng sợ thêm bếp lại thêm việc.

Phượng Thư nói:

- Cũng chẳng thêm việc gì đâu, bên này thêm thì bên kia bớt đi. Nếu sợ bận việc để các cô ấy bị lạnh, người khác còn khá, chứ em Lâm thì chịu làm sao được? Ngay cả chú Bảo cũng không thể chịu nổi. Vả chăng, tất cả các cô chẳng ai được mạnh.

Giả mẫu nói:

- Phải đấy. Lần trước ta cũng định nói, nhưng vì thấy các người bận nhiều việc. Nay lại thêm việc này ra, tuy các người không dám oán trách gì, nhưng sẽ cho ta chỉ biết thương lũ cháu nhỏ, không nghĩ đến các người phải bận rộn việc nhà. Chị đã nói thế thì làm ngay đi.

Lúc ấy Tiết phu nhân và thím Lý đều ngồi ở đấy, Hình phu nhân và Vưu Thị cũng đến hỏi thăm chưa về. Giả mẫu bảo Vương phu nhân:

- Câu này ta để bụng từ lâu, nay mới nói ra: một là, ta sợ con Phượng lên mặt, hai là sợ mọi người không phục. Bây giờ các người đều ở đây, cũng đã từng qua cảnh làm dâu làm con cả, liệu có ai nghĩ được chu đáo như nó không?

Tiết phu nhân, thím Lý và Vưu Thị đều cười nói:

- Thực là hiếm có! Người khác chỉ nói khéo bề ngoài thôi, chứ thím ấy mới thực biết thương đến các cô các chú, biết hiếu thuận với cụ.

Giả mẫu gật đầu nói:

- Tôi tuy thương nó, nhưng lại sợ nó sắc sảo quá cũng không tốt đâu.

Phượng Thư vội cười nói:

- Bà nói nhầm rồi. Người ta thường nói: thông minh sắc sảo quá sợ không sống lâu. Nói thế rồi tin là thế. Nhưng chỉ có bà là không nên nói thế và cũng không nên tin thế. Bà thông minh sắc sảo gấp mười cháu, sao lại được phúc thọ song toàn như thế? Có lẽ ngày sau cháu lại còn được hơn bà nữa kia. Cháu sẽ sống một nghìn tuổi, chờ khi bà về chầu trời rồi cháu mới chết.

Giả mẫu cười nói:

- Mọi người đều chết, chỉ trơ lại bà cháu ta là hai con yêu già, còn có gì là thú nữa!

------------------------

1. Chữ trong sách Luận ngữ.

Hồi thứ năm mươi hai

Bình Nhi cố tình giấu việc mất vòng ngọc;

Tình Văn đương ốm, vùng dậy vá áo cừu

Mọi người ra về, riêng có chị em Bảo Thoa ở lại ăn cơm với Giả mẫu. Bảo Ngọc chợt nhớ đến Tình Văn, liền về vườn trước. Vừa đến nhà, thấy mùi thuốc thơm sực, không có một người nào, chỉ trơ Tình Văn nằm ở trên giường, mặt đỏ bừng, người nóng giật. Bảo Ngọc đến lò sưởi hơ tay rồi thò vào chăn sờ trên người Tình Văn thấy nóng như lửa, liền nói:

- Người khác bỏ đi cũng được, chứ Xạ Nguyệt, Thu Văn sao lại vô tình bỏ cả đi thế?

Tình Văn nói:

- Thu Văn thì tôi bảo đi ăn cơm, còn Xạ Nguyệt thì chị Bình vừa đến tìm đi. Hai người thậm thụt, không biết nói gì. Chắc họ nói chuyện tôi ốm, không chịu dời ra khỏi nhà này chứ gì.

Bảo Ngọc nói:

- Chị Bình không phải là người như thế đâu. Vả chăng chị ta không biết chị ốm, chắc tìm Xạ Nguyệt để nói chuyện gì đấy, ngẫu nhiên thấy chị ốm, liền thuận miệng nói là đến thăm chị, đó cũng là câu chuyện mà người ta hay xử khéo đấy thôi. Chị không chịu dời khỏi nhà này có can gì đến chị ấy. Các chị xưa nay vẫn tử tế với nhau, quyết không nên vì chút việc không đâu để mất tình thân.

Tình Văn nói:

- Cậu nói phải đấy, nhưng chỉ ngờ tại sao tự nhiên chị ta lại giấu tôi?

- Để tôi ra phía cửa sau, đứng dưới cửa sổ nghe xem họ nói những gì, sẽ về bảo chị.

Nói xong, Bảo Ngọc đi ra cửa sau, đứng nấp dưới cửa sổ nghe, thấy Xạ Nguyệt khẽ hỏi:

- Làm sao mà chị lại tìm được?

Bình Nhi nói:

- Hôm ấy, khi rửa tay không thấy, mợ Hai không cho nói ra. Khi ra khỏi vườn, liền truyền ngay cho bọn bà già ở các nơi phải hết lòng dò xét. Chúng tôi chỉ ngờ cho a hoàn của cô Hình, vì nó vốn nghèo, từ bé không trông thấy cái vòng ấy bao giờ, nên nghĩ có nhẽ nó lấy, không ngờ lại là người ở bên nhà các chị. Hôm ấy già Tống bên này cầm cái vòng đến, bảo là con hầu nhỏ Trụy Nhi ăn cắp, già ấy trông thấy, định đến trình với mợ Hai, may mợ ấy không có nhà. Tôi vội cầm lấy vòng, nghĩ cậu Bảo lúc nào cũng để ý đến các chị, muốn cho hơn người. Năm trước có con Lương ăn trộm ngọc, việc này đã bẵng đi hai năm, những lúc rỗi vẫn có người nhắc đến cho hả dạ. Bây giờ lại xảy ra một con ăn trộm vòng vàng, mà lại ăn trộm của người nhà. Cậu ấy thì thế, mà người nhà lại làm cái việc "vả vào miệng mình". Vì thế tôi phải dặn dò già Tống, nhất thiết không được nói cho cậu Bảo biết, cũng không nên nói với người khác nữa, cứ im đi như không, nếu cụ và bà Hai biết, người sẽ nổi giận. Hơn nữa, chị Tập Nhân và các chị cũng đâm ngượng mặt. Cho nên tôi chỉ trình mợ Hai rằng: Khi sang bên mợ Cả về, không ngờ cái vòng tuột ra, rơi xuống bãi cỏ, tuyết phủ lên không tìm thấy. Nay tuyết tan, nắng chiếu xuống, màu vàng đỏ ối, thì nó vẫn còn đấy, tôi lại tìm được. Mợ Hai cũng tin thế, nên tôi đến bảo các chị: từ nay trở đi phải để ý không nên sai nó đi đâu. Đợi chị Tập Nhân về, các chị bàn với nhau tìm cách đuổi nó đi là xong.

Xạ Nguyệt nói:

- Con ranh ấy đã trông thấy những của ấy rồi, làm sao còn híp mắt lại!

- Cái vòng ấy có nặng bao nhiêu đâu! Nguyên là của mợ Hai, gọi là vòng râu tôm, chỉ có hạt châu nặng thôi. Con ranh Tình Văn tính nóng như lửa, nếu nó biết sẽ không nhịn được đâu. Nó cáu lên sẽ lại đánh mắng làm to chuyện. Vì thế tôi chỉ bảo riêng chị phải để ý đấy thôi.

Nói xong Bình Nhi ra về.

Bảo Ngọc nghe nói, vừa mừng, vừa giận, vừa than thở: mừng vì Bình Nhi biết thể tất bụng mình; giận vì con Trụy Nhi ăn cắp; than thở vì con Trụy Nhi người lanh lẹn như thế lại làm những việc xấu xa. Bảo Ngọc về buồng kể hết những lời của Bình Nhi cho Tình Văn nghe, rồi nói:

- Chị Bình bảo chị nóng tính, lại đang ốm, nghe thấy sợ ốm thêm, vì vậy chờ chị khỏi sẽ nói.

Tình Văn giận quá, mày ngài dựng ngược, mắt phượng tròn xoe, muốn gọi ngay con Trụy Nhi đến, Bảo Ngọc khuyên:

- Bây giờ lại làm ầm lên thì chẳng hóa ra phụ lòng chị Bình đối với tôi và chị hay sao? Chi bằng hãy nhận lấy tấm lòng tốt của chị ấy, rồi sau tìm cách đuổi nó đi là xong.

- Mặc dầu cậu nói thế, nhưng tôi tức quá, nhịn sao được?

- Việc ấy có gì đáng tức? Chị cứ nên tĩnh dưỡng đi.

Tình Văn uống nước thuốc thứ hai, đến đêm tuy ra được ít mồ hôi, nhưng chưa thấy bớt, người vẫn nóng hực, nhức đầu, ngạt mũi, nặng tiếng. Hôm sau thầy thuốc họ Vương lại đến xem mạch, gia giảm một vài vị. Nóng tuy đỡ nhưng đầu vẫn nhức. Bảo Ngọc liền bảo Xạ Nguyệt lấy thuốc xông mũi đến cho Tình Văn ngửi, nếu hắt hơi được mấy cái thì nhẹ ngay. Xạ Nguyệt đi lấy cái hộp pha lê nhỏ giát vàng đưa cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc mở ra, thấy hình một cô gái bé tóc vàng, mình trần, hai bên nách lại có cánh, trong đó đựng thuốc tây hạng tốt nhất. Tình Văn chỉ mải nhìn hình cô gái, Bảo Ngọc nói:

- Ngửi đi, để hả hơi thì không tốt.

Tình Văn liền lấy móng tay khêu một tí để vào mũi chẳng thấy gì, lại khêu thêm một tí nữa, ngửi thấy một mùi cay gắt xông lên tận óc, hắt hơi năm sáu cái liền, nước mắt nước mũi chảy giàn giụa. Tình Văn cất hộp đi, cười nói:

- Cay lắm! Không chịu được! Cho tôi ít giấy.

A hoàn nhỏ đã mang sẵn tập giấy đến. Tình Văn lấy từng tờ ra hỉ mũi.

Bảo Ngọc cười hỏi Tình Văn:

- Thế nào?

- Dễ chịu hơn. Nhưng thái dương hãy còn nhức.

- Cứ chữa thuốc tây có lẽ khỏi đấy.

Nói xong Bảo Ngọc liền bảo Xạ Nguyệt:

- Chị đến đằng mợ Hai bảo là tôi nói: "Đằng ấy thường có thứ thuốc cao "Y phơ na" của ngoại quốc dùng để chữa nhức đầu cho tôi một ít."

Xạ Nguyệt vâng lời đi một lúc, cầm nửa miếng về. Rồi lấy một mảnh lụa hồng, cắt hai miếng tròn bằng đầu ngón tay, hơ cho thuốc cao chảy, lấy trâm dàn mỏng ra, Tình Văn soi gương rồi xoa lên hai bên thái dương. Xạ Nguyệt cười nói:

- Ốm như con ma bù đầu, bây giờ dán cái này lên, xem lại có vẻ xinh! Mợ Hai dán luôn trông quen mắt nên không khác mấy.

Xạ Nguyệt lại nói với Bảo Ngọc:

- Mợ Hai bảo: ngày mai là sinh nhật ông cậu, bà bảo cậu phải đi dự lễ. Vậy cậu định mặc quần áo gì, để tôi sắp sẵn; sớm mai khỏi phải bận.

- Tiện cái gì thì mặc cái ấy thôi. Quanh năm chỉ bận về sinh nhật, biết bao giờ cho xong.

Bảo Ngọc đứng dậy đi đến nhà Tích Xuân xem vẽ. Vừa đến ngoài cửa, thấy a hoàn của Bảo Cầm là Tiểu Loa ở đằng kia đi tới, Bảo Ngọc vội chạy đến hỏi:

- Chị đi đâu?

- Hai cô tôi đều ở cả bên nhà cô Lâm, giờ tôi cũng đi sang đó.

Bảo Ngọc nghe nói, cùng Tiểu Loa quay sang quán Tiêu Tương, gặp cả chị em Bảo Thoa và Tụ Yên đều ở đây. Bốn người đương ngồi xung quanh lò sưởi nói chuyện việc nhà việc cửa. Tử Quyên thì ngồi thêu ở trước cửa sổ noãn các. Trông thấy Bảo Ngọc, mọi người cười nói:

- Lại thêm một người nữa. Không có chỗ cho anh ngồi đâu.

Bảo Ngọc cười nói:

- Thật là một bức tranh đồng khuê tập diễm!(1) Rất tiếc tôi đến chậm quá! Nhưng dầu sao nhà này cũng ấm hơn các nhà khác, ngồi ở ghế cũng không thấy lạnh.

Nói xong liền ngồi vào chỗ Đại Ngọc thường ngồi, là chỗ ghế dựa có trải tấm dd chuột gio. Nhân thấy trong noãn các có một cái chậu bằng ngọc thạch, trong chậu trồng mấy cụm thủy tiên giống một giò, chỗ nhặt chỗ thưa, Bảo Ngọc khen nức nở:

- Hoa này đẹp nhỉ! Nhà này càng ấm, mùi hoa càng đượm! Tại sao hôm qua tôi không trông thấy?

Đại Ngọc cười nói:

- Đó là vợ Lại Đại, tổng quản nhà anh, cho cô Bảo Cầm, có hai chậu thủy tiên, hai chậu lạp mai. Cô ấy đem cho em một chậu thủy tiên, cho cô Thám một chậu lạp mai. Em vốn không muốn lấy, lại sợ phụ lòng cô ấy. Giờ anh thích, xin biếu lại anh, có được không?

- Ở nhà anh cũng có hai chậu, nhưng không đẹp bằng chậu này. Cô Bảo Cầm đã cho em, sao em lại cho người khác? Không thể thế được.

- Em ngày nào cũng không rời khỏi lò thuốc, đã quen mùi thuốc lắm rồi, lại còn ngạt thêm mùi hoa nữa thì chịu sao nổi, chỉ tổ ốm thêm thôi. Vả chăng nhà này sực những mùi thuốc làm hỏng mất mùi hoa đi. Anh mang về bên ấy để cho hoa được trong sạch, không bị mùi khác lẫn vào.

- Nhà anh hôm nay cũng có người ốm, đương sắc thuốc đấy. Em không biết à?

- Anh nói mới lạ chứ. Em vô tình nói câu ấy, chứ biết đâu được việc bên anh? Anh không đến sớm mà nghe truyện cổ tích, bây giờ lại ra vẻ nhớn nhơ nhớn nhác.

- Ngày mai chúng ta mở thi xã, lại có đầu bài rồi, cứ vịnh ngay thủy tiên và lạp mai là được.

- Thôi, thôi! Em không dám làm thơ nữa, làm lần nào cũng bị phạt, thực xấu hổ quá.

Nói xong liền giơ tay che mặt. Bảo Ngọc cười nói:

- Việc gì lại đem anh ra làm trò đùa? Chính anh còn chưa sợ xấu hổ mà em lại che mặt đi.

Bảo Thoa cười nói:

- Lần sau tôi sẽ mời họp thi xã, có bốn đầu bài thơ, và bốn đầu bài từ, ai nấy đều phải làm hết. Đầu bài thơ là Vịnh đồ thái cực, hạn vần nhất tiên, thơ ngũ ngôn, bao nhiêu chữ ở trong vần nhất tiên phải làm hết, không được bỏ sót một chữ nào.

Bảo Cầm cười nói:

- Nghe đã đủ biết chị không thích mời họp thi xã rồi, rõ ràng là chị tìm cách làm khó cho người ta thôi. Như vậy là gò ép chỉ lấy những câu ở trong kinh Dịch xoay đi xoay lại mà điền bừa vào, còn thú gì nữa! Khi tôi lên tám tuổi, theo cha tôi sang miền bể tây mua hàng. Ngờ đâu ở đó có một cô gái nước Chân Chân, mới mười lăm tuổi, nét mặt đẹp như một vị mỹ nhân ở bức tranh vẽ của phương tây, tóc vàng, tết hai đuôi sam, trên đầu cài đầy những mã não, san hô, ngọc mắt mèo và ngọc xanh, mình mặc áo giáp dệt kim tuyến, tay áo bầng gấm, đeo dao găm có bịt vàng khảm ngọc. Thực ra người vẽ trong bức tranh cũng không đẹp bằng! Có người nói cô ta thạo chữ Trung Quốc, giảng được nghĩa ngũ Kinh, biết làm thơ và điền từ. Vì thế, cha tôi nhờ một người thông ngôn, xin viết cho một bài thơ do cô ta làm.

Mọi người đều lấy làm lạ. Bảo Ngọc cười nói:

- Em ơi, mang ngay ra đây cho anh xem.

Bảo Cầm nói:

- Em còn để ở Nam Kinh, lấy thế nào được.

Bảo Ngọc nghe nói, rất lấy làm thất vọng, liền nói:

- Thực là vô phúc, tôi không được trông thấy của quí trên đời!

Đại Ngọc cười kéo Bảo Cầm, nói:

- Em đừng nói dối chúng ta. Chắc khi đến đây thế nào em cũng mang theo những thứ ấy đi, không khi nào lại để ở nhà. Ai thì tin, chứ chị không bao giờ tin đâu.

Bảo Cầm đỏ mặt lên, cúi đầu mỉm cười không nói gì. Bảo Thoa cười nói:

- Chỉ có cô Tần mới quen nói những câu như thế. Kể mày cũng tinh ranh quá lắm đấy!

Đại Ngọc cười nói:

- Em đã mang đến đây thì cho các chị xem với.

Bảo Thoa cười nói:

- Một đống hòm xiểng hãy còn bỏ lổng chổng ở đó. Chưa thu xếp xong, đã biết ở đâu mà tìm? Để ít lâu thu dọn xong, sẽ lấy ra cho mọi người xem.

Lại bảo Bảo Cầm:

- Nếu em còn nhớ, sao không đọc cho các chị nghe?

Bảo Cầm nói:

- Em nhớ bài thơ ấy là một bài ngũ ngôn. Con gái nước ngoài mà biết được như thế cũng là hiếm có đấy.

Bảo Thoa nói:

- Em đừng đọc vội, gọi cả chị Vân đến đây nghe một thể.

Liền bảo Tiểu Loa:

- Mày sang bên nhà, nói là có một mỹ nhân nước ngoài đến chơi, làm thơ giỏi lắm, mời cô "điên thơ" sang nghe, và dắt cả con "ngốc thơ" sang nữa.

Tiểu Loa cười rồi đi. Một lúc nghe thấy Tương Vân cười, hỏi:

- Mỹ nhân nước ngoài nào đến đấy?

Vừa nói, vừa cùng Hương Lăng đi vào. Mọi người cười nói:

- Chưa thấy mặt đã thấy tiếng rồi.

Bảo Cầm mời ngồi, rồi đem câu chuyện lúc nãy kể lại cho hai người nghe. Tương Vân cười nói: "Đọc mau lên".

Bảo Cầm đọc:

Lầu son đêm trước mơ màng,

Đêm nay thơ lại ngâm vang trong thuyền.

Bể khơi ngùn ngụt mây đen,

Quẩn quanh khí núi tỏa trên rừng dày.

Trăng kia xưa vẫn thế này,

Bể tình sao lại khi đầy khi vơi.

Hán Nam trải mấy xuân rồi,

Lòng này thắc thỏm dễ nguôi được nào.(2)

Mọi người nghe xong, đều nói: "Khó được có người như thế! Giỏi hơn cả người Trung Quốc chúng ta!"

Nói chưa dứt lời, thì Xạ Nguyệt chạy đến thưa:

- Bà sai người đến bảo cậu Hai sáng mai phải sang bên ông cậu, nói là bà không được khoẻ, nên không sang được.

Bảo Ngọc vội đứng dậy "Xin vâng". Rồi hỏi Bảo Thoa, Bảo Cầm:

- Các cô có đi không?

Bảo Thoa nói:

- Chúng tôi không đi. Hôm qua đã cho mang đồ lễ sang rồi.

Mọi người nói chuyện một lúc rồi mới về.

Bảo Ngọc nhường chị em đi trước, còn mình ở lại sau. Đại Ngọc gọi Bảo Ngọc lại hỏi:

- Tập Nhân độ bao giờ thì về?

- Chắc phải chờ tống táng xong.

Đại Ngọc còn muốn nói nữa, nhưng không nói ra được, đứng ngẩn người một lúc, rồi nói:

- Thôi anh về đi.

Bảo Ngọc cũng cảm thấy trong bụng có nhiều điều muốn nói, nhưng không biết nói thế nào, nghĩ một lúc, cười nói:

- Thôi có chuyện gì ngày mai sẽ hay.

Bảo Ngọc xuống thềm, cúi đầu định đi, nhưng lại quay lại hỏi:

- Bây giờ đêm càng dài, một đêm em ho mấy lần? Tỉnh dậy mấy lần?

Đại Ngọc nói:

- Đêm qua đã đỡ rồi, chỉ ho có vài lần thôi, nhưng ngủ được có một trống canh tư, đã lại dậy rồi.

Bảo Ngọc cười nói:

- Anh có câu chuyện quan hệ muốn nói, bây giờ mới nhớ ra.

Vừa nói, Bảo Ngọc vừa ghé lại gần, khẽ bảo:

- Anh nghĩ đến việc chị Bảo Thoa cho em yến sào...

Chợt thấy dì Triệu đến thăm Đại Ngọc:

- Mấy hôm nay cô đã đỡ chưa?

Đại Ngọc biết ngay là dì Triệu ở bên Thám Xuân về, qua đó tiện đường rẽ vào hỏi lấy lệ, liền mời ngồi, rồi nói:

- Cám ơn dì nhớ đến cháu, trời lạnh thế mà cũng đến.

Rồi bảo pha nước và đưa mắt cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc hiểu ý liền đi ra.

Đến bữa cơm chiều, Vương phu nhân lại dặn Bảo Ngọc mai phải đi sớm. Bảo Ngọc về nhà, trông cho Tình Văn uống thuốc. Đêm hôm ấy, Bảo Ngọc vẫn để Tình Văn ngủ trong noãn các, tự mình đến ngủ phía ngoài Tình Văn. Bảo Ngọc lại sai mang lò sưởi ra phía trước noãn các. Xạ Nguyệt ngủ ngay ở cạnh lò sưởi.

Sớm hôm sau, trời chưa sáng, Tình Văn đã gọi Xạ Nguyệt "Dậy đi thôi ngủ mãi chưa chán à. Em ra bảo người sắp trà nước cho cậu Bảo, rồi chị đánh thức cậu ấy dậy thì vừa". Xạ Nguyệt vội mặc áo đứng dậy, nói:

- Chúng ta hãy gọi cậu ấy dậy thay quần áo, phải khênh lò sưởi đi, rồi hãy gọi bọn bà già vào; vì họ thường nói, không nên cho cậu ấy ngủ ở trong nhà này, sợ bị lây bệnh. Bây giờ thấy chúng ta ngủ cả một chỗ, chắc họ lại eo sèo.

Tình Văn nói:

- Chị cũng nghĩ thế.

Hai người vừa mới gọi, thì Bảo Ngọc đã tỉnh, vội đứng dậy mặc quần áo. Xạ Nguyệt sai bọn hầu nhỏ đến thu xếp đâu vào đấy mới sai bọn Thu Văn vào hầu. Bảo Ngọc rửa mặt chải đầu xong, Xạ Nguyệt nói:

- Trời u ám lắm, chỉ sợ có tuyết, cậu nên mặc thêm một cái áo da nữa.

Bảo Ngọc gật đầu, liền đi thay quần áo. A hoàn nhỏ để chén nước trà sen Phúc Kiến vào cái khay bưng lên, Bảo Ngọc uống hai ngụm. Xạ Nguyệt lại mang đến cái đĩa nhỏ đựng gừng chế, Bảo Ngọc nhấm một miếng, dặn dò Tình Văn, rồi sang bên Giả mẫu.

Giả mẫu chưa dậy, nhưng biết Bảo Ngọc đã đến, liền sai mở cửa gọi vào, Bảo Ngọc thấy Bảo Cầm nằm sau lưng Giả mẫu, quay mặt vào trong chưa dậy. Thấy Bảo Ngọc mặc cái áo chẽn bằng lụa dệt lông màu hồng thẫm, ngoài khoác áo da vượn màu đỏ kép đoạn, Giả mẫu hỏi:

- Có tuyết đấy à?

- Nặng trời lắm, nhưng chưa có tuyết.

Giả mẫu liền gọi Uyên Ương đến bảo:

- Mang cái áo lông công hôm nọ ra cho cậu mặc.

Uyên Ương vâng lời đem đến, Bảo Ngọc trông thấy cái áo màu vàng choáng lộn, màu xanh lấp lánh, không giống cái áo thêu đàn le của Bảo Cầm. Giả mẫu cười nói:

- Áo này gọi là tước kim nê, người nước Nga La Tư dệt bằng sợi lông công đấy. Hôm nọ cho em cháu cái áo lông vịt trời còn cái này thì để cho cháu.

Bảo Ngọc cúi đầu tạ ơn, rồi mặc vào người. Giả mẫu cười nói:

- Sang cho mẹ cháu xem đã rồi hãy đi.

Bảo Ngọc vâng lời đi ra, thấy Uyên Ương đứng ở dưới sân dụi mắt. Từ hôm Uyên Ương thề không đi lấy chồng, đến nay vẫn không chịu nói chuyện gì với Bảo Ngọc. Bảo Ngọc ngày đêm áy náy, bây giờ lại thấy chị ta định tránh mình, liền chạy đến cười hỏi:

- Chị ơi, xem tôi mặc cái áo này có đẹp không?

Uyên Ương hất tay, chạy vào nhà Giả mẫu. Bảo Ngọc đành sang cho Vương phu nhân xem, lại trở về trong vườn cho Tình Văn, Xạ Nguyệt xem, rồi mới đến trình Giả mẫu:

- Mẹ cháu đã xem rồi, bảo là quý lắm, dặn cháu phải mặc cẩn thận đừng làm hư hỏng.

Giả mẫu nói:

- Chỉ còn có cái này thôi, nếu cháu làm hư hỏng thì không còn cái nào khác nữa. Bây giờ muốn may riêng cho cháu một cái cũng không thể nào có được.

Nói xong, lại dặn dò: "không được uống nhiều rượu, phải nhớ về sớm".

Bảo Ngọc vâng liền mấy câu. Bà già vừa theo ra đến ngoài hiên, thì anh vú của Bảo Ngọc là Lý Quý, Vương Vinh, cùng Trương Nhược Cẩm, Triệu Diệu Hoa, Tiền Thăng và Chu Thụy đem theo bốn đứa hầu nhỏ nữa là Dính Yên, Bạn Hạc, Sừ Dược, Tảo Hồng đeo bọc áo, ôm nệm thắng một con ngựa trắng có yên chạm, dây cương tết hoa, cả bọn đã đứng chực ở ngoài từ lâu. Bà già lại dặn dò một hồi, sáu người đều vâng lời, rồi giữ yên và thả bàn đạp xuống. Bảo Ngọc thong thả lên ngựa, Lý Quý, Vương Vinh bịt hàm thiếc ngựa lại, Tiền Thăng, Chu Thụy đi trước dẫn đường, Trương Nhược Cẩm, Triệu Diệc Hoa thì đi sát hai bên. Bảo Ngọc ngồi trên ngựa cười nói:

- Anh Chu, anh Tiền, chúng ta đi sang cửa bên kia, đừng đi qua thư phòng của ông, khỏi phải xuống ngựa.

Chu Thụy nghiêng người cười nói:

- Ông lớn có ở thư phòng đâu, ngày nào cũng khóa cửa, cậu không phải xuống ngựa nữa.

Bảo Ngọc cười nói:

- Cửa khóa cũng phải xuống ngựa.

Tiền Thăng, Lý Quỳ đều cười nói:

- Cậu nói phải đấy. Nếu mượn cớ, lười không chịu xuống, nhỡ ra ông Lại và ông Lâm trông thấy, tuy không nói năng gì, nhưng cũng khuyên bảo mấy câu. Có điều gì không phải lại đổ diệt cho chúng tôi, bảo chúng tôi không nhắc cậu giữ.

Bọn Chu Thụy, Tiền Thăng liền đi thẳng ra cửa bên cạnh. Họ đang nói chuyện, ngẩng mặt lên, thấy Lại Đại đi đến, Bảo Ngọc ghìm ngựa định xuống. Lại Đại vội đến ôm lấy chân. Bảo Ngọc đứng thẳng trên bàn đạp cười, kéo tay, nói mấy câu. Rồi lại thấy đứa hầu nhỏ dẫn hai, ba mươi người cầm chổi và thúng đi đến. Trông thấy Bảo Ngọc, họ đều buông tay đứng sát vào tường, chỉ đứa dẫn đầu trong bọn vái lạy, hỏi thăm. Bảo Ngọc không biết tên họ nó, cũng mỉm cười gật đầu. Khi ngựa đi qua rồi, nó mới dẫn cả bọn đi. Ra đến ngoài cửa bên cạnh, đã có mấy người hầu và phu ngựa của bọn Lý Quý sắp sẵn mười con ngựa chực ở đấy rồi. Vừa ra khỏi cửa, bọn Lý Quý lên ngựa đi trước, cả đoàn vùn vụt chạy theo.

Ở nhà, Tình Văn uống thuốc không thấy bớt, nóng ruột mắng thầy thuốc ầm lên: "Chỉ biết lừa người ta lấy tiền! Chứ không có thang nào hay cả". Xạ Nguyệt cười khuyên bảo:

- Chị nóng nảy quá. Tục ngữ nói: "Bệnh đến nhanh như núi đổ, bệnh khỏi chậm như kéo tơ". Có phải là thuốc tiên của Lão quân đâu mà khỏi ngay được? Chị cứ nên tĩnh dưỡng vài hôm tự khắc khỏi. Chị càng nóng càng thêm khó chữa.

Tình Văn lại mắng đám hầu nhỏ:

- Chuồn đi đâu cả rồi! Thấy ta ốm chúng bay bỏ đi hết. Mai kia khỏi, ta sẽ lột xác chúng bay ra!

A hoàn nhỏ là Định Nhi sợ quá vội vàng đến hỏi:

- Cô bảo gì?

- Chúng nó chết cả rồi, chỉ còn một mình mày hay sao?

Đương nói thì con Trụy Nhi cũng chạy đến. Tình Văn nói:

- Kìa đồ ranh con này! Không gọi nó chẳng thèm đến! Tao phát tiền lương đây! Chia hoa quả đây! Mày vào ngay đi! Đứng sát lại đây một tí. Tao có phải là hùm ăn thịt mày đâu mà sợ!

Trụy Nhi đành phải đứng sát lại. Nhân lúc bất ngờ, Tình Văn nhoài người ra, túm lấy tay nó, rồi cầm cái trâm dài ở cạnh gối đâm bừa vào tay nó và mắng:

- Để cái tay này làm gì? Không biết cầm cái kim sợi chỉ, chỉ biết ăn vụng thôi. Mắt ốc nhồi, chân choi choi, nói như vẹt, chả đâm cho nát ra thì để làm gì.

Trụy Nhi đau quá, kêu ầm lên. Xạ Nguyệt vội gỡ ra, và ấn Tmh Văn nằm xuống:

- Chị vừa ra được ít mồ hôi, lại muốn chết à. Khi nào khỏi, đánh nó bao nhiêu chẳng được? Làm gì mà phải ồn lên?

Tình Văn sai người gọi già Tống đến, nói:

- Cậu Bảo vừa mới bảo tôi, nói cho các bà biết, con Trụy lười lắm, cậu ấy sai gì nó cũng vênh mặt lên, không chịu làm, ngay chị Tập Nhân bảo gì, nó cũng lẩm bẩm chửi vụng. Hôm nay thế nào cũng phải đuổi nó đi, ngày mai cậu Bảo về sẽ trình bà sau.

Già Tống thấy thế, biết ngay là việc ăn cắp vòng bị lộ chuyện, liền cười nói:

- Tuy thế mặc lòng, cũng nên chờ cô Hoa về, nói cho biết đã, rồi hãy đuổi nó đi.

Tình Văn nói:

- Cậu Bảo dặn tôi, hôm nay thế nào cũng đuổi nó đi, việc gì phải chờ cô "hoa" với cô "nụ"? Chúng tôi đã có cách! Mau mau gọi người nhà nó mang nó về.

Xạ Nguyệt nói:

- Thế cũng được. Sớm muộn nó cũng phải về, cho về sớm ngày nào càng bớt chuyện ngày ấy.

Già Tống nghe thấy nói thế, đành phải đi gọi mẹ Trụy Nhi đến. Mẹ nó sắp xếp đồ đạc xong, đến hỏi Tình Văn:

- Sao các cô lại làm thế? Cháu nó có điều gì không phải, các cô dạy bảo, việc gì lại đuổi nó đi? Cũng nên để thể diện cho tôi một tí chứ.

Tmh Văn nói:

- Thôi, chuyện này chờ Bảo Ngọc về hãy nói, không việc gì đến chúng tôi.

Người kia cười nhạt:

- Tôi đâu lại dám hỏi cậu ấy? Việc gì mà cậu ấy chẳng nghe các cô? Dù cậu ấy bằng lòng, mà các cô không bằng lòng, thì cũng chưa chắc đã ăn thua! Ví như vừa rồi vắng mặt cậu ấy cô cũng gọi thẳng ngay tên cậu ấy ra; các cô gọi thế được, chứ chúng tôi mà gọi thế, người ta lại cho là quân hỗn láo!

Tình Văn nghe nói, càng tức, mặt đỏ bừng lên, nói:

- Tôi gọi tên cậu ấy đấy. Chị đến mà mách cụ và bà Hai, bảo tôi hỗn, xin tống cổ tôi đi!

Xạ Nguyệt nói:

- Chị ơi, chị cứ mang nó về, có điều gì hãy nói sau. Ở đây có phải là chỗ để chị giảng giải lễ phép đâu?

- Chị có thấy ai giảng giải lễ phép với chúng tôi không? Không cứ chị, ngay đến mợ Lại và mợ Lâm cũng phải nể chúng tôi ít nhiều. Còn việc gọi tên cái, là do cụ dặn chúng tôi từ khi cậu ấy còn bé đến giờ. Chắc các chị cũng biết: vì sợ khó nuôi, nên cụ cho viết tên cái cậu ấy dán ra khắp nơi để mọi người đều gọi, như thế mới dễ nuôi. Ngay đứa gánh nước, đứa hót phân, đứa ăn mày cũng đều gọi được cái tên cậu ấy, huống chi là chúng tôi? Hôm nọ mợ Lâm chỉ gọi một tiếng "cậu" thôi, cụ cũng mắng đấy. Đó là một việc. Hai nữa là, chúng tôi ở đây thường phải hầu chuyện cụ và bà Hai, nếu không gọi thẳng tên ra, chẳng nhẽ lại gọi là "cậu" à? Ngày nào không gọi mấy trăm lượt hai chữ "Bảo Ngọc"? Thế mà chị lại còn bới chuyện ấy ra! Ngày nào chị rỗi, đến chỗ cụ và bà Hai mà nghe chúng tôi gọi tên cái cậu ấy ra thì sẽ rõ. Vì chị không được hầu gần cụ và bà Hai, quanh năm chỉ đứng ở ngoài cửa thứ ba, chẳng trách không biết được khuôn phép của chúng tôi ở trong này! Đây không phải là chỗ chị đứng đâu! Nếu đứng một lúc nữa, chúng tôi không cần phải nói gì, cũng sẽ có người đến hỏi chị. Chị hãy mang nó về đi, muốn phân trần điều gì, cứ đến nói với mợ Lâm, nhờ mợ ấy nói với cậu Bảo. Trong nhà này hàng nghìn người, người nọ chạy đến, người kia chạy đến, chúng tôi nhận mặt, hỏi tên sao xiết!

Tình Văn nói xong, liền sai a hoàn nhỏ lấy vải lau nền nhà.

Người đàn bà kia nghe nói, không biết trả lời thế nào, cũng không dám đứng lâu, ức quá, mang Trụy Nhi về. Già Tống liền nói:

- Chả trách chị không biết khuôn phép gì là phải. Con gái chị ở nhà này mấy lâu, lúc ra về, cũng nên cúi đầu chào các cô ấy. Các cô ấy không cần đồ lễ gì khác, chỉ cúi đầu chào là đủ rồi. Bảo đi là cắm cổ đi ngay?

Trụy Nhi nghe nói, đành phải quay lại cúi đầu chào Xạ Nguyệt và Tình Văn, rồi đi chào bọn Thu Vân, nhưng không ai thèm nhìn. Người đàn bà ấy hậm hực thở dài, không dám nói, đành nuốt giận ra về.

Tình Văn vừa bị nhiễm gió, vừa nổi giận, nên càng thấy người khó chịu. Vật vã mãi đến lúc lên đèn mới nằm yên. Bảo Ngọc vừa về đến cửa đã thở dài dậm chân. Xạ Nguyệt vội hỏi đầu đuôi, Bảo Ngọc nói:

- Hôm nay cụ vui, cho tôi cái áo khoác này, ngờ đâu không cẩn thận, để vạt sau cháy một miếng, may trời đã tối, cụ và bà không để ý đến.

Vừa nói vừa cởi áo ra, Xạ Nguyệt xem thì có một chỗ cháy bằng ngón tay, liền nói:

- Chắc là lửa ở lồng ấp bắn vào. Nhưng không gì đâu, khẽ mang ra cho thợ may nào khéo mạng lại là được.

Xạ Nguyệt liền gói áo vào trong bọc, gọi một bà già đến mang đi thuê mạng, và bảo:

- Làm thế nào đến sáng mai phải xong, nhất thiết không được nói cho cụ và bà biết!

Bà già đi một lúc lại mang áo về, nói:

- Không những thợ mạng, mà đến thợ may giỏi, thợ thêu, thợ nữ công, tôi đều đi hỏi hết, họ không biết là thứ hàng gì nên không dám nhận.

Xạ Nguyệt nói:

- Thế thì làm thế nào bây giờ? Ngày mai không mặc cũng được.

Bảo Ngọc nói:

- Cụ và bà nói ngày mai là ngày chính tiệc, phải mặc áo này. Mới hôm đầu đã bị cháy rồi, thật là chán quá!

Tình Văn nghe xong, không nhịn được, trở mình lại nói:

- Mang lại đây tôi xem nào! Số không được mặc cái áo ấy thì thôi! Bây giờ lại còn làm rối lên!

Bảo Ngọc cười:

- Nói thế cũng đúng đấy.

Rồi đưa áo cho Tình Văn, lại mang đèn đến để nhìn kỹ một lượt. Tình Văn nói:

- Đó là chỉ kim tuyến bằng lông công đấy. Nay cũng lấy chỉ làm tuyến bằng lông công mạng từng hàng cho khít nhau thì cũng có thể nhuế nhóa được.

Xạ Nguyệt nói:

- Có sẵn chỉ lông công đấy, nhưng ở đây ngoài chị ra còn ai biết mạng nữa.

Tình Văn nói:

- Biết nói sao đây, tôi cũng đành liều mà làm vậy.

Bảo Ngọc nói:

- Thế sao được? Chị vừa mới đỡ mệt một tí, đã làm việc thế nào được?

Tình Văn nói:

- Tôi biết thân tôi, cậu không cần phải để ý quá.

Tình Văn đứng dậy quấn tóc, khoác áo, thấy người loạng choạng mắt hoa đầu váng, không thể gượng được. Nhưng nếu không làm, sợ Bảo Ngọc sốt ruột đành phải cắn răng ngồi làm, và bảo Xạ Nguyệt xâu chỉ hộ. Tình Văn lấy một sợi ướm thử rồi cười nói:

- Tuy không giống lắm, nhưng đính vào cũng không khác mấy.

Bảo Ngọc nói:

- Thế cũng đẹp lắm rồi, tìm đâu cho được thợ may Nga La Tư bây giờ?

Tình Văn liền tháo vải bọc ở trong ra, lấy cái vòng tre tròn bằng miệng chén, đính vào mặt trái, lấy dao xén chung quanh chỗ rách cho phẳng, rồi lấy kim khâu hai đường, chia ra ngang dọc. Cứ mạng hai mũi, lại phải ngắm mỗi phía một lượt. Khốn nỗi đầu nhức, mắt hoa, người mệt mỏi, tinh thần bải hoải, mới mạng được dăm mũi, Tình Văn đã phải gục xuống gối nghỉ một lúc. Bảo Ngọc ngồi bên cạnh, lúc hỏi có muốn uống nước không? Lúc bảo hãy nghỉ một tí. Lúc lấy áo da khoác lên lưng hoặc lấy gối cho cô ta dựa, làm Tình Văn bực mình phải nói :

- Ông trẻ ơi, ông cứ đi ngủ đi, thức đến nửa đêm, ngày mai mắt hõm lại, thì làm thế nào.

Bảo Ngọc thấy Tình Văn nói vậy, đành phải vội vàng nằm xuống, nhưng không ngủ được. Một lúc nghe đồng hồ điểm bốn tiếng, thì vừa mạng xong áo. Tình Văn lấy bàn chải nhỏ khẽ chải cho những lông tơ còn lù xù. Xạ Nguyệt nói:

- Tốt lắm rồi, không nhìn kỹ thì chẳng biết được đâu.

Bảo Ngọc vội cầm lấy xem, cười nói:

- Thật giống như hệt.

Tình Văn ho mấy lần, mãi mới mạng xong, rồi nói:

- Mạng xong rồi đấy, nhưng vẫn không giống. Thôi tôi cũng chẳng biết làm thế nào được nữa!

Rồi "úi chà" một tiếng, nằm vật xuống ngủ.

-------------------------------

1. Các cô gái đẹp họp trong buồng mùa đông.

2. Nguyên văn là thơ ngũ ngôn, vì hạn chế về vần, chúng tôi dịch theo thể lục bát.

Hồi thứ năm mươi ba

Đêm trừ tịch, phủ Ninh tế tổ tiên;

Tối nguyên tiêu, phủ Vinh mở yến tiệc.

Bảo Ngọc thấy Tình Văn mạng xong áo, thì đã kiệt sức rồi, liền sai a hoàn nhỏ thay nhau đến đấm cho cô ta. Độ ăn xong bữa cơm thì trời đã sáng. Bảo Ngọc chưa đi vội, sai người mời thấy thuốc ngay. Một lúc, thầy thuốc họ Vương đến xem mạch, có ý ngờ, hỏi:

- Hôm qua đã khá kia mà, sao hôm nay mạch lại phù hư vi xúc(1) thế này? Có phải ăn uống nhiều quá không? Nếu không thì do nghĩ quá, tinh thần mỏi mệt. Bệnh ngoại cảm thì nhẹ thôi, nhưng sau khi ra mồ hôi mà không biết điều dưỡng thì bệnh nặng chứ không phải vừa đâu.

Thầy thuốc kê đơn. Bảo Ngọc xem thấy đã rút bớt những vị sơ tán, lại thêm những vị ích thần dưỡng huyết như phục linh, địa hoàng, đương quy. Bảo Ngọc vừa sai người đi sắc thuốc, vừa thở dài:

- Bây giờ làm thế nào đây? Nếu có mệnh hệ nào thì tội ở ta cả.

Tình Văn nằm ở trên gối, nói:

- Cậu Hai ạ! Cậu cứ làm việc của cậu đi! Tôi mắc phải bệnh lao đâu mà sợ?

Bảo Ngọc không biết làm thế nào, đành phải đi vậy.

Đến trưa Bảo Ngọc kêu người mệt, cáo từ ra về. Bệnh Tình Văn tuy nặng thực, nhưng may xưa nay chị ta là người chỉ dùng sức lực chứ không hay dùng đến trí óc, ăn uống lại thanh đạm, không bao giờ no quá hoặc đói quá. Hơn nữa, lối bí truyền trong nhà họ Giả là: không cứ người nào, hễ hơi bị cảm gió ho khan một tí là phải nhịn cơm, rồi sau mới uống thuốc. Vì thế khi Tình Văn bắt đầu ốm, đã nhịn đói hai, ba ngày, rồi lại uống thuốc điều dưỡng cẩn thận, cho nên tuy có nhọc mệt, nhưng được tẩm bổ trong mấy ngày, dần dần, cũng đỡ. Độ này các chị em trong vườn dầu ăn cơm ở buồng mình, thổi nấu rất tiện, Bảo Ngọc muốn có canh có riêu đều sẵn cả.

Sau khi chôn cất mẹ xong, Tập Nhân đã về. Xạ Nguyệt liền đem việc Trụy Nhi ăn cắp, việc Tình Văn đuổi nó đi, kể lại đầu đuôi cho Tập Nhân nghe. Tập Nhân không nói gì chỉ bảo: "Chị ấy cũng nóng nảy quá."

Vừa qua, Lý Hoàn bị cảm, Hình phu nhân đau mắt, nên bọn Nghênh Xuân, Tụ Yên sớm tối hầu hạ thuốc thang; em thím Lý lại đón thím ấy và Lý Văn, Lý Ỷ về nhà mấy hôm. Bảo Ngọc thấy Tập Nhân thường buồn rầu nhớ mẹ, Tình Văn lại chưa khỏi hẳn, vì thế chẳng ai nghĩ đến việc thi xã cả, mấy kỳ bỏ qua không họp.

Sang tháng chạp, gần hết năm, Vương phu nhân và Phượng Thư bận sắm sửa đồ tết. Vương Tử Đằng được thăng chức Đô Kiểm Điểm chín tỉnh. Giả Vũ Thôn được bổ chức Đại Tư Mã, bàn bạc quân cơ, tham dự triều chính.

Giả Trân mở cửa nhà thờ, sai người quét dọn, bày các đồ thờ và rước thần chủ ra. Lại quét dọn nhà trên, lấy chỗ treo ảnh tổ tiên. Bấy giờ hai phủ Vinh, phủ Ninh, trong ngoài trên dưới, đều bận rộn tíu tít cả.

Hôm đó trong phủ Ninh, Vưu Thị đương cùng vợ Giả Dung sửa soạn đồ thêu và lễ vật đem sang tết Giả mẫu, thì a hoàn bưng vào một cái khay đựng những thỏi vàng nhỏ để làm món mừng tuổi và nói:

- Hưng Nhi trình mợ: một gói vàng vụn hôm nọ là một trăm tám mươi ba lạng sáu đồng bảy phân, màu sắc không đều nhau, đúc được tất cả hai trăm hai mươi thỏi nhỏ.

Nói xong, nó đưa khay vào. Vưu thị xem một lượt, thấy cái thì kiểu hoa mai, cái kiểu hoa hải đường, cái kiểu "bút đĩnh như ý"(2), cái kiểu "bát bảo liên xuân"(3). Vưu thị sai cất đi và bảo "Hưng Nhi mang những thỏi bạc đến đây mau."

A hoàn vâng lời đi ra.

Một lúc Giả Trân vào ăn cơm, vợ Giả Dung tránh đi một nơi. Giả Trân hỏi Vưu thị:

- Tiền thưởng tế xuân của chúng ta đã lĩnh chưa?

- Hôm nay tôi đã sai thằng Dung đi lĩnh rồi.

- Nhà ta tuy không phải chờ mấy lạng bạc ấy mới có tiêu, nhưng ít nhiều cũng là ơn vua. Đi lĩnh ngay mang về đây, rồi đưa sang bên cụ để mua đồ lễ, tỏ lòng trên đội ơn vua, dưới nhờ phúc tổ. Chúng ta cúng tổ hàng vạn bạc cũng không sợ, nhưng không bằng mấy lạng bạc này, vừa có thể diện lại được thấm nhuần ơn vua. Ngoài một vài nhà như chúng ta ra, còn những nhà thế tập nghèo kiết, nếu không có số bạc này, thì lấy gì mà cúng tổ tiên và ăn tết? Thực là ơn vua rộng rãi, nghĩ rất chu đáo.

- Đúng đấy.

Họ đương nói chuyện, thì một người vào trình: "Cậu Cả đã về."

Giả Trận bảo: "Gọi vào."

Giả Dung xách một cái túi nhỏ bằng vải vàng đi vào. Giả Trân hỏi:

- Tại sao mày đi mất cả ngày?

- Hôm nay không lĩnh ở bộ Lễ, lại lĩnh ở kho Quang Lộc Tự, nên phải đến đó. Các vị ở đó đều hỏi thăm sức khỏe cha. Lâu ngày không được gặp, các ông ấy rất nhớ.

- Họ nhớ gì ta! Giờ đã đến cuối năm rồi, nếu không nhớ đồ tặng, thì cũng nhớ bữa chén của ta đấy thôi.

Giả Trân nhìn vào cái bọc vải vàng trên có bốn chữ niêm phong "Ơn vua lâu dài". Một bên có dấu của bộ Lễ. Lại có một hàng chữ nhỏ viết: Ninh Quốc Công là Giả Diễn, Vinh Quốc Công là Giả Pháp đời đời được lĩnh thưởng để tế xuân, tất cả là hai phần, thành bao nhiêu lạng bạc, ngày... tháng... năm... chức hậu bổ thị vệ long cẩm úy là Giả Dung đã nhận đủ. Viên tự thừa giữ việc này ký tên đóng dấu.

Giả Trân ăn cơm xong, súc miệng, đi giày, đội mũ, bảo Giả Dung mang theo gói bạc đến trình Giả mẫu và Vương phu nhân, lại sang trình Giả Xá và Hình phu nhân, rồi mới về nhà.

Lấy bạc ra rồi, Giả Trân sai đem bỏ cái túi vải vào lư hương lớn ở nhà thờ đốt đi. Lại bảo Giả Dung:

- Mày sang thím Hai xem, tháng giêng này bên ấy đã định ngày mời uống rượu tết chưa? Nếu định ngày rồi, phải bảo thư ký kê rõ vào giấy mang về đây, để đến khi chúng ta mời, khỏi bị trùng. Năm ngoái không để ý đến việc này, thành ra mấy nhà mời trùng nhau. Người ta có cho là chúng ta vô ý đâu, lại bảo hai nhà đã bàn định sẵn, sợ tốn kém mời vờ đấy thôi.

Giả Dung vội vâng lời đi ngay. Một lúc cầm về cái giấy kê ngày bên ấy mời uống rượu tết. Giả Trân xem xong, bảo:

- Đưa cho Lại Thăng xem, nếu mời người ta uống rượu, phải tránh những ngày đã kê trên này.

Giả Trân ngồi ở trên nhà trông cho bọn hầu nhỏ khênh dọn bình phong, lau chùi bàn ghế và đồ thờ bằng vàng bạc. Bỗng thấy đứa hầu nhỏ cầm một cái thiếp và quyển sổ vào trình:

- Tên quản lý họ O ở Hắc Sơn thôn đã đến.

Giả Trân nói:

- Thằng già chết chém này sao hôm nay mới đến?

Giả Dung vội cầm lấy thiếp và sổ mở ra đưa lên. Giả Trân chắp hai tay ra sau lưng nhìn vào tay Giả Dung, thấy trong thiếp hồng viết: "Con là quản lý O Tiến Hiếu, cúi đầu chúc ông bà và các cô các cậu mạnh khỏe. Xuân mới được mọi sự tốt lành, bình an, vinh quý, thăng quan tiến chức, vạn sư như ý." Giả Trân cười nói:

- Người nhà quê mà nói có văn vẻ đấy.

Giả Dung cũng cười nói:

- Không cần gì văn, chỉ cốt lời chúc tốt lành thôi.

Rồi hắn giở sổ ra xem, thấy viết:

Hươu to 30 con, hươu nhỏ 50 con, hoẵng 50 con, lợn xiêm 20 con, lợn đồ 20 con, lợn nhớn 20 con, lợn rừng 20 con, lợn nhà ướp 20 con, dê rừng 20 con, dê non 20 con, dê đồ 20 con, dê ướp 20 con, cá chép 200 con, các loại cá 200 cân, gà, vịt, ngỗng còn sống mỗi thứ 200 con, gà rừng, thỏ mỗi thứ 200 đôi, tay gấu 20 đôi, gân hươu 20 cân, hải sâm 50 cân, lưỡi hươu 50 cái, lưỡi bò 50 cái, trùng trục khô 20 cân, hạt thông, hạt đào, hạt mận mỗi thứ 2 túi, tôm to 50 đôi, tôm khô 200 cân, than hoa tốt nhất 1000 cân, than vừa 2000 cân, than củi 30.000 cân, gạo tám tiến 2 gánh, gạo cẩm 50 hộc, gạo nếp trắng 50 hộc, gạo ré muộn 50 hộc, các thứ hoa màu mỗi thứ 50 hộc, gạo thường 1000 gánh, rau dưa khô một xe, các thứ lúa gạo súc vật bán đi, tính thành tiền là 2.500 lạng. Ngoài ra còn biếu riêng cậu cả mấy giống này để chơi: hươu sống 2 đôi, thỏ trắng 4 đôi, thỏ đen 4 đôi, gà cẩm kê sống 2 đôi, vịt tây 2 đôi.

Giả Trân xem xong nói: "Cho nó vào". Một lúc thấy O Tiến Hiếu vào, quỳ lạy ở ngoài thềm. Giả Trân sai người đỡ hắn dậy, cười nói:

- Chú hãy còn khỏe nhỉ.

- Nhờ ơn đức của ông, con hãy còn đi được.

- Con chú lớn rồi, sao không bảo nó đi cho.

- Không dám giấu gì ông: con đi quen rồi, nếu không đi buồn không chịu được. Các cháu đứa nào mà chẳng muốn đến xem phong cảnh nơi đế đô. Nhưng vì chúng còn trẻ tuổi, sợ đi đường có sự gì thất thố. Để mấy năm nữa sẽ cho chúng đi, con mới yên tâm.

- Chú đi mất mấy ngày?

- Thưa ông, năm nay tuyết xuống nhiều quá, sâu đến bốn, năm thước, hôm nọ mới trời ấm tuyết tan, vì thế đường khó đi phải chậm lại mất mấy ngày. Đi mất một tháng hai ngày. Năm hết tết đến, con sợ ông nóng ruột, nên phải đi gấp cho kịp.

- Ta đã nói mà, sao hôm nay chú mới đến? Ta vừa xem đơn thì ra năm nay chú lại định giở ngón bớt xén thì phải?

O Tiến Hiếu vội bước đến gần nói:

- Thưa ông, năm nay mùa màng xấu quá. Từ tháng ba đến hết tháng tám mưa luôn, không lúc nào tạnh được năm, sáu ngày. Đến tháng chín có một trận mưa đá, một vùng gần hai ba trăm dặm, người, nhà cửa, súc vật, lương thực bị hại hàng nghìn hàng vạn, nên mới có thế này. Con không dám nói man.

Giả Trân cau mày nói:

- Ta tưởng ít ra chú cũng phải mang nộp 5000 lạng bạc, chứ có ngần ấy thì làm được cái gì. Bây giờ chỉ còn có tám, chín trại thôi, năm nay có đến hai trại kêu bị hạn, bị lụt, chú lại bớt xén, định không cho ta ăn nữa hay sao?

O Tiến Hiếu nói:

- Ruộng đất của ông còn khá đấy, chứ chỗ anh em con ở cách chỗ con chỉ độ một trăm mẫu, thì lại kém xa. Họ trông nom tám trại thuộc phủ bên kia, so với trại của con trông nom còn rộng gấp mấy lần, thế mà những món đưa đến chẳng qua chỉ đáng hai, ba nghìn lạng bạc thôi, cũng vì bị mất mùa.

- Thực vậy. Bên ta còn có thể được, vì không có việc gì đặc biệt phải tiêu nhiều, chẳng qua chỉ để dùng trong một năm thôi. Ta tiêu rộng tý nào tốn tý ấy, bớt được chừng nào đỡ chừng ấy. Vả chăng những lệ thường hàng năm như tết nhất, mời mọc, ta chịu dày mặt một chút là xong, bì sao được với phủ bên kia. Ở bên ấy số hoa lợi vẫn như cũ, mà mấy năm nay lại nhiều việc phải tiêu đến tiền, nhất định không thể thiếu được, phải bù ra rất nhiều, nếu không lấy ở các người thì còn hỏi vào đâu?

- Bên ấy có nhiều việc, nhưng có xuất lại có nhập. Nhà vua và quý phi chẳng lẽ lại không chu cấp cho hay sao?

Giả Trân nghe nói, cười bảo Giả Dung:

- Chúng mày nghe đấy, nó nói có đáng buồn cười không?

Giả Dung vội cười nói:

- Các chú là người ở nơi rừng sâu bể thẳm, biết đâu được những việc ấy? Chẳng lẽ quý phi lại lấy tiền ở kho nhà vua ra cho chúng ta à? Dù người có muốn chăng nữa, cũng không làm chủ được. Kể ra thì thời nào tiết ấy cũng có thưởng đấy, nhưng chẳng qua chỉ cho một ít vóc nhiễu, đồ cổ, đồ chơi. Có chăng cũng chỉ được một trăm lạng vàng, đáng giá hơn một nghìn lạng bạc, thấm vào đâu? Trong hai năm nay, năm nào mà chẳng phải bù ra mấy nghìn lạng bạc. Năm đầu, quý phi về thăm nhà, kể cả việc làm vườn hoa, chú tính xem phải tiêu hết bao nhiêu thì đủ biết. Vài năm sau nếu người lại về thăm nữa, có lẽ đến nghèo xác mất!

Giả Trân cười nói:

- Vì thế bọn người nhà quê là người thực thà, họ chỉ biết việc bề ngoài chứ biết đâu được bên trong. Lấy hoàng bá làm dùi khánh, chỉ đẹp dáng bề ngoài, bên trong thì đắng ngắt.

Giả Dung vừa cười, vừa nói với Giả Trân:

- Quả là bên ấy cũng kiệt thật. Hôm nọ con nghe thấy thím Hai bàn khẽ với Uyên Ương phải ăn cắp những đồ của cụ đem đi cầm.

Giả Trân cười nói:

- Đó là thím Phượng giở trò ma đấy thôi, lẽ nào lại kiết đến thế? Chắc là thím ấy biết công việc phải tiêu nhiều, tất phải bù vào nhiều, nhưng không biết nên bớt món tiền nào, mới bày ra cách này, muốn người ta biết là mình kiết đến như thế. Ta đã tính rồi, chưa đến nỗi túng thiếu lắm đâu.

Nói xong liền sai người tiếp đãi O Tiến Hiếu tử tế.

Giả Trân lại sai người mang lễ vật của O Tiến Hiếu đem đến để lại mấy thứ cúng tổ, rồi chọn mỗi thứ một ít cho Giả Dung mang sang biếu phủ Vinh. Lại bớt đủ số cho nhà dùng, còn thừa thì theo thứ tự chia ra từng phần, để ở dưới thềm, sai người gọi con cháu trong họ đến để nhận phần. Sau đó, phủ Vinh cũng đưa đến nhiều lễ vật cúng tổ và biếu Giả Trân. Giả Trân trông cho người nhà bầy biện đồ thờ xong, rồi đi giày, khoác áo da, sai người trải một cái thảm da chó sói ở trên thềm, chỗ có ánh mặt trời, để sưởi nắng, và xem con cháu đến lĩnh phần. Thấy Giả Cần cũng đến lĩnh. Giả Trân gọi lại bảo:

- Sao mày cũng đến đây? Ai gọi mày đến?

Giả Cần buông thõng tay thưa:

- Cháu nghe nói bác gọi chúng cháu đến lĩnh phần, cháu đến chứ không ai gọi cả.

Giả Trân nói:

- Những thứ này là ta định để cho chú bác anh em không có công ăn việc làm. Hai năm trước, mày chưa có việc, ta cũng đã cho rồi. Bây giờ mày đã được làm công việc ở phủ bên kia, trông nom bọn hòa thượng, đạo sĩ ở miếu, ngoài tiền lương hàng tháng, số tiền phát cho bọn hòa thượng cũng qua tay mày, thế mà mày vẫn còn đến lĩnh phần. Sao tham quá thế? Mày thử nghĩ xem: mày ăn mặc có khác gì bọn người sẵn tiền trong tay không? Trước mày nói không có việc làm, bây giờ thì thế nào? Vẫn còn kém trước nữa à?

Giả Cần nói:

- Vì nhà cháu nhiều miệng ăn, phải tiêu nhiều.

Giả Trân cười nhạt:

- Mày lại cứ chống chế mãi với ta! Mày tưởng ta không biết những việc mày làm ở trong miếu à! Ở đấy, mày làm ông lớn, không ai dám trái lời. Trong tay có tiền, lại ở xa chúng ta, mày tha hồ làm vương làm tướng, đêm nào cũng tụ tập những bọn vô lại, cờ bạc trai gái đủ thứ, nên mới xác như vờ, lại còn dám đến đây lĩnh phần nữa à? Mày chẳng lĩnh được gì đâu, có lĩnh trận đòn thì lĩnh! Để xong tết, ta sẽ bảo chú Hai đuổi mày đi.

Giả Cần đỏ mặt, không dám nói gì. Có người đến trình:

- Bên Bắc phủ vương đem câu đối và túi đến.

Giả Trân sai Giả Dung ra tiếp và nói là mình đi vắng. Giả Dung đi ra.

Giả Trân đuổi Giả Cần đi, xem mọi người lĩnh phần xong, rồi về nhà ăn cơm với Vưu thị. Hôm sau lại càng bận việc.

Đến ngày hai mươi chín tháng chạp, các thứ bày biện đầy đủ. Trong hai phủ, chỗ thờ thần cửa, câu đối, bài treo, đều sơn lại một màu bóng loáng. Bên phủ Ninh, từ cửa ngoài, nghi môn, nhà khách, noãn các, nhà trong, cửa thứ ba, cửa nghi môn trong, cửa cấm vào đến chính đường, suốt một dãy các nhà chính đều mở toang cả. Dưới thềm, hai bên đốt hai hàng nến to và cao đỏ chói như hai con rồng vàng. Hôm sau Giả mẫu ngồi kiệu bát cống dẫn những người có phong cáo theo phẩm cấp, mặc triều phục vào cung làm lễ triều hạ. Ăn yến xong, trở về, đến noãn các bên phủ Ninh, xuống kiệu. Những con cháu không theo vào chầu, đều xếp hàng đứng chực trước cửa, để Giả mẫu dẫn vào nhà thờ.

Bảo Cầm lần đầu được vào xem nhà thờ họ Giả, để ý ngắm nghĩa mãi. Nhà thờ này dựng ở bên tây phủ Ninh, trong một cái vườn riêng phía trong hàng rào sơn đen, có năm gian cửa lớn, trên treo bức hoành viết bốn chữ Giả thị tôn tử(4), bên cạnh viết "Diễn thánh công Khổng Kế Tông viết", hai bên có đôi câu đối:

Lấm đất óc gan, muôn họ thấm nhuần ơn bảo dưỡng.

Ngập trời công đức, trăm năm nghi ngút lễ chưng thường.

Đó cũng là chữ viết của Diễn Thánh công. Đi vào trong sàn, giữa có đường mai võng lát đá trắng, hai bên đều là tùng bách um tùm, trên nguyệt đài bầy những đỉnh vạc bằng đồng cổ. Trước nhà bái đường treo bức hoành vàng chạm chín con rồng, viết chữ Tinh huy phụ bật(5). Đó là chữ của đức vua trước viết. Hai bên có đôi câu đối:

Sự nghiệp sáng soi cùng nhật nguyệt,

Công danh truyền mãi đến nhi tôn.

Cũng là chữ vua viết.

Trước năm gian chính điện, treo bức hoành sơn xanh vẽ rồng uốn khúc, viết bốn chữ Thận chung truy viên(6). Bên cạnh lại có đôi câu đối:

Con cháu từ đây nhờ phúc đức,

Nhân dân giờ vẫn nhớ Vinh Ninh.

Đều là chữ vua viết cả.

Bên trong đèn đuốc sáng trưng, trượng thêu màn gấm, tuy có bày thần chủ, nhưng trông không rõ.

Những người họ Giả chia bên "chiêu" bên "mục"(7) xếp hàng đứng yên. Giả Kính chủ tế, Giả Xá bồi tế, Giả Trân dâng rượu, Giả Liễn, Giả Tôn dâng lụa, Bảo Ngọc bưng hương, Giả Xương, Giả Lăng rải thảm tế, giữ cái lư đốt văn. Bọn nhạc công tấu nhạc. Ba lần dâng rượu, hương bái xong, đốt lụa rót rượu. Lễ xong, âm nhạc ngừng lại, lui ra. Mọi người theo Giả mẫu đến trước chỗ bày ảnh ở trên chính đường, màn gấm treo cao, bình phong căng rộng, hương bay nghi ngút, nến thắp sáng trưng. Chính gian giữa, treo hai bức chân dung của Vinh Quốc công và Ninh Quốc công, đều mặc áo mãng bào đeo đai ngọc; hai bên lại có mấy bức chân dung của các vị liệt tổ.

Bọn Giả Hành, Giả Chỉ đứng xếp hàng từ cửa trong ra mãi đến ngoài thềm chính đường. Ngoài bạo cửa là chỗ Giả Kính, Giả Xá; trong bạo cửa là chỗ đàn bà đứng. Bọn người nhà và hầu bé đều đứng ngoài nghi môn. Cứ một món ăn dâng lên đến cửa nghi môn, là bọn Giả Hành, Giả Chỉ đỡ lấy, theo thứ tự đưa đến tay Giả Kính. Giả Dung là cháu trưởng chi trưởng, nên được đứng với đám đàn bà ở trong bạo cửa. Mỗi lần Giả Kính đưa món ăn đến trao cho Giả Dung, Giả Dung đưa lại cho vợ, vợ hắn lại đưa cho Phượng Thư và Vưu Thị; khi đưa đến trước bàn thờ, thì Vương phu nhân nhận lấy đưa cho Giả mẫu. Giả mẫu đặt lên bàn thờ. Hình phu nhân đứng ở phía tây bàn thờ, ngoảnh mặt sang phía đông, cùng Giả mẫu dâng cỗ lên. Đến khi dâng cỗ và chè rượu xong, Giả Dung mới lui ra ngoài, đứng hàng đầu chỗ bọn Giả Cần.

Lúc này Giả Kính đứng đầu hàng người có tên theo chữ "văn" ở bên. Giả Trân đứng đầu hàng người có tên theo chữ "ngọc" ở bên, cuối nữa là Giả Dung đứng đầu hàng người có tên theo bộ "thảo đầu". Bên tả hàng "chiêư", bên hữu hàng "mục". Trai ở bên đông, gái ở bên tây. Khi Giả mẫu thắp hương lạy rồi, mọi người đều quỳ xuống làm cho năm gian nhà lớn, ba gian bái đường, hiên trong hiên ngoài, thềm trên thêm dưới, hai dãy thềm đỏ đều như hoa như gấm, chật ních không chỗ nào hở. Ngoài nhạc vàng vòng ngọc khẽ chạm leng keng và giày dép sột soạt khi đứng khi quỳ ra, còn đều im lặng như tờ. không một tiếng động.

Một lúc lễ xong, bọn Giả Kính, Giả Xá lui ra đi sang phủ Vinh, chờ làm lễ mừng Giả mẫu. Bên phòng Vưu thị, dưới đất trải đầy thảm đỏ, giữa nhà để một chậu than lớn tráng vàng. Trên giường chính giữa trải một cái nệm da vượn đỏ mới, đặt một cái gối dựa màu đỏ thêu kiểu vân long bổng thọ(8); ngoài nệm ngồi lại có cái bao bằng da cáo đen đặt ở trên và cái nệm ngồi bằng da cáo trắng. Vưu thị mời Giả mẫu ngồi lên đó. Hai bên lại trải nệm da, mời mấy bà bác bà thím ngang hàng với Giả mẫu cùng ngồi. Bọn Hình phu nhân thì ngồi ở một cái giường nhỏ cũng trải nệm da, có bức vách chắn ngang. Ở hai bên, có mười hai cái ghế sơn chạm đối mặt nhau, đều trải nệm lông chuột đen, dưới mỗi cái ghế có một lò sưởi bằng đồng, để cho chị em bọn Bảo Cầm ngồi. Vưu thị pha trà dâng Giả mẫu, vợ Giả Dung dâng mời các bà ngang hàng với Giả mẫu, sau Vưu thị lại dâng mời Hình phu nhân, vợ Giả Dung lại dâng bọn chị em. Phượng Thư, Lý Hoàn thì đứng ở ngoài chực sẵn.

Dâng nước trà xong, bọn Hình phu nhân đứng dậy hầu Giả mẫu uống. Giả mẫu cùng chị em nhiều tuổi nói chuyện phiếm mấy câu rồi sai sắp kiệu. Phượng Thư vội đỡ Giả mẫu lên. Vưu thị cười nói:

- Cháu đã sắp sẵn cơm chiều để mời bà xơi rồi. Hàng năm bà không hề hạ cố đến các cháu. Bây giờ dùng cơm chiều rồi bà hãy về. Nếu không thì chẳng hóa ra các cháu không bằng thím Phượng hay sao?

Phượng Thư đỡ Giả mẫu, cười nói:

- Mời bà về nhà xơi cơm, mặc kệ chị ấy.

Giả mẫu cười nói:

- Bên này chị còn phải soạn sửa cúng tế tổ tiên, bận rộn lắm rồi, giữ ta ở lại để thêm bận à? Vả chăng hàng năm ta không ăn ở đây, các chị cũng cứ mang sang biếu, vậy cứ biếu đi, ta không ăn hết, để dành đến ngày mai, như thế chẳng ăn được nhiều hơn ư?

Mọi người nghe vậy đều cười. Giả mẫu lại dặn: "Đêm đến phải cắt người đèn hương cẩn thận, không được sơ suất đấy", Vưu thị vâng lời, Giả mẫu đi ra ngoài, đến trước noãn các, bọn Vưu thị tránh ra sau bình phong, bọn hầu nhỏ mới dẫn phu kiệu đến mời Giả mẫu lên kiệu. Vưu thị cũng theo bọn Hình phu nhân đến phủ Vinh.

Kiệu ra khỏi cửa ngoài. Dọc đường, bên đông bầy nghi trượng và nhạc khí của phủ Ninh, bên tây bày nghi trượng và nhạc khí của phủ Vinh. Những người đi đường đều phải lùi lại, không được qua đấy.

Về đến phủ Vinh, cửa lớn, cửa chính cũng đều mở suốt vào tận phía trong. Giả mẫu không xuống kiệu ở noãn các nữa, mà đi qua nhà khách, vòng sang phía tây, đến thẳng nhà chính. Mọi người xúm theo đến gian giữa nhà Giả mẫu, cũng có nệm gấm màn thêu, mọi thứ đều mới cả, ở giữa để lò lửa đốt hương tùng bách và cây bách hợp. Giả mẫu vào ngồi, bọn bà già trình: "Các cụ bà đến làm lễ". Giả mẫu đứng dậy định ra đón, thấy mấy bà chị em nhiều tuổi đến nơi. Mọi người cầm tay nhau cười và mời nhau một lúc. Họ uống trà xong rồi đi. Giả mẫu đưa ra đến cửa nghi môn mới về chỗ ngồi. Bọn Giả Kính và Giả Xá dẫn các con em đến. Giả mẫu cười nói:

- Cả năm làm phiền các người rồi, thôi đừng làm lễ nữa.

Một bên trai, một bên gái, tốp này đến tốp khác, lũ lượt vào làm lễ; bên tả bên hữu đều đặt ghế đối nhau, rồi cứ theo thứ tự lớn bé ngồi nhận lễ. Bọn hầu nhỏ và a hoàn trong hai phủ cũng theo thứ tự trên dưới đứng làm lễ. Sau đó phân phát tiền thưởng tết, túi và thỏi vàng, thỏi bạc cho mọi người. Bữa tiệc hợp hoan bày ra, trai ngồi bên đông, gái ngồi bên tây; uống rượu đồ tô(9), ăn canh hợp hoan(10), quả cát tường(11) và bánh như ý, xong rồi Giả mẫu vào trong nhà nghỉ, mọi người mới đi ra.

Tối hôm ấy, các nơi thờ phật và thờ vua bếp đều thắp hương cúng lễ. Ngoài sân nhà chính của Vương phu nhân, bày vàng hương ngựa giấy cúng trời đất. Cửa giữa vườn Đại Quan treo đèn lồng, rọi sáng hai bên, các ngả đường lại đều có giồng cây đèn. Kẻ trên người dưới đều ăn mặc như hoa như gấm. Suốt đêm, tiếng cười nói ồn ào, pháo nổ không dứt. Đến canh năm ngày hôm sau. Giả mẫu cùng mọi người theo phẩm tước mặc triều phục, bày toàn bộ nghi trượng vào cung chào mừng và chúc thọ Nguyên Xuân. Ăn yến xong, Giả mẫu trở về phủ Ninh tế tổ, rồi mới về nhà. Nhận lễ mừng xong, Giả mẫu thay áo đi nghỉ. Bạn bè đến mừng tết đều không tiếp, chỉ ngồi nói chuyện với Tiết phu nhân và thím Lý, hoặc đánh cờ, đánh bài với bọn Bảo Ngọc và chị em Bảo Thoa, Bảo Cầm, Đại Ngọc.

Vương phu nhân và Phượng Thư ngày nào cũng bận về mọi khách đến uống rượu tết, nhà trong nhà ngoài, chỗ nào cũng bày bàn rượu, bạn bè đi lại không ngót. Bận rộn suốt bảy, tám ngày mới xong.

Lại sắp đến tết nguyên tiêu, hai phủ Vinh, Ninh đều thắp đèn kết hoa. Ngày mười một, Giả Xá mời Giả mẫu, hôm sau Giả Trân lại mời Giả mẫu. Vương phu nhân và Phượng Thư, ngày nào cũng có người mời uống rượu tết.

Đến chiều hôm rằm, Giả mẫu sai người bày mấy bàn tiệc ở phòng khách lớn, thuê một bọn con hát, treo đầy đèn hoa các màu, dẫn các con cháu trai gái hai phủ Vinh, Ninh đến ăn tiệc. Giả Kính xưa nay không uống rượu, ăn mặn, vì thế không mời. Đến ngày mười bảy, tế tổ xong, Giả Kính liền ra ngoài thành tu đạo. Trong mấy hôm ở nhà, ông ta cũng chỉ ngồi yên lặng trong gian nhà kín, không hỏi đến việc gì.

Giá Xá lĩnh đồ thưởng của Giả mẫu xong, cáo từ ra về. Giả mẫu biết ông ta ở đấy cũng không tiện, nên để mặc cho về.

Giả Xá về đến nhà, cùng bọn gia khách thưởng đèn uống rượu, đàn sáo rộn tai, gấm thêu hoa mắt, cuộc vui của ông ta khác hẳn bên này.

Giả mẫu cho bày hơn mười bàn rượu ở nhà khách, bên cạnh mỗi bàn đặt một cái kỷ. Trên kỷ đặt lư hương, bình hoa, đốt hương bách hợp của vua ban; lại có những chậu cảnh nhỏ dài độ tám tấc, rộng bốn năm tấc, cao hai ba tấc, trong chồng núi giả, đều trồng cỏ hoa tươi tốt; lại có khay chè sơn hay những bộ chén rót nước trà ngon hạng nhất. Một loạt đều làm bằng gỗ đàn tía chạm trổ, viền rèm lụa đỏ, đính ngọc, thêu hoa và đề thơ. Nguyên cái rèm này là do tay cô gái Cô Tô, tên là Tuệ Nương thêu ra. Vì cô ta cũng là con nhà thư hương thế hoạn, rất giỏi nghề vẽ, chẳng qua ngẫu nhiên thêu thùa vài thứ để chơi, chứ không phải thứ đem ra ngoài bán. Những hoa thêu trên, theo cành cây hoa lá của các nhà danh họa từ đời Đường, Tống, Nguyên, Minh để lại, nên cách thức, màu sắc đều đậm đà, tinh xảo không một ai có thể sánh kịp. Mỗi một cành hoa bên cạnh lại có một bài thơ, từ, ca, phú của người xưa và đều thêu chữ nổi bằng nhung đen. Hơn nữa cả từ nét ngoặc, nét chấm, to, nhỏ, liền, cách, đều giống hệt như chữ viết, không phải lối thêu chữ bán rao có thể sánh kịp. Cô ta không vì nghề này kiếm lợi, nên tiếng đồn khắp nơi, ít người mua được. Rất nhiều nhà danh gia thế hoạn cũng không có của này. Vì vậy đời sau gọi là nàng Tuệ Tú. Gần đây, có những kẻ trục lợi, cũng bắt chước lối thêu của cô ta để lừa người kiếm tiền. Tuệ nương đến mười tám tuổi thì chết, nên sau không tìm đâu ra bức thêu nào như vậy. Nhà nào có một vài bức, đều giữ gìn rất cẩn thận. Có một số nhà văn "múa rối", nhân tiếc sắc đẹp của nàng, liền tung tin rằng nàng thêu chữ chưa hết vẻ đẹp, so sánh đường kim thêu với chữ "Tú" có vẻ hơi vội vã. Rồi cùng mọi người bàn bạc, đem đổi chữ "Tú" thành chữ "Văn", nên người đời mới gọi là "Tuệ Văn". Nếu phải là bức thêu của nàng Tuệ Văn thì giá đắt vô ngần. Trong phủ Giả có ba bức, năm ngoái đã tiến vua hai bức, chỉ còn lại cái rèm này có mười sáu dải, Giả mẫu cất giữ rất cẩn thận, không hay bày ra nhà khách, chỉ để trong phòng riêng, khi cao hứng bày tiệc rượu mới đem ra dùng.

Trong các bình cổ nhỏ có đủ các màu đều cắm cây tuế hàn tam hữu(12) và hoa ngọc đường phú quý(13). Hai bàn phía trên là chỗ ngồi của Tiết phu nhân và thím Lý; bên đông bày riêng một tiệc có cái giường nhỏ chân thấp chạm quỳ long hộ bình(14) có đủ cái tựa lưng, gối dài, nệm da. Trên giường bày một cái kỷ nhỏ, sơn son thếp vàng rất đẹp, và nhẹ. Trên kỷ bày chén trà, ống nhổ, khăn mặt và cái hộp kính.

Giả mẫu nằm nghiêng trên giường, cười nói với mọi người một lúc, lại đeo kính nhìn lên sân khấu rồi nói với Tiết phu nhân và thím Lý:

- Tha lỗi cho tôi già rồi mình mẩy hay đau, để tôi vô phép nằm nghiêng tiếp chuyện.

Lại sai Hổ Phách ngồi lên giường, cầm cái nắm tay "mỹ nhân"(15) đấm đùi. Cạnh giường không đặt bàn rượu, chỉ có một cái kỷ cao, trên bày giá cao, lọ cao và lư hương, ngoài ra lại có một cái bàn nhỏ cao rất xinh trên bày bát đũa. Bên cạnh bày một bàn rượu cho Bảo Cầm, Tương Vân, Đại Ngọc, Bảo Ngọc cùng ngồi. Khi đồ ăn mang lên, đều đưa Giả mẫu xem trước, món nào thích để lên trên bàn nhỏ nếm một ít, còn lại đưa ra bàn bốn người ngồi gần đấy, như thế cũng xem như ngồi một bàn với Giả mẫu. Phía dưới mới là chỗ của Hình phu nhân và Vương phu nhân; dưới nữa là chỗ ngồi của bọn Vưu Thị, Lý Hoàn, Phượng Thư và vợ Giả Dung; bên tây là chỗ ngồi của Bảo Thoa, Lý Văn, Lý Ỷ, Tụ Yên và chị em Nghênh Xuân. Trên xà nhà, hai bên treo từng chùm đèn pha lê. Trước mỗi bàn rượu đặt một cây đèn sơn đen hình lá sen rũ xuống, trên lá sen cắm sáp. Cây đèn này là của bên Tây Dương, làm bằng pha lê, có thể quay vặn được. Lúc này, đèn xoay lá sen cho ánh sáng hắt ra ngoài để xem hát được rõ. Bao nhiêu cánh cửa và cửa sổ đều được lấy xuống và treo vào đó bằng các đèn hoa trong cung cho. Trong thềm, ngoài thềm và giàn hoa hai bên hiên đều treo đèn lồng, đèn pha lê, đèn che lụa, hoặc thêu, hoặc vẽ bằng lụa, bằng giấy, thứ gì cũng có. Mấy bàn ở trên hiên là chỗ ngồi của Giả Trân, Giả Liễn, Giả Hoàn, Giả Tôn, Giả Dung, Giả Cần, Giả Vân, Giả Xương, Giả Lăng.

Giả mẫu sai người đi mời các người trong họ. Nhưng bọn họ có người đã già, không thích ồn ào, có người đi vắng, có người ốm đau, muốn đến cũng không đến được. Lại có người ghen giàu thẹn nghèo không chịu đến, có người thì ghét Phượng Thư, tức giận không đến; lại có người e lệ nhút nhát, không quen chỗ đông người. Vì thế họ tuy to, nhưng về phía đàn bà chỉ có mẹ Giả Lam là họ Lâu dắt Giả Lam đến, về phía đàn ông chỉ có Giả Cần, Giả Vân, Giả Trong và Giả Lăng đến, bốn người hiện đương giúp việc cho Phượng Thư. Kể ra người không đông mấy, nhưng tiệc nhỏ trong gia đình cũng đủ náo nhiệt lắm rồi.

Vợ Lâm Chi Hiếu dẫn sáu người đàn bà, cứ hai người một khênh ba cái bàn nhỏ đến, mỗi bàn trải một tấm thảm đỏ, trên để những tiền đồng mới đúc xâu bằng dây đỏ. Vợ Lâm Chi Hiếu bảo mang hai cái đặt ở cạnh bàn rượu của Tiết phu nhân và thím Lý, còn một cái đặt ở cạnh giường Giả mẫu. Giả mẫu nói: "Để ở giữa nhà kia". Những người đàn bà ấy đã quen khuôn phép nhà này, họ đặt bàn xuống, rút dây đỏ đi, rồi bỏ tiền ra để ở trên bàn.

Lúc đó, đương hát vở Tây lâu hội(16). Khi sắp tan hát, đứa đóng vai Vũ Thúc Dạ giận dỗi bỏ đi, đứa đóng vai Văn Báo liền nói đùa: "Anh giận bỏ đi mặc anh. Hôm nay đúng ngày rằm tháng giêng, trong nhà cụ ở phủ Vinh ăn tiệc, tôi còn phải cưỡi ngựa này, đến xin mấy thứ quả để ăn mới được". Câu nói ấy làm cho Giả mẫu cười ầm lên. Bọn Tiết phu nhân đều nói: "Thằng ranh con này đáng thương thật!" Phượng Thư liền nói:

- Nó mới có chín tuổi thôi.

Giả mẫu cười nói:

- Nó khéo nói đấy!

Rồi gọi một tiếng "thưởng". Liền có ba người đàn bà cầm sẵn các cái giỏ nhỏ, chạy mau đến bàn, mỗi người bốc tiền bỏ vào một giỏ rồi chạy ra trước sân khấu nói:

- Cụ, bà dì, và các bà trong họ thưởng cho Văn Báo mua quả ăn đây.

Nói xong họ vất tiền lên sân khấu, chỉ nghe thấy tiếng "loảng xoảng", tiền rơi khắp nơi. Giả Trân và Giả Liễn đã sai bọn hầu nhỏ sắp sẵn những thúng tiền lớn khênh ra.

-----------------------

1. Phù hư vi xúc: danh từ mạch lý của Đông y, ý nói khí huyết suy nhược.

2. Một thứ đồ chơi làm bằng vàng bạc hay ngà voi, có chạm cỏ chi, hoặc đám mây, để mừng tặng nhau.

3. Tiếng của nhà Phật, là tám thứ quý báu.

4. Nhà thờ họ Giả.

5. Sao Phụ bật sáng ngời.

6. Cẩn thận việc về sau, tưởng nhớ người đã khuất.

7. Theo điển tế tự của Trung Quốc thời trước, trong nhà thờ thủy tổ ở giữa, hai bên hàng chiêu ở bên tả, hàng mục ở bên hữu, chiêu thuộc hàng cha, mục thuộc hàng con.

8. Rồng mây chúc thọ.

9. Một thứ rượu nấu bằng cỏ đồ tô, uống vào ngày nguyên đán để trừ dịch khí.

10. Canh nấu bằng hoa hợp hoan, một thứ hoa màu đỏ, sớm nở tối cụp, tượng trưng cho sự đoàn kết.

11. Quả ăn vào được phúc lành.

12. Ba người bạn trong mùa rét: tùng, bách, mai.

13. Hoa mẫu đơn.

14. Giống thú trông giống con rồng, có một chân đỡ lấy cái bình phong.

15. Một cái dùi nhỏ bằng gỗ bọc da hình như nắm tay người con gái, dùng để đấm mình.

16. Tên vở kịch của Viên Vu Lệnh nhà Thanh soạn, diễn điển Vu Quyên cùng Mục Tố Huy khi tan khi hợp.

Hồi thứ năm mươi bốn

Sử Thái Quân bỏ lối chuyện sáo ngày xưa;

Vương Hy Phượng học đòi áo hoa múa hát.

Giả Trân, Giả Liễn sắp sẵn tiền vào trong thúng lớn, nghe thấy Giả mẫu nói thưởng, liền sai người hầu ném tiền ra, tiếng loảng xoảng khắp trên sân khấu. Giả mẫu thích lắm. Hai người đứng dậy, người hầu mang bình đựng rượu bằng bạc mới hâm lên, Giả Liễn cầm lấy, đi theo Giả Trân vào phía trong. Giả Trân đến trước bàn thím Lý, cúi xuống lấy chén, quay lại Giả Liễn vội rót một chén; sau cùng rót đến bàn Tiết phu nhân. Tiết phu nhân và thím Lý vội đứng dậy cười nói:

- Mời hai cậu cứ ngồi, cần gì phải giữ lễ nghi quá?

Lúc đó, trừ Hình phu nhân và Vương phu nhân, các người dự tiệc đều đứng dậy chắp tay. Giả Trân, Giả Liễn đến trước giường Giả mẫu, vì giường thấp, hai người phải quỳ xuống. Giả Trân cầm chén quỳ ở phía trước, Giả Liễn cầm bình rượu quỳ ở phía sau. Tuy chỉ có hai người dâng rượu thôi, nhưng anh em bọn Giả Tôn cũng đều đứng dậy xếp hàng đi theo; thấy hai người quỳ, quỳ họ cũng đều quỳ. Bảo Ngọc cũng vội quỳ theo. Tương Vân khẽ đẩy Bảo Ngọc cười nói:

- Bây giờ anh cũng theo người ta mà quỳ làm gì? Đã thế thì anh cũng đi rót một tuần rượu có hơn không?

Bảo Ngọc cười nói:

- Chốc nữa sẽ rót.

Đợi hai người rót rượu xong, họ mới đứng dậy. Giả Trân lại rót rượu mời Hình phu nhân và Vương phu nhân. Sau đó cười nói:

- Còn các cô thì làm thế nào đây?

Giả mẫu nói:

- Các anh cứ đi ra để mặc cho họ được thoải mái hơn.

Bọn Giả Trân mới lui ra.

Đêm chừng đã sang canh hai, tuồng hát đang diễn tích "Bát nghĩa quan đăng"(1). Giữa lúc vui, Bảo Ngọc đứng dậy đi ra ngoài. Giả mẫu hỏi:

- Đi đâu? Ở ngoài đốt pháo dữ lắm, không cẩn thận tàn lửa rơi vào người thì bỏng đấy!

Bảo Ngọc cười nói:

- Cháu không đi xa đâu, chỉ ra đây một tí rồi về ngay thôi.

Giả mẫu sai bọn bà già theo hầu cẩn thận. Khi Bảo Ngọc ra, chỉ có Xạ Nguyệt, Thu Văn mấy a hoàn nhỏ đi theo. Giả mẫu liền hỏi:

- Sao không thấy Tập Nhân? Bây giờ nó đã ra vẻ lớn rồi, chỉ ngồi sai đám hầu nhỏ đi thôi.

Vương phu nhân đứng dậy cười nói:

- Hôm nọ mẹ nó chết, nó có tang, nên không tiện đi ra ngoài.

Giả mẫu gật đầu cười nói:

- Đã đi hầu thì không thể nói hiếu với không hiếu được. Nếu nó còn ở hầu ta, liệu bây giờ có thể tránh được chỗ này không? Việc ấy cũng như đã thành lệ rồi.

Phượng Thư vội chạy lại cười nói:

- Đêm hôm nay dù chị ta không có tang nữa, ở trong vườn này cũng phải trông nom đèn đuốc pháo hoa cho khỏi áy náy. Đã có hát xướng, người trong vườn ai chẳng lẻn đến xem? Chị ấy cẩn thận, nên ở nhà trông nom các nơi. Khi tan hát, chú Bảo về ngủ, mọi thứ đã được sắp đặt đầy đủ. Nếu chị ấy cĩmg đến đây, không ai để ý đến công việc, tan hát ra về, chăn đệm thì lạnh, nước trà không có, cái gì cũng thiếu cả. Vì thế cháu bảo chị ấy trông nhà, không cần đến nữa, để khi về, các cái được sắp đặt đầy đủ mọi người khỏi phải lo toan, lại trọn đạo hiếu của chị ấy, như thế chả hơn hay sao? Nay bà muốn gọi chị ấy, cháu bảo đi gọi ngay.

Giả mẫu bảo:

- Cháu nói phải đấy. Cháu nghĩ rất là chu đáo, đừng gọi nó nữa. Nhưng mẹ nó mất bao giờ? Sao ta lại không biết?

- Hôm nọ Tập Nhân có đến trình, bà đã lại quên rồi à?

Giả mẫu nghĩ một lúc, cười nói:

- Ta nhớ ra rồi. Bây giờ trí nhớ ta kém lắm!

Mọi người đều cười nói:

- Cụ nhớ đâu đến những việc ấy.

Giả mẫu thở dài:

- Từ bé nó hầu ta một dạo, rồi hầu cháu Vân, sau đến hầu thằng quỷ Bảo Ngọc này, làm nó phải chịu dãi dầu mấy năm nay! Nó không phải là bọn hầu sinh trưởng trong nhà này, chưa được nhờ vả ta mấy, khi mẹ nó chết, ta định cho nó mấy lạng bạc để chi phí chôn cất, thế rồi cũng quên đi.

Phượng Thư nói:

- Hôm nọ mẹ con đã cho chị ấy bốn mươi lạng bạc, thế là được rồi.

Giả mẫu gật đầu nói:

- Nếu thế thì thôi. Hôm trước mẹ Uyên Ương chết, ta nghĩ bố mẹ nó đều ở cả bên nam, không cho nó về chịu tang. Bây giờ chúng nó muốn giữ lễ, sao không cho hai đứa đến ở một chỗ làm bạn với nhau?

Bèn sai bà già mang hoa quả, đồ ăn và đồ điểm tâm đến cho hai người ăn. Hổ Phách cười nói:

- Còn phải chờ đến bây giờ nữa. Chị ta đã đến đấy từ lâu rồi.

Sau đó mọi người lại uống rượu xem hát.

Bảo Ngọc đi một mạch về trong vườn, bọn bà già thấy cậu ta về buồng, không đi theo nữa, chỉ ngồi sưởi ngoài phòng trà cửa vườn và uống rượu, đánh bài với bọn con gái ở đó. Bảo Ngọc vào đến nhà, thấy đèn sáng trưng, nhưng không có tiếng người. Xạ Nguyệt nói:

- Có lẽ họ ngủ cả rồi hay sao? Chúng ta khẽ đến dọa chơi.

Hai người rón rén đi lẻn vào vách giường, thấy Tập Nhân cùng một người nữa đương nằm đối diện với nhau trên giường, đằng kia có hai bà già ngồi ngủ gật.

Bảo Ngọc cứ tưởng hai người đã ngủ, vừa muốn đi vào, bỗng nghe Uyên Ương ho một tiếng nói:

- Việc đời khó mà định trước! Cứ lẽ ra, một mình chị ở đây bố mẹ ở nơi khác, hàng năm các cụ phải chạy ngược chạy xuôi không có chỗ nhất định, tưởng là khi bà cụ mất, chị không thể về tống táng được. Ngờ đâu bà cụ mất ở đây, chị lại được về đưa đám!

Tập Nhân nói:

- Đúng đấy, tôi cũng không ngờ được nhìn thấy mặt mẹ tôi. Khi đến trình bà Hai lại được thưởng bốn mươi lạng bạc. Như thế cũng bõ công cha mẹ nuôi nấng. Tôi thật không dám mơ ước gì hơn.

Bảo Ngọc nghe nói, quay lại khẽ bảo bọn Xạ Nguyệt:

- Ai ngờ chị ta đã lại đây rồi. Nếu ta vào, chị ấy bực mình sẽ chạy về mất, chi bằng chúng ta quay lại, để cho họ được yên tĩnh nói chuyện với nhau. Tập Nhân đương lúc buồn, may được Uyên Ương đến rất tốt.

Họ lại khe khẽ đi ra. Bảo Ngọc đến phía sau núi, đứng lại vén vạt áo lên. Xạ Nguyệt và Thu Văn cũng đứng lại, quay mặt đi, khẽ cười nói:

- Ngồi xuống rồi hãy cởi quần, cẩn thận kẻo gió thổi vào bụng đấy!

Hai đứa hầu ở đằng sau biết là Bảo Ngọc đi giải, liền chạy về phòng trà sấp sẵn nước rửa.

Bảo Ngọc đang đi, có hai người đàn bà đón hỏi: "Ai đấy?" Thu Văn nói:

- Cậu Bảo đấy, đừng làm ầm lên cho cậu ấy sợ.

Bọn đàn bà vội cười nói:

- Chúng tôi không biết, ngày tết lại sinh chuyện rồi. Các cô mấy ngày hôm nay vất vả quá.

Nói xong họ đã đi đến trước mặt. Bọn Xạ Nguyệt hỏi:

- Bà mang gì đấy?

- Đồ ăn của cụ sai mang sang cho cô Kim và cô Hoa đấy.

- Ngoài ấy hát vở "bát nghĩa" chứ có hát vở "hỗn nguyên hạp"(2) đâu, mà lại nảy ra cô Kim với Hoa?

Bảo Ngọc nói:

- Mở hộp ra cho tôi xem nào.

Thu Văn, Xạ Nguyệt mở hai cái hộp ra, hai người đàn bà liền ngồi xuống. Bảo Ngọc thấy trong hộp đựng những hoa quả bánh trái ngon nhất trong bữa tiệc, liền gật đầu rồi đi. Bọn Xạ Nguyệt vội đậy nắp hộp lại, cũng đi theo. Bảo Ngọc cười nói:

- Hai người này xem ra tính tình ôn hòa. nói năng vui vẻ, họ ngày nào cũng khó nhọc, thế mà lại bảo các chị vất vả suốt ngày; như thế là họ không tự khoe công lao mình đấy.

Xạ Nguyệt nói:

- Hai người này tết thì tốt thật đấy, nhưng không biết điều cũng lại ra trò.

Bảo Ngọc nói:

- Các chị là người hiểu biết, họ là người quê mùa đáng thương, nên chăm lo họ mới phải.

Vừa nói vừa đi ra cửa vườn.

Bọn bà già đương uống rượu đánh bài, thỉnh thoảng cũng chạy ra nhòm ngó, thấy Bảo Ngọc đi ra, họ cũng theo ra. Đến thềm hoa, thấy hai đứa hầu nhỏ, một bưng chậu, một cầm khăn tay và lọ sáp thơm đứng chờ ở đó từ lâu. Thu Văn dúng tay vào chậu nước, nói:

- Chúng bay càng lớn càng đoảng, sao nước lạnh thế này?

Bọn hầu nhỏ cười nói:

- Thưa cô, trời này cháu sợ nước lạnh nên rót nước sôi đấy. Thế mà lại lạnh mất rồi.

Bỗng có một bà già mang bình nước sôi đi qua, đứa hầu nhỏ liền nói:

- Bà ơi, cho tôi ít nước để pha.

- Chị ơi, nước pha trà của cụ đấy, chị nên đi múc lấy, có to chân lên đâu mà sợ!

Thu Văn nói:

- Nước của ai tôi cũng không cần! Nếu bà không đưa, cứ để ấm nước chè của cụ ra để rửa tay!

Bà già quay lại, nhìn thấy Thu Văn, liền đồ ra ít nước nóng. Thu Văn nói:

- Đủ rồi! Bà đã già mà chẳng biết gì cả! Ai chẳng biết là của cụ! Không lấy được, chúng tôi lại dám xin à?

Bà già cười nói:

- Tôi mắt lóa, không nhận ra được cô.

Bảo Ngọc rửa tay xong, bảo đứa hầu nhỏ cầm hộp sáp đổ vào tay cho xoa. Nhân có nước nóng. Thu Văn, Xạ Nguyệt cũng rửa tay rồi theo Bảo Ngọc đi.

Bảo Ngọc lấy một bình rượu nóng, bắt đầu rót mời từ thím Lý. Tiết phu nhân và thím Lý đều cười và mời ngồi, Giả mẫu nói:

- Cháu còn bé, cứ để cho nó rót, chúng ta phải uống cạn chén này.

Rồi Giả mẫu cầm chén uống trước. Hình phu nhân và Vương phu nhân đều vội uống. Tiết phu nhân và thím Lý cũng phải cạn chén. Giả mẫu lại bảo Bảo Ngọc:

- Cháu rót cả cho các chị em nữa, không được rót bừa, bảo họ đều phải uống hết.

Bảo Ngọc vâng lời, theo thứ tự rót đến Đại Ngọc. Đại Ngọc không uống, cầm chén lên đưa vào mồm Bảo Ngọc, Bảo Ngọc uống một hơi hết ngay. Đại Ngọc cười nói: "Cám ơn anh".

Bảo Ngọc lại rót hộ cho cô ta một chén. Phượng Thư cười nói:

- Chú Bảo không được uống rượu nguội, cẩn thận đấy kẻo lại run tay, sau không viết được chữ, không giương được cung đâu.

- Em có uống rượu nguội đâu.

- Tôi vẫn biết chú không uống rượu nguội. Đó là tôi dặn qua đấy thôi.

Bảo Ngọc lại đi rót rượu mời mọi người ngồi phía trong, riêng có vợ Giả Dung thì sai a hoàn rót; sau ra ngoài hiên rót mời bọn Giả Trân. Một lúc sau rồi về chỗ.

Sau khi mang đồ nước lên, lại tiếp đến dâng lễ nguyên tiêu. Giả mẫu liền bảo: "Hãy cho nghỉ hát. Lũ con trẻ đáng thương thực, cho chúng nó một ít canh nóng, đồ ăn nóng rồi sẽ lại hát".

Lại sai mang hoa quả và đồ lễ nguyên tiêu cho chúng ăn.

Lúc nghỉ hát, bà già dẫn đến hai cô xẩm kể chuyện, thường vẫn ra vào trong phủ. Hai người đặt hai cái ghế ở bên cạnh, Giả mẫu bảo họ ngồi và đưa đàn tì bà cho họ gẩy. Giả mẫu hỏi thím Lý và Tiết phu nhân: "Thích nghe tích gì?" Hai người đều thưa: "Tích gì cũng được". Giả mẫu liền hỏi:

- Gần dây có học thêm được chuyện nào mới không?

Hai cô xẩm thưa:

- Có một chuyện về đời Ngũ đại cuối nhà Đường.

Giả mẫu hỏi tên là vở gì. Cô xẩm thưa:

- Vở Phượng cầu loan.

Giả mẫu nói:

- Cái tên cũng hay đấy, nhưng do đâu mà có chuyện ấy? Hãy nói qua cho ta nghe, hay thì hãy kể.

Cô xẩm thưa:

- Cuối đời Đường, có một vị hương thân, người Kim Lăng, tên gọi Vương Trung, đã từng làm tể tướng hai triều vua. Sau cáo lão về nhà, chỉ có một vị công tử tên là Vương Hy Phượng.

Mọi người nghe nói cười ầm lên. Giả mẫu cười nói:

- Thế không trùng tên với con Phượng nhà ta à?

Một bà già vội đứng dậy đẩy cô xẩm nói:

- Đó là tên mợ Hai đấy, không được nói bậy!

Giả mẫu nói:

- Cứ việc nói đi.

Cô xẩm cười đứng dậy nói:

- Chúng cháu thật đáng chết! Không biết là tên mợ Hai!

Phượng Thư cười nói:

- Sợ gì! Cứ nói đi. Nhiều người trùng tên trùng họ chứ.

Cô xẩm lại nói:

- Năm ấy vị hương thân họ Vương cho công tử lên Kinh thi. Một hôm mưa to, công tử vào trú ở một cái trại. Ngờ đâu trong trại ấy cũng có một vị hương thân họ Lý, là bạn thân với vị hương thân họ Vương, liền giữ công tử ở lại thư phòng. Vị hương thân họ Lý không có con trai, chỉ có một tiểu thư tên gọi là Sồ Loan, cầm kỳ thi họa, món gì cũng giỏi.

Giả mẫu nói:

- Chẳng trách được gọi là phượng cầu loan. Thôi không cần nói nữa, ta đã đoán ra rồi. Chắc là Vương Hy Phượng muốn lấy Sồ Loan làm vợ chứ gì?

Cô xẩm cười nói:

- Cụ đã xem tích này rồi thì phải?

Mọi người đều nói:

- Truyện nào mà cụ chẳng xem! Dù chưa xem, người cũng đoán ra được.

Giả mẫu cười nói:

- Truyện ấy cũng cùng một lối như các truyện khác thôi, chỉ kể những giai nhân tài tử, chẳng có thú gì. Nói con gái nhà người ta rất tệ mạt, lại còn bảo là "giai nhân"! Toàn là đặt chuyện, không căn cứ vào đâu cả. Cứ mở mồm ra là con nhà "hương thân", bố không phải thượng thư tất là tể tướng. Hễ là tiểu thư thì nhất định được yêu quí như ngọc. Tiểu thư ấy tất là hạng thông văn chương, biết lễ nghĩa, vào bực giai nhân hiếm có. Rồi thấy đứa con trai nào xinh đẹp, không kể họ hàng, bạn bè, lại nghĩ ngay đến việc trăm năm của mình, quên cả bố mẹ, bỏ cả sách vở, ma chẳng ra ma, giặc chẳng ra giặc, như thế có giống bậc giai nhân một tí nào không? Dù có học giỏi đến đâu, mà làm những việc như thế, cũng không thể gọi là giai nhân được! Ví như một người con trai học hành rất giỏi mà đi làm giặc, thì phép vua có coi là tài tử mà tha tội cho không? Thế mới biết bọn làm sách chỉ tự mình bưng miệng mình. Vả chăng, đã nói là nhà thư hương thế hoạn, tiểu thư nhà đại gia ấy lại thông sách vở, biết lễ nghĩa, mà bà mẹ cũng vậy, dù khi đã cáo lão về nhà rồi, tất nhiên cũng còn nhiều bà già bà vú a hoàn theo hầu, thế mà trong truyện hễ xảy ra các việc như vậy, thì lại chỉ có một a hoàn hầu cận tiểu thư biết thôi! Các người thử nghĩ xem, những người hầu khác thì làm việc gì? Có phải là sách chép đầu Ngô mình Sở không?

Mọi người đều cười nói:

- Cụ thực moi ra hết những chuyện nói nhảm.

Giả mẫu cười nói:

- Việc ấy cũng có duyên cớ. Trong số người viết truyện, có một hạng thấy người ta phú quý, đem lòng ghen ghét, hoặc mong muốn điều gì không được, nên viết ra sách nói xấu. Lại có một hạng người nữa, đọc lệch truyện đi, tự mình cũng mong sao được gặp giai nhân, nên viết ra truyện để mua vui. Chứ họ có biết rõ được đạo lý con nhà thi thư thế hoạn là thế nào đâu. Không nói đến những hạng con nhà đại gia trong các truyện, chỉ nói ngay những nhà bậc bình thường như nhà chúng ta dây, cũng không hề có những truyện như thế. Đừng để cho họ lau láu cái mồm! Vì thế, nhà chúng ta xưa nay có cho ai kể những chuyện ấy đâu. Ngay trong đám a hoàn cũng vậy. Mấy năm nay ta già rồi, con cháu lại ở xa, khi buồn ta bảo người kể mấy câu cho qua, nhưng hễ cháu nó đến, là ta lại bắt họ thôi ngay.

Thím Lý và dì Tiết đều cười nói:

- Đó thực là khuôn phép nhà đại gia. Ngay nhà chúng cháu cũng không cho trẻ con nghe những chuyện nhảm ấy.

Phượng Thư chạy lại rót rượu, cười nói:

- Thôi, thôi! Rượu nguội mất rồi, xin bà uống một chén cho ráo cổ, rồi hãy vạch hết chuyện nhảm ấy ra. Hồi này có thể gọi là hồi "vạch chuyện nhảm", chuyện xảy ra đúng giờ này, ngày này, tháng này, năm này, nơi này, triều đại này. Bà ơi! Mở miệng khó nói được hai việc "Hai bông hoa nở chung một cành", "Thực giả chưa cần nói rõ"(3), cháu hãy sắp đặt người xem đèn, xem hát đã. Bà mời hai vị thân thích đi uống chén rượu, xem vài vở hát rồi sẽ vạch những chuyện nói nhảm từ mấy đời trước ra có được không?

Phượng Thư vừa rót rượu vừa cười, mọi người nghe vậy đều cười lăn ra.

Hai cô xẩm cũng cười nói:

- Mợ nói khéo quá! Mợ mà kể truyện thì thật chúng tôi hết chỗ kiếm ăn!

Tiết phu nhân cười nói:

- Chị nói ít chứ! Bên ngoài có khách, không như lúc thường đâu.

Phượng Thư cười nói:

- Bên ngoài chỉ có một mình anh Trân thôi, chúng tôi kể là anh em, từ lúc bé vẫn thường đùa ngịch với nhau. Mấy năm nay, vì đã có chồng, nên tôi phải giữ phép anh chồng em dâu, chứ không còn như khi nhỏ nữa. Trong nhị thập tứ hiếu có chuyện "múa áo ban"(4) các anh ấy không mặc áo hoa múa cho cụ tôi vui thì tôi phải khó khăn mới làm cho cụ tôi cười, để ăn thêm được một ít, cho cả nhà vui mừng. Đáng ra phải cảm ơn tôi mới phải, không lẽ lại cười tôi à?

Giả mẫu cười nói:

- Hai ngày hôm nay ta chưa có một trận cười nào thỏa thích, may có nó nói ra làm ta cười một trận, uống thêm chén rượu nữa.

Giả mẫu uống xong lại sai Bảo Ngọc:

- Đến mời chị cháu một chén.

Phượng Thư cười nói:

- Không cần chú ấy mời, cháu đến nhờ lộc bà đây.

Phượng Thư đến uống hết chén rượu còn thừa của Giả mẫu, và đưa chén cho a hoàn, bảo lấy chén khác đã ngâm nước nóng mang đến. Các người trong tiệc cũng đều đứng dậy thay chén đã ngâm nước nóng, rót rượu mới vào, rồi lại trở về chỗ ngồi.

Cô xẩm thưa:

- Cụ không nghe chuyện, chúng cháu xin gẩy một khúc hát để người nghe.

- Các người hãy họa bài "Tướng quân lệnh" cho ta nghe.

Hai người liền so dây gẩy đàn, Giả mẫu hỏi:

- Giờ đã canh mấy rồi?

Bọn bà già thưa:

- Canh ba.

Giả mẫu nói:

- Thảo nào đã thấy hơi lạnh.

Bọn a hoàn đã mang sẵn quần áo. Vương phu nhân cười nói:

- Xin cụ vào ngồi ở giường ấm trong noãn các. Hai vị này không phải là người lạ, để các con tiếp cũng được.

- Đã thế thì chúng ta cùng vào cả, có ấm hơn không?

- Sợ trong ấy không đủ chỗ ngồi.

- Ta đã có cách. Bây giờ không cần nhiều bàn nữa, chỉ dùng độ hai ba chiếc đặt liền nhau, mọi người ngồi quây quần một chỗ, vừa thân mật lại ấm áp.

Mọi người đều nói : "Thế mới vui chứ!"

Nói xong liền đứng dậy. Bọn đàn bà dọn hết bàn tiệc đi, dồn làm ba bàn lớn, lại đặt hoa quả cỗ bàn mới vào. Giả mẫu nói:

- Không phải câu nệ gì, ta cắt đặt đâu, các người phải ngồi đấy.

Nói xong, mời Tiết phu nhân và thím Lý ngồi đối diện bàn trên, còn mình ngồi trông ra hướng tây. Bảo Cầm, Đại Ngọc, Tương Vân cho ngồi liền bên cạnh, rồi bảo Bảo Ngọc:

- Cháu ngồi cạnh mẹ cháu.

Bảo Ngọc ngồi ở khoảng giữa Hình phu nhân và Vương phu nhân. Chị em Bảo Thoa ngồi ở phía tây. Theo thứ tự, Lâu thị ngồi kèm thêm Giả Huân; Vưu Thị và Lý Hoàn ngồi với Giả Lan; vợ Giả Dung ngồi ở ghế ngang phía dưới.

Giả mẫu nói:

- Anh Trân đẫn bọn anh em về đi, ta sắp đi ngủ đây.

Bọn Giả Trân vâng lời đi vào, Giả mẫu nói:

- Thôi anh về đi, không cần phải vào nữa, kẻo ngồi rồi lại phải đứng dậy. Anh về mà nghỉ, ngày mai còn có việc cần.

Giả Trân vâng lời, cười nói:

- Xin để cháu Dung ở lại rót rượu mới phải.

- Phải đấy, ta quên mất nó.

Giả Trân dẫn bọn Giả Liễn đi ra. Hai người rất mừng. Giả Trân sai người đưa Giả Tôn và Giả Hoàng về nhà rồi hẹn Giả Liễn đi mau vui ở chỗ khác.

Giả mẫu cười nói:

- Giờ ta mới nghĩ ra, ở đây đông người góp vui nhưng không có một đôi vợ chồng nào. Ta quên đi mất, bây giờ có vợ chồng chắt Dung, thế là song toàn rồi. Dung ơi! Mày cùng ngồi một chỗ với vợ mày, như thế mới thực là đoàn viên chứ.

Bọn bà già đem trình đơn hát, Giả mẫu cười nói:

- Bà cháu chúng ta đang vui, lại làm ồn lên. Vả chăng bọn trẻ con này phải thức đêm, trời lại lạnh, chi bằng cho chúng nó nghỉ, gọi bọn con hát gái của nhà ta đến đây diễn vài vở và cũng để cho chúng nó nghe luôn.

Các bà già vâng lời đi ra, một mặt bảo người đến vườn Đại Quan gọi bọn con gái hát, một mặt ra cửa thứ hai truyền cho những người hầu vào chờ sẵn đấy. Bọn người hầu đến buồng hát, cho những người lớn trong ban về hết, chỉ để trẻ con ở lại thôi.

Một lúc, người giáo tập ở viện Lê Hương dẫn bọn Văn Quan mười hai đứa từ cửa nách bên hè đi vào. Họ không kịp mang rương hòm, chỉ có các bà già đem theo mấy bọc quần áo, vì biết Giả mẫu chỉ thích nghe dăm ba vở thôi. Các bà già dẫn Văn Quan vào chào, chắp tay đứng yên. Giả mẫu cười nói:

- Trong tháng giêng này, thầy các người không cho ra nghỉ chơi à! Bây giờ các người hát vở gì? Vừa rồi hát tám khúc "bát nghĩa" nhộn lắm, làm ta nhức cả đầu. Nên hát khác gì êm ái thì hơn. Các người xem, dì Tiết và thím Lý đều có ban hát cả, đã nghe bao nhiêu vở hát hay rồi; các cô kia cũng đã xem và nghe nhiều khúc hát hay. Còn bọn con hát này lại là một ban hát có tiếng xưa nay, tuy chúng nó còn bé, nhưng hát khá hơn người lớn. Chúng ta đừng chịu mang tiếng, phải hát vở gì cho thật mới. Bây giờ Phương Quan hãy hát vở "tầm mộng" dùng đàn và tiêu sáo không cần sênh phách.

Văn Quan cười nói:

- Cụ dạy rất đúng. Vở hát của chúng tôi chắc không lọt tai các vị mấy, chẳng qua giọng vịt đực, khàn khàn trong cổ họng thôi.

Giả mẫu nói: "Đúng đấy".

Thím Lý và Dì Tiết đều cười nói:

- Con bé ranh thật! Mày cũng biết theo cụ đi đùa chúng ta à?

Giả mẫu nói:

- Chúng ta gặp thế nào vui thế, chứ không phải kiểu buôn bán kiếm lời, nên không cần phải hợp thời lắm.

Nói xong lại bảo Quỳ Quan:

- Hát vở "Huệ minh hạ thư"(5) cũng không cần phải vẽ mặt. Chỉ hát hai vở này để cho hai bà thêm vui thôi. Nếu không cố hát cho hay thì ta không bằng lòng đâu.

Lũ Văn Quan vâng lời đi ra, sắm sửa lên sân khấu, trước hết hát vở "tầm mộng", sau hát vở "hạ thư". Mọi người ngồi rất im lặng. Tiết phu nhân cười nói:

- Tôi đã xem hàng mấy trăm ban hát, chưa bao giờ lại chỉ dùng tiêu với sáo.

Giả mẫu nói:

- Có đấy như vừa rồi vở "Sở giang tình" trong "Tây lâu" thường chỉ có vai nam thổi tiêu hòa nhịp thôi. Vở này ít khi đem ra họa chung. Đó là tùy người nghe có quen hay không đấy thôi, chứ có gì là lạ.

Lại trỏ Tương Vân nói:

- Hồi tôi còn nhỏ như nó, đã được xem một ban hát của bố nó cũng chỉ có một người đánh đàn, hòa vở "thính cầm" trong "Tây sương ký". Vở "cầm khiên" trong "Ngọc trâm ký", nghe ra như thực ấy. Vậy so với vở này thì thế nào?

Mọi người đều nói: "Thế lại càng khó mà bì nổi".

Giả mẫu sai mấy người đàn bà đến bảo bọn Văn Quan đàn sáo hát khúc "đăng nguyệt viên". Bọn đàn bà vâng lời đi. Vợ chồng Giả Dung rót một lượt rượu.

Phượng Thư thấy Giả mẫu cao hứng quá, liền cười nói:

- Nhân có các cô xẩm ở đây, chi bằng bảo họ đánh trống, chúng ta bày cuộc truyền cành mai làm lệnh "xuân hỷ thượng my sao"(6) có nên không?

Giả mẫu cười nói:

- Lệnh ấy hay đấy! Đúng với thời cảnh bây giờ.

Rồi sai người mang cái trống lệnh đóng đanh đồng sơn đen đến cho các cô xẩm đánh, và lấy một cành mai trên bàn tiệc ra. Giả mẫu cười nói:

- Hễ cành mai truyền đến tay ai mà ngừng trống thì người ấy uống một chén rượu, và phải nói một câu chuyện mới được.

Phượng Thư cười nói:

- Kể ra thì ai được như bà, muốn đọc cái gì có cái ấy ngay. Chúng cháu không làm được lại chẳng hóa ra mất vui sao? Phải làm thế nào để người nhã và người tục đều thưởng thức cả mới thú. Chi bằng trống dứt ở tay người nào, người ấy phải kể một câu chuyện cười.

Mọi người đều biết Phượng Thư ngày thường tài pha trò, trong bụng có vô số là chuyện vui mới lạ, nay thấy chị ta nói thế, không những người trong tiệc, ngay đám hầu lớn nhỏ ở đấy cũng đều thích cả. Chúng liền đi rủ chị gọi em: "Mợ Hai sắp nói pha trò đấy, mau đến mà nghe". Một lúc sau, người đến đông nghịt cả nhà.

Đàn hát xong, Giả mẫu bảo mang ít hoa quả, chè thang cho bọn Văn Quan ăn. Rồi sai đánh trống. Các cô xẩm đã đánh quen, lúc thưa lúc nhặt, thánh thót như giọt đồng hồ, dồn dập như vó ngựa chạy, nhanh nhanh như điện vút qua. Bỗng nhiên tiếng trống dừng lại, cành mai đã đưa đến tay Giả mẫu, mọi người cười ầm lên. Giả Dung vội đến rót chén rượu. Mọi người cười nói:

- Cụ phải vui trước, để chúng cháu vui nhờ với.

Giả Dung cười nói:

- Cụ kể hay hơn chị Phượng nhiều, xin người nói lên, để chúng cháu được vui cười.

Giả mẫu cười nói:

- Rượu uống cũng được, nhưng kể chuyện vui thì hơi khó đấy.

Mọi người đều nói:

- Cụ kể hay hơn chị Phượng nhiều, xin người nói lên, để chúng cháu được vui cười.

Giả mẫu cười nói:

- Chẳng có chuyện gì mới lạ đáng buồn cười cả, thôi già này đành mặt dày kể một chuyện vậy: "Một nhà có mười người con giai, lấy mười người con dâu. Chỉ có người con dâu thứ mười là thông minh lanh lợi, mồm mép bẻo lẻo, bố mẹ chồng rất thương, suốt ngày cứ chê chín người con dâu kia không biết hiếu thuận. Chín người con dâu ấy ức quá, liền bàn với nhau: chín đứa chúng ta bụng rất hiếu thuận, nhưng mồm mép không bẻo lẻo bằng con ranh ấy, nên bố mẹ chỉ bảo nó tốt thôi. Nỗi uất ức này biết kêu ai cho được! Có người nghĩ ra một cách: Ngày mai chúng ta thắp hương khấn hỏi vua Diêm vương: đã cho chúng tôi sinh ra làm người, tại sao lại chỉ cho con ranh con ấy cái mồm lém lỉnh, còn chúng tôi thì đều ăn nói vụng về cả? Tám người kia nghe xong, lấy làm thích thú lắm, đều nói: nghĩ thế đúng đấy! Hôm sau, họ rủ nhau đến thắp hương ở miếu Diêm vương. Chín người đều nằm mộng dưới bàn thờ. Chín cái hồn cứ chơ vơ mãi, không thấy Diêm vương đến. Đương lúc sốt ruột thì Tôn Hành Giả cưỡi mây lộn xuống nhìn thấy chín cái hồn, liền cầm gậy bít vàng định đánh. Chín cái hồn sợ quá, quỳ xuống van xin. Tôn Hành Giả hỏi duyên cớ vì sao, chín cái hồn ấy vội tỉ mỉ thuật lại câu chuyện. Nghe xong, Tôn Hành Giả giậm chân thở dài: Việc này may gặp ta đây! Chứ gặp Diêm Vương thì người chẳng hiểu ra sao đâu. Chín cái hồn liền nói: Xin đức đại thánh rủ lòng từ bi cho chúng con được nhờ! Tôn Hành Giả cười nói: Việc này không khó gì đâu, hôm mười chị em chúng mày hóa kiếp làm người, vừa lúc ta đến điện Diêm vương, ta đái một bãi xuống đất, con em dâu bé chúng mày uống hết cả. Bây giờ chúng mày muốn khôn ngoan, lém lỉnh, sẵn nước đái đây ta đái cho mà uống.

Giả mẫu kể xong, mọi người đều cười ầm lên. Phượng Thư cười nói:

- Chuyện hay lắm! May mà các cháu đây đều là hạng mồm mép vụng về cả. Nếu không, cũng phải uống nước đái khỉ rồi đấy.

Lâu Thị, Vưu Thị đều ngoảnh lại Lý Hoàn, cười nói:

- Bọn chúng ta đây ai là người đã uống nước đái khỉ rồi? Đừng có giả vờ nữa!

Tiết phu nhân cười nói:

- Chuyện vui cốt ở chỗ đúng với cảnh mới đáng buồn cười.

Lúc đó lại đánh trống. Bọn hầu chỉ muốn nghe Phượng Thư nói chuyện cười, liền khẽ bảo cô xẩm, cứ nghe tiếng đằng hắng thì ngừng trống lai. Một lúc cành mai đã truyền đi hai lượt, vừa đến tay Phương Thư, bàn hầu nhỏ đằng hắng, cô xẩm ngừng trống lại. Mọi người đều cười nói:

- Tóm đúng cổ rồi! Thôi uống rượu rồi kể chuyện đi. Nhưng đừng làm người ta cười đứt ruột đấy!

Phượng Thư nghĩ một lúc, cười nói:

- Một nhà nọ ăn tết tháng giêng, cả nhà xem đèn uống rượu, rất là náo nhiệt. Nào cụ, nào bà, nào con dâu, cháu dâu, chắt dâu, cháu dâu họ, cháu họ, chắt họ, cháu nuôi, cháu dây mơ rễ mái, cháu gái, cháu gái ngoại, cháu gọi bằng bà dì, cháu gọi bằng bà cô... Úi chà! Thật là đông đúc nhộn nhịp!

Mọi người nghe vậy, cười lớn nói:

- Nghe cái miệng rông dài ấy, chưa biết lại định chọc người nào đấy!

Vưu Thị cười nói:

- Thím mà trêu tôi thì tôi xé mồm ra đấy!

Phượng Thư đứng dậy vỗ tay cười nói:

- Người ta đã phải nói khó nhọc, các người lại cứ quấy rối, thôi tôi không nói nữa.

Giả mẫu cười nói:

- Cháu cứ nói đi, sau đó thế nào?

Phượng Thư nghĩ một lúc rồi cười nói:

- Sau quây quần cả vào trong một nhà, uống rượu suốt đêm rồi đâu về đấy.

Mọi người thấy giọng nói có vẻ nghiêm chỉnh, ai nấy im lặng, ngồi ngây ra nghe, nhưng thấy Phượng Thư lạnh lùng ngừng hẳn lại không nói nữa. Tương Vân nhìn một lúc lâu. Phượng Thư cười nói:

- Lại kể một chuyện nữa về tết tháng giêng: Có mấy người mang cây pháo to ra ngoài thành, hàng vạn người đi theo để xem. Có một người sốt ruột không chờ được, liền lấy hương đốt vụng, thì "ầm" một tiếng. mọi người đều cười rộ lên, rồi về cả. Người khênh cây pháo lại oán trách người bán pháo cuộn không chắc, chưa đốt đã nổ rồi.

Tương Vân nói:

- Chẳng lẽ người ấy lại không nghe tiếng à?

Phượng Thư nói:

- Người đó là người điếc.

Mọi người nghĩ một lúc bỗng cười to, lại nghĩ đến câu chuyện trước chưa nói hết, liền hỏi:

- Câu chuyện nói trước rồi ra thế nào? Nói hết đi.

Phương Thư đập bàn nói:

- Khéo lôi thôi lắm! Ngày mai là ngày mười sáu, hết năm mới rồi, hết tết rồi, tôi phải trông nom cho người ta dọn dẹp đồ đạc còn biết sau đó ra thế nào nữa.

Mọi người nghe rồi lại cười ầm lên.

Phượng Thư cười nói:

- Đã canh tư rồi, cứ ý cháu thì bà đã mệt, chúng ta cũng nên như "thằng điếc đốt pháo" về đi là hơn.

Vưu Thị lấy khăn bịt mồm cười rũ rượi, trỏ Phượng Thư nói:

- Cái con này, thật là miệng nói rông rài!

Giả mẫu cười nói:

- Con Phượng đúng càng ngày càng quen nói rông rài!

Rồi lại bảo:

- Nó đã nhắc đến cây pháo, thì chúng ta cũng lấy pháo ra đốt để giải rượu.

Giả Dung nghe nói, liền dẫn bọn người hầu dựng cái giá ở sân, rồi treo sẵn pháo lên. Thứ pháo này là của các nơi đem đến tiến cống, tuy không to lắm, nhưng làm rất công phu. Khi pháo nổ, sẽ có đủ những sự tích và đủ các màu sắc, lại kèm thêm pháo hoa. Đại Ngọc vốn người yếu sẵn, không chịu nổi những tiếng nổ to, Giả mẫu liền ôm cô ta vào lòng. Tiết Phu nhân cũng ôm lấy Tương Vân. Tương Vân cười nói:

- Cháu không sợ.

Bảo Thoa cười nói:

- Xưa nay nó vẫn thích đốt pháo lớn, còn sợ cái gì.

Vương phu nhân cũng ôm Bảo Ngọc vào lòng. Phượng Thư cười nói:

- Chúng tôi thì chẳng ai thương cả!

Vưu Thị cười nói:

- Có tôi đây, tôi ôm thím vào lòng nhé. Bây giờ lại làm nũng rồi đấy. Nghe nói nổ pháo thì thích như "uống nước đái con ong" ấy lại còn làm bộ.

Phượng Thư cười nói:

- Chờ xong đây, chúng ta sẽ về trong vườn đốt pháo nữa. Tôi còn đốt giỏi hơn bọn người hầu kia đấy.

Đương nói chuyện thì bên ngoài đã đốt luôn các thứ pháo. Nào là kiểu "mãn thiên tinh" (sao khắp trời), nào là "cửu long nhập vân" (chín con rồng lượn trong đám mây), nào là "bình địa nhất thanh lôi" (một tiếng sấm trên đất bằng), nào là "phi thiên thập hưởng" (mười tiếng nổ tung trên trời). Đốt pháo xong, lại sai bọn con hát nhỏ đánh một hồi trống "liên hoa lạc" (hoa sen rụng), rồi rắc đầy tiền trên sàn hát để đám trẻ con lên cướp làm trò vui.

Khi ăn cháo, Giả mẫu nói:

- Đêm dài quá đâm ra đói.

Phượng Thư vội nói:

- Đã sắp sẵn cháo vịt rồi.

- Ta ăn thứ gì thanh đạm thôi.

- Đã có thứ cháo gạo tám nấu với táo để cho các bà ăn chay.

- Ta ăn món ấy thôi.

Lúc đó bàn tiệc đã dọn đi cả, khắp trong ngoài lại bày đặt các món ăn thanh đạm. Ai muốn gì thì ăn. Súc miệng xong, ai nấy đều về.

Đến sáng hôm mười bảy, Giả mẫu lại sang phủ Ninh làm lễ chờ đóng cửa nhà thờ, thu dọn ảnh, xong mới về. Hôm ấy Tiết phu nhân lại mời Giả mẫu đến uống rượu tết. Ngày mười tám, nhà Lại Đại mời. Ngày mười chín nhà Lai Thăng bên phủ Ninh mời. Ngày hai mươi, nhà Lâm Chí Hiếu mời. Ngày hai mươi mốt, nhà Đan Đại Lương mời. Ngày hai mươi hai, nhà Ngô Tân Đăng mời. Có ngày Giả mẫu đi, có ngày Giả mẫu không đi. Khi cao hứng thì đợi cho tiệc tan mới về, không vui thì chỉ đến một lúc là về ngay. Các bạn hữu lại mời hoặc lại dự tiệc, Giả mẫu nhất thiết không tiếp, mặc cho Hình phu nhân, Vương phu nhân và Phượng Thư trông nom. Ngay Bảo Ngọc cũng chỉ đến nhà Vương Tử Đằng thôi, còn đều từ chối cả, chỉ nói là Giả mẫu giữ lại ở nhà để cho đỡ buồn.

-----------------------------

1. Vở kịch do Từ Thúc Hồi đời nhà Minh soạn, diễn tích Triệu Thuẫn người nước Tấn đời Xuân Thu.

2. Một chuyện thần thoại diễn tích Kim Hoa nương nương.

3. Phượng Thư toàn dùng những câu cuối hồi các truyện ra để pha trò cười.

4. Chuyện ông Lão Lai đã 70 tuổi, còn mặc áo hoa sặc sỡ, múa hát để bố mẹ vui.

5. Trong Tây sương ký: Khi Tôn Phi Hổ đem quân đến vây chùa Tướng Quốc, chú tiểu Huệ Minh đã dũng cảm, cầm lá thư của Trương Sinh đưa đến Bạch Mã tướng quân, nhờ đem quân về giải vây, cứu thoát mẹ con Thôi Oanh Oanh trong tay giặc.

6. Vui mừng xuân đến cả cuối lông mày ý nói vui mừng quá.

Hồi thứ năm mươi lăm

Mắng con gái mình, dì Triệu tức nhảm;

Khinh cô chủ bé, mụ Ngô ác ngầm.

Ngày tết đã qua. Lúc này trong cung có vị thái phi bị yếu do đức vua lấy đạo hiếu trị thiên hạ, nên các phi tần đều bớt món ăn, thôi trang điểm, không những không về thăm cha mẹ, mà mọi yến tiệc cũng đều bỏ cả. Vì vậy phủ Vinh trong đêm nguyên tiêu năm nay cũng không có buổi đố đèn. Tết vừa qua, Phượng Thư bị tiểu sản, phải nằm ở nhà một tháng, không trông nom được công việc, ngày nào cũng mời hai, ba thầy thuốc đến chữa. Phượng Thư cậy mình khỏe, tuy không đi ra ngoài,nhưng vẫn lo tính công việc, hễ nghĩ đến điều gì là sai ngay Bình Nhi sang trình Vương phu nhân. Ai can ngăn cũng không nghe. Vương phu nhân xem như mất một cánh tay. Một người được bao nhiêu sức lực, nên việc gì quan trọng, bà ta mới nhìn đến, còn việc lặt vặt trong nhà đều giáo cho Lý Hoàn trông nom. Lý Hoàn vốn là người trọng đức không trọng tài, đâm ra nuông chiều người dưới quá. Vương phu nhân liền sai Thám Xuân hợp sức trông nom với Lý Hoàn. Cũng tưởng chỉ độ một tháng, Phượng Thư khỏi rồi, lại giao giả công việc cho chị ta; nào ngờ Phượng Thư vốn đã hư nhược, còn trẻ người, không biết giữ gìn, xưa nay lại hay khoe khôn cậy khéo, nên sức càng yếu thêm, tuy là tiểu sản, nhưng thực ra trong người hư nhược lắm rồi. Sau một tháng, lại thêm bênh rong huyết. Tuy chị ta không chịu nói ra, nhưng mọi người thấy mặt mũi vàng vọt, biết ngay là kém điều dưỡng. Vương phu nhân bắt phải uống thuốc và nghỉ ngơi, không được nghĩ đến việc gì cả. Phượng Thư cung sợ bệnh nặng thêm, người ta cười chê, nên cũng muốn nhân lúc rỗi để tĩnh dưỡng, chỉ bực mình không mau được khỏe như cũ. Ngờ đâu uống thuốc đến ba tháng, bệnh mới đỡ.

Vương phu nhân thấy Phượng Thư như thế, Thám Xuân và Lý Hoàn mới cáng đáng công việc, sợ trong vườn nhiều người, không trông nom xuể, bèn nhờ Bảo Thoa trông nom hộ các nơi cho cẩn thận, và dặn: "Bọn bà già thực vô dụng, ban ngày thì ngủ, đêm đến lại bài bạc. Ta biết cả rồi. Khi chị Phượng còn trông nom công việc, họ còn chút sợ hãi, bây giờ thì tha hồ bừa bãi. Cháu là người đứng đắn, các em cháu hãy còn bé cả, ta lại không có thì giờ, nhờ cháu chịu vất vả trông nom hộ ít ngày. Nếu xảy ra việc gì cháu đến nói với ta, chớ để khi cụ hỏi đến, lại không biết trả lời ra sao. Có người nào hư, cháu cứ răn bảo, nếu nói không nghe, sẽ nói cho ta biết, không nên để xảy ra to chuyện." Bảo Thoa nghe nói, đành xin vâng lời.

Bấy giờ đã cuối xuân, Đại Ngọc lại ho trở lại. Tương Vân cũng bị cảm nằm ở Hành Vu Uyển, suốt ngày thuốc men không ngớt.

Thám Xuân và Lý Hoàn ở cách nhau, nên có việc gì, người đi lại trình báo rất không tiện. Họ bàn với nhau, cứ mỗi buổi sáng cùng đến bàn việc ở ba gian nhà hoa bên phía nam cửa vườn. Từ sau bữa cơm sáng, đến quá trưa họ mới về.

Ba gian nhà này là chỗ đứng chực của bọn thái giám trong dịp Quý phi về thăm nhà. Sau đó bỏ không, chỉ để bọn bà già đến canh đêm. Bây giờ trời ấm, nên không cần phải sửa sang mấy, chỉ bày biện qua loa cho hai người ngồi thôi. Nhà này cũng có cái biển đề bốn chữ "phụ nhân dụ đức" (giúp nhân khuyên đức) người trông nhà thường chỉ gọi là "nhà bàn việc". Hai người cứ giờ mão đến, giờ ngọ về. Bọn đàn bà giữ việc, đi lại trình báo không ngớt. Ban đầu, mọi người thấy một mình Lý Hoàn trông nom, trong bụng đều mừng thầm, vì Lý Hoàn xưa nay là người trung hậu, chỉ làm ơn chứ không hay phạt ai. Sau thêm Thám Xuân. Thấy vậy ai cũng yên trí đó là một cô tiểu thư trẻ tuổi, chưa từng ra khỏi buồng the, mà tính khí xưa nay lại hòa nhã điềm đạm. Vì thế công việc trễ nải hơn khi Phượng Thư trông nom. Nhưng sau ba, bốn ngày, qua mấy việc, dần dần thấy rõ Thám Xuân sành sỏi chẳng kém gì Phượng Thư, chỉ khác là tính tình hòa nhã, nói năng dịu dàng mà thôi.

Vừa hay trong mấy ngày liền, có hàng mười mấy nơi, nào là vương công hầu bá, quan viên thế tập hoặc là họ hàng, hoặc là bạn thân của hai phủ Vinh, Ninh, người được thăng chức đổi đi nơi khác, người bị giáng truất, hoặc có việc tang hay việc hôn, Vương phu nhân phải đi mừng, đi viếng, đưa đón không lúc nào rỗi, nên bên ngoài lại càng không có ai trông nom. Lý Hoàn và Thám Xuân ngày nào cũng phải ngồi ở nhà hoa, Bảo Thoa thì lên nhà trên trông nom, đến khi Vương phu nhân về mới nghỉ.

Ban đêm khâu vá, xong trước khi đi ngủ, họ ngồi kiệu dẫn những người canh trong vườn đi xem xét các nơi một lượt. Ba người này làm như thế, so với lúc Phượng Thư giữ việc lại có phần cẩn thận hơn. Vì thế các người hầu trong ngoài oán ngầm: "Một con quỉ dạ soa vừa ngã, thì ba sao thái tuế lại lên", ngay đến cả việc uống trộm chơi trộm ban đêm cũng không được nữa.

Hôm ấy Vương phu nhân đi dự tiệc ở phủ Cẩm Hương Hầu, Lý Hoàn và Thám Xuân rửa mặt chải đầu xong, đứng chực để đưa ra cửa. Khi Vương phu nhân đi rồi, hai người mới về nhà hoa ngồi, vừa uống chén nước, thấy vợ Ngô Tân Đăng đến trình:

- Em dì Triệu là Triệu Quốc Cơ hôm nọ chết, đã trình cụ và bà Hai, người nói biết rồi, và bảo đến trình cô.

Nói xong, liền buông thõng tay đứng cạnh. Bấy giờ có nhiều người đến trình việc, đều thăm dò xem Lý Hoàn và Thám Xuân làm ăn thế nào. Nếu sắp đặt thỏa đáng, thì họ mới sợ, có thiếu sót điều gì, không những họ không phục, mà khi ra đến cửa ngoài lại còn nói nhiều câu chế giễu, để làm trò cười. Vợ Ngô Tân Đăng đã có ý định như vậy, nên trước đây đối với Phượng Thư, chị ta tỏ vẻ ân cần, đưa nhiều ý và tra lệ cũ ra, tùy Phượng Thư lựa chọn mà làm; nhưng bây giờ chị ta coi thường Lý Hoàn là người thực thà, Thám Xuân là cô gái trẻ tuổi, nên chỉ nói thõng một câu, để xem ý định của hai người ra sao.

Thám Xuân hỏi Lý Hoàn. Lý Hoàn nghĩ một lúc rồi nói:

- Hôm nọ thấy nói mẹ Tập Nhân chết, có giúp cho bốn mươi lạng bạc, bây giờ ta cũng nên giúp cho bốn mươi lạng.

Vợ Ngô Tân Đăng liền "vâng" một tiếng, rồi cầm thẻ đi lĩnh tiền. Thám Xuân nói:

- Chị hãy quay lại đây.

Vợ Ngô Tân Đăng đành phải quay lại. Thám Xuân nói:

- Chị khoan chi tiền. Tôi hỏi chị: Mấy năm trước, các bà dì ở trong nhà cụ, có người ở trong nhà, có người ở ngoài đến, hai hạng khác hẳn nhau. Khi có bà con chết thì người ở trong nhà được giúp bao nhiêu? Người ở ngoài được giúp bao nhiêu? Chị nói cho chúng tôi biết.

Nghe hỏi, vợ Ngô Tân Đăng cuống lên, cười nói:

- Việc ấy không can hệ gì, giúp nhiều hay ít, còn ai dám tị nạnh nữa.

Thám Xuân cười nói:

- Nói càn thế sao được! Cứ ý tôi thì giúp một trăm lạng mới phải! Nhưng nếu không theo lệ thì chẳng những các chị cười mà sau này tôi cũng ngượng mặt với mợ Hai nhà chị.

Vợ Ngô Tân Đăng cười nói:

- Đã thế thì tôi đi tra sổ cũ xem, bây giờ không nhớ được.

Thám Xuân cười nói:

- Chị giữ việc lâu nay, còn chưa nhớ được, lại đến làm khó dễ chúng tôi? Ngày thường chị đến trình với mợ Hai cũng phải đi tra sổ à? Nếu quả như thế thì mợ Hai không phải là người cay nghiệt, mà là người rộng lượng đấy. Thôi chị đi lấy sổ cho tôi xem! Nếu nhỡ việc một ngày, người ta không cho là các chị sơ suất, lại bảo chúng tôi hồ đồ.

Vợ Ngô Tân Đăng đỏ bừng mặt, quay ra. Các người đàn bà đứng đấy đều lè lưỡi. Rồi có mấy người nữa vào trình việc.

Một lúc vợ Ngô Tân Đăng mang sổ đến. Thám Xuân giở ra xem, có hai người ở trong nhà được giúp hai mươi bốn lạng, hai người ngoài đến được giúp bốn mươi lạng. Ngoài ra còn có hai người ở ngoài nữa: một người được giúp một trăm lạng, một người được giúp sáu mươi lạng. Hai món tiền này ở dưới đều chua rõ: một người phải rước linh cữu bố mẹ đi ra tỉnh khác, nên giúp thêm sáu mươi lạng; một người phải mua đất chôn nên giúp thêm hai mươi lạng. Thám Xuân đưa sổ cho Lý Hoàn xem, rồi nói:

- Giúp hai mươi lạng thôi. Để sổ này ở đây, chúng tôi còn phải xem lại.

Vợ Ngô Tân Đăng đi ra.

Bỗng thấy dì Triệu đến, Lý Hoàn, Thám Xuân vội mời ngồi. Dì Triệu nói:

- Người trong nhà này ai cũng muốn giúi đầu tôi xuống, các cô hãy làm thế nào cho tôi hả giận mới phải!

Dì Triệu vừa nói vừa khóc sướt mướt. Thám Xuân vội nói:

- Dì nói ai thế? Tôi thật không hiểu. Ai giúi đầu dì xuống? Xin cứ nói ra, tôi sẽ làm cho dì hả giận.

Dì Triệu nói:

- Chính cô giúi đầu tôi xuống, tôi còn biết kêu ai được nữa?

Thám Xuân đứng dậy nói:

- Tôi đâu dám thế.

Lý Hoàn vội đứng dậy khuyên ngăn. Dì Triệu nói:

- Các người hãy ngồi xuống để tôi nói. Tôi dãi dầu chịu đựng trong nhà này đã chừng này tuổi đầu, mới đẻ được cô và thằng em cô, thế mà bây giờ không bằng cả con Tập Nhân. Tôi còn mặt mũi nào nữa. Việc này không riêng gì tôi, mà cả cô cũng mất thể diện đấy.

Thám Xuân cười nói:

- Thế ra vì việc này à! Tôi nghĩ tôi không bao giờ dám làm việc gì phạm phép trái lễ.

Thám Xuân ngồi xuống, lấy sổ ra đọc cho dì Triệu nghe, lại nói:

- Đây là thể lệ của ông cha đặt ra từ trước, ai cũng phải theo thôi, thay đổi thế nào được? Không những riêng đối với chị Tập Nhân, mà sau này em Hoàn có lấy người hầu ở ngoài, tất nhiên cũng được đối đãi như Tập Nhân. Đây không phải là việc tranh giành hơn kém, dì không nên nói đến việc có thể diện hay mất thể diện. Họ là đầy tớ của bà Hai, tôi phải làm theo lệ cũ. Nếu tôi làm phải, họ sẽ đội ơn tổ tiên và bà Hai; nếu bảo tôi làm không công bằng, thì đó là tự họ hồ đồ không biết phúc phận dấy thôi, dù có oán trách tôi cũng mặc. Dù bà Hai có cho cả cái nhà đi nữa, tôi cũng chẳng được thể diện gì, mà không cho một đồng nào, tôi cũng chẳng mất thể diện. Cứ ý tôi, hiện giờ bà Hai đi vắng chưa về, dì nên yên tĩnh giữ sức khỏe, tội gì phải bận lòng thế. Bà Hai rất thương tôi, vì dì cứ hay tính chuyện, nên mấy lần người rất phiền lòng. Nếu tôi là con giai được ra ngoài lập công danh, thì đã đành đi một nhẽ. Nhưng tôi lại là con gái, ăn nói phải giữ gìn từng câu. Trong bụng bà Hai đã biết hết, vì người tin tôi nên mới bảo tôi trông nom việc nhà. Tôi chưa làm được cái gì đáng kể, dì đã đến giày vò tôi. Nếu bà Hai biết, sợ tôi khó xử không cho tôi trông nom nữa, thế mới thật là mất thể diện. Và ngay dì cũng mất thể diện nữa.

Thám Xuân vừa nói vừa khóc nức nở. Dì Triệu không trả lời được câu gì, chỉ nói:

- Bà Hai thương cô, cô càng nên dắt díu chúng tôi. Đằng này cô chỉ làm thế nào cho bà Hai thương, lại đâm ra quên hẳn chúng tôi đi.

Thám Xuân nói:

- Tôi quên sao được. Bắt tôi dắt díu cái gì? Cứ đi hỏi các người xem. Chủ nào mà chẳng thương những người làm được việc. Đã là người giỏi thì còn cần ai dắt díu nữa.

Lý Hoàn đứng ở bên cạnh cứ khuyên:

- Dì đừng nóng nảy thế, cũng không nên trách cô ấy. Dù trong bụng cô ấy muốn dắt díu chăng nữa, cũng không khi nào nói ra miệng được.

Thám Xuân nói:

- Chị Cả cũng hồ đồ! Tôi dắt díu được ai? Có các cô nhà nào lại đi dắt díu bọn đầy tớ? Họ hay dở thế nào, các người chắc cũng biết đấy, can gì đến tôi?

Dì Triệu tức tối hỏi:

- Ai bảo cô dắt díu người khác. Nếu cô không trông nom việc nhà, thì tôi chẳng đến hỏi làm gì. Bây giờ cô nói một là một, hai là hai. Cậu của cô chết, cô có cho thêm hai, ba mươi lạng, chẳng lẽ bà Hai lại không bằng lòng hay sao? Rõ ràng bà Hai tốt bụng, chỉ vì các người cay nghiệt đấy thôi. Đáng tiếc là bà Hai muốn ban ơn cũng không biết ban vào chỗ nào được! Cô cứ yên tâm! Việc này không phải tiêu tiền của cô đâu! Sau này cô đi lấy chồng, tôi còn mong gì cô nhìn ngó đến nhà họ Triệu nữa! Bây giờ chưa mọc cánh mà đã quên tổ chỉ chực chọn cây cao mà bay thôi.

Thám Xuân chưa nghe hết lời, tức tái mặt, nghẹn ngào khóc nức khóc nở, hỏi:

- Ai là cậu tôi? Cậu tôi đã thăng chức tuần kiểm chín tỉnh rồi! Bây giờ lại còn một cậu nào nữa. Xưa nay tôi vẫn kính trọng lẽ phải, nhưng khi nào lại kính trọng đến những hạng thân thích như thế? Dì nói thế thì sao mỗi khi em Hoàn đi ra, Triệu Quốc Cơ lại phải đứng dậy? Lại phải theo hầu nó đi học? Sao không giở cái lối ông cậu ra! Ai chả biết dì đẻ ra tôi, cứ vài ba tháng lại tìm cách gây chuyện, đào bới nhau lên, sợ người ta không biết, nên cố ý bêu ra! Ai làm cho ai mất thể diện đây! May tôi là đứa biết điều, nếu hồ đồ không giữ lễ thì đã nóng máu lên rồi.

Lý Hoàn vội vàng khuyên mãi, dì Triệu vẫn cứ càu nhàu không thôi.

Chợt có người vào nói:

- Mợ Hai sai cô Bình đến có việc.

Dì Triệu mới ngậm miệng không nói nữa. Thấy Bình Nhi đến, dì Triệu liền cười, mời ngồi, lại vội vàng hỏi:

- Mợ nhà đã khỏi chưa? Tôi định sang thăm nhưng chưa có lúc rỗi.

Lý Hoàn thấy Bình Nhi đến, liền hỏi:

- Đến có việc gì đấy?

- Mợ tôi bảo: em dì Triệu chết rồi, sợ mợ và cô không biết lệ cũ. Nếu theo lệ thường thì chỉ được cấp hai mươi lạng thôi, nay tùy ý cô châm chước, thêm ít nhiều nữa cũng được.

Thám Xuân đã lau nước mắt, liền nói:

- Tự dưng vô cớ thêm cái gì? Ai là người "chửa hai mươi bốn tháng mới đẻ"? Hoặc chăng là người cõng chủ chạy trốn trước trận tiền? Mợ chị thật khéo quá: bảo tôi bỏ cả lệ đi. Mợ ấy muốn được tiếng tử tế thì cứ việc vung tiền của bà ra không hề đau xót để lấy lòng người ta. Nhờ chị nói với mợ ấy: tôi không dám tự ý thêm bớt gì cả. Mợ ấy muốn lấy ơn, chờ khi khỏi đến đây thêm bao nhiêu thì thêm.

Lúc Bình Nhi đến đã biết việc này, bây giờ nghe nói lại càng hiểu ý. Thấy Thám Xuân có vẻ tức giận, Bình Nhi không dám giở lối vui đùa như mọi ngày, cứ thõng tay đứng hầu một bên. Lúc đó Bảo Thoa ở trong buồng trên cũng xuống, Thám Xuân vội đứng dậy mời ngồi, chưa kịp nói câu gì, đã có người đàn bà đến trình việc. Thám Xuân vừa mới khóc xong, lên ba, bốn đứa hầu nhỏ bưng chậu nước, khăn mặt và gương đến. Thám Xuân đương ngồi xếp bằng tròn ở trên giường thấp, một đứa bưng nước đến trước mặt quỳ xuống giơ cao chậu lên; còn hai đứa cũng đều quỳ bên cạnh, đưa lên khăn mặt, gương soi và phấn sáp.

Bình Nhi thấy Thị Thư không có ở đây, liền đến vén tay áo, tháo vòng, lấy cái khăn tay to che vạt áo đằng trước cho Thám Xuân. Thám Xuân vừa mới thò tay vào chậu nước, đã có một người đàn bà đến trình:

- Thưa mợ, thưa cô, nhà học xin chi tiền học hàng năm cho cậu Hoàn và anh Lan.

Bình Nhi nói:

- Bà vội gì thế? Cô đang rửa mặt, bà có mở mắt nhìn thấy không! Sao không ra ngoài kia đứng chờ, lại còn trình cái gì? Trước mặt mợ Hai, bà cũng dám vô ý như thế à? Cô đây tuy rộng lượng thực, nhưng tôi mà về trình mợ Hai, nói là các bà không coi cô ra gì, có bị quở phạt thì đừng trách tôi!

Người đàn bà ấy sợ hãi, vội cười nói: "Tôi sơ suất quá!" Rồi vội vàng lui ra.

Thám Xuân xoa phấn rồi cười nhạt, bảo Bình Nhi:

- Chị đến chậm nên không biết có một việc đáng buồn cười. Ngay chị Ngô Tân Đăng là người làm việc đã lâu cũng không biết tra sổ rõ ràng, lại chực đến lòe tôi! May tôi hỏi đến, chị ta lại dám trơ mặt ra nói là quên. Tôi bảo chị ta, khi có việc đến trình mợ Hai, chị cũng nói là quên rồi đi lục sổ hay sao? Tôi chắc chủ chị không khi nào chịu để yên cho chị đi tìm!

Bình Nhi nói:

- Nếu chị ta có lần nào như thế, e gân chân bị cắt đứt từ bao giờ rồi. Cô đừng có tin. Họ thấy mợ Cả lành như bụt, cô lại là vị tiểu thư hay e lệ, cố nhiên họ sinh lười đến nói bậy đấy thôi.

Bình Nhi lại ngoảnh ra phía ngoài nói:

- Các người cứ việc hỗn láo đi! Chờ mợ Hai khỏi tôi sẽ mách cho.

Bọn đàn bà ở ngoài cửa đều cười nói:

- Cô là người biết điều. Tục ngữ nói "người nào làm bậy người ấy chịu". Chúng tôi có dám dối trá gì chủ đâu. Nay cô chủ là một vị trẻ tuổi được chiều chuộng quen, cô ấy tức giận, thì chúng tôi chết không có chỗ chôn!

Bình Nhi cười nhạt:

- Các người hiểu nhẽ thế là phải.

Rồi lại cười nói với Thám Xuân:

- Cô đã biết đấy, mợ Hai bận lắm, làm gì mà trông nom đến những việc ấy! Thế nào cũng không tránh khỏi sơ suất. Tục ngữ nói "người bên cạnh nhìn rất rõ". Cô để ý xem, trong mấy năm nay, có việc gì nên thêm nên bớt, mà mợ Hai chưa kịp làm, thì cô cứ sửa đổi lại. Một là có lợi cho bà Hai, hai là không phụ tình nghĩa cô đối với mợ tôi.

Bảo Thoa, Lý Hoàn nghe vậy đều cười, nói:

- Chị này giỏi thật! Không trách chị Phượng yêu chị. Chẳng có việc gì đáng thêm bớt cả, nhưng nghe chị nói, chúng tôi cũng phải tìm vài việc châm chước mà làm để khỏi phụ câu nói của chị.

Thám Xuân cười nói:

- Tôi tức đầy ruột, đang định đem chị ấy ra nói cho hả giận, nhưng nghe đến những lời của chị ấy, làm tôi quên hẳn những chuyện trước.

Thám Xuân liền gọi người đàn bà lúc nãy vào hỏi:

- Tiền học hàng năm của cậu Hoàn và anh Lan là dùng vào việc gì?

- Tiền ăn sáng và mua bút giấy hàng năm ở trong trường, mỗi người phải tiêu mất tám lạng bạc.

- Những tiền các cậu ấy tiêu, đều ở trong sổ lương hàng tháng, phần cậu Hoàn do dì Triệu lĩnh hai lạng, phần cậu Bảo Ngọc do Tập Nhân ở nhà cụ lĩnh hai lạng; phần anh Lan do mợ Cả lĩnh, làm gì mỗi người còn phải thêm tám lạng nữa! Thì ra đi học là chỉ vì tám lạng bạc ấy à! Từ nay trở đi bỏ khoản này đi. Chị Bình về trình với mợ chị rằng tôi bảo thế nào cũng phải bỏ món này.

Bình Nhi cười nói:

- Đáng lẽ bỏ lâu rồi. Năm ngoái mợ tôi đã bảo bỏ đi, nhưng vì cuối năm bận quá, quên khuấy đi mất.

Người đàn bà đó đành vâng lời đi ra. Lại có người đàn bà ở trong vườn Đại Quan bưng cơm đến. Thị Thư và Tố Vân mang một cái bàn nhỏ vào. Bình Nhi vội đứng dậy dọn cơm, Thám Xuân cười nói:

- Chị xong việc rồi thì về, ở đây làm gì nữa.

Bình Nhi cười nói:

- Tôi ở nhà không có việc gì. Mợ tôi bảo đến đây, một là để trình việc, hai là sợ những người ở đây chưa quen, nên sai tôi đến hầu mợ, hầu cô giúp các chị em.

Thám Xuân hỏi:

- Sao không mang đồ ăn của cô Bảo đến đây cùng ăn một thể?

A hoàn nghe nói, ra ngoài thềm bảo lũ đàn bà:

- Cô Bảo hôm nay cũng ăn cơm ở đây, bảo họ mang cơm đến.

Thám Xuân quát to:

- Mày không được sai bậy! Những người này đều là các bà trông nom công việc lớn trong nhà. Chúng mày không biết ai là người trên kẻ dưới, dám sai các bà ấy đi lấy cơm lấy nước à? Chị Bình đứng đấy, bảo chị ấy đi gọi hộ!

Bình Nhi vội vâng lời đi ra, đám đàn bà khẽ kéo lại:

- Việc gì cô phải đi? Chúng tôi đã có người đi gọi rồi.

Vừa nói họ vừa lấy khăn tay phủi đất ở trên thềm, nói:

- Cô đứng mãi mỏi chân, hãy ngồi nghỉ ngoài nắng một lúc.

Bình Nhi ngồi xuống, có hai bà già ở phòng trà mang cái thảm rải ra và nói:

- Đá lạnh. Thảm này sạch sẽ đấy, mời cô ngồi tạm.

Bình Nhi gật đầu cười nói: "Cám ơn".

Một người nữa lại pha một chén nước trà rất ngon đem đến, khẽ cười nói:

- Đây không phải là trà của chúng tôi thường dùng đâu. Trà này chỉ để pha cho các cô uống thôi, mời cô hãy uống một chén cho đỡ khát.

Bình Nhi nghiêng mình cầm lấy, rồi trỏ vào bọn đàn bà khẽ nói:

- Các người chẳng ra cái gì cả! Cô ấy là cô gái con nhà đại gia, không muốn ra oai nổi giận, đó là người biết giữ giá. Thế mà các bà lại khinh nhờn cô ấy. Nếu để cô ấy phải cáu lên, dù mang tiếng là người lỗ mãng, nhưng các bà lại bị thiệt rất nhiều! Cô ấy làm nũng, bà Hai cũng phải chiều một phần nào, mợ Hai cũng chẳng dám làm gì. Thế mà các bà lại cả gan không coi cô ấy ra gì, khác nào trứng chọi với đá?

- Chúng tôi khi nào dám cả gan thế? Đó đều tự dì Triệu gây ra!

- Thôi! Các bà ơi, "giậu đổ bìm leo", dì Triệu vốn hay nông nổi, không biết nghĩ xa nghĩ gần, nên việc gì cũng chỉ đổ riệt cho dì ấy. Ngày thường các bà bụng dạ ghê gớm, chẳng coi ai ra gì, tôi đã biết từ mấy năm nay rồi. Ngay mợ Hai có tý gì sơ suất là các bà đã nghĩ cách định đè bẹp xuống. Đã thế, hễ sểnh ra là y rằng các bà tìm cách làm khó dễ. Đã nhiều lần mợ ấy chưa hỏi tội các bà đấy. Ai cũng cho là mợ ấy ghê gớm, các bà đều sợ cả nhưng chỉ có tôi biết là trong bụng mợ ấy cũng không phải là không gờm các bà. Hôm nọ chúng tôi đã bàn đến việc này. Nếu không trên thuận dưới hòa, rồi thế nào cũng sẽ sinh chuyện. Cô Ba hãy còn trẻ, các bà đều coi thường. Nhưng trong các cô lớn, cô bé ở đây, mợ Hai cũng phải nể dăm phần. Thế mà các bà lại không coi cô ấy ra gì à?

Chợt Thu Văn đi vào, bọn đàn bà vội chạy đến chào hỏi, rồi nói:

- Cô hãy ngồi nghỉ, trong nhà đã dọn cơm rồi. Chờ ăn xong, cô hãy vào trình việc.

Thu Văn cười nói:

- Tôi đâu có rỗi được như các bà, chờ thế nào được.

Thu Văn định vào ngay, Bình Nhi vội gọi giật lại. Thu Văn quay lại thấy Bình Nhi, cười nói:

- Chị đến đây canh gác gì ở ngoài vườn đấy?

Rồi quay lại ngồi vào thảm cạnh Bình Nhi, Bình Nhi khẽ hỏi:

- Trình việc gì?

- Tôi muốn hỏi xem tiền lương của cậu Bảo và tiền lương của chúng tôi bao giờ mới được lĩnh.

- Việc ấy có quan hệ gì. Cô về báo chị Tập Nhân rằng: hôm nay, dù có việc gì cũng chớ nên trình. Trình một việc là bị bác một việc, trình một trăm việc bị bác một trăm đấy!

- Tại sao thế?

Bình Nhi và bọn đàn bà đều kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Thu Văn nghe, và nói:

- Họ đương muốn moi những chỗ quan hệ và những người có thể diện ra mở đầu, tìm cách áp lép để làm gương cho mọi người đấy. Tội gì bây giờ cô lại đến trước để chạm vào cái đinh ấy. Nay cô đến trình, nếu họ bác lời cô để làm gương cho người khác, thì lại động đến cụ và bà Hai, nếu không nhè vào nhà các cô mà bác đi một vài việc, người ta lại bảo là thiên người nọ vị ngươi kia, ai dựa vào uy thế cụ và bà Hai thì không dám động đến, chỉ đem những người yếu thế ra làm bung xung đấy thôi. Cô xem đấy, việc của mợ Hai, họ còn bác đi vài khoản, có như thế mới chặn được họng mọi người chứ.

Thu Văn lè lưỡi cười nói:

- May gặp chị ở đây, chứ không thì lại bị trát gio vào mặt rồi. Tôi phải mau mau về báo tin cho chúng nó biết.

Cơm của Bảo Thoa đã mang đến. Bình Nhi vội đứng dậy vào hầu. Lúc đó dì Triệu đã về rồi, ba người ngồi ở giường ăn cơm. Bảo Thoa ngoảnh về hướng nam, Thám Xuân ngoảnh về hướng tây, Lý Hoàn ngoảnh về hướng đông, bọn đàn bà ớ dưới thềm im lặng đứng chờ, bên trong chỉ có a hoàn hầu cận đứng hầu, người khác không ai dám vào cả.

Lũ đàn bà khẽ bàn tán với nhau:

- Chúng ta bỏ cái lối ấy đi, đừng giữ ý nghĩ xằng bậy nữa. Bà Ngô cũng còn bẽ mặt nữa là chúng mình đã thấm vào đâu.

Mọi người chờ họ ăn xong mới dám vào trình việc. Bây giờ ở phía trong thỉnh thoảng có tiếng đằng hắng khẽ, ngoài ra không ai nghe thấy chạm bát chạm đũa. Một lát sau, một a hoàn vén rèm lên, rồi hai a hoàn khiêng bàn ăn ra. Trong buồng trà, ba a hoàn bưng sẵn ba chậu nước rửa mặt, đi vào. Một lúc, họ mang chậu nước và ống nhổ ra, rồi Thị Thư, Tố Vân và Oanh Nhi mỗi người bưng một cái khay đựng ba tách nước có nắp vào. Sau khi bọn a hoàn kia ra, Thị Thư bảo đứa hầu nhỏ:

- Chúng bay phải hầu hạ tử tế, không được ngồi lảng một chỗ. Ta đi ăn cơm rồi sẽ về thay.

Bấy giờ mọi người mới rón rén đi vào trình việc, không dám nhâng nháo như trước nữa.

Thám Xuân vừa mới nguôi giận, nhân bảo Bình Nhi:

- Tôi có một việc quan hệ, muốn bàn mới mợ chị, nay mới nhớ ra. Chị về ăn cơm xong, lại đây ngay. Cô Bảo cũng còn ở đây, bốn chúng ta sẽ bàn với nhau, rồi hỏi mợ chị xem có nên làm hay không.

Bình Nhi vâng lời đi về. Phượng Thư hỏi:

- Làm sao đi lâu thế?

Bình Nhi cười, kể lại những việc vừa mới xảy ra. Phượng Thư cười nói:

- Cô Ba khá đấy! Ta nói không sai. Chỉ tiếc là cô ấy xấu số không phải bà Hai đẻ ra.

- Mợ cũng nói vớ vẩn. Cô ấy không phải bà Hai đẻ ra, nhưng ai dám coi cô ấy kém các cô kia?

- Chị biết đâu được! Con vợ lẽ cũng như con vợ cả thực, nhưng là con gái thì bì thế nào được với con trai. Sau này đến tuổi lấy chồng, những hạng khinh bạc thường hay dò hỏi con vợ cả hay con vợ lẽ, chỉ vì con vợ lẽ mà nhiều người không dạm. Chứ họ biết đâu người tử tế, thì dù đứa ở cũng còn gấp trăm lần cô tiểu thư kia. Sau này, người nào vô phúc kén chọn con vợ cả thì sẽ bị lầm, người nào có phúc không câu nệ con vợ lẽ mà lấy được cô ấy thì lại hóa may.

Phượng Thư lại cười nói với Bình Nhi:

- Chị đã biết mấy năm nay ta phải nghĩ ra bao nhiêu cách tằn tiện, bớt ăn bớt tiêu, có lẽ người trong nhà ai cũng giận ngầm ta cả. Bây giờ ta như người "cưỡi hổ" vậy, tuy biết thế, nhưng không thể nào rộng rãi được. Vả chăng trong nhà này chi nhiều thu ít, việc lớn nhỏ đều phải theo lệ của tổ tiên đặt ra, nhưng hoa lợi thu vào hàng năm lại kém trước nhiều. Rút bớt món tiêu đi, thì người ngoài chê cười, mà cụ và bà Hai cũng khó chịu, tôi tớ trong nhà cũng oán ta cay nghiệt. Nếu không tìm cách tằn tiện ngay từ bây giờ, mấy năm nữa sẽ phải bù mà hết thôi.

- Mợ nói cũng phải đấy! Sau này công việc ba, bốn cô, hai, ba cậu và cụ đều mợ phải lo cả.

- Ta đã nghĩ đến những việc ấy rồi, cũng có thể đỡ được chú Bảo và cô Lâm, một người lấy vợ, một người lấy chồng, có thể không phải tiêu tiền trong phủ, thế nào cụ cũng bỏ tiền riêng của mình ra cho. Cô Hai là người bên ông Cả, không phải tính đến. Cô Ba, cô Tư có tiêu hoang chăng nữa, cũng chỉ mỗi người độ vạn bạc thôi. Cậu Hoàn lấy vợ chỉ tiêu mất độ ba nghìn, nếu không đủ thì bớt đi một món gì đó là xong. Việc tống táng cụ sau này, cái gì cũng sắp sẵn cả rồi, chỉ phải tiêu những món lặt vặt chừng dăm, ba nghìn lạng. Nếu biết tằn tiện ngay từ bây giờ cũng đủ. Chỉ sợ tự nhiên xảy ra một vài việc, thì không biết xoay vào đâu được. Thôi, chúng ta chẳng nên quá lo đến việc sau này. Chị hãy đi ăn cơm rồi sang xem họ bàn việc gì. Đây cũng là một dịp may. Ta đang lo không có người giúp đỡ. Tuy có Bảo Ngọc đấy, nhưng chưa quen việc, có lôi kéo được hắn cũng chẳng ăn thua gì. Mợ Cả thì hiền như bụt, không làm được việc. Cô Hai lại càng không được, và cũng không phải là người trong nhà này. Cô Tư thì còn bé, Anh Lan và cậu Hoàn thì như con mèo nhỏ gặp trời lạnh chỉ chờ có bếp lửa là chui vào sưởi thôi. Thực là cùng một bụng mẹ đẻ ra, mà hai đứa con lại khác nhau một trời một vực! Nghĩ đến, ta càng không hiểu. Cô Lâm và cô Bảo thì khá đấy, nhưng đều là họ ngoại, không tiện trông coi việc nhà. Vả chăng một người như cái đèn mỹ nhân, gió thổi một cái là tắt, một người thì giữ gìn ý tứ, không phải việc của mình không bao giờ chịu hé răng, hỏi điều gì cứ nguây nguẩy lắc đầu. Như thế cũng khó mà bàn với cô ta được. Chỉ còn một mình cô Ba là khá cả trong lẫn ngoài, lại chính là người nhà này, bà lại rất thương cô ấy, chỉ vì dì Triệu hay sinh chuyện, nên bề ngoài bà có vẻ hững hờ, nhưng trong bụng lúc nào cũng thương yêu như Bảo Ngọc. Chứ không giống em Hoàn, chẳng ai thương được. Cứ ý ta thì đã đuổi nó bước đi từ lâu rồi. Nay cô ấy đã có ý định như thế, cũng nên chung sức mà làm, có hai người giúp đỡ nhau, ta không đến nỗi lẻ loi nữa. Theo lẽ phải và lương tâm mà nói, đã có cô ấy giúp, chúng ta càng đỡ phải lo nghĩ và cũng có lợi cho bà. Kể ra về mặt tâm tư nham hiểm, bấy lâu nay ta đã quá cay nghiệt, bây giờ cũng nên lùi bước nhìn lại xem, cứ khắc khổ mãi, để cho mọi người căm giận, ngoài miệng họ cười, nhưng trong bụng họ chứa đầy dao găm, mà hai người chúng ta chỉ có bốn con mắt và hai quả tim, có lúc không kịp đề phòng sẽ hỏng việc mất. Nhân lúc thuận chiều này, cô ấy đứng ra trông coi công việc, mọi người sẽ dẹp quên những nỗi tức giận ngày trước đối với chúng ta. Còn một việc nữa, tuy ta biết chị rất hiểu việc nhưng chỉ sợ trong lòng chị chưa dứt khoát, nay ta dặn chị, cô ấy tuy là tiểu thư, nhưng việc gì cũng hiểu thấu, ăn nói biết giữ gìn, lại là người có học. Như vậy cô ấy sẽ ghê gớm hơn ta. Tục ngữ nói: "Bắt giặc phải bắt tướng". Muốn ra oai lần đầu, nhất định cô ấy phải kể đến ta trước. Nếu cô ấy có bác bỏ công việc gì của ta, chị cũng không nên cãi lại, cứ lễ phép nói rằng bác như thế mới phải. Nhất thiết đừng sợ ta mất thể diện mà chống lại cô ấy thì không hay đâu.

Bình Nhi không đợi Phượng Thư nói hết, cười nói:

- Chị xem người hồ đồ quá! Tôi làm trước rồi, bây giờ chị mới dặn!

- Ta sợ chị chỉ hiềm có ta, không biết đến ai, nên phải dặn thế; nếu đã biết trước, thì chị lại sáng suốt hơn ta đấy. Nhưng chị lại nóng rồi, sao cứ luôn mồm "chị chị" "tôi tôi" như vậy?

- Cứ gọi là "chị" đấy! Không bằng lòng thì mặt đây tát đi! Ai bảo là cái mặt này chưa từng bị tát hao giờ?

- Đồ ranh con này, định nhắc lại việc cũ đã từ bao giờ mới thôi? Xem ta ốm như thế này mà lại còn trêu tức à! Thôi, lại đây ngồi xuống, gặp lúc không có ai đến, chúng ta nên cùng ngồi ăn một chỗ.

Bọn Phong Nhi ba, bốn đứa mang cái làn nhỏ đến. Phượng Thư chỉ ăn cháo yến sào và hai đĩa đồ ăn ngon. Vì phần ăn hàng ngày đã rút bớt, Phong Nhi mang bốn món ăn của Bình Nhi bày lên bàn và xới cơm. Bình Nhi quỳ một chân lên mép giường, một chân đứng ở dưới, cùng Phượng Thư ăn cơm. Bình Nhi hầu Phượng Thư súc miệng xong, dặn dò Phong Nhi mấy câu rồi sang bên Thám Xuân. Đến nơi, thấy trong nhà im lặng, mọi người đã đi cả.

Hồi thứ năm mươi sáu

Thám Xuân thông thạo, tìm mối lợi bỏ hẳn lệ xưa;

Bảo Thoa khôn ngoan, ra ơn nhỏ giữ gìn thể thống.

Bình Nhi hầu Phượng Thư ăn cơm súc miệng rửa tay xong mới đến đằng Thám Xuân, thấy ngoài sân im lặng chỉ có mấy bà già và a hoàn đứng bên cửa sổ chực hầu, đang bàn việc nhà, việc ngày tết đến uống rượu ở vườn nhà Lại Đại. Thấy Bình Nhi đến, Thám Xuân bảo ngồi xuống ghế thấp và nói:

- Có chuyện gì đâu. Nhân nghĩ đến việc chúng ta tiêu mỗi tháng hai lạng bạc, bọn a hoàn cũng đã có tiền lương tháng, thế mà hôm trước lại có người trình mỗi tháng chi hai lạng bạc cho mỗi người về tiền phấn sáp nữa. Số tiền này chẳng khác tám lạng bạc tiền học vậy, cứ chồng chất mãi lên. Việc này tuy nhỏ nhưng số tiền có chừng, xem ra chi tiêu như thế là không đúng, tại sao mợ chị không nghĩ đến việc ấy?

Bình Nhi cười nói:

- Việc ấy cũng có duyên cớ. Những thứ các cô dùng đã có lệ định sẵn, mỗi tháng các nơi phải mua đủ, bảo bọn đàn bà đưa đến cho chúng tôi giữ, chẳng qua chúng tôi chỉ sắp cho các cô dùng thôi. Chứ không phải hàng ngày nhận tiền rồi sai người đi mua. Vì thế mãi biện bên ngoài lĩnh tiền cả, rồi hàng tháng sai người theo các phòng giao cho chúng tôi. Số tiền hai lạng hàng tháng của các cô, không phải để mua những thứ ấy đâu, mà cốt để phòng khi các bà các mợ trông nom việc nhà đi vắng, hoặc bận việc, mà các cô dùng ngay đến tiền, thì đỡ phải sai người đi lấy. Làm như thế cốt để cho các cô khỏi phiền đấy thôi. Đủ biết số tiền này không phải để mua những thứ đó. Nhưng nay tôi để ý xem ra thì phần nhiều chị em ở các nhà đều lấy tiền đi mua các thứ. Tôi ngờ rằng, không phải bọn mãi biện ăn bớt hoặc để chậm ngày giờ, thì cũng chuốc lấy của xấu, nhuế nhóa cho xong chuyện.

Thám Xuân và Lý Hoàn đều cười nói:

- Chị cũng để ý thấy rõ việc ấy à? Việc ăn bớt chưa chắc có, chỉ là để chậm thì giờ thôi. Khi nào giục gấp, họ đem ở đâu về đều là những thứ có tên thôi, thực ra chẳng dùng gì được. Rồi vẫn phải lấy hai lạng bạc, sai con em các bà vú đi mua thứ khác về dùng. Người trong phủ đi bao giờ cũng vẫn mua phải hàng xấu, không biết họ làm ăn ra sao? Cứ cửa hàng bên ngoài bỏ đi là họ vác về cho chúng ta dùng.

Bình Nhi cười nói:

- Bọn mãi biện đi mua là cứ thế mãi. Người khác có mua được hàng tốt, thì họ lại không chịu, cứ bảo là người ta xấu bụng muốn tranh chức mãi biện của mình. Vì vậy ai nấy thà chịu lỗi với các mợ các cô, chứ không dám làm mất lòng họ. Chỉ khi nào các cô sai vú già đi mua, họ mới không dám lời ra tiếng vào.

Thám Xuân nói:

- Vì thế trong bụng tôi vẫn áy náy. Phải tiêu phí hai lần tiền mà đồ dùng vẫn vất đi một nửa, chi bằng bỏ cái khoản đưa bọn mãi biện mua ấy đi. Đó là việc thứ nhất. Việc thứ hai, năm ngoái chị cũng đi dự tiệc nhà Lại Đại đấy, chị xem vườn nhà ấy so với vườn nhà ta như thế nào?

- Không bằng một nửa vườn nhà, cây cối hoa quả cũng ít.

- Nhân lúc ta nói chuyện với lũ con gái nhà ấy, họ nói vườn ấy trừ số hoa để cài và măng rau, tôm cá để nhà ăn ra, còn cho người thầu. Một năm cũng thừa được hai trăm lạng. Từ hôm đó ta mới biết từ cái lá sen rách, cái rễ cỏ khô cũng đều đáng tiền cả.

Bảo Thoa cười nói:

- Thực là chuyện của con nhà phú quý! Các cô tuy là tiểu thư nghìn vàng, xưa nay không biết đến việc ấy, nhưng đã là người đọc sách biết chữ, lại không đọc đến thiên "bất tự khí"(1) của ông Chu Tử hay sao?

Thám Xuân cười nói:

- Đã đọc rồi, nhưng chẳng qua là lời nói phù phiếm, khuyên người ta phải cố gắng chứ có gì là thực tế?

Bảo Thoa nói:

- Ông Chu Tử mà là người phù phiếm à? Câu nói nào cũng sát thực tế đó. Cô mới nhận việc có mấy hôm mà lòng đã mê muội về lợi, cho ông Chu Tử là người phù phiếm. Nếu cô đi ra ngoài, thấy nhiều việc lợi hại lớn hơn nữa, có lẽ đến cả ông Khổng Tử cô cũng cho là người phù phiếm hết!

Thám Xuân cười nói:

- Chị là người thông thái như thế lại chưa xem sách Cơ Tử(2) à? Sách có nói: "Bước vào vòng lợi lộc, ở vào địa vị bàn mưu tính kế, thì quên hẳn lời Nghiêu, Thuấn, trái hẳn đạo Khổng, Mạnh".

- Dưới còn câu gì nữa?

- Đây tôi chỉ cắt câu văn để lấy ý thôi. Nếu đọc xuống câu dưới thì chăng hóa ra lại tự mắng tôi à?

- Trên đời cái gì mà không dùng được, đã dùng được phải đáng tiền chứ. Khen cho cô là người thông minh, ngay những việc to tát, sờ sờ ra đấy, vẫn chưa từng trải.

Lý Hoàn cười nói:

- Bảo người ta đến, chẳng nói gì việc chính, lại mang học vấn ra cãi vã nhau.

Bảo Thoa nói:

- Trong học vấn tức là việc chính đấy. Nếu không nói đến học vấn thành ra sa vào hạng tục mất.

Ba người nói đùa một lúc rồi mới bàn đến việc chính.

Thám Xuân nói tiếp:

- Vườn của chúng ta rộng gấp đôi vườn nhà Lại Đại, cứ tính gấp đôi thôi, một năm cũng có thể được lợi bốn trăm bạc. Bây giờ cho người thầu, bủn xỉn quá, nhà chúng ta không đáng làm như vậy; nhưng không giao hẳn cho vài người trông nom, thì thững thứ đáng tiền bị hủy hoại đi, sẽ bỏ phí của trời. Chi bằng chọn mấy bà già thực thà ở trong vườn, biết việc trồng trái, cho họ đứng lên trông coi. Không bắt họ nộp tô nộp thuế, chỉ mỗi năm biếu xén ít nhiều gì đó. Làm như thế, một là trong vườn có người chuyên trách, sửa sang cây cối, mỗi năm một tốt hơn lên, không phải chờ đến lúc có việc mới cuống cuồng vội vã; hai là hoa màu không đến nỗi bị hủy hoại phí của; ba là bọn bà già được nhờ đấy mà kiếm ít tiền, cũng bỏ cái công vất vả trông nom vườn tược hàng năm; bốn là bớt được những món tiền thuê người sửa hoa, sửa núi, quét dọn. Đem chỗ thừa bù vào chỗ thiếu, như thế cũng được đấy.

Bảo Thoa đương đứng xem bức tranh trên vách, nghe vậy, gật đầu cười nói:

- Hay thật! Như thế thì "trong ba năm chẳng còn ai đói khát nữa."(3)

Lý Hoàn nói:

- Nghĩ hay đấy! Nếu làm được thế, chắc chắn bà cũng vui lòng. Sự bớt tiêu là việc nhỏ, nhưng trong vườn có người chuyên trách, quét dọn, lại được món tiền, tức là lấy quyền sai khiến, lấy lợi thúc giục, thì ai mà chẳng hết lòng làm việc.

Bình Nhi nói:

- Việc này chỉ cô là có thể nói được thôi. Mợ tôi tuy cũng muốn đấy, nhưng chưa chắc đã chịu ngỏ lời. Hiện giờ các cô đương ở cả trong vườn, đã không bày thêm được trò chơi để giúp vui lại còn sai người đến trông nom sửa sang, mong đỡ tốn tiền, nhất định mợ tôi không tiện nói ra.

Bảo Thoa chạy lại sờ vào mặt Bình Nhi, cười nói:

- Chị há mồm ra cho tôi xem lưỡi răng chị thế nào? Từ sáng đến giờ, cứ mỗi việc chị nói một giọng, không nịnh hót cô Ba, cũng không nói là mợ chị vụng tính. Hễ cô Ba nói một câu, chị lại có một câu đỡ ngay. Cứ việc gì cô Ba nghĩ được, là mợ chị cũng đã nghĩ đến rồi, nhưng chỉ vì có một nhẽ riêng không thể làm được thôi. Bây giờ lại nói là các cô ở trong vườn, không tiện vì sự bớt tiêu mà sai người đến trông nom. Chị em thử nghĩ câu nói ấy xem, nếu thực cho người ta trông nom để lấy tiền, thì ngay một cành hoa, một thứ quả, người ta cũng không cho động chạm đến. Về phần các cô, chắc cũng không ai dám nói gì, nhưng với các cô bé, sợ hàng ngày không khỏi sinh chuyện eo sèo với nhau. Chị ấy biết lo gần lo xa, không chống lại người ta, cũng không tự hạ mình, dù mợ chị ấy không tốt với chúng ta, nay nghe thấy tất nhiên phải xấu hổ mà ăn ở cho tốt, không bằng lòng cũng phải bằng lòng.

Thám Xuân cười nói:

- Sáng hôm nay tôi đang bực mình, nghe chị ấy đến, tôi nghĩ ngay đến chủ chị ấy ngày thường trông nom việc nhà để bọn người hầu lộng hành quen thân, nên lại càng bực thêm. Ngờ đâu chị ấy vào đến nơi, len lét như chuột sợ mèo đứng hầu hàng giờ, thực là đáng thương, rồi lại nói những câu như thế. Chủ chị ấy đối với tôi đã tử tế, chị ấy lại còn nói "không phụ tình nghĩa xưa nay cô đối với mợ tôi!" Nghe câu nói ấy, tôi không những hết giận mà lại còn xấu hổ và đau lòng nữa. Tôi nghĩ kỹ: mình là con gái, đương bực không có người đoái thương, thì còn có gì hay mà đối xử tử tế với người ta nữa?

Nói đến đây, Thám Xuân nước mắt chảy ròng ròng.

Lý Hoàn thấy Thám Xuân nói thiết tha như thế, lại nghĩ đến dì Triệu ngày thường sỉ vả cô ta, và ngay ở trước mặt Vương phu nhân cũng vì dì Triệu mà cô ta phải lụy lây, nên chảy nước mắt, liền khuyên:

- Nhân hôm nay vắng vẻ, chúng ta cùng bàn vài việc, làm thế nào thêm lợi bớt hại, để khỏi phụ lòng ủy thác của bà. Cô nhắc đến những việc không cần thiết ra làm gì.

Bình Nhi nói:

- Tôi đã hiểu rồi. Cô xem ai giỏi thì giao cho người ta đến trông nom là được.

Thám Xuân nói:

- Tuy thế, nhưng cũng phải về trình mợ chị trước đã. Ở đây chúng ta tìm tòi những món lợi nhỏ là không đúng, nhưng vì mợ chị là người hiểu việc nên mới làm như thế; nếu là một người hồ đồ hay ngờ vực ghen ghét, thì tôi không làm đâu, sẽ mang tiếng là tranh khôn, lẽ nào lại không bàn trước với mợ chị.

Bình Nhi cười nói:

- Đã thế để tôi về nói với mợ tôi.

Đi một lúc, Bình Nhi trở lại, cười nói:

- Tôi đã bảo là đi chỉ tốn công thôi. Việc hay như thế lẽ nào mợ tôi lại không bằng lòng!

Thám Xuân nghe nói, liền cùng Lý Hoàn sai người đem danh sách các bà già trong vườn đến xem. Hai người tính xong, chấm được mấy người. Rồi gọi họ đến, Lý Hoàn nói qua cho họ nghe. Ai nấy đều vui mừng. Có người nói:

- Cái rặng tre ấy cứ giao cho tôi sửa sang, một năm trừ măng ở trong nhà ăn rồi, còn có thể nộp thêm một số tiền nữa.

Người khác lại nói:

- Cái thửa đất trồng lúa kia xin giao cho tôi, hàng năm thóc gạo nuôi chim không phải lấy tiền ở trong phủ, tôi còn có thể nộp thêm một số tiền nữa.

Thám Xuân đang muốn nói, thì có người vào trình:

- Thầy thuốc đã vào vườn thăm cho cô Sử.

Bọn bà già ra đón, Bình Nhi liền nói:

- Chỉ miệng các bà thôi, thì một trăm người cũng không được trang trọng, sao không gọi vài người coi việc đi đón?

Người trình việc nói:

- Có bà Ngô và bà Đan đang chờ đón ở ngoài cửa Tụ Cẩm về phía tây nam rồi.

Bình Nhi thấy thế mới thôi.

Các bà đi rồi. Thám Xuân hỏi: "Việc ấy thế nào?" Bảo Thoa cười nói:

- Người nào trước trót lọt sau tất trễ nải, người khéo nói tất là hám lợi.

Thám Xuân gật đầu khen phải, liền trỏ mấy người ở trong danh sách cho Lý Hoàn, Bảo Thoa và Bình Nhi xem. Bình Nhi vội mang giấy bút đến. Ba người nói:

- Già Chúc là người đứng đắn, vả chăng chồng con bà ấy đời đời đều trông nom việc sửa sang rặng tre. Bây giờ nên giao cả việc này cho bà ấy. Già Điền vốn là nhà làm ruộng, bao nhiêu lúa má rau cỏ ở Đạo Hương thôn, tuy để làm cảnh chơi, không cần phải bày biện nhiều lắm, nhưng nếu có bà ấy theo thời tiết chăm bón cẩn thận, thì chẳng hơn hay sao?

Thám Xuân lại cười nói:

- Tiếc rằng Hành Vu Uyển và viện Di Hồng, đất đai rộng thế mà chẳng có thứ gì đáng tiền!

Lý Hoàn cười nói:

- Hành Vu Uyển lại càng quan trọng hơn! Hiện giờ những hoa thơm cỏ thơm bán ở hiệu hàng hương, ở các chợ và các đền miếu, chẳng phải đều là những thứ ở trong đây hay sao? Tính ra, ở đấy lại càng thu được nhiều lợi hơn! Trong viện Di Hồng, không kể các thứ, chỉ riêng hoa hồng, hai mùa xuân hạ cũng có tới bao nhiêu bông! Lại còn các thứ hoa tường vi, nguyệt quý, bảo tường, kim ngân, đằng hoa ở chung quanh hàng rào, hái về phơi khô rồi bán cho hiệu chè, hiệu thuốc cũng được khá nhiều tiền đấy.

Thám Xuân cười, rồi gật đầu nói:

- Mẹ chị Oanh Nhi hầu cô Bảo biết hái đấy. Dạo trước bà ấy hái ít hoa về phơi khô, tết thành lẵng hoa, bầu rượu đem cho tôi chơi. Cô đã quên rồi à?

Bảo Thoa cười nói:

- Tôi vừa mới khen chị, giờ chị lại trêu chọc tôi.

Ba người đều lấy làm lạ hỏi:

- Thế là thế nào?

Bảo Thoa nói:

- Không thể làm thế được. Bên nhà các chị còn bao nhiêu là người thạo việc, lại nhàn rỗi chẳng làm lụng gì cả. Bây giờ tôi mà đưa người đến, tất nhiên họ sẽ coi thường. Tôi đã nghĩ hộ cho các chị một người. Bên viện Di Hồng có già Diệp là mẹ Dính Yên, bà ấy thực thà lắm, lại chơi thân với mẹ Oanh Nhi bên nhà tôi. Chi bằng giao việc này cho già Diệp, có điều gì bà ấy không biết, thì không cần chúng ta phải nhắc, bà ấy cứ đến bàn bạc với mẹ Oanh Nhi là được rồi. Nếu già Diệp không làm, mà giao cho người khác, thì đó là tùy tình riêng của họ, người ngoài có ai muốn nói nhảm gì cũng không thể oán chúng ta được. Làm như thế các chị được tiếng công bằng, lại thêm chạy việc.

Lý Hoàn và Bình Nhi đều nói: "Phải đấy".

Thám Xuân cười nói:

- Dù thế, nhưng cũng còn sợ họ thấy lợi quên mất cả lẽ phải.

Bình Nhi cười nói:

- Không việc gì đâu. Hôm nọ Oanh Nhi còn nhận già Diệp làm mẹ nuôi, mời ăn mời uống, hai nhà đối đãi với nhau rất tử tế.

Thám Xuân nghe nói thế mới thôi. Họ lại bàn định với nhau chọn thêm mấy người nữa, đều là những người đã được chú ý từ trước, rồi lấy bút khuyên tên.

Một lúc sau, bà già vào trình "thầy thuốc đã về rồi" và đưa đơn thuốc lên. Ba người xem xong, sai người đưa ra ngoài lấy thuốc sắc cho Tương Vân uống. Thám Xuân, Lý Hoàn bảo cho mọi người biết:

- Người nào coi giữ chỗ nào, cứ theo mùa nào thức ấy trừ số trong nhà để dùng không kể, còn thì cho bán lấy lợi, cuối năm sẽ tính sổ.

Thám Xuân cười nói:

- Tôi lại nghĩ ra một việc: nếu cuối năm tính sổ, tất phải nộp tiền ở phòng thu chi, lại thêm một người giữ. Món tiền đã lọt vào tay họ, sẽ lại bị bớt xén một lần nữa. Bây giờ tôi nghĩ ra việc này, giao cho các bà, không qua tay bọn quản gia. Dù họ tức đấy nhưng cũng không dám nói. Đến cuối năm, các bà phải nạp tiền cho họ, chờ gì họ chẳng giở lối mè nheo? Vả chăng trong một năm bất cứ việc vì, chủ được một phần, họ cũng vớ nửa phần, đó là lệ cũ xưa nay ai cũng biết cả, ấy là chưa kể đến chỗ ăn vụng ăn trộm. Bây giờ việc trong vườn này là do chúng ta đặt ra, chứ không phải qua tay họ, thì hàng năm cứ nộp tiền vào nhà trong mới phải.

Bảo Thoa cười nói:

- Cứ ý tôi, nhà trong cũng không cần phải thu tiền, vì thu người này nhiều, người kia ít, lại thêm bận ra. Chi bằng hỏi họ xem ai nhận phần nào thì phải đứng ra gánh lấy một việc gì đó, chẳng qua cũng chỉ là những việc của các người ở trong vườn cần dùng thôi. Tôi tính hộ các chị em phải tiêu những món gì. Quanh quẩn cũng chỉ có mấy món như phấn, sáp, hương, giấy. Mỗi cô có mấy người hầu đều có lệ định sẵn; ngoài ra thì chổi quét, thúng hót rác, phất trần và đồ ăn của chim, hươu, thỏ trong các nhà. Những thứ này họ phải nhận hết, không phải ra lĩnh tiền ở phòng thu chi nữa. Chị thử tính xem, như thế đỡ được bao nhiêu?

Bình Nhi cười nói:

- Tuy mấy việc nhỏ mọn ấy, nhưng tính cả năm cũng đỡ được hơn bốn trăm lạng bạc đấy.

Bảo Thoa cười:

- Còn phải nói nữa! Một năm bốn trăm lạng, hai năm tám trăm lạng, cũng có thể thừa mua mấy gian nhà cho thuê, hay mấy mẫu ruộng xấu đấy, nhưng họ khó nhọc cả năm cũng nên cho họ kiếm ít lời để tiêu riêng việc nhà chứ! Chúng ta cốt để thêm món lợi, bớt tiêu phí, nhưng cũng không nên làm quá, bớt được vài trăm lạng bạc mà mất thể thống thì cũng không đúng. Vì thế làm việc này, phòng thu chi bên ngoài một năm đỡ phải tiêu tốn, năm trăm lạng bạc, cũng đỡ phần chật vật, mà những người ở bên trong và các bà già trước đây không có việc làm cũng sẽ kiếm được tý chút. Cây cối trong vườn mỗi năm cũng được tốt tươi thêm lên. Các chị cũng có các thức mà dùng, như thế không đến nỗi mất thể thống. Nếu chỉ vì bớt tiêu thôi, thì kiếm đâu mà chẳng ra tiền? Hễ có được món lợi gì cũng nộp vào của công cả, có lẽ cả trong lẫn ngoài, họ sẽ oán trách ầm lên, như thế chẳng mất thể thống của nhà các chị hay sao? Vả lại trong vườn này có mấy chục bà già, mà chỉ cho mấy người này, tất nhiên người khác sẽ oán trách là không công bằng. Như tôi nói lúc nãy, họ phải nộp có mấy thứ thôi, kể cũng rộng rãi đấy. Hằng năm trừ những thứ ấy ra, mỗi người thừa thiếu mặc, đều phải bỏ ra mấy quan tiền, rồi góp cả lại, đem chia đều cho các bà già ở trong vườn. Những người này tuy không trông nom việc ấy thật, nhưng ngày đêm họ đều phải hầu hạ ở trong vườn, phải đóng cửa, mở cửa, thức khuya dậy sớm, khi mưa khi tuyết, các cô đi đâu họ phải khiêng kiệu, chèo thuyền, kéo xe đi tuyết, bao nhiêu việc khó nhọc, họ đều phải cáng đáng cả. Quanh năm họ chịu vất vả, nay trong vườn có món lợi, thì cũng phải cho họ được nhờ tý chút. Lại còn một chuyện rất nhỏ cũng cần nói toạc ra: các bà này chỉ biết vơ phần nhiều về mình, không chịu chia cho ai. Dù ngoài mặt chẳng ai dám nói ra, nhưng trong bụng họ sẽ không phục. Họ sẽ mượn việc công để làm việc tư, ngắt ít quả bẻ ít hoa, chắc các bà kia cũng chẳng kêu vào đâu được. Nay họ cũng được hưởng lợi một ít, thì chỗ nào các bà kia không trông nom xuể, sẽ có họ trông nom hộ.

Các bà già nghe thấy bàn định như thế, đã không bị phòng thu chi cai quản, lại không phải tính sổ với Phượng Thư, một năm chỉ phải bỏ ra mấy quan tiền thôi, họ đều vui vẻ nói:

- Chúng tôi bằng lòng! Như thế còn hơn là bị họ giày vò mà vẫn phải bỏ tiền ra nộp!

Những người không được trông nom vườn, thấy nói hàng năm không phải làm cũng được hưởng ít tiền, đều vui vẻ nói:

- Các bà kia làm lụng vất cả, đáng được món tiền để tiêu pha, chứ chúng tôi có làm gì đâu mà lại ngồi không hưởng lợi!

Bảo Thoa cười nói:

- Các bà không nên từ chối, đây là phần của các bà đáng hưởng. Chỉ cần các bà ngày đêm chịu khó đừng lười, đừng để mặc cho người ta uống rượu đánh bạc, thế là được rồi. Tôi cũng không muốn nhận trông nom việc này đâu, nhưng chắc các bà cũng đã biết, dì tôi phó thác tôi năm, bảy lần, và bảo: bây giờ mợ Cả thì bận, các cô hãy còn bé, nhờ tôi trông nom giúp. Tôi không nghe lời lại làm dì tôi bận lòng. Mẹ tôi hay ốm luôn, việc nhà lại bận, tôi vốn là người sốt sắng hão, ngay hàng xóm láng giềng có việc cần tôi cũng đến giúp đỡ huống chi là dì tôi ủy thác! Ai oán trách tôi cũng chẳng cần. Nếu chỉ cốt lấy tiếng khen, để họ rượu chè cờ bạc, sinh chuyện lôi thôi, thì tôi còn mặt mũi nào trông thấy dì tôi nữa? Khi đó ngay các bà cũng mất thể diện, có ăn năn cũng muộn. Các cô ở trong ấy, cái vườn hoa rộng ấy, đều nhờ các bà trông nom cả, vì tôi coi các bà là người hầu hạ đã ba, bốn đời, xưa nay vẫn giữ được khuôn phép, thì mọi người nên đồng lòng cùng nhau giữ lấy thể thống. Nếu các bà lại dung túng người khác, để mặc họ uống rượu đánh bạc, dì tôi nghe thấy, mắng bảo các bà còn khá, chứ đến tai mấy người quản gia, họ không cần trình dì tôi, cứ mắng thẳng các bà, chẳng hóa ra già không trót, vẫn bị bọn trẻ lên mặt dạy đời. Họ là quản gia, có quyền trông nom các bà thực, nhưng nếu mình giữ thể diện thì họ khinh rẻ sao được? Vì thế tôi nghĩ hộ các bà cách kiếm lời thêm, cũng muốn cho mọi người hết lòng cẩn thận trông nom cái vườn được chu tất, để những người coi việc, thấy cách sắp đặt cẩn thận chu đáo, họ không phải bận lòng đến, trong bụng lại chẳng kính phục hay sao! Như thế mới không phụ lòng tôi tính toán những việc có lợi cho các bà. Các bà nên nghĩ kỹ những lời tôi nói.

Mọi người đều vui vẻ thưa:

- Cô nói phải lắm. Từ nay các mợ các cô cứ yên tâm. Các mợ các cô có lòng thương đến chúng tôi như thế, nếu chúng tôi không thể tất lòng trên, thì trời đất cũng không dung.

Chợt vợ Lâm Chí Hiếu đến trình:

- Gia quyến bên phủ Chân ở Giang Nam đến kinh đô, vào cung triều hạ, hiện sai người mang lễ đến thăm.

Nói xong liền đưa tờ giấp kê đồ lễ lên. Thám Xuân cầm lấy xem: mười hai tấm đoạn thêu, mười hai tấm đoạn các thứ, mười hai tấm the các màu, mười hai tấm lụa, tất cả đều là đồ vua dùng. Hai mươi bốn tấm the đoạn, lụa các màu trong cung dùng.

Xem xong, Lý Hoàn và Thám Xuân nói:

- Thưởng cho họ phong bao(4) hạng nhất.

Rồi lại sai người đến trình Giả mẫu. Giả mẫu cho gọi Lý Hoàn, Thám Xuân, Bảo Thoa đến xem qua lễ vật. Lý Hoàn xếp cả vào một bên, dặn người giữ kho:

- Chờ bà Hai về xem rồi mới được cất đi.

Giả mẫu liền nói:

- Nhà họ Chân không như nhà khác đâu. Đã thưởng phong bao hạng nhất cho bọn đàn ông rồi, sợ chốc nữa họ lại sai bọn đàn bà đến hỏi thăm đấy, phải sắp sẵn phần thưởng.

Chưa nói dứt lời, đã có người vào trình: "Bốn người đàn bà ở phủ Chân đến hỏi thăm". Giả mẫu sai người dẫn vào. Bốn người này trạc ngoài bốn mươi, ăn mặc chẳng khác bà chủ mấy. Chào hỏi xong, Giả mẫu sai lấy bốn cái ghế thấp cho họ ngồi. Bọn người tạ ơn, chờ bọn Bảo Thoa ngồi rồi mới dám ngồi. Giả mẫu hỏi:

- Đến Kinh từ bao giờ?

Bốn người đứng dậy trình:

- Hôm qua vào Kinh, hôm nay bà tôi dẫn cô Ba vào cung "thỉnh an"(5), vì thế sai chúng tôi đến hầu cụ và hỏi thăm các cô.

- Mấy năm nay không thấy bà nhà vào Kinh, không ngờ bây giờ lại vào.

- Vâng, năm nay có chiếu chỉ gọi vào.

- Gia quyến vào cả à?

- Cụ bà, cậu cả, hai vị tiểu thư cùng các vị lệnh bà đều không ai vào, chỉ có một mình bà tôi dẫn cô Ba vào thôi.

- Cô ấy đã có người hỏi chưa?

- Chưa có.

- Cô Cả và cô Hai nhà các chị rất thân với nhà ta.

- Vâng. Hàng năm các cô viết thư về, nói vẫn nhờ quý phủ chăm sóc.

- Có gì là "chăm sóc"? Vừa là bạn thân, lại là họ hàng, tất phải như thế chứ. Cô Hai nhà các chị cũng tốt, tính nết nhũn nhặn, vì thế chúng ta mới đi lại thân mật luôn.

- Đó là cụ nói nhũn đấy.

- Cậu Cả các người cũng ở với cụ nhà à?

- Vâng ạ.

- Năm nay cậu ấy bao nhiêu tuổi rồi? Đã đi học chưa?

- Năm nay cậu ấy mười ba tuổi. Người vốn xinh xắn, nên cụ chúng tôi rất thương, từ bé tính bướng bỉnh, ngày nào cũng trốn học, ông bà chúng tôi không tiện quở mắng lắm.

- Cũng không phải như thằng cháu ta ở đây chứ? Cậu ấy tên là gì?

- Cụ chúng tôi quý cậu ấy như ngọc, lại người trắng trẻo, nên đặt tên là Bảo Ngọc.

Giả mẫu ngoảnh vào Lý Hoàn, cười nói:

- Thế ra cũng gọi là Bảo Ngọc?

Bọn Lý Hoàn vội khép nép cười:

- Từ xưa đến nay, hoặc đồng thời hay khác đời, có rất nhiều người trùng tên.

Bốn người cười nói:

- Khi đặt tên cậu ấy, chúng tôi trên dưới ai cũng ngờ ngợ, hình như có một nhà bạn thân nào cũng có người đặt tên như thế, chỉ vì đã mười năm nay không vào kinh, nên không nhớ rõ được.

Giả mẫu cười nói:

- Cháu ta đấy. Ai vào đây ta bảo.

Bọn đàn bà và a hoàn vâng lời đến gần mấy bước. Giả mẫu cười nói:

- Vào trong vườn gọi cậu Bảo Ngọc nhà ra đây, để cho bốn bà xem cậu Bảo này có bằng cậu Bảo nhà họ không.

Bọn bà già đi, một lúc đưa Bảo Ngọc đến. Bốn người trông thấy, đứng dậy cười nói:

- Làm cho chúng tôi giật nảy mình lên! Nếu chúng tôi không vào trong phủ này mà lại gặp ở chỗ khác, thì cho ngay là cậu Bảo nhà chúng tôi cũng theo vào Kinh đấy!

Họ đến kéo tay Bảo Ngọc, hỏi vắn hỏi dài. Bảo Ngọc cũng cười hỏi thăm họ. Giả mẫu cười nói:

- So với cậu nhà các người thế nào?

Lý Hoàn cười nói:

- Cứ theo như bốn bà này vừa mới nói, thì chắc hình dáng hai cậu giống nhau.

Giả mẫu cười nói:

- Đâu lại có việc khéo thế? Những trẻ con các nhà đại gia mới đẻ ra đã xinh đẹp, trừ những người trên mặt có tàn tật xấu lắm không kể, còn thì trông cũng xinh xắn cả, việc ấy cũng không có gì là lạ.

Bốn người cười nói:

- Giờ xem ra hình dáng hai cậu giống nhau, và theo cụ vừa nói, thì tính khí bướng bỉnh cũng giống nhau. Nhưng theo chúng tôi thì cậu đây tốt nết hơn cậu nhà chúng tôi đấy.

Giả mẫu cười nói:

- Thế nào?

- Vừa rồi chúng tôi kéo tay cậu ấy nói chuyện cũng đủ biết. Chứ cậu bên nhà chúng tôi thì đã cho chúng tôi sỗ sàng rồi. Đừng nói là kéo tay, ngay từ đồ dùng, chúng tôi động đến một tý là cậu ấy đã không bằng lòng. Những người cậu ấy sai bảo lại đều là bọn con gái cả.

Bốn người ấy chưa nói dứt lời, chị em Lý Hoàn đã không nhịn được, đều cười ầm lên. Giả mẫu cũng cười nói:

- Bây giờ chúng ta sai người đến thăm cậu Bảo nhà các người, nếu họ kéo tay cậu ấy, tất nhiên cậu ấy cũng phải cố nhịn. Chả cứ trẻ con nhà này hay bên ấy, dù chúng có bướng bỉnh ương gàn thế nào chăng nữa, khi gặp người lạ đến cũng phải giữ lễ phép đúng đắn. Dù đã không biết giữ lễ phép, cũng không khi nào để cho nó gàn bướng mãi được. Người lớn nuông chiều nó, cũng chỉ vì một là thấy nó có vẻ dễ coi, hai là nó biết giữ lễ phép hơn người lớn, ai trông thấy cũng phải yêu phải thương, nên mới chợp mắt bỏ qua, nuông chiều nó một chút. Nếu cứ một mực bất chấp kẻ quen người lạ, làm xấu mặt cả người lớn, thì dù xinh đến đâu cũng đáng đánh chết.

Bốn người đều cười nói:

- Cụ dạy phải lắm. Tuy cậu Bảo nhà chúng tôi tính nết ương gàn thật, nhưng khi có khách, cũng biết giữ lễ phép hơn cả người lớn, vì thế ai trông thấy cũng yêu, cứ bảo rằng: làm sao lại còn đánh cậu ấy? Có biết đâu khi ở nhà, cậu ấy coi trời bằng vung, cả gan dám nói những câu, dám làm những việc mà người lớn không hề dám nói, dám làm. Vì thế ông bà chúng tội giận lắm, nhưng cũng không biết làm thế nào. Trẻ con thì hay chơi bời lêu lổng, sợ phải đi học, những nết xấu ấy còn có thể sửa chữa được. Tệ nhất là cái tính ương gàn bướng bỉnh có ngay từ lúc mới lọt lòng, thì chịu làm sao cho được.

Chợt có người vào trình: "Bà Hai đã về". Vương phu nhân vào hỏi thăm Giả mẫu, bốn người đứng chào, nói qua loa mấy câu chuyện. Giả mẫu bảo đi về nghỉ. Vương phu nhân dâng nước mời Giả mẫu rồi đi ra. Bốn người cũng cáo từ, đến chỗ Vương phu nhân nói chuyện việc nhà một lúc, rồi họ ra về.

Giả mẫu vui mừng, gặp ai cũng khoe: có một Bảo Ngọc nữa, hình dáng tính nết cũng như cháu ta. Mọi người đều nghĩ các nhà thế hoạn đại gia giống tên nhau cũng nhiều, bà nuông chiều cháu giai cũng là việc thường, chẳng có gì đáng lạ, nên cũng không để ý đến. Duy có Bảo Ngọc tính nết ngây thớ vẩn, cho là bốn người này nói thế để làm vui lòng Giả mẫu đấy thôi. Sau về trong vườn thăm bệnh Tương Vân. Tương Vân liền bảo:

- Thôi anh tha hồ mà đùa mà nghịch. Trước thì "một sợi không thành dây, một cây không thành rừng", nay đã có bạn rồi. Cứ nghịch tràn đi, có bị đánh dữ thì lần đến với cái anh ở Nam Kinh kia.

Bảo Ngọc nói:

- Chuyện hoang đường mà cô cũng tin? Lại còn có Bảo Ngọc khác nữa à?

- Thế thì tại sao đời Liệt quốc có Lạn Tương Như, mà đời nhà Hán cũng có Tư Mã Tương Như.

- Cái ấy đã đành đi rồi, còn như hình dáng giống nhau như hệt thì làm gì có?

- Thế tại sao người nước Khuông trông thấy ông Khổng Tử lại cho là Dương Hóa?(6)

- Khổng Tử và Dương Hóa mặt giống nhưng tên khác; Lạn và Tư Mã tên giống nhưng mặt lại khác. Riêng tôi và hắn không lẽ lại giống cả mặt lẫn tên?

Tương Vân không biết trả lời thế nào, liền cười nói:

- Anh chỉ cãi bướng, tôi không nói với anh nữa. Có cũng mặc, không cũng mặc, chẳng việc gì đến tôi.

Nói xong Tương Vân đi nằm.

Bảo Ngọc đâm ra ngờ ngợ: "Nếu bảo là không thì hình như cũng có, nếu bảo có thì mắt mình lại chưa trông thấy".

Trong bụng bứt rứt, về buồng nằm ngẫm nghĩ mãi, đâm ra ngủ mê, thấy mình đi vào trong một vườn hoa, Bảo Ngọc lấy làm lạ nói:

- Trừ vườn Đại Quan của chúng ta ra, còn có cái vườn nào đây?

Đương lúc ngờ ngợ, thấy có mấy đứa gái bé đi đến, đều là a hoàn cả. Bảo Ngọc lại lấy làm lạ nói:

- Trừ Uyên Ương, Tập Nhân, Bình Nhi ra, còn đám nào đây?

Bọn a hoàn đó cười nói:

- Sao cậu Bảo Ngọc lại đến đây?

Bảo Ngọc cho là nói mình, chạy lại cười nói:

- Ngẫu nhiên tôi đi chơi đến đây, không biết là vườn hoa của vị thế giao(7) nào. Nhờ các chị đưa tôi đi xem.

- Thì ra không phải là cậu Bảo nhà chúng mình! Trông hắn cũng sạch sẽ ăn nói lại lém lỉnh đấy.

- Thế ra trong nhà đây cũng lại có cậu Bảo Ngọc à?

- Cụ và bà nhà chúng tao đặt tên hai chữ "bảo ngọc" cho cậu chúng tao, cốt để giữ gìn cho cậu ấy được sống lâu và tránh hết tai nạn. Cậu ấy cũng thích cho chúng tao gọi tên. Mày là thằng bé con ở đâu đến đây, cũng dám gọi bậy! Giờ hồn không chúng tao đánh cho nát xác ra!

Lại một a hoàn khác cười nói:

- Thôi chúng ta về đi, đừng để cậu Bảo Ngọc trông thấy.

Lại nói:

- Nói chuyện với thằng bé con thối này làm chúng mình cũng thối lây!

Bảo Ngọc buồn rầu nói:

- Xưa nay chưa từng bị ai đối xử tệ bạc với mình, sao bọn này lại như thế? Không lẽ lại có một người như ta à?

Vừa nghĩ vừa tiện bước đi đến một ngôi nhà, Bảo Ngọc lấy làm lạ nói:

- Trừ viện Di Hồng ra, lại còn có một cái nhà như thế này à?

Rồi lên thềm, vào hẳn phía trong, thấy trên giường có một người nằm, bên cạnh có mấy đứa con gái đương thêu thùa, cười đùa với nhau. Người trẻ tuổi nằm ở trên giường thở dài một tiếng, một a hoàn cười hỏi:

- Cậu Bảo, sao không ngủ mà lại thở dài thế? Chắc là vì cô em đương yếu, cậu mới buồn bực vớ vẩn chứ gì?

Bảo Ngọc nghe nói, giật mình thấy người trẻ tuổi trên giường nói:

- Ta thấy cụ nói, trong kinh cũng có một anh Bảo Ngọc tính nết cũng giống ta, ta vẫn không tin. Nhưng vừa rồi ta nằm mê đi vào một cái vườn hoa to ở trong kinh, bỗng gặp mấy chị đều cho ta là thằng ranh con bẩn thỉu, không thèm nhìn đến. Ta tìm mãi mới đến được cái buồng của anh ấy, thấy anh ấy đương nằm ngủ, nhưng chỉ có cái xác thôi, còn hồn thì đi đâu rồi ấy.

Bảo Ngọc nói:

- Tôi vì đi tìm Bảo Ngọc mới đến đây, thế ra anh là Bảo Ngọc à?

Người nằm trên giường vội chạy xuống kéo tay, cười nói:

- Thế ra anh cũng là Bảo Ngọc? Phải chăng là giấc chiêm bao?

- Sao lại là chiêm bao? Thực lắm đấy chứ!

Hai bên chưa nói dứt lời, có người đến bảo:

- Ông gọi cậu Bảo đấy.

Hai người đều sợ cuống lên. Một Bảo Ngọc chạy đi, một Bảo Ngọc vội gọi giật lại: "Bảo Ngọc, mau về đây!" "Bảo Ngọc, mau về đây!"

Tập Nhân ngồi bên cạnh thấy Bảo Ngọc nằm mê, gọi tên mình, liền đánh thức dậy, cười hỏi:

- Bảo Ngọc ở đâu?

Bảo Ngọc đã tỉnh, nhưng tinh thần hãy còn bàng hoàng, liền trỏ ra ngoài cửa nói:

- Hắn vừa mới đi kia kìa.

- Thôi, cậu nằm mê rồi. Cậu thử dụi mắt nhìn kỹ xem, đó là bóng cậu ở trong cái gương đấy.

Bảo Ngọc nhìn lên, thì ra cái gương lớn sừng sững đứng trước mặt. Không nhịn được, Bảo Ngọc bật cười. Một a hoàn đã đem sẵn nước và ống nhổ đến cho Bảo Ngọc súc miệng.

Xạ Nguyệt nói:

- Không trách được, cụ thường bảo: nhà có trẻ con không nên treo nhiều gương, vì người còn bé chưa cứng vía, soi gương nhiều, khi ngủ tất sợ hãi nói mê. Bây giờ lại đem kê giường ngủ ở trước cái gương lớn, lúc nhớ buông cái màn che xuống còn khá, sau này trời càng nóng, càng mệt, thì còn nghĩ gì đến buông màn gương nữa? Vừa rồi cũng là vì quên buông màn gương xuống. Khi nằm trước gương chơi đùa với bóng rồi ngủ đi, thành ra hay mê mẩn nói nhảm; nếu không thì sao mình lại gọi tên mình? Chi bằng ngày mai dời giường đi chỗ khác thì hơn.

Bỗng Vương phu nhân sai người đến gọi Bảo Ngọc.

-----------------------------

1. Tức là Chu Hy, tên chữ là Trọng Hối, Hối Ông, Khảo Đình hay Chu Văn Công, là một nhà lý học đời Tống. Đời sau thường gọi là Khảo Đình học phái. Bất tự khí là không nên bỏ phí vật gì

2. Hình như tác giả bịa ra để cười cho vui, chứ không có người như thế.

3. Chữ trong sách Luận ngữ.

4. Tiền mừng tuổi, hoặc thưởng, ngoài gói bằng giấy đỏ.

5. Trong thời phong kiến, việc đến hỏi thăm vua chúa, hoàng hậu, hoặc quí tộc bậc cao, đều gọi là "thỉnh an".

6. Trong sách Luận ngữ khi ông Khổng tử đến nước Khuông, người nước Khuông tưởng là Dương Hóa, liền đến vây lại.

7. Bạn thân với nhau, đời này đến đời khác.

Hồi thứ năm mươi bảy

Tử Quyên khôn ngoan, đặt chuyện thử lòng cậu Bảo;

Tiết Di hiền hậu, đem lời an ủi cô Lâm.

Vương phu nhân muốn dẫn Bảo Ngọc đến chào Chân phu nhân. Bảo Ngọc nghe nói, rất vui, vội thay quần áo, theo Vương phu nhân đi ngay. Thấy phong cảnh nhà họ Chân cũng chẳng khác phong cảnh phủ Vinh và phủ Ninh mấy, có một vài nơi còn lịch sự hơn. Hỏi kỹ ra, cũng có một cậu tên là Bảo Ngọc. Chân phu nhân giữ lại ăn cơm, hết ngày mới về. Bảo Ngọc vẫn chưa tin. Tối về nhà, Vương phu nhân bảo phải sắp tiệc thật long trọng, tìm một ban hát có tiếng để mời mẹ con Chân phu nhân đến dự. Hai hôm sau, mẹ con Chân phu nhân không kịp cáo từ, trở về chỗ làm quan.

Hôm ấy Bảo Ngọc thấy Tương Vân gần khỏi, mới sang thăm Đại Ngọc. Gặp lúc Đại Ngọc đang ngủ trưa, Bảo Ngọc không dám đánh thức, nhân thấy Tử Quyên ngồi ở ngoài hiên thêu thùa, liền đến hỏi:

- Đêm hôm qua cô ấy đã đỡ ho chưa?

- Hơi đỡ rồi.

- A di đà phật! Thôi cũng nên khỏi đi!

- Cậu mà cũng niệm phật, thực là việc lạ!

- Người ta thường bảo "Bệnh gấp hay uống thuốc bừa".

Bảo Ngọc thấy Tử Quyên mặc cái áo bông mỏng bọc lụa, ngoài khoác áo đoạn xanh, liền giơ tay xoa vào người cô ta vừa nói:

- Khí trời xấu mà mặc phong phanh thế này, ngồi ở trước gió, lỡ ra ốm thì lại khổ.

Tử Quyên nói:

- Từ nay trở đi, chúng ta có nói chuyện gì thì nói, chứ đừng táy máy chân tay. Bây giờ đã lớn rồi, lỡ người ta trông thấy, không ra sao đâu, lại làm cho những kẻ bậy bạ nói vụng. Cậu không để ý đến việc ấy, cứ cợt nhả như lúc còn bé thế nào được? Cô tôi thường dặn chúng tôi không được đùa cợt với cậu. Gần đây, những khi cậu đến thăm, cô tôi cũng muốn tránh cậu nhưng sợ không tránh được đấy!

Tử Quyên liền đứng dậy mang đồ thêu sang phòng khác.

Bảo Ngọc thất thế, trong bụng như bị giội một chậu nước lạnh, đứng ngẩn người ra nhìn rặng tre. Giữa lúc ấy già Chúc đương cuốc đất trồng tre và quét lá ở đấy. Như người mất hồn, Bảo Ngọc ngồi ngay trên hòn đá, nước mắt chảy ròng ròng. Một lúc lâu, nghĩ quanh nghĩ quẩn, không biết làm thế nào. Tuyết Nhạn đến nhà Vương phu nhân lấy nhân sâm về qua đấy, thấy một người tay chống cằm, ngồi ngây ra trên hòn đá dưới gốc cây đào, không phải ai lạ, chính là Bảo Ngọc. Tuyết Nhạn ngờ ngợ: - "Trời lạnh thế này, cậu ấy ngồi một mình ở đấy làm gì? Mùa xuân này chỉ có những hạng rồ dại mới liều như thế, chẳng lẽ cậu ấy cũng mắc bệnh ngốc à?" Liền chạy lại, ngồi xuống cười nói:

- Cậu ngồi đây làm gì thế?

Bảo Ngọc trông thấy Tuyết Nhạn liền nói:

- Chị đến tìm tôi làm gì đây? Chị không phải là con gái à? Cô ấy đã giữ kẽ không cho các chị gần tôi, chị lại đến đây, nhỡ để người ta trông thấy, lại chẳng sinh chuyện đồn đại à? Thôi chị về ngay đi.

Tuyết Nhạn nghe nói, cứ tưởng Bảo Ngọc bị Đại Ngọc trêu tức, đành phải về nhà. Đại Ngọc hãy còn ngủ, Tuyết Nhạn đưa nhân sâm cho Tử Quyên. Tử Quyên hỏi:

- Bà đương làm gì?

- Đương ngủ trưa, vì thế phải chờ một lúc. Tôi kể cho chị nghe câu chuyện này đáng buồn cười: lúc chờ bà, tôi cùng chị Ngọc Xuyến nói chuyện ở dưới nhà , tự nhiên dì Triệu vẫy tôi đến. Tôi tưởng chuyện gì, té ra dì ấy xin phép bà về nhà túc trực đám ma người em, sáng mai thì đưa. Đứa hầu nhỏ theo dì ấy là Tiểu Cát Tường không có quần áo, muốn mượn cái áo lụa nguyệt bạch của tôi. Tôi nghĩ: bọn họ cũng được cấp hai cái áo như mọi người, sợ đem ra mặc đi đưa đám thì hỏng, nên không dám mặc áo của mình, lại đi mượn của người khác. Mượn làm hỏng áo cũng là việc nhỏ, nhưng tôi nghĩ xưa nay dì ấy đối với chúng ta chẳng tử tế gì. Vì thế tôi bảo: quần áo trâm vòng của tôi, cô tôi giao cho chị Tử Quyên giữ cả. Bây giờ tôi phải trình cô tôi như thế mất nhiều thì giờ lắm, lại làm lỡ việc của dì thôi. Chi bằng dì mượn chỗ khác là hơn.

- Con ranh này láu lắm. Mày không bằng lòng cho người ta mượn, lại đổ cho ta và cô, để người ta khỏi oán mày. Dì ấy đi bây giờ hay sáng mai?

- Đi ngay đấy, có lẽ bây giờ đã đi rồi.

Tử Quyên gật đầu. Tuyết Nhạn nói:

- Có lẽ cô còn chưa dậy, không biết ai làm cho cậu Bảo tức giận, đương ngồi khóc ở ngoài kia kìa!

- Cậu ấy ngồi ở đâu?

- Ở dưới cây đào sau đình Thấm Phương.

Tử Quyên vội bỏ đồ thêu xuống, dặn Tuyết Nhạn:

- Phải cẩn thận, ngồi chực đấy. Cô có hỏi thì nói ta ra ngoài một tí rồi về ngay.

Tử Quyên ra khỏi quán Tiêu Tương, chạy một mạch đi tìm Bảo Ngọc. Tử Quyên mỉm cười nói:

- Tôi nói câu ấy, chẳng qua cũng chỉ muốn giữ tiếng tốt cho cả mọi người thôi, thế mà cậu tức giận, ra ngồi chỗ gió máy mà khóc, lỡ ốm thì làm thế nào!

Bảo Ngọc cười nói:

- Ai tức? Tôi nghe chị nói cũng phải. Các chị bây giờ đối với tôi thế này, rồi người khác cũng thế, dần dần chẳng ai thèm nhìn đến tôi. Tôi nghĩ thế đâm ra tủi thân.

Tử Quyên liền ngồi sát vào Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cười nói:

- Vừa rồi đứng đối diện nói chuyện, chị còn bỏ chạy sao bây giờ lại ngồi sát vào bên cạnh tôi?

- Cậu quên rồi à? Mấy hôm trước cậu và cô Lâm đương nói chuyện với nhau thì dì Triệu đi vào, giờ thấy dì ấy đi vắng, tôi mới đến hỏi cậu. Hôm nọ cậu mới nhắc một câu "yến sào", rồi không nói gì nữa, bây giờ tôi muốn đến hỏi cậu việc ấy.

- Việc ấy không quan hệ gì, chẳng qua tôi nghĩ chị Bảo là khách đến ở đây, mà cô Lâm đã ăn yến sào thì phải ăn luôn, cứ xin mãi cũng ngượng. Món yến sào tuy không tiện xin bà, nhưng tôi đã bày tỏ với cụ biết, có lẽ người cũng đã bảo chị Phượng rồi. Tôi định nói với cô ấy, nhưng chưa nói hết. Bây giờ đâu như mỗi ngày đã cho cô ấy một lạng yến sào, thế là được rồi.

- Thế ra cậu nói hộ. Cảm ơn cậu đã hết lòng nghĩ đến cô tôi. Tôi cứ ngờ tại làm sao tự nhiên cụ lại nhớ đến, hàng ngày lại sai người mang sang cho cô tôi một lạng yến sào. Té ra là thế.

- Ngày nào cũng phải ăn cho quen, ăn độ hai, ba năm thì khỏe được.

- Ở đây ăn quen rồi, sang năm về nhà lấy tiền đâu mà ăn được thứ ấy.

Bảo Ngọc nghe nói giật mình hỏi:

- Ai về nhà ?

- Cô tôi về Tô Châu.

- Chị lại nói hão rồi. Tô Châu là nguyên quán thực, nhưng bà cô tôi đã mất, không có người trông nom, nên phải đón cô ấy về ở đây. Thế thì sang năm về Tô Châu ở với ai? Chị lại nói dối rồi.

- Cậu khinh người quá! Chỉ có họ Giả nhà cậu là họ to người nhiều hay sao? Không lẽ trừ nhà cậu, các nhà khác chỉ có một bố, một mẹ, họ hàng không còn ai nữa à? Cô tôi đến đây là vì cụ thương cô ấy còn bé, tuy có chú bác, cũng không bằng bố mẹ nên mới đón về đây ở tạm mấy năm đấy thôi. Khi đi lấy chồng, thế nào cũng phải trở về nhà họ Lâm, chứ có nhẽ nào con gái nhà họ Lâm, lại suốt đời ở nhà họ Giả? Nhà họ Lâm tuy nghèo không có bát ăn, nhưng là dòng dõi thư hương, không khi nào chịu đem người nhà mình giao cho bà con để chịu tiếng chê cười. Vì thế sang năm sớm thì mùa xuân, muộn thì mùa thu, dù ở đây không ai đưa về, thì nhà họ Lâm chắc cũng có người đến đón. Đêm hôm nọ cô tôi bảo tôi nói với cậu, những đồ chơi lúc còn bé, có thứ gì của cô tôi đưa lại, cậu sẽ soạn ra để trả cô tôi; cô tôi cũng đã soạn sẵn những thứ cậu cho cô tôi rồi.

Bảo Ngọc nghe nói như sét đánh ngang tai. Tử Quyên thử ngồi xem Bảo Ngọc trả lời ra sao, nhưng chờ mãi chẳng thấy nói câu gì, đương định hỏi thì thấy Tình Văn đến tìm Bảo Ngọc nói:

- Cụ gọi đấy, ngờ đâu cậu lại ở đây!

Tử Quyên cười nói:

- Cậu ấy đến hỏi thăm bệnh cô tôi, tôi nói mãi cậu ấy cũng chẳng tin, thôi chị dẫn cậu ấy về đi.

Nói xong, liền đi về nhà.

Tình Văn thấy Bảo Ngọc đờ người ra, đầu toát mồ hôi, mặt xám nhợt, vội kéo về thẳng viện Di Hồng. Tập Nhân thấy th sợ quá, cho là bị cảm gió. Bảo Ngọc nóng không thì khá, đằng này hai mắt lại trợn lên, bọt mép xùi ra, đưa gối thì nằm, đỡ dậy thì ngồi; đưa nước thì uống, mê man chẳng biết gì cả. Mọi người thấy thế nháo cả lên, nhưng chưa dám đi trình Giả mẫu, vội sai người đi tìm già Lý trước.

Một lúc già Lý đến, nhìn hồi lâu, hỏi mấy câu, Bảo Ngọc cũng không trả lời; lấy tay sờ vào mạch, ấn mạnh hai cái vào huyệt nhân trung ở môi trên, vết ấn khá sâu mà cũng không thấy đau. Già Lý kêu lên một tiếng "úi chao, hỏng mất rồi!" Rồi ôm đầu khóc ầm lên.

Tập Nhân vội kéo già Lý lại hỏi:

- Già xem có đáng lo ngại hay không, hãy nói cho chúng tôi biết, để đi trình cụ và bà Hai, việc gì mà khóc ầm lên thế?

Già Lý đập giường vật gối nói:

- Hỏng cả rồi! Thôi uổng công tôi cả một đời!

Tập Nhân nghĩ già Lý là người đã già, nhiều kinh nghiệm, nên mời lại xem; giờ nghe thấy già nói thế, tin là thực, cũng khóc ầm lên. Tình Văn kể lại việc vừa rồi cho Tập Nhân biết, Tập Nhân chạy thẳng đến quán Tiêu Tương, thấy Tử Quyên đương hầu Đại Ngọc uống thuốc. Tập Nhân không kịp đắn đo gì, hỏi ngay Tử Quyên:

- Vừa rồi cô nói với cậu Bảo những câu gì thế? Cô đến mà xem! Cô đi mà trình cụ, tôi mặc kệ đấy!

Nói xong liền ngồi phịch xuống ghế.

Đại Ngọc thấy Tập Nhân nét mặt giận dữ, có ngấn nước mắt, bộ dạng khác hẳn, cũng đâm hoảng sợ, liền hỏi:

- Làm sao thế?

Tập Nhân lặng im một lúc rồi khóc:

- Không biết cô Tử Quyên nói những câu gì làm cậu ngốc ấy mắt đờ ra, tay chân lạnh toát, không nói dược nữa. Già Lý bấm cũng không biết đau. Các bà già đều nói là không ăn thua gì nữa, ở bên ấy đương khóc ầm lên. Có lẽ bây giờ thì chết rồi!

Đại Ngọc nghe nói thế, nghĩ già Lý là người có nhiều kinh nghiệm mà cũng nói là chết thì chắc là chết thật, liền "ọe" một tiếng, bao nhiêu thuốc vừa uống, mửa ra hết cả, ruột gan cồn cào, ho rũ rượu hồi lâu. Bỗng chốc mặt đỏ gay, tóc rối bù, mắt sưng húp, gân nổi lên, cứ gục đầu xuống mà thở. Tử Quyên vội đến đấm lưng. Đại Ngọc gục xuống gối thở một lúc, rồi đẩy Tử Quyên nói:

- Chị không phải đấm nữa! Cứ mang thừng đến thắt cổ tôi cho chết đi là hơn!

Tử Quyên nói:

- Tôi có nói gì đâu? Chẳng qua nói đùa mấy câu, cậu ấy lại tưởng thật.

Tập Nhân nói:

- Cô lại không biết cậu ngốc ấy, nói đùa câu gì cũng cho là thật à?

Đại Ngọc nói:

- Chị nói những câu gì, phải đến nói lại đi, cậu ấy mới tỉnh lại được.

Tử Quyên nghe nói liền bước xuống giường, cùng Tập Nhân đi đến viện Di Hồng. Giả mẫu và Vương phu nhân cũng đều ở cả đấy. Vừa trông thấy Tử Quyên, Giả mẫu mắt đã nảy lửa liền mắng:

- Con ranh con này nói những câu gì với nó đấy?

Tử Quyên vội trình:

- Con có dám nói gì đâu, chỉ nói đùa mấy câu thôi.

Bảo Ngọc vừa trông thấy Từ Quyên đã "úi chào" một tiếng, rồi khóc òa lên. Mọi người thấy thế mới yên tâm. Giả mẫu kéo Tử Quyên lại, vì cho là nó đã làm điều gì có lỗi với Bảo Ngọc, nên bắt xin lỗi. Không ngờ Bảo Ngọc nắm chặt lấy tay Tử Quyên không chịu buông, rồi nói:

- Cô có đi thì mang cả tôi đi nữa!

Mọi người không hiểu, hỏi kỹ mới vỡ chuyện Tử Quyên nói đùa Đại Ngọc sắp về Tô Châu. Giả mẫu nhỏ nước mắt nói:

- Ta cứ tưởng có việc gì quan hệ kia, té ra là một câu nói đùa, lại mắng Tử Quyên: - Con ranh này, ngày thường mày là đứa thông minh nhanh nhẹn, mày vẫn biết nó sẵn có tính ngớ ngẩn, sao tự nhiên lại lừa nó làm gì?

Tiết phu nhân khuyên:

- Cháu Bảo xưa nay là người thật thà, cô Lâm lại đến đây ở từ lúc bé, hai người cùng với nhau đến tận bây giờ, so với người khác thì thân mật hơn nhiều. Bây giờ đột nhiên lại nói dối là sắp đi, không cứ cháu là người thực thà ngớ ngẩn, ngay người lớn kiên gan đến đâu cũng phải thương tâm. Bệnh không quan hệ gì, cụ và dì cứ yên tâm, cho uống một vài thang thuốc là khỏi.

Lúc đó có người vào trình:

- Vợ Lâm Chi Hiếu và vợ Lại Đại đến hỏi thăm.

Giả mẫu nói:

- Cảm ơn các bà có lòng nghĩ đến, mời các bà vào chơi.

Bảo Ngọc nghe nói đến chữ "Lâm", liền kêu ầm lên:

- Thôi hỏng rồi! Người nhà họ Lâm đã đến đón cô ấy về đấy, đuổi ngay họ đi!

Giả mẫu liền nói:

- Đuổi ngay họ đi!

Lại dỗ dành Bảo Ngọc:

- Đây không phải là người họ Lâm đâu, người họ Lâm chết hết cả rồi, không có ai đến đón nó nữa, cháu cứ yên tâm.

Bảo Ngọc nói:

- Dù ai cũng mặc! Trừ cô Lâm ra, không ai được gọi là họ Lâm cả!

Giả mẫu nói:

- Chẳng có ai là họ Lâm đến đây, bao nhiêu người họ Lâm đều đuổi đi cả rồi.

Giả mẫu lại dặn mọi người:

- Từ nay trở đi không được cho bà Lâm Chi Hiếu đến vườn này. Chúng bay cũng không được nói đến chữ "Lâm". Nghe rõ lời ta dặn chưa?

Mọi người vâng lời, không ai dám cười.

Một lúc, Bảo Ngọc trông thấy trên cái tủ thập cẩm bày một cái thuyền bằng vàng của người nước ngoài đem đến, liền nói ầm lên:

- Kia có phải là cái thuyền đến đón cô Lâm không? Thuyền đậu ở đấy rồi!

Giả mẫu vội sai Tập Nhân lấy cái thuyền xuống. Bảo Ngọc giơ tay đòi. Tập Nhân đưa đến. Bảo Ngọc giấu ngay vào trong chăn cười nói:

- Thôi còn đi vào lối nào?

Vừa nói vừa nắm chặt lấy Tử Quyên không chịu buông ra.

Một lúc có người trình:

- Thầy thuốc đã đến.

Giả mẫu vội sai mời vào. Vương phu nhân, Tiết phu nhân và Bảo Thoa tạm lánh vào nhà trong. Giả mẫu ngồi cạnh Bảo Ngọc. Thầy thuốc họ Vương vào, thấy nhiều người, vội đến chào Giả mẫu, rồi cầm tay Bảo Ngọc bắt mạch một lúc. Tử Quyên đành phải cúi đầu xuống. Thầy thuốc họ Vương cũng không hiểu ra sao, đứng dậy nói:

- Cậu đây mắc bệnh "cấp thống mê tâm". Cổ nhân thường đã nói: "Có nhiều chứng đờm mê khác nhau: có người vì khí huyết suy yếu, ăn uống không tiêu đâm mê, có người vì giận dỗi quá, đờm sộc lên đâm mê, có người bị đau khổ quá đờm tắc lại." Đây cũng là chứng đờm mê do đau khổ bất chợt, chỉ chốc lát bị đờm tắc lại đấy thôi, nhẹ hơn các chứng đờm khác nhiều.

- Ông hãy nói cho tôi biết bệnh cháu có đáng lo ngại hay không, ai bảo ông đọc cả tràng sách thuốc ra?

Thầy thuốc họ Vương vội chắp tay cười nói:

- Không đáng ngại, không đáng ngại.

- Chắc không đáng ngại chứ?

- Thực không đáng ngại, nếu có việc gì xin trách cứ ở tôi.

- Quả vậy thì mời người ra ngồi chơi ngoài kia kê đơn. Chữa khỏi ta sẽ sắp sửa đồ lễ, bắt cháu phải thân hành đến tạ, nếu có xảy ra việc gì, ta sai người đến kéo đổ nhà thái y đấy.

Thầy thuốc họ Vương cứ cúi đầu cười nói:

- Không dám ạ, không dám ạ.

Vì ông ta nghe thấy Giả mẫu nói: "Sẽ sắp đồ lễ sai Bảo Ngọc đến tạ", nên luôn miệng nói "không dám", chưa nghe câu nói đùa là đến kéo đổ nhà thái y, nên vẫn cứ "không dám" mãi, Giả mẫu cùng mọi người đều cười ầm lên.

Một lúc, uống thuốc vào, Bảo Ngọc đã yên tĩnh hơn trước, nhưng vẫn không chịu buông Tử Quyên ra, cứ nói:

- Nếu buông ra, thế nào cô ấy cũng về Tô Châu.

Giả mẫu và Vương phu nhân không biết làm thế nào, đành phải cho Tử Quyên ở luôn đấy với Bảo Ngọc, rồi cho Hổ Phách đến hầu Đại Ngọc. Đại Ngọc lại thường cho Tuyết Nhạn đến thăm hỏi. Đến chiều, Bảo Ngọc đã đỡ, Giả mẫu và Vương phu nhân mới về nhà, nhưng một đêm sai người hỏi thăm đến mấy lần. Già Lý dẫn già Tống cùng mấy già khác đến trông nom cẩn thận. Tử Quyên, Tập Nhân và Tình Văn ngày đêm ở liền bên cạnh. Lúc nào Bảo Ngọc ngủ thì lại mơ mộng giật mình kinh hoảng, hết khóc Đại Ngọc đã đi, lại khóc có người đến đón. Những lúc ấy, Tử Quyên lại phải an ủi mới yên.

Giả mẫu lại sai lấy các thứ thuốc quí bí truyền như: "khư tà thủ linh đơn" và "khai khiếu thông thần tán" cho uống, hôm sau lại uống thuốc của thầy thuốc họ Vương, bệnh mới đỡ dần. Bảo Ngọc trong bụng đã tỉnh, nhưng vì sợ Tử Quyên về mất, nên cố ý làm ra dáng điên dại. Tử Quyên từ hôm ấy rất là hối hận, nên ngày đêm vất vả cũng không dám oán trách gì. Tập Nhân bây giờ đã yên lòng, cười bảo Tử Quyên:

- Bệnh này do cô gây ra, thì cô phải đến chữa. Chẳng có ai như cậu ngốc nhà ta "thấy gió cho là mưa", nếu cứ mãi thế, chẳng biết rồi sẽ ra làm sao!

Bấy giờ Tương Vân đã khỏi, ngày nào cũng đến thăm Bảo Ngọc, thấy Bảo Ngọc đã tỉnh, liền diễn lại dáng dấp lúc mê cho Bảo Ngọc xem, làm Bảo Ngọc gục đầu xuống gối cười.

Trước kia Bảo Ngọc không biết mình ngây dại như thế, nên thấy người ta nói vẫn chưa tin. Lúc vắng người, Tử Quyên ngồi bên cạnh, Bảo Ngọc nắm tay hỏi:

- Sao chị lại nói dọa tôi thế?

- Chẳng qua tôi nói đùa thôi, cậu lại cho là thật.

- Chị nói có tình có lý, sao lại bảo là nói đùa?

- Những câu ấy tôi đặt ra cả đấy. Họ Lâm thực chẳng còn ai, còn chăng cũng chỉ là những người họ rất xa, mà không ở Tô Châu, đi tản mác ra các tỉnh cả rồi. Có ai đến đón, cụ cũng chẳng cho cô ấy đi nào.

- Dù cụ có cho cô ấy đi, tôi cũng chẳng nghe.

- Thật không nghe chứ? Chỉ sợ nói mồm thế thôi. Bây giờ cậu đã lớn, đã định nơi hỏi vợ rồi, vài năm nữa sẽ cưới, thì trong con mắt cậu còn biết đến ai nữa?

Bảo Ngọc lại giật mình hỏi:

- Ai hỏi vợ? Hỏi ai?

- Kỳ trong năm tôi nghe thấy cụ nói định hỏi cô Cầm cho cậu; nếu không thì sao lại thương cô ấy quá thế?

- Ai cũng bảo tôi ngớ ngẩn, nhưng thực ra chị lại ngớ ngẩn hơn tôi! Chẳng qua đó là câu nói đùa đấy thôi. Cô ấy đã nhận lời với nhà ông hàn lâm họ Mai rồi. Nếu định hỏi cô ta thì tôi đâu lại còn đến nỗi thế này? Trước kia tôi đã thề, đập cả hòn ngọc đi, chị chẳng ngăn tôi là gì? Tôi vừa ốm khỏi mấy hôm nay, chị lại đến chọc tức tôi. - Vừa nói Bảo Ngọc vừa nghiến răng nghiến lợi, lại nói: - Bây giờ tôi chỉ muốn chết ngay lập tức, moi hẳn ruột ra cho các chị xem, còn cả da và xương đều hóa ra một đống gio, rồi lại hóa ra một đám khói, gặp cơn gió to bay tan đi hết, thế là xong chuyện! - Nói xong lại khóc.

Tử Quyên vội bịt mồm Bảo Ngọc lại, lau nước mắt cho cậu ta, rồi cười nói:

- Cậu đừng có nóng nảy. Vì tôi sốt ruột, nên mới thử cậu đấy thôi.

Bảo Ngọc lại lấy làm lạ hỏi:

- Tại sao chị lại sốt ruột?

- Cậu cũng biết tôi không phải là người nhà họ Lâm, tôi cũng như chị Tập Nhân và chị Uyên Ương đấy thôi. Tôi tình cờ được sang ở với cô Lâm, cô ấy đối với tôi rất tử tế, coi tôi hơn những người hầu mang từ Tô Châu đến nhiều, chúng tôi không rời nhau một giờ một phút. Bây giờ cô ấy mà về thì tôi cũng phải đi theo. Nhà tôi ở cả đây, tôi không đi thì phụ mối tình bấy lâu chúng tôi ăn ở với nhau, mà đi ra thì phải bỏ cả gia đình. Vì thế tôi vẫn áy náy, cố bịa đặt những câu nói ấy để hỏi cậu. Ngờ đâu cậu lại ngốc nghếch làm nhộn lên như thế!

- Thế ra chị lo về việc ấy, chị lại là người ngốc nốt! Từ nay chị đừng lo nữa nhé! Tôi nói vắn tắt một câu cho chị nghe: sống chúng ta sống chung một chỗ; chết thì chúng ta cùng hóa ra gio, ra khói một chỗ, chị nghĩ thế nào?

Tử Quyên nghe nói, trong bụng đương đắn đo, chợt có người vào trình:

- Cậu Hoàn và anh Lan đến hỏi thăm.

Bảo Ngọc nói:

- Cứ ra bảo cảm ơn các cậu ấy. Ta vừa mới ngủ, không cần phải vào nữa.

Bà già vâng lời đi ra.

Tử Quyên cười nói:

- Bây giờ cậu đã khỏi rồi, nên để tôi về trông nom cô bên kia chứ?

- Phải đấy, hôm qua tôi đã định cho chị về, nhưng lại quên mất. Giờ tôi đã khỏi hẳn rồi, thôi chị về đi.

Tử Quyên nghe nói, liền sửa soạn chăn đệm và đồ trang sức. Bảo Ngọc cười nói:

- Hôm nọ tôi trông thấy trong hộp đồ trang sức của chị có hai, ba cái gương, chị để lại cho tôi cái gương nhỏ hình hoa sen. Tôi sẽ để ở đầu giường để soi lúc đi ngủ và đi đâu mang theo cho nhẹ.

Tử Quyên đành phải để cái gương lại, sai người mang đồ đi trước, chào mọi người rồi về quán Tiêu Tương.

Mấy hôm thấy Bảo Ngọc như thế, Đại Ngọc đâm ra ốm thêm, khóc luôn mấy lần. Nay thấy Tử Quyên về, hỏi ra mới biết Bảo Ngọc đã khỏi, Đại Ngọc lại cho Hổ Phách về hầu Giả mẫu. Đêm khuya vắng người, Tử Quyên cởi áo đi ngủ, thủ thỉ cười nói với Đại Ngọc:

- Cậu Bảo thực tâm đấy, nghe thấy chúng ta sắp đi, đâm ra ốm ngay.

Đại Ngọc không trả lời. Tử Quyên ngừng một lúc, rồi lại nói một mình:

- Động không bằng tĩnh,(1) kể ra ở đây đối với chúng ta cũng tử tế đấy. Điều khác thì dễ, chứ cái việc từ bé đến lớn cùng ở với nhau một chỗ, cùng biết tính nết nhau, mới thực là khó.

Đại Ngọc gắt:

- Mấy hôm nay chị không biết mệt à, bây giờ không ngủ đi lại còn nói lảm, nói nhảm gì thế?

- Không phải tôi nói nhảm đâu, cũng là thực bụng vì cô đấy. Tôi buồn cho cô đã mấy năm nay, không có cha mẹ, anh em, ai là người biết thương mình? Gặp lúc này, cụ còn khỏe mạnh sáng suốt, cần phải lo việc lớn của mình đi. Tục ngữ nói "Tuổi già nóng lạnh bất thường". Nếu cụ có mình nào, lúc đó dù có xong việc, cũng sợ chậm trễ ngày giờ, khó được như ý muốn. Bọn công tử vương tôn tuy nhiều, nhưng người nào mà chẳng năm thê bảy thiếp, nay đông mai tây? Dù họ có lấy được một bà tiên, cũng chỉ độ dăm ba đêm rồi lại gạt ra một nơi. Thậm chí nhiều người có mới nới cũ, trở mặt thù hận nữa. Nhà người ta có người, có thế, thì không sao, chứ như cô đây, cụ sống ngày nào còn khá, cụ mà chết đi thì mặc cho người ta hất hủi thôi. Vì thế tôi bàn với cô, cần phải lo liệu trước đi. Cô là người sáng suốt, chẳng lẽ không nghe câu tục ngữ: "Hàng vạn lạng vàng dễ kiếm, một người tri kỷ khó tìm" hay sao?

- Con này điên rồi! Sao mới đi có mấy ngày đã đổi hẳn tính nết thế? Ngày mai ta phải trình cụ cho mày về, ta không dám dùng mày nữa.

- Những câu tôi nói đều đúng cả, cốt nhắc cô để ý đấy thôi, chứ có bảo cô đi làm bậy gì đâu. Sao lại phải trình cụ, tôi bị mắng thì cô được lợi gì?

Nói xong liền đi ngủ.

Đại Ngọc ngoài miệng nói thế, nhưng trong bụng cũng có phần thương cảm, chờ Tử Quyên đi ngủ rồi, liền khóc suốt đêm, đến sáng mới chợp mắt. Hôm sau gượng dậy rửa mặt súc miệng ăn ít cháo yến sào. Rồi có Giả mẫu sang thăm và dặn dò mấy câu.

Ngày sinh nhật Tiết phu nhân đã đến, từ Giả mẫu trở xuống, ai cũng có lễ mừng; Đại Ngọc cũng phải đưa đến mừng hai thứ đồ thêu. Hôm ấy, Tiết Phu nhân sắp một ban hát nhỏ, mời Giả mẫu và Vương phu nhân đến dự. Chỉ có Bảo Ngọc và Đại Ngọc là vắng thôi. Đến chiều tàn tiệc, Giả Mẫu tiện đường đến thăm hai người một lần nữa rồi mới về nhà.

Hôm sau, Tiết phu nhân lại bảo Tiết Khoa mời những người làm công đến dự tiệc. Bận rộn đến ba, bốn ngày mới xong.

Tiết phu nhân trông thấy Hình Tụ Yên là người đoan trang nhã nhặn, nhưng là con nhà thanh bạch, một cô gái áo vải quần thô, nên muốn hỏi cho Tiết Bàn. Nhưng sợ Tiết Bàn là người lông bông, nhỡ lại làm khổ con gái nhà người ta. Đương lúc ngần ngại, chợt nghĩ ngay đến Tiết Khoa, xem hai người này giống như một đôi vợ chồng trời xe sẵn, liền bàn với Phượng Thư. Phượng Thư cười nói:

- Xưa nay cô còn lạ gì tính mẹ chồng tôi, việc này để tôi liệu dần.

Nhân lúc Giả mẫu đến thăm, Phượng Thư liền nói:

- Cô cháu có một việc muốn nhờ bà, nhưng không tiện nói ra.

- Việc gì?

Phượng Thư liền nói rõ câu chuyện muốn cầu hôn. Giả mẫu cười nói:

- Việc ấy rất tốt, có gì mà không tiện nói ra? Để ta sẽ nói chuyện với mẹ chồng chị, thế nào mà chẳng bằng lòng.

Về nhà, cho người gọi Hình phu nhân đến, Giả mẫu tự nhận đứng ra làm mối. Hình phu nhân nghĩ: họ Tiết là nhà dòng dõi, hiện nay giàu có. Tiết Khoa kể ra cũng xinh trai, lại có Giả mẫu đứng ra làm mối. Được dịp liền nhận lời ngay.

Giả mẫu mừng lắm, sai người mời Tiết phu nhân đến. Hai người gặp nhau tất nhiên cũng có những câu đun đẩy. Hình phu nhân liền sai người đi nói việc ấy với vợ chồng Hình Trung. Vợ chồng y đến ở đây cốt là nhờ vả Hình phu nhân, thì làm gì mà chẳng bằng lòng, liền luôn miệng nói:

- Việc ấy hay lắm.

Giả mẫu cười bảo:

- Ta vốn hay hứng việc, xong rồi chả biết tạ bà mối được bao nhiêu?

Tiết phu nhân cười nói:

- Điều đó tất nhiên rồi, chỉ sợ tạ một vạn bạc, người cũng không thèm nhận thôi. Nhưng có một việc, cụ đã đứng lên làm mối thì phải tìm một vị chủ hôn mới được.

Giả mẫu cười:

- Gì chẳng có, chứ hạng què chân cụt tay thì nhà chúng ta cũng có vài mống.

Rồi sai người gọi mẹ con Vưu Thị đến. Giả mẫu nói rõ việc ấy cho họ nghe, hai người đều vội vàng ngỏ lời mừng.

Giả mẫu dặn:

- Khuôn phép nhà ta chị đã biết đấy, xưa nay hai nhà thông gia không hề so đọ về lễ cưới lễ xin. Bây giờ chị đứng ra lo liệu hộ ta, không nến dè sẻn quá, cũng không nên hoang phí quá, thu xếp việc hai nhà cho xong rồi trình ta biết.

Vưu Thị vội vâng lời. Tiết phu nhân mừng lắm, về nhà bảo viết thiếp mời, đưa sang phủ Ninh. Vưu Thị xưa nay vẫn biết tính nết Hình phu nhân, định không muốn nhận việc ấy, nhưng vì Giả mẫu phó thác nên phải vâng lời, đành cứ lựa theo ý Hình Phu nhân mà làm. Còn Tiết phu nhân là người thế nào cũng xong, nên cũng dễ nói.

Việc Tiết phu nhân hỏi Hình Tụ Yên làm nàng dâu, trong phủ ai cũng biết cả. Hình phu nhân muốn đón Hình Tụ Yên ra ngoài ở.

Giả mẫu nói:

- Điều đó có ngại gì. Hai đứa chúng nó có giáp mặt nhau đâu. Vả lại ngoài bà dì ra chỉ có một cô chị chồng, một cô em chồng, thì có can gì? Chúng nó là con gái cả, cũng nên cho chúng nó gần gũi nhau.

Hình phu nhân nghe vậy mới thôi.

Tiết Khoa và Tụ Yên trước kia có lần gặp nhau ở giữa đường, đại để hai bên đều bằng lòng nhau. Song Tụ Yên giữ kẽ, không muốn lui tới chuyện trò với chị em Bảo Thoa, hơn nữa Tương Vân hay chế giễu, nên càng giữ ý. Có diều Tụ Yên là người đọc sách hiểu lễ, dù là phận gái cũng không tỏ ra giả hổ giả thẹn, làm bộ làm dạng như ai. Bảo Thoa từ ngày gặp Tụ Yên, nghĩ đến cảnh nhà cô ta túng thiếu, bố mẹ người ta thì tuổi cao đức cả, bố mẹ cô ta chỉ rượu bét nhè, chẳng chăm nom gì con cái. Hình phu nhân đối với cô ta chẳng qua tình nghĩa bề ngoài, không phải thực bụng thương yêu. Vả lại, Tụ Yên ở chung với Nghênh Xuân, một người thì ý tứ đứng đắn, một người thì có xác không hồn, tự mình không trông nom chu tất nổi mình, còn trông nom người khác sao được. Vì vậy những đồ dùng hàng ngày có khi thiếu thốn, không ai săn sóc tới, Tụ Yên cũng không hề hé miệng nói với ai.

Bảo Thoa thường ngấm ngầm giúp đỡ, cũng không dám cho Hình phu nhân biết, vì sợ sinh ra lắm chuyện. Bây giờ duyên may run rủi, không ai ngờ hai nhà lại thành thông gia với nhau. Trong bụng Tụ Yên rất mến Bảo Thoa, cũng mến cả Tiết Khoa, nên khi chuyện trò với nhau, Bảo Thoa thường gọi ngay là em.

Một hôm, Bảo Thoa đến thăm Đại Ngọc, Tụ Yên cũng đến đó. Hai người gặp nhau ở giữa đường, Bảo Thoa mỉm cười gọi Tụ Yên lại, rồi hai người cùng đi đến sau vách đá. Bảo Thoa cười hỏi:

- Trời rét như thế này, sao em lại không mặc áo kép?

Tụ Yên cúi đầu không trả lời. Bảo Thoa biết ngay là có duyên cớ gì đây, liền cười hỏi:

- Chắc là tiền lương tháng này em không lĩnh được chứ gì? Chị Phượng kể cung vô tâm thật.

Tụ Yên nói:

- Chị ấy vẫn trả lương đúng ngày đấy! Nhưng vì cô em sai người đến bảo: một tháng không tiêu hết hai lạng bạc đâu, phải bớt một lạng đưa cho thày mẹ em, nếu cần cái gì, dùng của chị Hai cũng được. Chị thử nghĩ xem, chị Hai là người thực thà không để ý việc gì cả. Những thứ em dùng chị ấy không hề nói, nhưng bọn hầu có phải là hạng ít mồm đâu, người nào chả hay sinh chuyện. Dù ở ngay nhà ấy, em thật không bao giờ dám sai bảo họ. Cứ độ dăm ba ngày em lại phải bỏ ít tiền ra cho họ uống rượu, ăn quà sáng. Giờ lại bớt đi một lạng. Hôm nọ em phải đưa giấu cái áo bông cho người mang đi cầm, lấy mấy quan tiền về tiêu đấy.

Bảo Thoa thở dài:

- Hiện giờ gia quyến nhà họ Mai còn ở cả chỗ làm quan, năm sau mới về đây. Nếu họ ở đây thì em Cầm về nhà chồng, rồi sẽ bàn đến việc của em ra khỏi chỗ này là yên chuyện. Nhưng bây giờ việc em Cầm chưa xong, chắc em Khoa cũng không dám cưới vợ trước. Thật là một việc khó xử. Nếu để chậm vài năm nữa, sợ em bị dãi dầu quá đâm ra ốm mất. Để chị bàn với mẹ chị xem. Số tiền một lạng bạc em cứ đưa phăng cho họ, thế là yên chuyện. Sau này em đừng cho bọn kia ăn uống nữa. Họ châm chọc gì mặc họ, em chẳng cần nghe, nói chán thì thôi. Nếu em có thiếu thứ gì, cứ đến bảo chị, đừng có e lệ. Từ ngày em đến đây, chị em ta vẫn tử tế với nhau, chứ có phải sau ngày dạm hỏi nhau mới thế đâu. Nếu em sợ người ngoài bàn tán, thì cứ khẽ sai a hoàn đến bảo chị là được.

Tụ Yên cúi đầu xin vâng.

Bảo Thoa lại trỏ viên ngọc đeo ở quần Tụ Yên hỏi:

- Ai cho em đấy?

- Chị Ba cho em đấy.

- Chị ấy thấy ai cũng có, chỉ một mình em là không, sợ người ta chê cười, nên mới đưa lại cho em. Đó là chị ấy thông minh chu tất đấy. Có điều em phải biết rằng, những đồ trang sức này là của các cô tiểu thư ở các nhà quan sang mới dùng. Em cứ nhìn chị xem, từ đầu đến chân, chị có những đồ trang sức lộng lẫy ấy đâu. Trước đây bảy tám năm, chị cũng có, nay kém trước nhiều. Vì thế cái gì thấy bớt thì tự mình bớt đi. Sau này đem về nhà chồng, có lẽ còn hàng hòm những đồ vô dụng. Chúng ta bây giờ không bì với họ được, phải theo nề nếp nhà mình.

- Chị đã nói thế, em sẽ về tháo viên ngọc ra là hơn.

- Em cũng đừng nên thế. Người ta cho mình, không đeo họ sẽ ngờ. Chị chẳng qua chợt nhắc đến thôi, sau này sẽ hay.

Tụ Yên xin vâng và hỏi:

- Bây giờ chị đi đâu?

- Chị đến quán Tiêu Tương đây. Em hãy về lấy cái phiếu cầm đồ đưa cho a hoàn mang đến, chị sẽ chuộc hộ cho, rồi đến tối sẽ sai người đưa lại, sớm tối phải mặc, nếu không thì bị gió lạnh không được đâu! Nhưng không biết em đem cầm ở hiệu nào?

- Đâu như hiệu Hằng Thư ở đường Cổ Lâu Tây ấy.

- Thế ra lại vào nhà mình rồi! Nếu bọn làm công biết thì họ sẽ bảo: người chưa đến mà quần áo đã đến trước.

Tụ Yên nghe vậy, biết ngay là hiệu của nhà Bảo Thoa, không nói gì cả, đỏ mặt lên, cười rồi chạy đi.

Bảo Thoa đến quán Tiêu Tương gặp Tiết phu nhân cũng đến thăm và đương ngồi nói chuyện với Đại Ngọc. Bảo Thoa cười nói:

- Mẹ đến lúc nào? Con không biết.

- Mấy hôm nay ta bận, không đến thăm cháu Bảo và cháu Đại được. Hôm nay đến thì cả hai cháu đều đã khá rồi.

Đại Ngọc mời Bảo Thoa ngồi rồi nói:

- Việc đời khó mà biết trước được. Cứ nói về việc dì và mợ Cả tôi lại thành ra thông gia với nhau?

Tiết phu nhân nói:

- Các cháu hãy còn bé, biết thế nào được? Người trước có nói "Nhân duyên nghìn dặm xe vào một dây". Ông Nguyệt Lão trông nom việc nhân duyên, đã biên vào sổ trước, ngầm lấy một sợi dây tơ buộc chân hai người lại. Đã hợp duyên nhau thì dù hai nhà cách sông cách biển, hoặc thù hằn với nhau thế nào cũng có dịp thành vợ thành chồng. Việc này thực không ai ngờ đến. Có khi bố mẹ đôi bên đều bằng lòng, hoặc là luôn luôn ở gần nhau, tưởng thế nào cũng thành đôi thành lứa, nhưng ông Nguyệt không xe dây, cũng không thể sum họp với nhau được. Ví như việc hôn nhân của hai chị em cháu đây, bây giờ không biết ở gần trước mắt hay là ở tận góc biển chân trời!

Bảo Thoa nói:

- Mẹ động nói việc gì cũng kéo chúng con vào.

Vừa nói vừa gục vào lòng mẹ, cười nói:

- Thôi chúng ta về đi.

Đại Ngọc cười nói:

- Xem kìa! Lớn như thế kia rồi, hễ vắng dì thì ra vẻ đạo mạo, nhưng có dì, lại giở lối làm nũng.

Tiết phu nhân lấy tay xoa vào người Bảo Thoa, thở dài bảo Đại Ngọc:

- Chị cháu đây không khác gì chị Phượng ở bên cụ, hễ có việc quan trọng là ta phải bàn với nó; lúc không có việc gì nó cũng làm cho ta vui lên. Ta thấy nó như thế cũng khuây khỏa nỗi buồn rầu.

Đại Ngọc nhỏ nước mắt thở dài:

- Chị ấy lại giở những trò ấy ra để trêu tức cháu là người không có mẹ, cố ý nêu cái cảnh khổ của cháu ra.

Bảo Thoa cười nói:

- Mẹ ơi, mẹ xem cô ấy quá quắt thế, lại bảo con hay làm nũng.

Tiết phu nhân nói:

- Không trách được em nó đau xót là phải, cha mẹ mất cả, không còn ai là người thân, nghĩ thật đáng thương.

Tiết phu nhân lại vỗ về Đại Ngọc, cười nói:

- Cháu ơi, đừng khóc nữa. Cháu thấy ta thương chị cháu, đâm ra buồn rầu, nhưng không biết bụng ta càng thương cháu lắm đấy! Chị cháu tuy không còn cha, nhưng có mẹ, có anh thì cũng hơn cháu. Ta thường nói với cha cháu, bụng ta thương cháu lắm, nhưng không tiện tỏ ra bên ngoài, ở đây lắm người nhiều lời, người nói tốt thì ít, nói xấu thì nhiều. Họ có biết đâu cháu không có chỗ nương tựa, đáng để cho người ta thương; chẳng qua thấy cụ thương cháu, họ cũng hùa theo đó thôi.

Đại Ngọc cười nói:

- Dì đã nói thế, ngày mai cháu xin nhận dì làm mẹ. Nếu dì không nhận, thì chỉ là dì thương miệng thương môi thôi.

- Không chê thì cháu cứ nhận.

Bảo Thoa vội vàng nói:

- Không nhận được đâu.

Đại Ngọc nói:

- Tại sao không nhận được?

- Tôi hãy hỏi cô, tại sao anh tôi chưa lấy vợ mà lại hỏi em Hình cho em tôi trước? Thế là vì lẽ gì?

- Anh ấy đi vắng, hay là ngày giờ không hợp, vì thế hỏi cho em trước.

- Không phải thế đâu. Anh tôi đã nhắm một chỗ rồi, chỉ chờ khi nào về thì lo đấy thôi, nhưng cũng không cần nói tên người ấy ra. Tôi bảo cô không nhận là mẹ được. Cô thử nghĩ xem.

Nói xong Bảo Thoa nháy mắt nhìn mẹ mà cười.

Đại Ngọc nghe thấy nói thế, liền gục đầu vào người Tiết phu nhân nói:

- Nếu dì không đánh chị ấy, cháu không chịu đâu!

Tiết phu nhân ôm Đại Ngọc cười nói:

- Cháu đừng nghe lời chị cháu, nó nói đùa đấy thôi.

Bảo Thoa cười nói:

- Ngày mai mẹ cứ đến nói với cụ, xin cô ấy làm dâu, chẳng hơn đi tìm người ngoài à?

Đại Ngọc xông lên định túm lấy, Bảo Thoa cười nói:

- Mày điên à?

Tiết phu nhân vội cười ngăn lại, lấy tay gạt hai người ra. Bà ta lại bảo Bảo Thoa:

- Ngay cô Hình ta cũng còn sợ bị anh con giày vò, vì thế phải hỏi cho em con, huống chi cháu Lâm, ta không khi nào lại hỏi cho anh con đâu. Trước kia cụ định hỏi em con cho Bảo Ngọc, nhưng vì nó đã có người hỏi; nếu không thì cũng vừa đôi phải lứa đấy. Hôm nọ ta hỏi cô Hình cho em con, cụ còn nói đùa: "Ta định hỏi người nhà bên ấy, chưa hỏi được, ngờ đâu lại bị bên ấy sang hỏi một người nhà ta." Tuy là câu nói đùa, nhưng nghĩ kỹ ra cũng có ý đấy. Bảo Cầm đã có nơi, ta không còn người nào gả cho bên ấy nữa. Nhưng chẳng lẽ không giúp được một câu nói hay sao? Ta xem Bảo Ngọc cũng xinh xắn, cụ lại thương nó, nếu tìm người ngoài, chắc cụ không bằng lòng, chi bằng hỏi em Lâm cho nó, như thế chẳng được vẹn toàn mọi mặt hay sao?

Đại Ngọc trước còn ngồi ngây ra nghe, sau thấy nói đến mình, liền đỏ mặt, kéo Bảo Thoa cười nói:

- Tôi chỉ đánh chị thôi! Tại sao chị khêu chuyện để dì nói như thế?

- Lạ thật! Mẹ tôi nói cô, việc gì cô lại đánh tôi?

Tử Quyên vội chạy lại cười nói:

- Dì đã có ý định như thế, sao không đến nói với cụ?

Tiết phu nhân cười nói:

- Con bé này vội cái gì thế! Chắc là mày muốn cô mày đi lấy chồng, để mày cũng đi kiếm một anh chồng nhỏ chứ gì?

Tử Quyên đỏ mặt cười nói:

- Dì già, nói lẫn rồi!

Đại Ngọc trước còn mắng:

- Việc gì đến con ranh con này!- Sau thấy thế cũng cười nói: - A di đà phật! Đáng! đáng! Đáng! Cũng bị trát gio vào mặt rồi đấy!

Mẹ con Tiết phu nhân và các bà già, a hoàn đều cười ầm lên và nói:

- Dì tuy nói đùa, nhưng không sai mấy. Lúc nào rỗi, dì đến bàn với cụ xem, rồi dì làm mối cho đôi bên nên vợ nên chồng, thật là ổn thỏa mọi đường.

Tiết phu nhân nói:

- Ta mà nói ra, nhất định cụ sẽ vui mừng.

Chợt Tương Vân đi vào, tay mang một phiếu cầm đồ, cười nói:

- Mảnh giấy nợ gì đây?

Đại Ngọc nhìn không biết là cái gì. Bọn bà già đứng đấy đều cười nói;

- Cái này hay lắm! Phải mất gì chúng tôi mới bảo cho!

Bảo Thoa vội cầm lấy xem, thì chính là cái phiếu cầm đồ của Tụ Yên vừa nói lúc nãy, liền gấp ngay lại.

Tiết phu nhân nói:

- Bà già nào đánh rơi cái giấy cầm đồ thì phải, tìm trả ngay cho họ, chắc rồi họ lại tìm cuống lên thôi. Cháu nhặt được ở chỗ nào đấy?

Tương Vân hỏi:

- Thế nào là giấy cầm đồ?

Bọn bà già cười nói:

- Cô này thật là ngớ ngẩn, đến tờ giấy cầm đồ cũng không biết!

Tiết phu nhân thở dài:

- Không trách được nó là tiểu thư ngàn vàng còn trẻ tuổi, thì làm gì biết được cái này? Nó có trông thấy cái này bao giờ đâu? Dù người trong nhà có, nó cũng chẳng được trông thấy. Đừng cười nó, tất cả các cô ở đây, xem ai cũng thành ngớ ngẩn cả.

Bọn bà già đều cười nói:

- Vừa rồi cô Lâm cũng chẳng nhận ra được. Không nói các cô làm gì, ngay đến cậu Bảo hay đi ra ngoài cũng chưa chắc đã trông thấy cái này.

Tiết phu nhân kể rõ đầu đuôi cho họ nghe. Tương Vân và Đại Ngọc cười nói:

- Hạng người này thật chỉ nghĩ cách kiếm tiền thôi. Hiệu cầm đồ của dì có cái này không?

Mọi người cười nói:

- Câu hỏi ngớ ngẩn nhỉ! Trên đời này "Quạ nào lại chẳng đen đầu", làm gì có hai giống quạ?

Tiết phu nhân lại hỏi:

- Cháu nhặt được ở đâu đấy?

Tương Vân đương muốn nói, thì Bảo Thoa nói lấp đi:

- Đó là phiếu cầm quá hạn, đã xóa sổ từ bao giờ rồi. Hương Lăng nhặt lấy mang về lừa cho họ chơi đấy thôi.

Tiết phu nhân nghe thay thế cho là thật, nên không hỏi nữa. Một lúc sau có người vào trình:

- Mợ Cả ở phủ hên kia đến mời dì sang nói chuyện.

Tiết phu nhân đứng dậy đi. Bấy giờ trong nhà không có ai, Bảo Thoa mời hỏi Tương Vân:

- Nhặt được ở đâu thế?

- Con Triện Nhi, a hoàn của em dâu chị, lẻn đưa cái giấy ấy cho Oanh Nhi. Oanh nhi gấp vào trong sách, tưởng là tôi không trông thấy. Chờ họ đi rồi, tôi giở ra xem, không biết là cái gì, thấy các chị ở đây, nên cầm đến để cho xem.

Đại Ngọc liền hỏi:

- Không lẽ cô ấy cũng phải cầm quần áo à? Đã cầm rồi sao lại còn đưa giấy cho chị?

Bảo Thoa thấy hỏi thế, không tiện giấu, kể lại việc vừa rồi cho hai người nghe. Đại Ngọc nghe nói, "cùng chung cảnh ngộ, thỏ chết cáo thương", cũng thở than thương cảm. Tương Vân tức quá nói:

- Để tôi đi hỏi chị Hai xem! Tôi sẽ mắng cho bọn bà già và a hoàn một trận để các chị hả giận, có đươc không?

Tương Vân định chạy đi ngay. Bảo Thoa kéo lại cười nói:

- Cô lại điên rồi, hãy ngồi xuống đây đã nào!

Đại Ngọc cười nói:

- Nếu là con trai, có lẽ cô sẽ sẵn sàng dẹp hẳn những nỗi bất bình; cô lại định đóng vai Kinh Kha, Nhiếp Chính(2) đó phải không? Thật đáng buồn cười!

Tương Vân nói:

- Đã không cho tôi đến hỏi chị Hai, thì ngày mai sẽ đón cô Hình đến ở với chúng ta có hơn không?

Bảo Thoa cười nói:

- Để ngày mai bàn xem đã.

Ngay lúc đó có người vào trình:

- Cô Ba và cô Tư đến chơi.

Ba người nghe nói liền im hẳn, không nhắc đến chuyện ấy nữa.

----------------------------

(1). Ý nói đi không bằng ở lại.

(2). Kinh Kha và Nhiếp Chính: hai người nghĩa hiệp đời Chiến Quốc. Kinh Kha nhận lời với con vua nước Yên, đến giết Tần Vương, không trúng, bị quân Tần giết chết. Nhiếp Chính nhận lời với Nghiêm Trọng Tử, giết vua Hàn Ai Hầu và Hiệp Lũy rồi cắt mũi khoét mặt tự tử.

Hồi thứ năm mươi tám

Dưới bóng hạnh, phượng giả khóc hão huyền;

Bên cửa the, tình thật nghĩ vơ vẩn.

Bọn Thám Xuân hỏi thăm xong, mọi người cười đùa một lúc rồi đâu về đây.

Ngờ đâu trong cung lão thái phi chết, các bà mệnh phụ đều phải vào triều theo thứ tự chịu tang. Có sắc ban xuống cả nước, những nhà có chức tước, trong một năm không được mở tiệc hát xướng; dân chúng thì ba tháng không được cưới xin. Mẹ con, bà cháu Giả mẫu ngày nào cũng phải vào triều dự tế, đến giờ mùi mới được về. Sau hai mươi mốt ngày làm lễ ở cung bên cạnh, mới rước linh đến tiên lăng, ở huyện Hiếu Từ. Từ Kinh đến lăng, phải đi về mất mười ngày. Khi rước linh đến đấy, lại phải để vài ngày nữa mới đặt vào địa cung (cung ở dưới đất) thế là công việc vừa vặn mất một tháng. Vợ chồng Giả Trân ở phủ Ninh cũng phải đi tế. Hai phủ vắng người, vì thế họ bàn với nhau, trong nhà không có chủ, phải nói dối là Vưu thị "ở cữ" để ở nhà trông nom công việc cả hai phủ.

Lại nhờ Tiết phu nhân vào ở trong vườn, trông nom bọn chị em và a hoàn. Bấy giờ bên nhà Bảo Thoa đã có Tương Vân và Hương Lăng; bên nhà Lý Hoàn tuy thím Lý về rồi, nhưng cứ dăm ba ngày lại đến một lần. Giả mẫu lại giao Bảo Cầm cho thím ấy trông nom, bên Nghênh Xuân đã có Tụ Yên; Thám Xuân thì việc nhà bận rộn, thỉnh thoảng dì Triệu cùng Giả Hoàn lại cứ đến quấy rầy, rất là khó chịu; nhà Tích Xuân thì hẹp quá không có chỗ cho Tiết phu nhân ở. Giả mẫu lại căn dặn Tiết phu nhân nhiều lần nhờ trông nom Đại Ngọc. Tiết phu nhân xưa nay vẫn thương yêu Đại Ngọc, nhân địp này, liền dọn đến quán Tiêu Tương cùng ở với cô ta. Tất cả thuốc men, ăn uống đều được trông nom cẩn thận. Đại Ngọc cảm kích quá, từ đấy cũng gọi Tiết phu nhân là mẹ, gọi Bảo Thoa bằng chị, Bảo Cầm bằng em, thân thiết như chị em ruột, hơn hẳn mọi người. Giả mẫu thấy thế cũng rất vui vẻ yên tâm.

Tiết phu nhân chỉ trông nom các chị em và ngăn cấm bọn a hoàn thôi; còn những việc lớn nhỏ trong nhà đều không hay nhắc đến. Vưu Thị ngày nào cũng sang, nhưng chỉ điểm đầu chiếu lệ chứ không lên mặt oai quyền. Vả lại, trong nhà trên dưới chỉ còn một mình chị ta trông nom, lại ngày nào cũng phải sắm sửa các thứ ăn mặc, đồ dùng đưa đến chỗ Giả mẫu và Vương phu nhân, vì thế cũng rất khó nhọc.

Lúc này cả chủ nhà lẫn người giữ việc ở hai phủ Ninh, phủ Vinh đều rất bận rộn. Có người phải theo vào chầu, có người phải trông nom công việc ở nơi nhà trọ, có người đi trước sắp đặt nơi nghỉ trọ, nên ở nhà không có ai cầm đầu đứng đắn cả. Họ hoặc nhuế nhóa cho qua chuyện, hoặc tụ tập, đàn đúm với bọn giữ việc tạm thời, ỷ thế làm càn. Bên phủ Vinh chỉ còn có Lại Đại cùng mấy người trông nom việc ngòai thôi. Những người xưa nay Lại Đại quen dùng để giúp việc cũng phải đi cả, tuy mượn người khác thay, nhưng đều mới lạ, chưa quen việc. Vả chăng bọn họ đều là hạng ngú ngớ hoặc bớt xén bừa bãi, hoặc trình báo vu vơ, hoặc cất nhắc liều lĩnh, việc gì cũng hỏng, chỗ nào cũng sinh rắc rối, không thể kể ra hết được. Thấy bọn con hát ở các nhà quan đều cho về cả, bọn Vưu thị liền bàn nhau, cũng trình với Vương phu nhân cho mười hai con hát về. Có người nói:

- Bọn này đều là những người mua về, bây giờ không cho học hát nữa, nhưng có thể giữ lại để sai khiến, chỉ cho bọn giáo tập(1) về thôi.

Vương phu nhân nói:

- Bọn học hát không thể so với lũ người sai khiến được. Họ là con nhà tử tế, vì không có nghề gì, nên bán đi để cho học hát. Chúng nó đã bôi râu vẽ mặt mấy năm rồi. Bây giờ nhân dịp này, cho mỗi người mấy lạng bạc để chúng về. Ngày trước các cụ cũng đã đặt ra lệ này. Chúng ta không nên làm việc thất đức bụng dạ hẹp hòi. Hiện giờ còn mấy người ở lại đã lâu, vì duyên cớ gì không muốn về nhà thì nên cho nó ở lại để sai khiến, chờ khi lớn lên sẽ gả cho những người hầu ở trong nhà.

Vưu thị nói:

- Ta nên hỏi mười hai con hát này, đứa nào muốn về sẽ cho mấy lạng bạc và báo tin cho bố mẹ nó đến nhận, như thế mới phải. Không gọi người nhà nó đến, lỡ ra có những kẻ bậy bạ mạo tên đến lĩnh, rồi lại đem đi bán ở chỗ khác, như thế chẳng phụ công ơn mình hay sao? Đứa nào không muốn về thì cho ở lại.

Vương phu nhân cười nói:

- Nói thế phải đấy.

Vưu thị sai người báo cho Phượng Thư biết rồi truyền xuống phòng tổng quản cấp cho mỗi người giáo tập tám lạng bạc, làm gì tùy ý. Một mặt tra xét những sổ sách đồ đạc ở viện Lê Hương và sai người đến canh đêm.

Khi gọi mười hai đứa bé đến hỏi kỹ càng thì đến quá nửa không muốn về nhà. Có đứa nói, tuy còn bố mẹ, nhưng chỉ chuyên muốn bán con đi thôi, nay trở về lại sợ bị mang đi bán lần nữa; có đứa nói bố mẹ chết rồi, bị anh em chú bác mang đi bán; có đứa nói không có chỗ nào nương tựa; có đứa nói mến ơn chủ không muốn bỏ đi. Chỉ có bốn, năm đứa là xin về.

Vương phu nhân đành cho chúng ở lại. Bốn, năm đứa kia thì giao cho bọn mẹ nuôi, đợi bố mẹ đẻ chúng đến nhận sẽ trả. Những đứa không muốn về thì chia đến ở các nhà trong vườn. Giả mẫu giữ lại Văn Quan để sai khiến, giao Phương Quan cho Bảo Ngọc, Nhụy Quan cho Bảo Thoa, Ngẫu Quan cho Đại Ngọc, Quỳ Quan cho Tương Vân, Đậu Quan cho Bảo Cầm, Ngải Quan cho Thám Xuân, Vưu Thị xin nhận Già Quan. Mọi người được chốn yên thân, như chim sổ lồng, ngày nào cũng ra vườn chơi đùa. Bọn trẻ này không thạo may vá thêu thùa, không quen sai khiến, ai cũng biết nên không chấp nó. Cũng có mấy đứa biết nghĩ, lo sau này ra đời không có nghề làm ăn, nên tự bỏ nghề cũ, học lấy những công việc may vá thêu thùa.

Hôm ấy chính là ngày đại tế trong triều, Giả mẫu dậy từ canh năm đến chỗ nghỉ ăn lót dạ rồi vào triều. Cơm sáng xong, về nhà trọ nghỉ, ăn bữa cơm trưa, nghỉ một lúc, vào triều dự hai buổi tế trưa và tối. Sau đó về nhà trọ nghỉ, ăn cơm tối rồi mới về phủ. May sao chỗ trọ là ngôi miếu của một ông quan to, có sư vãi trông nom, nhà cửa rất là sạch sẽ, có hai dãy phòng bên đông và bên tây. Phủ Vinh thuê dãy phòng bên đông, phủ Bắc Tĩnh vương thuê dãy phòng bên tây. Bọn thái phi, thiếu phi hàng ngày thường đến nghỉ ở đấy, cùng đi về với Giả mẫu, nên cùng trông nom giúp đỡ lẫn nhau.

Giả mẫu và Vương phu nhân phải đi đưa ma một tháng, bọn a hoàn và bà già đều rỗi việc, thường ra chơi đùa ở trong vườn. Các bà già hầu hạ ở trong viện Lê Hương cũng gọi về và cắt đi sai vặt ở các nơi, thành ra trong vườn lại nhiều thêm mấy chục người.

Bọn Văn Quan trước kia đứa thì tính nết kiêu ngạo, đứa thì cậy thế bắt nạt kẻ dưới, đứa thì thích ăn ngon mặc đẹp, đứa thì chanh chua chỏng lỏn, phần nhiều không biết yên phận. Vì thế bọn bà già đều oán ngầm, nhưng không dám cãi cọ với chúng. Bây giờ chúng thôi không học hát nữa, mọi người đều được hả dạ. Có người thì bỏ qua; có người bụng dạ ẹp hỏi vẫn nhớ thù xưa, nhưng vì chúng đã về các phòng, nên không ai dám động đến.

Một hôm vừa gặp ngày thanh minh, Giả Liễn sắm sửa đồ lễ thường năm, dẫn Giả Hoàn, Giả Tôn, Giả Lan đến chùa Thiết Hạm tế lễ đốt vàng. Giả Dung bên phủ Ninh cũng dẫn người trong họ đem đồ lễ đến tế. Bảo Ngọc vì ốm chưa khỏi hẳn, nên không đi được. Ăn cơm xong Bảo Ngọc kêu mệt, Tập Nhân nói:

- Hôm nay tốt giời, cậu hãy đi ra ngoài chơi, kẻo ăn cháo rồi đi ngủ ngay thì khó tiêu.

Bảo Ngọc chống gậy đi giày ra ngoài sân chơi. Gần đây công việc trong vườn đều giao cho các bà già trông nom, người nào việc ấy, ai cũng bận rộn. Có người sửa trúc, có người đẵn cây, có người trồng hoa, có người gieo đậu, trong ao lại có các cô lái đò chèo thuyền lấy bùn, trồng sen. Tương Vân, Hương Lăng, Bảo Cầm cùng một số a hoàn đều ngồi trên đá xem họ làm việc cho vui. Bảo Ngọc cũng lững thững đi đến. Tương Vân trông thấy cười nói:

- Tống cổ cái thuyền này đi, họ đến đón cô Lâm đấy!

Mọi người đều cười ầm lên. Bảo Ngọc đỏ mặt lên, cười nói:

- Khi ốm còn ai nói hay được? Cô lại còn nhắc để làm trò cười!

Tương Vân cười nói:

- Bệnh ấy khác hẳn mọi chứng bệnh, chính mình chuốc lấy trò cười, lại đi nói người ta.

Bảo Ngọc cũng ngồi xuống xem mọi người đang tấp nập làm việc. Tương Vân nói:

- Đây có gió, đá lại lạnh, anh ngồi một tí rồi về thôi. Bảo Ngọc định đến thăm Đại Ngọc, chống gậy đứng dậy, cáo từ mọi người rồi đi theo con đê ở cầu Thấm Phương. Hai bên dây liễu rủ vàng, hoa đào khoe thắm; một cây hạnh lớn ở sau núi đá hoa đã rụng cả, lá râm xanh om, trên cây có nhiều quả hạnh nhỏ bằng hạt đậu. Bảo Ngọc liền nghĩ:

- Ốm mất mấy hôm, thành ra phụ cả hoa hạnh này! Không ngờ nay đã "Lá xanh rợp bóng quả đầy cành" rồi!- Bảo Ngọc nhìn mãi cây hạnh không thôi. Lại nghĩ đến việc Hình Tụ Yên sắp lấy chồng, tuy việc trai lấy vợ, gái lấy chồng là lẽ tất nhiên, nhưng lại thiếu mất một cô gái trong sạch, chỉ độ vài năm nữa chắc lại "lá xanh rợp bóng quả đầy cành". Mấy hôm nữa, cây hạnh này quả rụng cành trơ; mấy năm nữa cô Tụ Yên cũng chẳng tránh khỏi má hồng phai nhạt, mớ tóc bạc phơ! Bảo Ngọc đâm ra thương tâm, chỉ nhìn cây hạnh thở dài. Đương lúc than thở, chợt có con chim sẻ bay đến, kêu ríu rít trên cành, Bảo Ngọc lại đâm ngơ ngẩn, nghĩ bụng: "Chắc khi hoa hạnh nở, con chim sẻ đã từng đến đây, nay thấy không còn hoa, chỉ có lá nên nó kêu ríu rít. Tiếng kêu này tất là tiếng khóc than gì đây? Tiếc rằng Công Dã Tràng(2) không ở đây, nên không hỏi được con chim ấy. Nhưng không biết sang năm khi cây hạnh nở hoa, liệu con chim sẻ này còn nhớ mà bay đến để họp mặt với hoa nữa không?"

Đương nghĩ vơ vẩn, thì có ánh lửa từ bên kia núi rọi sang, con chim sẻ sợ bay đi mất. Bảo Ngọc giật mình, lại nghe thấy bên ngoài có tiếng quát: "Ngẫu Quan, mày muốn chết! Làm sao lại mang giấy tiền đến đây mà đốt? Ta về trình các mợ cho mà xem, liệu xác mày đấy!" Bảo Ngọc càng nghi hoặc, liền đi vòng sang núi xem, thấy Ngẫu Quan nước mắt giàn giụa, ngồi ở đấy tay vẫn cầm mồi lửa, ngồi trước đống gio giấy tiền mà than khóc, Bảo Ngọc vội hỏi:

- Chị đốt giấy tiền cho ai đấy? Đừng đốt ở đây! Có đốt cho bố mẹ anh em, thì nói rõ tên họ ra, tôi sẽ bảo người hầu làm cho một cái bao giấy, viết tên họ vào đấy rồi đem mà đốt.

Ngẫu Quan trông thấy Bảo Ngọc, không nói câu gì. Bảo Ngọc hỏi mãi nó cũng chẳng trả lời. Chợt thấy một bà già hằm hằm chạy đến kéo Ngẫu Quan, mồm lảm nhảm: "Tao đã trình các mợ rồi, các mợ ấy giận lắm!" Ngẫu Quan tính còn trẻ con, nghe nói, sợ mất thể diện nên không chịu đi. Bà già nói:

- Tao bảo mày không được nhông nháo quá như thế! Bây giờ không làm bậy được như lúc còn ở ngoài đâu! Đây là chỗ nghiêm cấm đấy. - Lại trỏ Bảo Ngọc nói: - Ngay cậu chúng tao đây cũng phải giữ khuôn phép, mày là hạng gì mà dám đến đây làm bậy? Rồi cũng chỉ là đồ vất đi thôi. Hãy đi theo tao!

Bảo Ngọc vội nói:

- Cô ấy có đốt giấy tiền đâu, cô Lâm bảo cô ấy đốt giấy vụn đấy, bà không biết rõ, lại đi mách nhầm.

Ngẫu Quan chẳng hiểu ra sao, trông thấy Bảo Ngọc lại càng sợ thêm. Thấy Bảo Ngọc bênh mình, trong bụng đương lo hóa mừng, liền nói bướng:

- Bà trông thực là giấy tiền à? Tôi đốt giấy vụn của cô Lâm đấy.

Bà già cúi xuống nhặt mảnh giấy còn sót lại ở đống gio lên nói:

- Mày còn cãi bướng à? Có chứng cớ đây, đi lên nhà tao sẽ nói chuyện với mày.

Liền cầm tay Ngẫu Quan chực lôi đi.

Bảo Ngọc vội kéo Ngẫu Quan lại, lấy gậy gạt tay bà già, nói:

- Bà cứ bắt cô ấy đi. Tôi nói thực cho bà biết: đêm qua tôi nằm mê, thấy thần hạnh hoa đòi một bó giấy tiền, bảo phải sai người lạ đốt, không được sai người trong nhà, bệnh tôi mới chóng khỏi. Vì thế tôi đưa giấy tiền nhờ cô Lâm nói với cô đem đốt và khấn hộ, không cho một ai biết, nên hôm nay mới dậy được. Không may bà lại trông thấy. Bây giờ tôi mà khó chịu là tại chạm phải vía bà đấy! Bà lại còn muốn đi mách cô ấy à? Cô Ngẫu Quan đến chỗ các mợ cứ theo thế mà nói cho tôi.

Ngẫu Quan nghe nói càng đắc ý, lại kéo bà già đi. Bà già vất giấy tiền xuống, cười xin Bảo Ngọc:

- Vì tôi không biết, nếu cậu trình bà thì còn gì là đời tôi nữa? Bây giờ tôi về trình với các mợ là cậu ra lễ thần, tôi trông lầm đấy.

Bảo Ngọc nói:

- Bà mà không trình thì tôi cũng không nói.

- Tôi trót trình rồi, các mợ bảo phải mang nó lên. Bây giờ đành chỉ nói là cô Lâm gọi nó về rồi.

Bảo Ngọc gật đầu bằng lòng. Bà già liền đi ngay.

Bảo Ngọc hỏi kỹ Ngẫu Quan:

- Đốt giấy tiền cho ai đấy? Đốt cho bố mẹ anh em, tất phải nhờ người ngoài, chắc cô lại có mối tình riêng gì đây?

Ngẫu Quan thấy Bảo Ngọc vừa mới che chở cho mình và cũng có những tâm tư giống mình, lòng càng cảm kích, khó bề giấu giếm được, liền rơm rớm nước mắt nói:

- Việc này của tôi, trừ Phương Quan nhà cậu và Nhụy Quan ở nhà cô Bảo ra, không có người thứ ba nào biết nữa. Hôm nay bất chợt cậu trông thấy, đành phải nói thực với cậu, nhưng cậu không được nói cho người khác biết. - Rồi nó lại khóc - Tôi không tiện nói thẳng với cậu, cậu cứ về đi, khi vắng người cậu khẽ hỏi Phương Quan sẽ biết. - Nói xong bùi ngùi đi về.

Bảo Ngọc trong lòng buồn bực, đành đi đến quán Tiêu Tương thăm Đại Ngọc. Thấy Đại Ngọc người gầy đáng thương, hỏi ra đã đỡ hơn trước nhiều. Đại Ngọc cũng thấy Bảo Ngọc gầy hơn trước nhiều, nhớ đến việc hôm nọ, nước mắt lại giàn giụa. Cô ta nói chuyện qua loa mấy câu rồi giục Bảo Ngọc về nghỉ. Bảo Ngọc đành phải đi về. Nhớ đến việc lúc nãy, Bảo Ngọc muốn hỏi Phương Quang, nhưng có Tương Vân, Hương Lăng ở đấy đang nói chuyện với Tập Nhân và Phương Quan, nên không tiện gọi nó, sợ người ta tra hỏi, đành phải nín lại.

Một lúc sau, Phương Quan đi gội đầu với mẹ nuôi. Nhưng mẹ nuôi nó lại cho con gái đẻ gội trước, rồi mới đến Phương Quan. Phương Quan thấy thế, cho là mẹ nuôi bênh con đẻ liền nói:

- Mẹ lấy nước thừa của con gái cho tôi gội à? Tiền lương tháng của tôi mẹ lấy cả, không biết đã phải nhờ vào tôi, lại còn cho tôi dùng những đồ thừa!

Mẹ nó xấu hổ quá, đâm ra cáu giận, mắng:

- Đồ vô ơn này! Chẳng trách người ta thường nói là "xướng ca vô loài". Mày dù hay đến đâu, đã nhập vào bọn ấy cũng đến hỏng thôi! Mới ba tuổi ranh đã biết bới lông tìm vết, lời ong tiếng ve, chả khác gì con lừa cắn quanh!

Hai mẹ con cãi nhau ầm lên.

Tập Nhân vội sai người ra bảo:

- Làm ồn vừa chứ! Tại sao cứ nhè lúc cụ đi vắng là cãi nhau om sòm, không ai chịu lựa lời êm thắm nói chuyện với nhau.

Tình Văn nói:

- Đó là Phương Quan bới việc, chẳng biết nó làm ầm cái gì? Mới biết được vài vở hát, đã tưởng mình giết được tướng giặc, bắt được kẻ làm phản ấy!

Tập Nhân nói:

- Ông ghê bà cũng gớm!(3) Người già cư xử bất công, con bé thì cũng đáng ghét.

Bảo Ngọc nói:

- Không trách được Phương Quan. Người xưa nói: "Con giun xéo lắm cũng phải quằn". Ở đây nó không có bố mẹ họ hàng, chẳng ai trông nom; bà ấy đã lấy tiền của nó, lại còn giày vò nó, thì trách sao được?

Lại hỏi Tập Nhân:

- Một tháng nó được bao nhiêu tiền lương? Từ nay chị nhận lấy lương mà trông nom nó, chẳng nhẹ việc hay sao?

- Tôi làm gì chả trông nom được, cứ gì phải mấy đồng tiền của nó, để người ta chửi cho đấy?

Nói xong Tập Nhân đứng dậy vào trong nhà lấy một lọ dầu móc hoa, trứng gà, xà phòng thơm, dây buộc tóc, gọi bà già đến bảo:

- Bà mang cho Phương Quan, dặn nó lấy nước khác mà gội, đừng làm ồn lên nữa.

Mẹ nuôi Phương Quan càng xấu hổ nói:

- Đồ bội bạc! Cứ bảo tao ăn bớt tiền của mày! - Rồi đánh nó mấy cái.

Phương Quan khóc ầm lên, Bảo Ngọc chạy ra, Tập Nhân vội ngăn lại:

- Cậu ra làm gì? Để tôi đi bảo mụ ấy.

Tình Văn vội chạy ra, trỏ vào mẹ nuôi Phương Quan nói:

- Bà già mà không biết điều! Bà không cho nó nước gội đầu, chúng tôi mới phải cho nó. Bà không biết xấu hổ, lại còn vác mặt đi đánh nó, nó còn học nghề ở ban hát liệu bà có dám đánh nó không?

- Một ngày nhận mẹ là nghĩa suốt đời. Nó hỗn láo, tôi đánh nó đấy!

Tập Nhân gọi Xạ Nguyệt bảo:

- Tôi không quen cãi nhau với ai. Tình Văn nóng tính quá. Chị ra đe mẹ ấy mấy câu.

Xạ Nguyệt chạy ra nói:

- Bà hãy im đi. Tôi hỏi bà: không riêng chỗ chúng tôi ở đây, mà cả trong vườn này, bà xem có ai dám mắng mỏ con cái ở trong nhà chủ không? Dù là con đẻ của bà nữa, đã cho đi ở các phòng, phạm lỗi gì, đã có người chủ đánh mắng. Sau nữa có các cô, các chị lớn tuổi mới đánh mắng được thôi, ai cho phép bà ở ngoài đến sấn sổ vào những việc không đâu? Nếu bà còn làm thế, thì bảo chúng nó đến đây học chúng tôi cái gì? Càng già càng vô phép! Hôm nọ bà thấy mẹ Trụy Nhi đến làm ầm lên, giờ bà cũng lại định học mụ ấy phỏng? Các bà hãy bình tâm. Mấy hôm nay, người nọ ốm, người kia ốm, cụ lại bận việc, nên tôi chưa đi trình được thôi. Chờ ít lâu, tôi sẽ trình hết, để các bà nhụt bớt cái lối hung hăng đi mới được! Vả lại, cậu Bảo ốm mới khỏi, chúng tôi cũng chẳng dám nói to, bà lại dám đánh người, để nó tru tréo lên thế! Chủ mới đi khỏi nhà có mấy ngày, các bà đã coi trời bằng vung, mắt không coi ai ra gì cả! Có lẽ sau này các bà đánh cả chúng tôi đấy! Nó cũng không cần gì hạng mẹ nuôi như thế đâu! Không có bà thì nó bị đống rác mục vùi đi mất hay sao?

Bảo Ngọc giận quá, cầm gậy đập vào ngưỡng cửa nói:

- Bọn bà già này đều là ruột đồng gan sắt cả. Thật là việc lạ. Đã không trông nom lại còn hành hạ chúng nó. Trời đất cứ mãi thế này thì biết làm sao được?

Tình Văn nói:

- Biết làm cái gì? Cứ tống cổ cả đi, không cần cái hạng bánh vẽ ấy là được.

Bà già này xấu hổ quá, không nói lại câu nào. Phương Quan thì mặc cái áo bông cánh màu hoa hải đường, cái quần rộng ống bằng lụa xanh chấm hoa, tóc đen nhánh rủ ra đằng sau, đứng khóc sướt mướt như người tắm nước mắt vậy.

Xạ Nguyệt cười nói:

- Làm cho cô Oanh Oanh trở thành chị Hồng Nương vừa mới bị đòn. Không đi ăn mặc cho tử tế, lại để thế à?

Tình Văn chạy lại kéo Phương Quan đi gội đầu, rồi vắt lau khô, bới tóc lên, sau đó bảo nó mặc quần áo và dẫn về bên này.

Ngay sau đó, bà già ở nhà bếp lên hỏi:

- Cơm chiều có rồi, đã mang lên được chưa?

Đứa hầu nhỏ nghe đoạn, vào hỏi Tập Nhân. Tập Nhân cười nói:

- Vừa rồi cãi nhau ầm ĩ, không để ý là mấy giờ rồi.

Tình Văn nói:

- Cái quái ấy không biết giở chứng gì, lại phải đem đi sửa thôi!

Nói xong lấy đồng hồ ra xem và bảo:

- Chờ một tý nữa thì vừa đấy.

Rồi đứa hầu nhỏ đi ra.

Xạ Nguyệt cười nói:

- Nhắc đến chuyện nghịch, lại muốn đánh cho Phương Quan mấy cái. Hôm qua chính nó cứ táy máy cái quả lắc mãi, nên đồng hồ mới không chạy được.

Đương nói chuyện thì đồ ăn đã sửa soạn xong.

Một lúc đứa hầu nhỏ bưng cái hộp lên đứng đấy, Tình Văn, Xạ Nguyệt mở ra xem, vẫn là bốn món ăn thường.

Tình Văn cười nói:

- Đã khỏi rồi mà vẫn cho ăn mấy món thanh đạm! Cứ cháo với dưa muối mãi đến bao giờ!

Nhìn thấy trong hộp còn một bát canh thịt lợn nướng nấu với măng tươi, Tình Văn vội bày ở trước mặt Bảo Ngọc. Bảo Ngọc đến bàn húp một húp, nói:

- Canh ngon lắm!

Mọi người đều cười:

- Phật sống ơi! Đã mấy hôm nay không trông thấy đồ ăn mặn. Chẳng trách mà thèm như thế!

Vừa nói họ vừa bưng bát canh lên khẽ thổi. Thấy Phương Quan đứng ở bên cạnh, họ đưa cho nó, bảo:

- Mày cũng tập hầu đi, đừng ngớ ngẩn thế nữa. Khẽ thổi thôi, đừng cho nước dãi bắn vào.

Phương Quan nghe lời, thổi mấy cái rất nhẹ nhàng. Mẹ nuôi nó bưng cơm đứng chực ở cửa ngoài. Trước khi Phương Quan mới đến, bà ta đã nhận nhau từ bên ngoài, rồi cùng vào viện Lê Hương. Bà này là người hầu hạng ba ở phủ Vinh, chẳng qua chỉ làm việc giặt giũ, chưa được vào trong các phòng bao giờ, nên chưa biết khuôn phép. Nay mới được vào trong vườn, theo bọn con gái về các buồng. Ngay lúc đầu bà ta bị Xạ Nguyệt làm cho một trận, đã biết thân biết phận phần nào. Bà ta rất lo Phương Quan không nhận làm mẹ nuôi, sẽ có nhiều chỗ không lợi, nên trong lòng muốn mua chuộc bọn này. Thấy Phương Quan thổi canh, bà ta chạy vào cười nói:

- Nó chưa thạo, coi chừng đánh vỡ bát, để tôi thổi cho.

Vừa nói vừa bưng lấy. Tình Văn quát to:

- Ra mau! Nó có đánh vỡ bát nữa cũng chưa đến lượt bà thổi! Sao bà vô cớ được chạy vào trong buồng này? - Rồi lại mắng bọn a hoàn nhỏ - Chúng mày mù à! Bà ấy không biết thì phải bảo chứ!

Bọn a hoàn nhỏ đều nói:

- Chúng tôi nói, bà ấy không tin, đuổi bà ấy cũng không ra, thành ra chúng tôi bị mắng lây, nghĩ thật bực! Bà đã biết chưa? Chỗ chúng tôi vào được thì bà cũng chỉ được đến nửa chừng thôi, không thể vào hẳn nơi đó. Huống chi bà lại lần cả vào những chỗ chúng tôi không được vào. Việc ấy đã đành, bà lại còn dám giơ tay đỡ lấy bát cháo, thò mồm vào thổi nữa.

Vừa nói vừa đẩy mụ ấy ra. Mấy bà già chờ dưới thềm đón lấy hộp không, thấy mụ ấy đi ra, đều cười nói:

- Bà chị chưa lấy gương soi mặt mà đã đi vào à?

Mụ ấy xấu hổ đâm ra tức giận, nhưng đành phải nín nhịn đi ra.

Phương Quan thổi mấy cái, Bảo Ngọc cười nói:

- Mày thử nếm xem đã vừa ăn chưa?

Phương Quan cho là nói đùa, cứ cười nhìn bọn Tập Nhân. Tập Nhân nói:

- Em cứ nếm một tí có việc gì đâu?

Tình Văn nói:

- Xem ta nếm đây này.

Nói xong liền húp một miếng. Phương Quan thấy thế cũng húp một miếng rồi nói: "Được rồi!" Liền đưa lên B Ngọc húp hết nửa bát, ăn mấy miếng măng và nửa bát cháo, thế là xong bữa. Mọi người dọn dẹp mang ra. Bọn hầu nhỏ bưng chậu nước vào, súc miệng, rửa mặt xong, bọn Tập Nhân mới đi ăn cơm.

Bảo Ngọc đưa mắt liếc Phương Quan. Phương Quan vốn tính khôn, lại học hát mấy năm, việc gì mà nó chẳng hiểu? Nó giả cách đau bụng không ăn cơm.

Tập Nhân nói:

- Đã không ăn cơm thì ở lại đây hầu. Để phần cháo cho đấy, lúc nào đói thì ăn.

Nói xong rồi đi ra.

Bảo Ngọc đem việc gặp Ngẫu Quan vừa rồi, mình bịa ra để che lỗi cho nó thế nào, và Ngẫu Quan bảo về hỏi Phương Quan thế nào, kể lại một lượt cho nó nghe, lại hỏi:

- Nó tế ai đấy?

Phương Quan mắt đỏ hoe, thở dài nói:

- Việc này nói ra thì chị Ngẫu Quan cũng vớ vẩn quá!

- Thế nào?

- Chị ấy tế chị Dược Quan mới chết đấy!

- Hai người là bạn với nhau thì tế cũng phải.

- Có phải bạn bè gì đâu? Chẳng qua nghĩ vớ vẩn đấy thôi. Chị ấy đóng vai học trò. Dược Quan đóng vai hề. Hai người thường làm vợ chồng, hằng ngày lên hát, ra bộ thân mật với nhau, lần này lần khác, chúng nó vớ vẩn y như vợ chồng thật. Sau thành ra thương yêu nhau. Khi Dược Quan chết, chị ấy khóc lóc chết đi sống lại, đến nay cũng vẫn chưa quên, vì thế cứ đến ngày Tết là đốt vàng cho Dược Quan. Sau này Nhụy Quan bù vào vai ấy, chúng tôi thấy chị ấy lại thân mật như Dược Quan ngày trước, liền hỏi. - Tại sao có người mới đã quên ngay người cũ? Chị ấy nói: "Không phải quên đâu. Cũng như người đàn ông góa vợ, sau khi lấy vợ khác, nhưng vẫn giữ mối tình chung thủy không bao giờ quên hẳn người vợ đã chết. Nếu vì người chết mà giữ tiết ở lại trọn đời, không lấy người khác, như vậy không đúng, người chết sẽ băn khoăn". Cậu xem chị ấy nói thế có phải điên ngốc đáng cười hay không?

Bảo Ngọc nghe những câu chuyện ngốc ấy, hợp với tính ngốc của mình, đâm ra vừa mừng vừa thương, cho là chuyện lạ, nói:

- Trời đã sinh ra những người như vậy, còn cần gì đến ta là hạng râu mày ô trọc làm nhơ nhuốc cả cõi trần - Nhân lại kéo Phương Quan dặn:

- Đã vậy tôi có một câu dặn cô. Nếu tôi gặp thẳng Ngẫu Quan, tất sẽ không tiện, nên nhờ cô nói giúp.

Phương Quan hỏi việc gì. Bảo Ngọc nói:

- Từ nay không nên đốt giấy tiền nữa. Giấy tiền là dị đoan của người sau đặt ra, chứ không phải lời dạy của Khổng Tử. Sau này hễ gặp ngày tết thì chỉ thắp một lò hương, lòng thành tâm niệm, tự nhiên sẽ cảm ứng. Hạng người ngu xuẩn có biết đâu, bất kỳ thần phật hoặc người chết, họ đều chia ra thứ bậc, thế nọ thế kia, có biết đâu cốt lấy "lòng thành" làm chủ. Ngay những ngày loạn ly hốt hoảng, hương khói không có, gặp đống đất, đống cỏ nào sạch sẽ là tế cũng được. Không những người chết đến hưởng, mà cả quỷ thần cũng hưởng. Cô xem trên bàn của tôi vẫn đặt cái lư hương, tôi có tâm sự gì, không cứ ngày nào, thường thường thắp hương; có chè mới cúng một chén chè, có nước trong cúng chén nước, hoặc có hoa quả mới, hoặc đồ chay đồ mặn cũng đem lên cúng. Chỉ cốt ở lòng thành, thần phật sẽ lại hưởng. Cho nên nói: cốt ở lòng kính, không ở nghi tiết hão huyền. Từ nay nhớ bảo cô ấy không nên đốt giấy tiền nữa.

Phương Quan nghe nói, vâng lời.

Một lúc, ăn cơm xong, có người về trình: cụ và bà Hai đã về.

Hồi thứ năm mươi chín

Bến Liễu Diệp, tủi phận yến oanh;

Hiên Giáng Vân nhở tay ấn quyết.

Nghe nói cụ đã về, Bảo Ngọc liền mặc thêm quần áo chống gậy sang thăm. Giả mẫu bấy nay vất vả, cần phải nghỉ sớm để đến canh năm hôm sau lại vào chầu.

Gần đến ngày đưa ma, Uyên Ương, Hổ Phách, Phỉ Thúy, Pha Ly, đều bận sắn sửa đồ vật cho Giả mẫu; Ngọc Xuyến, Thái Vân, Thái Hà thì sắm sửa đồ vật cho Vương phu nhân, rồi giao tay cho bọn đàn bà giữ việc mang đi. Tất cả sáu a hoàn và mười bà già theo hầu, không kể đàn ông. Sưốt ngày sắm sửa xe kiệu và hành nghi. Uyên Ương, Ngọc Xuyến ở lại trông nhà. Trước mấy hôm đã sắp sẵn chăn màn và đồ bài trí, giao cho bốn, năm người đàn bà cùng mấy người đàn ông ngồi xe mang đến bầy sẵn ở nhà trọ.

Đến ngày ấy, Giả mẫu dẫn vợ Giả Dung ngồi một kiệu, Vương phu nhân ngồi một kiệu theo sau, Giả Trân cưỡi ngựa dẫn bọn gia đinh đi hộ vệ. Lại có mấy cái xe lớn cho bọn bà già, a hoàn ngồi, và để mấy bọc quần áo thường dùng. Tiết phu nhân cùng Vưu thị dẫn mọi người tiễn ra đến cổng ngoài rồi mới về.

Giá Liễn sợ đi đường có sự gì không tiện, liền sắm sửa cho bố mẹ hắn đi theo kịp kiệu Giả mẫu và Vương phu nhân, còn mình cũng đem người nhà theo sau hộ vệ.

Trong phủ Vinh, Lại Đại cắt thêm người canh đêm, đóng hết các cửa nhà ngoài ở hai phủ, chỉ để cái cửa nhỏ ở phía tây cho mọi người ra vào. Chiều đến, đóng cửa nghi môn, các cửa nách đông, tây sau trước trong vườn đều khóa cả, chỉ mở một cái cửa sau phòng Vương phu nhân là nơi các chị em thường ra vào, và cửa đông thông sang nhà Tiết phu nhân thôi. Vì hai cửa này đều ở trong nhà không cần phải khóa. Bên trong thì Uyên Ương cùng Ngọc Xuyến đóng cửa buồng trên lại, rồi dẫn bọn a hoàn và bà già xuống ngủ ở buồng dưới. Đêm nào vợ Lâm Chí Hiếu cũng dẫn độ mười bà già lên canh, trong xuyên đường lại có thêm nhiều người hầu cầm canh. Công việc xếp đặt ổn thỏa đâu vào đấy cả.

Một buổi sáng, Bảo Thoa ngủ dậy vén màn bước xuống giường, thấy người hơi lạnh, mở cửa nhìn ra sân thấy đất ướt rêu xanh, vì lúc canh năm có mưa lấm tấm. Bảo Thoa gọi Tương Vân dậy. Rửa mặt chải đầu xong, Tương Vân nói:

- Hai má thấy ngứa, có lẽ bị rôm đây.

Liền hỏi Bảo Thoa lấy một ít bột tường vi để xoa. Bảo Thoa nói:

- Hôm nọ còn thừa, cho cả em Cầm rồi, ở bên cô Tần có nhiều, tôi cũng muốn xin một ít, nhưng năm nay không ngứa, nên quên mất.

Rồi sai Oanh Nhi đi xin. Oanh Nhi sắp đi thì Nhụy Quan nói:

- Tôi cùng đi với chị, nhân tiện đến thăm Ngẫu Quan một thể.

Hai người đi ra khỏi Hành Vu Uyển.

Trên đường họ nói chuyện cười đùa, bất giác đã đến bến Liễu Diệp, theo bên bờ rặng liễu, thấy lá mới điểm xanh, dây tơ vàng rũ, Oanh Nhi cười hỏi Nhụy Quan:

- Chị có biết đan đồ bằng dây liễu không?

- Đan cái gì?

- Đan cái gì chẳng được? Đồ chơi, đồ dùng đều được cả. Tôi sẽ ngắt một ít để nguyên lá, đan một cái lẵng, rồi cắm ít hoa chơi cho thích.

Oanh Nhi chưa đi lấy bột xoa vội, giơ tay bẻ rất nhiều cành liễu non, bảo Nhụy Quan cầm, rồi vừa đi vừa đan lẵng hoa. Đi đường thấy hoa, cũng bẻ mấy cành đan thành một cái lẵng hoa có quai xách rất khéo. Trên cành có nhiều lá xanh, để hoa lên trông lại càng đẹp.

Nhụy Quan thích quá cười nói:

- Chị cho tôi nhé!

- Cái này đem biếu cô Lâm, khi về chúng ta sẽ bẻ nhiều để đan mấy cái nữa cùng chơi.

Nói xong đi đến quán Tiêu Tương.

Đại Ngọc đương lúc trang điểm buổi sáng, trông thấy lẵng hoa cười nói:

- Ai đan cái lẵng này mà đẹp thế?

Oanh Nhi nói:

- Cháu đan đem biếu cô đấy.

Đại Ngọc cầm lấy, cười nói:

- Không trách, ai cũng khen chị khéo tay, cái này trông rất nhã.

Vừa xem vừa bảo Tử Quyên treo vào nhà trong.

Oanh Nhi vào hỏi thăm Tiết phu nhân rồi mới xin bột xoa, Đại Ngọc sai Tử Quyên gói một gói đưa cho Oanh Nhi, nói:

- Tôi đã đỡ rồi, hôm nay muốn đi ra ngoài chơi. Chị về thưa với chị Bảo không phải đến thăm tôi, cũng không dám phiền chị ấy đến thăm mẹ nữa. Tôi gội đầu xong, sẽ cùng mẹ sang bên ấy ăn cơm cho vui.

Oanh Nhi vâng lời đi ra, đến buồng Tử Quyên tìm Nhụy Quan. Thấy Nhụy Quan và Ngẫu Quan đương mải nói chuyện không rời nhau ra được. Oanh Nhi cười nói:

- Cô Lâm cũng đi đấy. Chị Ngẫu Quan sang trước với tôi, chờ ở bên ấy, chẳng hơn à?

Tử Quyên nói:

- Phải đấy, ở nhà, nó cứ nghịch ngợm khó chịu lắm.

Vừa nói vừa lấy cái khăn, gói thìa đũa của Đại Ngọc đưa cho Ngẫu Quan, bảo:

- Mày hãy mang cái này đi trước, thế cũng là một chuyện sai đấy.

Ngẫu Quan cầm lấy, cười hì hì, cùng Oanh Nhi và Nhụy Quan theo bờ rặng liễu đi về. Oanh Nhi lại bẻ ít dây liễu, ngồi ngay trên hòn đá đan lẵng hoa, sai Nhụy Quan mang bột về trước. Nhưng hai đứa thích xem đan, khi nào chịu bỏ đi? Oanh Nhi cứ giục:

- Các chị không đi thì tôi không đan nữa.

Ngẫu Quan liền bảo Nhụy Quan:

- Tao đi với mày xong rồi sẽ trở lại.

Oanh Nhi đang đan thì con gái già Hà là Xuân Yến đến, cười hỏi:

- Chị đan gì đấy?

Nhụy Quan, Ngẫu Quan cũng đến.

Xuân Yến nói với Ngẫu Quan:

- Hôm nọ chị đốt giấy gì để cho dì tôi trông thấy thế? Dì tôi định đi trình, bị cậu Bảo dọa cho mấy câu, dì ấy tức giận, đem kể hết với mẹ tôi. Các người ở bên ngoài hai, ba năm, chứa chất những mối thù hằn gì đến bây giờ vẫn chưa gỡ ra?

Ngẫu Quan cười nhạt:

- Có thù hằn gì? Họ không biết thế nào là đủ, lại còn oán chúng tôi! Ở bên ngoài hai năm nay, không biết đã vớ của chúng tôi bao nhiêu thứ rồi. Chị thử xem có đúng thế không?

Xuân Yến cũng cười nói:

- Bà ấy là dì tôi nên không tiện nói ra. Chẳng trách cậu Bảo thường nói: "Khi con gái chưa đi lấy chồng, khác nào một hạt châu rất quý; lấy chồng rồi, không hiểu sao lại sinh ra rất nhiều tật xấu. Dù vẫn là hạt châu đấy, nhưng đã trở thành hạt châu chết, phai mờ ánh sáng; đến già thì không phải là hạt châu, mà là mắt cá đấy! Cũng là một người, saolại hóa ra ba dạng như thế?" Tuy là nói nhảm, nhưng nghĩ kỹ thì rất đúng. Người ta không biết, cứ bảo mẹ tôi và dì tôi, hai chị em giờ càng già càng thích tiền. Lúc trước ở nhà các bà ấy cứ oán là không có công ăn việc làm. Nhờ có cái vườn này tôi được gọi vào làm, lại may mắn được cắt vào hầu ở viện Di Hồng. Ở nhà không những đã đỡ một miệng ăn, hàng tháng lại thừa được bốn, năm trăm đồng tiền, thế mà vẫn không đủ. Về sau cả hai chị em bà ấy được cắt vào trông nom viện Lê Hương, Ngẫu Quan nhận dì tôi, Phương Quan nhận mẹ tôi làm mẹ nuôi, mấy năm nay thực ra cũng dễ chịu. Bây giờ vào ở trong này, mỗi người một nơi, nhưng lòng tham vẫn chưa chán. Chị xem thế có đáng buồn cười không. Sau đó dì tôi cãi nhau với Ngẫu Quan, mẹ tôi cãi nhau với Phương Quan một trận. Vì Phương Quan muốn gội đầu, mẹ tôi không cho. Hôm qua khi lĩnh tiền lương tháng về, ai đẩy mẹ tôi cũng chả chịu đi. Mua các thứ gội đầu thì lại chỉ dành riêng cho tôi. Tôi nghĩ: Dù mình có tiền hay không, muốn gội, chỉ nói một tiếng với chị Tập Nhân, Tình Văn, Xạ Nguyệt là được, cần gì phải nhờ như vậy cho bẽ mặt. Vì thế tôi không gội. Sau đó mẹ tôi gọi em tôi gội rồi mới đến Phương Quan, nên mới xảy ra chuyện cãi nhau. Rồi lại chực thổi canh cho cậu Bảo. Chị xem có đáng tức cười không? Khi mẹ tôi mới vào đây, tôi đã nói rõ cả khuôn phép nhà này rồi, mẹ tôi không tin, cứ ra điều ta biết đây, chỉ chuốc lấy bẽ mặt thôi. May mà trong vườn nhiều người, không nhớ rõ ai là thân thuộc với ai, nếu có người nhớ ra, họ còn coi nhà tôi ra gì nữa. Bây giờ chị lại còn ngồi đan cái này. Chị nên biết bao nhiêu những thứ ở đây đều do dì tôi trông nom cả, từ khi được mảnh đất này, dì tôi giữ nó hơn là giữ cơ nghiệp của riêng mình, ngày nào cũng thức khuya dậy sớm, tự mình vất vả đã đành, lại bắt chúng tôi phải đến trông nom, chỉ sợ người ta phá phách. Nhưng nếu tôi trông nom thì lại sợ làm lỡ công việc của tôi. Bây giờ hai chị em bà ấy trông nom cẩn thận lắm, từ một ngọn cỏ cũng không cho ai động đến, thế mà chị lại ngắt những hoa đẹp, bẻ những cành non thế này, các bà ấy đến đây trông thấy, sẽ oán chị đến chết đấy.

Oanh Nhi nói:

- Người khác bẻ thì không được, chứ tôi bẻ thì được. Từ khi chia đất cho các bà ấy, hàng ngày chưa kể số hoa đưa về các phòng, chỉ riêng những hoa để chơi thôi, ai trông nom thứ gì, phải hái một ít đưa đến cho các cô và a hoàn dùng, còn hoa cắm lọ nữa là đằng khác. Nhưng cô tôi nói: không phải đưa gì cả, khi nào cần sẽ lấy. Rút cục vẫn chưa lấy qua lần nào. Bây giờ tôi có ngắt một ít, các bà ấy cũng chẳng nói vào đâu được.

Chưa nói dứt lời, bà dì Xuân Yến đã chống gậy đến, Oanh Nhi và Xuân Yến mời ngồi. Thấy Oanh Nhi bẻ nhiều liễu non, bọn Ngẫu Quan hái nhiều hoa tươi, bà ta rất là khó chịu, nhưng nhìn cái lẵng đan lại không tiện nói ra, liền bảo Xuân Yến:

- Tao bảo mày đi trông, mày cứ ham chơi không chịu đi. Có ai gọi đến, mày lại bảo là tao sai mày. Lấy tao làm bung xung để mày được vui chơi cho thích phải không?

Xuân Yến nói:

- Dì vừa được sai tôi, lại vừa lo sợ, bây giờ còn mắng tôi. Chẳng lẽ đem chia tôi ra làm mấy mảnh?

Oanh Nhi cười nói:

- Bà đừng tin lời con bé Yến, chính nó bẻ và nhờ tôi đan hộ đấy. Tôi đuổi nó chẳng đi.

Xuân Yến cười nói:

- Chị đừng nói đùa, kẻo dì tôi lại cho là thật đấy!

Bà này vốn người ngu xuẩn, lại thêm tuổi già mê muội, chỉ biết hám lợi không nể nang gì ai cả. Bà ta đang xót ruột, nhưng không làm thế nào được, nay thấy Oanh Nhi nói, liền cậy già, cầm gậy đánh Xuân Yến mấy cái và mắng:

- Con ranh con này! Tao bảo mày, mày lại còn nỏ mồm! Mẹ mày giận mày lắm, đang nghiến răng, nghiến lợi, muốn xé xác mày ra đấy! Mày lại định đánh song đánh nga với tao phải không?

Xuân Yến bị đánh vừa tức vừa xấu hổ, khóc nói:

- Chị Oanh nói đùa dì tưởng thực lại đánh tôi! Tại sao mẹ tôi giận tôi? Tôi có làm điều gì nhầm lỗi "Lấy râu nọ cắm cằm kia đâu?"

Oanh Nhi chỉ định nói đùa, không ngờ bà già tưởng thực nổi giận, liền đứng dậy ngăn lại cười nói:

- Tôi vừa mới nói đùa, bà lại đánh chị ấy, như thế không phải là làm bẽ mặt tôi hay sao?

Bà già nói:

- Cô đừng sấn sồ vào việc của chúng tôi, không nhẽ vì có cô ở đây mà chúng tôi không được phép dạy con cháu hay sao?

Nghe thấy những câu ngu xuẩn ấy, Oanh Nhi tức đỏ mặt lên, buông tay xuống, cười nhạt:

- Bà muốn dạy nó lúc nào chẳng được? Tôi mới nói đùa một câu mà bà đã làm như thế! Đấy bà cứ việc dạy đi!

Nói xong liền ngồi xuống đan lẵng hoa.

Ngay lúc ấy mẹ Xuân Yến đến quát mắng:

- Mày không đi múc nước, còn đứng đấy làm gì?

Bà già kia nói theo:

- Chị đến mà xem? Con gái chị chẳng coi tôi ra gì, đang cãi lại tôi đấy!

Mẹ Xuân Yến chạy đến hỏi:

- Làm sao thế dì? Con bé này không coi mẹ ra gì đã đành, lại còn dám khinh thường cả dì mày nữa à?

Oanh Nhi liền kể rõ đầu đuôi cho bà ta nghe. Nhưng dì nó có để cho nói đâu, cứ cầm hoa và cành liễu ở trên hòn đá đưa cho mẹ nó xem và nói:

- Chị xem con chị đấy! Lớn như thế mà còn mang người đến làm hại tôi, bảo tôi nói ai được.

Mẹ Xuân Yến vẫn còn tức về việc Phương Quan, lại giận Xuân Yến không làm được vừa lòng mình, liền chạy đến tát nó một cái và mắng:

- Con đĩ này, mày mới lên thớ được bao lâu, đã lại theo đòi những gái lẳng lơ tệ bạc. Tao không dạy được chúng mày phỏng? Con nuôi tao không dạy được chứ con đẻ chẳng lẽ tao cũng không dám dạy hay sao? Tao tưởng bọn ranh con chúng mày đã vào được những nơi chúng tao không được vào, thì cứ ở đấy mà hầu hạ cho đến chết, lại còn ra đây mà đi theo trai à?

Vừa nói vừa cầm lấy cành liễu giơ tận mặt nó, hỏi:

- Đây là cái gì? Mày đem cái gì của mẹ mày đây?

Oanh Nhi vội nói:

- Cái này là của tôi đan đấy, bà đừng có giở lối chửi mèo quèo chó!

Bà già này rất ghét bọn Tập Nhân, Tình Văn, vì biết những a hoàn lớn trong nhà đều có quyền thế và thể diện hơn, nên chỉ nể mặt bề ngoài, nhưng trong lòng vẫn bực tức, đâm ra giận lây cả người khác. Nay thấy Ngẫu Quan lại là kẻ thù của chị mình, nên càng sinh bực tức thêm.

Xuân Yến khóc chạy về viện Di Hồng. Mẹ nó sợ bọn Tình Văn hỏi, nó kể cả ra, mình sẽ bị mắng, nên chạy theo gọi với:

- Mày trở lại đây! Tao bảo đã rồi hãy đi.

Xuân Yến khi nào chịu trở lại. Mẹ nó tức quá, vội chạy theo. Xuân Yến quay lại trông thấy, liền chạy biến đi. Mẹ nó cứ cố đuổi không ngờ bị trượt rêu ngã, làm cho bọn Oanh Nhi cười ầm lên. Oanh Nhi tức quá vất cả hoa và cành liễu xuống sông, rồi đi về nhà. Bà già này tiếc đứt ruột chỉ niệm phật, rồi mắng:

- Con ranh tai ác này! Làm hại bao nhiêu là hoa. Thiên lôi thế nào cũng đánh mày!

Rồi hái hoa đưa đi các phòng.

Xuân Yến chạy thẳng về nhà, gặp Tập Nhân đi thăm Đại Ngọc, liền ôm chầm lấy và nói:

- Cô cứu tôi với mẹ tôi đánh tôi đấy.

Tập Nhân thấy mẹ nó đến, liền nổi giận nói:

- Ba ngày nay bà đánh hết con nuôi đến con đẻ, có phải bà định khoe nhiều con đấy không? Bà không coi phép tắc ra gì cả?

Bà già này mới đến mấy ngày, thấy Tập Nhân không hay nói, cho là tốt nết, liền nói:

- Cô không biết, đừng nên động chạm đến việc của chúng tôi. Chỉ tại các cô nuông chiều nó đấy.

Tập Nhân tức quá ngoắt trở lại, Xạ Nguyệt đương phơi khăn ở dưới cây hải đường, nghe ồn ào, liền nói:

- Chị cứ mặc kệ, xem mụ ấy làm trò gì!

Rồi đưa mất cho Xuân Yến, Xuân Yến hiểu ý, chạy thẳng đến chỗ Bảo Ngọc. Mọi người đều cười nói: "Thật là việc xưa nay chưa từng có bao giờ".

Xạ Nguyệt nói với bà già:

- Bà hãy bớt giận đi. Chẳng lẽ những người ở đây nói với bà không đắt lời hay sao.

Thấy Xuân Yến chạy đến bên cạnh. Bảo Ngọc cầm lấy tay nó, nói:

- Chị đừng sợ, đã có tôi đây!

Xuân Yến khóc, kể lại việc bọn Oanh Nhi vừa rồi. Bảo Ngọc cáu nói:

- Chị cứ ở trong này chơi, việc gì lại mang lỗi cả với họ hàng nữa.

Xạ Nguyệt nói với bà già và mọi người:

- Chả trách bà già này bảo chúng tôi không được động chạm vào việc của họ. Chúng tôi không biết, nhầm to rồi. Bây giờ mời một người khác có thể động chạm được, chắc bà ấy mới phục và mới biết phép tắc!

Liền quay lại bảo đứa hầu nhỏ:

- Mày đi gọi chị Bình đến đây, nếu chị ấy bận thì gọi già Lâm.

Đứa hầu nhỏ vâng lời đi ngay. Bọn đàn bà đều cười nói:

- Bà nên xin ngay với các cô cho gọi em bé lại. Cô Bình mà đến thì không hay đấy!

Bà già nói:

- Dù cô nào đến chăng nữa cũng phải có lý có lẽ, không khi nào mẹ dạy con mà người khác lại cấm đoán được.

Mọi người cười nói:

- Bà có biết cô Bình nào không? Chính cô Bình ở nhà mợ Hai đấy! Tử tế ra cô ấy chỉ mắng mấy câu thôi, nếu cô ấy đã đổi nét mặt thì bà liệu cuốn gói sớm.

Một lúc đứa hầu nhỏ về trình:

- Cô Bình đương bận, hỏi tôi có việc gì, tôi kể lại, cô ấy bảo: "Hãy tống cổ mụ ấy ra, bảo già Lâm lôi sang cửa bên cạnh đánh cho bốn mươi roi là xong".

Bà này thấy vậy sợ quá, khóc sướt mướt, van xin Tập nhân: "Vất vả mãi tôi mới được vào đây. Vả chăng tôi là đàn bà góa, trong nhà không có ai, chỉ muốn một lòng hầu hạ các cô trong này, sẽ không lo lắng gì, các cô cũng tiện, nhà chúng tôi cũng đỡ lo. Nếu tôi phải bỏ chỗ này, tự đi tìm kiếm sinh nhai, chưa chắc đã đủ sống."

Tập Nhân thấy thế, dịu lòng nói:

- Bà muốn ở đây mà lại không biết giữ phép tắc, không biết nghe lời, dám đánh bậy, đâu lại có hạng người như bà không hiểu gì cả. Ngày nào cũng om sòm, làm mất cả thể thống, để người ta cười cho.

Tình Văn nói:

- Mặc kệ mụ ấy, cứ tống cổ đi là xong. Hơi đâu nói mãi.

Bà già này lại van xin mọi người:

- Tôi dù có lỗi, nhờ các cô dạy bảo, từ nay tôi xin chừa. Như thế chả phải là các cô đã để lại âm đức hay sao?

Rồi lại nói với Xuân Yến:

- Chưa đánh được con, mẹ đã phải chịu tội. Con ơi! Xin hộ mẹ đi!

Bảo Ngọc thấy thế thương hại, liền cho ở lại và bảo:

- Không được làm ầm lên nữa! Nếu còn thế thì nhất định đánh đuổi đi.

Chợt Bình Nhi chạy đến hỏi là việc gì. Tập Nhân nói:

- Thôi xong rồi, nhắc đến làm gì nữa.

Bình Nhi cười nói:

- "Chỗ tha người được cứ nên tha". Ta hãy bỏ qua đi cho bớt việc. Nhưng nghe đâu những người lớn người nhỏ ở các nhà đều làm bậy cả, hết chỗ nọ đến chỗ kia, làm tôi không biết trông nom chỗ nào cho phải.

Tập Nhân cười nói:

- Tôi cứ tưởng chỉ có bên chúng tôi là họ làm bậy thôi, thế ra còn mấy chỗ nữa à?

Bình Nhi cười nói:

- Thế đã thấm vào đâu. Tôi vừa tính với mợ Trân, ba bốn ngày nay xảy ra tám chín việc rồi. Việc bên chị là việc nhỏ, đáng kể gì, còn những việc tầy trời đáng bực và đáng buồn cười nữa kia.

Hồi thứ sáu mươi

Đem phấn mạt ly thay cho bột tường vi;

Biếu mai quế lộ lòi ra bột phục linh.

Tập Nhân hỏi Bình Nhi:

- Việc gì mà rối rít lên như thế?

- Đều là những việc bất ngờ, thật cũng buồn cười. Để mấy hôm nữa tôi sẽ nói với chị, bây giờ chưa có manh mối gì, và tôi cũng không được rỗi.

Nói chưa dứt lời, thấy người gái hầu của Lý Hoàn đến hỏi:

- Chị Bình ở đây à! Mợ chờ chị đấy, sao không thấy chị đến?

Bình Nhi quay ra cười nói:

- Tôi đến đây! Tôi đến đây!

Tập Nhân cười nói:

- Vì mợ chị ta ốm, chị ta khác nào cái bánh thơm, ai cũng muốn giật lấy.

Bình Nhi quay đi ra.

Bảo Ngọc gọi Xuân Yến:

- Chị đi theo mẹ chị, đến đằng cô Bảo, nói lại với Oanh Nhi mấy câu, đừng để chị ấy mếch lòng.

Xuân Yến cùng mẹ đi ra. Bảo Ngọc lại dặn với:

- Không nên nói trước mặt cô Bảo, sợ Oanh Nhi lại bị quở đấy.

Hai mẹ con vâng lời, vừa đi vừa nói chuyện. Xuân Yến nói:

- Ngày thường con khuyên mẹ không nghe. Tội gì lại gây ra chuyện lôi thôi thế?

Mẹ nó cười nói:

- Con ranh này, đi đi thôi! Tục ngữ nói: "Không trải qua việc thì người không khôn được". Tao đã biết rồi. Mày lại còn vặn tao nữa à?

- Nếu mẹ biết thân biết phận, được ở đây lâu, sẽ có nhiều điều hay. Con nói cho mẹ biết, cậu Bảo thường nói: Tất cả người hầu trong phủ như bọn chúng con, không cứ ở trong hay ở ngoài, cậu ấy sẽ trình với bà Hai cho về để cha mẹ được quyền gả bán. Mẹ xem việc ấy có hay hay không?

- Chuyện ấy có thực không?

- Ai nói dối làm gì?

Mẹ nó niệm Phật luôn mồm.

Khi đến Hành Vu Uyển, thấy Bảo Thoa, Đại Ngọc và Tiết phu nhân đương ngồi ăn cơm. Oanh Nhi đi pha nước, Xuân Yến cùng mẹ nó lẻn đến trước mặt Oanh Nhi cười nói:

- Lúc nãy có câu sỗ sàng, tôi đến xin lỗi, xin chị đừng giận.

Oanh Nhi cười mời ngồi, rồi đi pha nước. Mẹ con nó nói bận việc, cáo từ ra về. Chợt thấy Nhụy Quan chạy ra gọi:

- Mẹ ơi! Chị ơi! Hãy đứng lại đã.- Rồi nó chạy đến đưa cho hai mẹ con một gói.- Đây là bột tường vi đưa cho Phương Quan xoa mặt.

Xuân Yến cười nói:

- Chị cẩn thận quá sợ bên ấy không có cái này à? Sao lại còn mất công gửi cho nó.

Nhụy Quan nói:

- Của chị ấy là của chị ấy, của tôi đưa lại là của tôi. Chị thế nào cũng mang về cho chị ấy!

Xuân Yến đành phải cầm lấy. Hai mẹ con trở về, gặp Giả Hoàn, Giả Tôn cũng vừa đến thăm Bảo Ngọc. Xuân Yến nói với mẹ:

- Để con vào thôi, mẹ không cần phải vào.

Mẹ nó nghe lời, bảo gì nghe thế, không dám cưỡng lại. Xuân Yến đi vào, Bảo Ngọc biết là về trình, liền gật đầu. Xuân Yến biết ý, không nói câu gì, đứng một lát rồi quay ra, đưa mắt cho Phương Quan. Ra đến ngoài, Xuân Yến khẽ nói với Phương Quan về việc Nhụy Quan gửi cho nó gói bột tường vi. Bảo Ngọc không có chuyện gì nói với Giả Hoàn và Giả Tôn, liền cười hỏi Phương Quan:

- Tay cầm cái gì đấy?

Phương Quan đưa cho Bảo Ngọc xem và nói:

- Bột tường vi để thoa rôm đấy.

- Chị ấy chu tất quá!

Giả Hoàn nghe nói, nghểnh cổ ra nhìn, ngửi thấy thơm thơm, liền cúi xuống lấy mảnh giấy ở trong ống giày ra cười nói:

- Anh cho em một nửa!

Bảo Ngọc đành phải cho hắn. Phương Quan nghĩ bụng: gói này là của Nhụy Quan tặng mình, không nên cho người khác, liền gạt đi, cười nói:

- Đừng động vào đấy, để tôi đi lấy cho thứ khác.

Bảo Ngọc hiểu ý, liền bảo gói lại và cười nói:

- Đem gói kia lại đây mau.

Phương Quan cầm lấy gói này cất đi, rồi tìm thứ bột của mình thường dùng ở trong hộp ra. Khi mở hộp không thấy gì cả, trong bụng ngờ ngợ: "Sáng ngày còn một ít, sao bây giờ lại hết?" Hỏi mọi người, không ai biết cả, Xạ Nguyệt nói:

- Bây giờ mà còn hỏi đến cái ấy, người trong nhà, ai thiếu lấy dùng đấy thôi. Cô cứ gói một ít bột gì đó cho họ cũng được. Ai biết đâu đấy? Mau cho họ về để chúng mình còn ăn cơm.

Phương Quan nghe nói, liền gói một ít mạt lỵ(1) mang ra. Giả Hoàn trông thấy mừng quá, giơ tay đỡ lấy. Nhưng Phương Quan lại vất lên trên giường. Giả Hoàn đành đến giường cầm lấy giắt vào trong người rồi cáo từ ra về.

Từ ngày Giả Chính đi vắng, Vương phu nhân không ở nhà, Giả Hoàn ngày nào cũng cáo ốm trốn học. Bây giờ được gói bột, hớn hở về tìm Thái Vân. Gặp lúc Thái Vân đương nói chuyện với dì Triệu, Giả Hoàn cười hì hì nói:

- Tôi có gói phấn này tốt lắm, cho chị để xoa mặt. Chị thường nói bột tường vi xoa rôm tốt hơn phấn ngân tiêu mua ở ngoài nhiều. Chị thử xem có phải bột này không?

Thái Vân giở ra xem, "xì" một tiếng, cười nói:

- Cậu xin của ai đấy?

Giả Hoàn kể lại chuyện vừa rồi. Thái Vân cười nói:

- Họ cho cậu là người nhà quê, đánh lừa cậu đấy! Thứ này không phải là bột tường vi đâu, chính là phấn mạt lỵ đấy.

Giả Hoàn xem lại, thấy phấn này đỏ hơn, ngửi cũng thơm thơm, cười nói:

- Thứ này cũng tốt đây, chả khác gì hột tường vi đâu, chị giữ lấy mà xoa, dù sao cũng cứ tốt hơn thứ phấn mua ở ngoài.

Thái Vân đành phải cất đi.

Dì Triệu liền nói:

- Khi nào nó chịu cho mày thứ tốt. Ai bảo mày đi xin, trách sao được chúng nó chả trêu đùa. Cứ như tao thì mang vất giả vào mặt chúng nó. Nhân dịp này mày đến mắng cho chúng nó, làm toang hoang ra một mẻ, để cho cả nhà nháo lên, thế mới gọi là báo thù chứ. Mấy tháng sau chả lẽ còn ai bới những chuyện bẩn này ra hỏi mày nữa à? Dù có hỏi, mày cũng có mồm chứ. Bảo Ngọc là anh, mày không dám động đến, chứ những hạng chó mèo ở nhà nó, mày cũng không dám sao?

Giả Hoàn nghe nói chỉ cúi đầu. Thái Vân liền nói:

- Tội gì như vậy! Dù sao cũng nên nhịn đi là phải.

Dì Triệu nói:

- Mặc tao, không can gì đến mày. Cứ vịn lấy cớ này mắng cho bọn con đĩ ấy một trận mới được.

Lại trỏ Giả Hoàn nói:

- Hừ! Đồ khốn nạn hèn nhát, đáng để cho bọn ranh con nó trêu tức! Ngày thường tao mắng mày một câu, hoặc vô ý lấy nhầm cái gì của mày, thì mày đã cứng đầu cứng cổ, nổi gân, trợn mắt, hất hủi tao; bây giờ bị bọn ranh con ấy trêu, mày câm không dám nói. Thế mà lại muốn ngày sau để người trong nhà này phải nể sợ. Mày không có cái tài ấy đâu, tao cũng tức thay cho mày!

Giả Hoàn nghe đoạn, vừa xấu hổ vừa nổi nóng, nhưng không dám đi, chỉ xua tay nói:

- Mẹ biết ăn, biết nói sao lại không dám đi, cứ xui con đi gây chuyện? Nếu họ đến trường mách con phải đòn, mẹ có thương con không? Đã bao lần mẹ xui con đi, khi xảy ra chuyện, con bị đánh đòn mẹ cũng đành phải cúi đầu chịu thôi. Bây giờ lại còn xui con đi cãi nhau với bọn hầu nhỏ! Mẹ không sợ chị Ba, cứ dám đi con mới phục!

Nghe nói như đâm vào ruột, Dì Triệu gào lên:

- Tao đẻ nó ra mà tao phải sợ nó, thì nhà mày còn có thể thống gì?

Vừa nói vừa cầm gói phấn chạy biến vào trong vườn.

Thái Vân ngăn mãi không được, đành phải lánh sang buồng khác. Giả Hoàn cũng lánh ra chơi ngoài cửa nghi môn.

Dì Triệu đỏ mặt tía tai hằm hằm đi vào vườn, mẹ nuôi Ngẫu Quan là già Hạ trông thấy liền hỏi:

- Bà dì đi đâu đấy?

Dì Triệu đập tay nói:

- Bà xem đấy! Bọn hát ranh con mới vào nhà này được ít ngày đã lá mặt lá trái, khinh người nọ, trọng người kia. Người khác tôi không bực, nhưng lại để bọn ranh trêu tức thì còn ra làm sao nữa?

Già Hạ nghe câu nói trúng với ý mình, liền hỏi:

- Việc gì thế?

Dì Triệu kể lại việc chúng khinh rẻ Giả Hoàn, đem cho phấn giả.

Già Hạ nói:

- Bây giờ dì mới biết à? Thế đã thấm vào đâu. Hôm nọ chúng đốt giấy tiền ở đây, cậu Bảo cũng còn bênh đấy. Có những cái người ta chưa mang đến mà nó đã nói ngay là không dùng được, không sạch sẽ, thế thì đốt giấy tiền không kiêng à? Dì thử nghĩ xem, nhà này ngoài bà Hai ra, còn ai bằng dì? Dì không ra tay đấy thôi, chứ dì ra tay, ai lại không sợ? Cứ ý tôi, nhân dịp mấy con ranh này không phải là hạng người trong nhà, dù có gây chuyện với chúng cũng không sao đâu. Hãy cứ lấy hai việc này, làm cho ra nhẽ, tôi sẽ làm chứng cho. Dì có ra oai chuyến này, sau mới trị nổi họ được. Các cô các mợ cũng không nỡ vì bọn đĩ ranh con ấy mà bắt bẻ dì đâu?

Dì Triệu nghe đoạn, càng cho là có lý, liền nói:

- Việc đốt giấy tiền tôi không biết, bà kể rõ cho tôi nghe.

Già Hạ kể ra hết và nói:

- Dì cứ việc nói ra, nếu xảy chuyện gì đã có tôi giúp sức.

Dì Triệu nghe càng đắc ý, đánh bạo vào thẳng viện Di Hồng.

Lúc đó Bảo Ngọc đã sang thăm Đại Ngọc, Phương Quan cùng Tập Nhân đương ăn cơm, thấy dì Triệu đến đều đứng dậy:

- Mời dì xơi cơm. Có việc gì mà vội thế?

Dì Triệu không trả lời, chạy ngay đến vất gói phấn vào mặt Phương Quan, trỏ mắng:

- Con đĩ này! Mày chẳng qua là hạng con đĩ rạc rài, tao bỏ tiền mua mày về để cho học hát. Đứa đầy tớ hạng bét nhà tao cũng còn sang hơn. Thế mà mày lại dám "Nhìn người đặt cỗ" à? Anh Bảo Ngọc đã cho nó rồi, mày còn giữ lại. Người ta xin của mày đấy à? Mày đưa cái này đánh lừa thằng Hoàn, tưởng nó không biết đấy! Hay dở gì thì chúng nó cũng là anh em ruột vớinhau, cũng là chủ cả, mày lại dám khinh nó à?

Phương Quan không chịu nổi, vừa nói vừa khóc:

- Hết bột tường vi rồi, sợ cậu ấy không tin, tôi phải đưa thứ phấn này. Ai bảo phấn này là không tốt? Tôi có học hát, nhưng không phải đi hát ở bên ngoài. Tôi là con gái bé, biết thế nào là đĩ với thõa! Dì không thể mắng được tôi, tôi không phải là người dì mua về. "Con hầu lạy thằng ở", cũng đều là bọn đầy tớ cả thôi!

Tập Nhân vội kéo nó lại.

- Không được nói bậy.

Dì Triệu tức run người lên, chạy lại tát Phương Quan hai cái. Tập Nhân đứng dậy ngăn:

- Dì không nên trẻ con như nó, để chúng tôi bảo nó cho.

Phương Quan bị đánh hai cái, khi nào chịu thôi. Nó lăn lóc giẫy giụa, khóc ầm lên:

- Dì đánh được tôi à? Lấy gương soi mặt đã rồi hãy đánh người! Dì cứ đánh đi, tôi không thiết sống nữa.

Rồi nó lao vào trong lòng dì Triệu. Mọi người vừa ngăn vừa kéo nó lại.

Tình Văn khẽ kéo Tập Nhân nói:

- Mặc kệ họ, cứ để cho họ đánh nhau xem rồi ra sao. "Xểnh chúa nhà, gà mọc đuôi tôm", người này đến đánh, người kia đến đánh, cứ mãi thế này thì còn làm ăn sao được!

Những người đi theo dì Triệu đứng bên ngoài, nghe thấy thế trong bụng lấy làm hể hả, đều niệm Phật: "Ai ngờ lại có ngày hôm nay!" Bọn bà già xưa nay tức sẵn Phương Quan, thấy vậy cũng đều lấy làm thích thú.

Ngẫu Quan, Nhụy Quan đương chơi với nhau. Quỳ Quan ở với Tương Vân, Đậu Quan ở với Bảo Cầm, được tin, liền đến bảo hai đứa kia:

- Phương Quan bị người ta bắt nạt, chúng ta cũng bẽ mặt, phải đến làm toang hoang một trận mới hả giận được. Bốn đứa còn tính trẻ con, chỉ muốn làm thế nào trả thù cho chị em, chứ đã biết nghĩ xa nghĩ gần gì, liền chạy cả vào viện Di Hồng. Đậu Quan chạy ngay đến lao người vào dì Triệu suýt nữa bị ngã. Ba đứa kia kéo cả đến, kêu khóc ầm lên, chúng tay túm đầu húc, vây chặt lấy dì Triệu. Bọn Tình Văn vừa cười, vừa giả vờ đến gỡ ra. Tập Nhân giằng lấy đứa này thì đứa kia lại chạy mất, liền nói:

- Chúng bay muốn chết cả à! Có điều gì oan ức, cứ nói ra, chứ làm điều trái ngược thế này thì coi sao được!

Dì Triệu không biết làm thế nào, cứ chửi mắng ầm lên.

Ngẫu Quan, Nhụy Quan mỗi đứa nắm lấy một tay; Đậu Quan, Quỳ Quan đứng chặn đằng trước đằng sau nói:

- Có giỏi thì đánh chết cả bốn đứa chúng tôi đi!

Phương Quan nằm thẳng đẵng dưới đất, khóc lặng người đi. Đương lúc giằng co thì Tình Văn đã sai Xuân Yến đi trình Thám Xuân. Vưu thị, Lý Hoàn, Thám Xuân dẫn Bình Nhi và mấy người đàn bà đến, mắng át bốn đứa, hỏi nguyên cớ ra sao. Dì Triệu tức quá, phùng má trợn mắt, hút hơi kể lể đầu đuôi. Vưu thị, Lý Hoàn không trả lời, chỉ cản bốn đứa kia.

Thám Xuân thở dài:

- Có việc gì quan hệ đâu! Dì nóng nảy quá. Tôi đương muốn mời dì đến nói một câu chuyện, thảo nào bọn a hoàn về nói, không biết dì ở đâu, té ra lại đến đây sinh chuyện! Thôi mời dì về nhà với tôi.

Vưu thị và Lý Hoàn cũng cười nói:

- Mời dì lên nhà khách, chúng ta bàn bạc.

Dì Triệu không biết làm thế nào, đành theo ba người này về, nhưng miệng vẫn kể lể lôi thôi. Thám Xuân liền nói:

- Bọn trẻ con này vốn hay chơi đùa. Khi thích, dì cười đùa với chúng mấy câu, không thích thì thôi mặc kệ chúng. Chúng có điều gì không đúng, dì chỉ nên xem như con mèo, con chó cắn càn, đáng tha thì tha, không đáng tha thì bảo bọn đàn bà giữ việc quở phạt chúng, tội gì không biết tự trọng mà lại gào thét ầm lên, làm mất cả thể thống. Dì thử xem dì Chu, có ai dám khinh nhờn đâu, mà dì ấy cũng chẳng gây chuyện với ai. Xin dì hãy về nhà dẹp cơn giận lại, đừng nghe kẻ nói bậy xúc xiểm, để cho người ta cười mình là ngu ngốc, chỉ tốn công lo việc vu vơ hão huyền cho người ta thôi. Trong bụng có tức chết đi nữa, dì cũng nên nín nhịn mấy ngày, chờ bà Hai về sẽ liệu.

Dì Triệu nghe vậy lặng thinh không nói lại được, đành phải về nhà.

Thám Xuân bực quá, nói với Lý Hoàn và Vưu Thị:

- Nhiều tuổi như thế mà còn làm những việc không để cho người ta nể! Câu chuyện có ra gì đâu, cũng cãi nhau ồn lên, không biết giữ gìn thể thống! Tai hay nghe nhảm, bụng lại nông nổi, hơi một tý là làm tung lên cho to chuyện. Chắc có đứa đầy tớ đê hèn nào thấy dì ấy ngu ngốc, mới xúi giục để nhờ đó cho hả giận chứ gì?

Thám Xuân càng nghĩ càng tức, sai người dò xem ai xui giục. Bọn đàn bà vâng lời đi ra, nhìn nhau cười nói:

- Mò thế nào được kim ở dưới đáy biển?

Rồi gọi người hầu dì Triệu và những người trong vườn đến hỏi, ai cũng nói là không biết. Họ không làm thế nào được, đành về trình Thám Xuân:

- Tra ngay thì khó, phải thong thả xem đứa nào hay bép xép sẽ về trình để cô quở phạt.

Thám Xuân dần dần nguôi giận. Vừa hay Ngải Quan khẽ đến trình:

- Già Hạ ngày thường không ưa Phương Quan, nên hay bịa chuyện. Hôm nọ đổ cho Ngẫu Quan đốt giấy tiền, may có cậu Bảo nhận cho, già ấy mới không dám nói. Hôm nay tôi đi đưa cái khăn cho cô, gặp già ấy đương thầm thào to nhỏ với dì Triệu một lúc lâu, thấy tôi đến, già ấy mới bỏ đi.

Thám Xuân nghe nói, biết rõ ẩn tình, đoán bọn này cùng về một hùa, tức tối lẫn nhau, nhưng chỉ ậm ừ, cũng chưa cho thế là đúng.

Ngờ đâu cháu ngoại già Hạ là Tiểu Thiền được cắt vào hầu Thám Xuân, thường đi mua hộ các thứ cho bọn a hoàn ở đấy, nên lũ hầu gái đều đối với nó từ tế. Hôm ấy ăn cơm xong, Thám Xuân ngồi ở nhà trên làm việc, Thúy Mặc ở lại trông nhà, bèn sai Tiểu Thiền gọi đứa bé con đi mua bánh.

Tiểu Thiền cười nói:

- Tôi vừa mới quét xong cả cái sân, mỏi chân lắm, chị sai người khác đi vậy.

Thúy Mặc cười nói:

- Tao còn bảo ai nữa? Mày chịu khó đi ngay, tao sẽ nói cho nghe một chuyện rất hay. Mày đi cửa sau, nhân tiện về nói cho bà mày biết, phải cẩn thận đấy.

Liền đem việc Ngải Quan mách bà nó cho nó nghe.

Tiểu Thiền nhận ngay tiền nói:

- Con ranh con này cũng định bới móc người ta. Để tôi đi mách cho.

Nó đứng dậy đi ra, đến cửa sau, thấy những người ở trong bếp rỗi việc, đều ngồi nói chuyện trên thềm. Già Hạ cũng ở đấy. Tiểu Thiền bảo một bà già đi mua bánh, còn mình thì vừa làu nhàu vừa đem chuyện mới rồi kể cho già Hạ nghe. Già Hạ vừa tức vừa sợ, muốn đi tìm ngay Ngải Quan để hỏi; lại muốn đến kêu oan với Thám Xuân. Tiểu Thiền ngăn lại, nói:

- Bà đến đó định nói thế nào? Tại sao bà biết được chuyện này? Như thế chỉ thêm lúng túng không được đâu. Cháu nói thế để bà liệu chừng, chứ việc gì phải vội thế?

Bỗng thấy Phương Quan đi đến, gõ vào cánh cửa, cười nói với vợ họ Liễu ở trong bếp:

- Thím Liễu ơi, cậu Bảo nói: món ăn bữa chiều hôm nay, làm thứ gì mát mát chua chua, đừng cho dầu thơm vào, ăn thêm ngán thôi.

Thím Liễu cười nói:

- Biết rồi. Hôm nay có cần gì mà lại sai chị đến bảo tôi. Nếu chị không sợ bẩn thì hãy vào đây chơi đã.

Phương Quan đi vào, bỗng thấy một bà già tay cầm một đĩa bánh đến. Phương Quan hỏi đùa:

- Bánh nóng này ai mua thế? Tôi nếm trước một miếng nào.

Tiểu Thiền cầm lấy đĩa bánh nói:

- Của người ta mua đấy. Các chị thì thèm gì thứ này.

Thím Liễu trông thấy cười nói:

- Cô Phương, cô muốn ăn thứ bánh này? Tôi vừa mới mua cho chị cô ăn đấy. Nó chưa ăn, còn cất nguyên ở kia, chưa ai động đến.

Nói xong cầm đĩa bánh đưa cho Phương Quan, lại nói:

- Cô chờ đấy, tôi đi pha cho cô ấm trà.

Rồi đi đun nước.

Phương Quan cầm cái bánh giơ lên mặt Tiểu Thiền nói:

- Ai thèm ăn bánh của chị! Cái này không phải là bánh à? Tôi nói đùa đấy thôi, chứ chị có lạy, tôi cũng chả thèm ăn!

Nói xong bẻ chiếc bánh vất cho con chim sẻ để đùa chơi và nói:

- Thím Liễu đừng tiếc của nhé, tôi về sẽ mua hai cân biếu thím.

Tiểu Thiền tức quá lườm nó nói:

- Ông thiên lôi có mắt làm sao không đánh chết con quái này đi. Nó lại còn trêu tức tôi? Tôi thì bì với chúng nó sao được. Có người biếu xén, có người xin làm tôi tớ, luồn lụy tâng bốc chúng nó để nhờ nói giúp.

Mọi người đều nói:

- Các cô thôi đi! Ngày nào gặp nhau cũng càu nhàu như thế.

Có mấy người sáng ý, thấy chúng cãi nhau, sợ sinh chuyện, đều chạy đi cả. Tiểu Thiền cũng không dám nói câu gì, chỉ lảu bảu chạy về.

Thím Liễu thấy mọi người đi rồi, liền chạy ra hỏi Phương Quan:

- Cô đã nói câu chuyện hôm nọ chưa?

- Nói rồi. Chờ một vài hôm nữa sẽ nhắc lại. Chỉ bực cái mụ Triệu chết hụt ấy lại cãi nhau với tôi một trận. Rượu mai quế lộ hôm nọ chị ấy đã uống chưa? Chị ấy có đỡ không?

- Uống hết rồi. Nó thích thứ ấy lắm, nhưng không tiện xin cô lần nữa.

- Có đáng gì, để tôi xin thêm một ít cho chị ấy.

Thím Liễu có đứa con gái năm nay mười sáu tuổi, là con thứ năm, nên đặt tên là Năm. Cô Năm tuy là con gái người nấu bếp, nhưng dáng người cũng khá, xấp xỉ sánh với Bình Nhi, Tập Nhân, Uyên Ương, Tử Quyên. Chỉ vì người yếu, nên chưa có việc làm. Gần đây thím Liễu thấy nhiều a hoàn trong phòng Bảo Ngọc làm những công việc nhẹ, lại nghe nói sau này Bảo Ngọc sẽ cho họ về cả, nên muốn xin cho con mình ghi tên vào hầu. Đương lúc chưa có người đưa vào thì may sao thím Liễu trước kia lại là người hầu ở viện Lê Hương, chăm nom nâng giấc bọn Phương Quan rất cẩn thận, hơn các bà mẹ nuôi khác. Bọn Phương Quan đối với thím cũng rất tử tế. Nhân đó thím Liễu nhờ Phương Quan nói với Bảo Ngọc cho con vào hầu, Bảo Ngọc đã bằng lòng, nhưng gần đây lại ốm và bận việc, nên chưa tiện nhắc lại.

Phương Quan về viện Di Hồng, vào trình Bảo Ngọc. Bấy giờ vì dì Triệu làm ầm ỹ, Bảo Ngọc trong bụng khó chịu, nhưng há miệng mắc quai, đành chờ cho cãi nhau xong, Thám Xuân bảo dì Triệu về rồi mới từ Hành Vu Uyển quay về, khuyên nhủ Phương Quan, một lúc, dàn xếp xong xuôi. Thấy Phương Quan muốn xin rượu mai quế lộ cho con Năm. Bảo Ngọc nói:

- Hãy còn đấy, tôi không uống mấy, cô đưa cho nó.

Nói xong, bảo Tập Nhân lấy ra. Thấy trong chai không còn mấy, Bảo Ngọc đưa cả cho Phương Quan.

Phương Quan mang chai rượu đi. Gặp lúc thím Liễu dẫn con Năm đi dạo chơi ở góc nhà bên cạnh, vừa về đến bếp, ngồi nghỉ uống nước. Thấy Phương Quan cầm cái chai bằng pha lê nhỏ cao độ năm tấc, trông lấp lánh, trong đựng độ nửa chai nước màu đỏ như son, thím Liễu cho là rượu nho của Bảo Ngọc vẫn uống. Hai mẹ con liền nói:

- Cô hãy ngồi đây, để tôi đi đun nước.

Phương Quan cười nói:

- Chỉ còn có ngần ấy thôi, cho thím cả cái chai đó.

Con Năm nghe xong, mới biết là rượu mai quế lộ, cầm lấy ngay, rồi cám ơn Phương Quan, lại nói:

- Hôm nay mát giời, tôi đi chơi cho khuây, nhưng ở phía sau chẳng có gì thú, chỉ rặt những hòn đá lớn, những cây cao và bức tường sau nhà thôi, không có cảnh gì đẹp cả.

Phương Quan hỏi:

- Sao chị không đi nữa?

Thím Liễu nói:

- Tôi không cho nó đi, sợ các cô ở đây không biết nó, bất chợt mà gặp những người không vừa mắt thì lại thêm chuyện. Ngày mai cô đưa nó vào hầu rồi lo gì không có người dẫn nó đi chơi! Chỉ sợ chơi lắm đâm chán thôi.

- Sợ gì? Đã có tôi!

- Úi chà! Cô ơi, chúng tôi thấp cổ bé họng, bì thế nào được với các cô.

Nói xong đi pha trà đem lại. Nhưng Phương Quan khi nào thèm uống. Chỉ súc miệng rồi về.

Thím Liễu nói:

- Ta đương giở tay, con Năm tiễn cô ấy một tý.

Con Năm đi tiễn, thấy không có người lạ, liền kéo Phương Quan hỏi:

- Chị đã nhắc việc ấy cho tôi chưa?

- Tôi nói dối chị hay sao? Tôi thấy trong phòng đương thiếu hai người hầu, chưa có ai thay: một là chị Hồng Ngọc, mợ Hai lấy đi, hai là chị Trụy Nhi. Nay lấy thêm chị vào cũng chẳng phải là thừa. Nhưng chị Bình thường nói với chị Tập Nhân: "Việc gì phải động đến người, đến tiền, có thể chậm được thì cứ để chậm. Hiện giờ cô Ba đương muốn tìm cớ đưa người ra. Ngay bên nhà chị ấy cũng phải bác đi mấy việc. Lại định bới cả nhà chúng tôi, nhưng không bới ra được việc gì, như thế thì chị tội gì đã vội đâm đầu vào lưới? Nói mà bị bác thì sau này muốn lấy cũng không được, quá muộn mất rồi. Hãy cứ yên đi một dạo, chờ cụ và bà Hai rỗi, sẽ nói với người, dù việc to như trời cũng phải xong."

- Chị nói thế nhưng tính tôi nóng không chờ được. Nếu tôi vào làm, một là mẹ tôi được mở mày mở mặt, cũng bõ công đẻ ra tôi; hai là tôi có lương tháng, nhà cũng được rộng rãi; ba là tôi được hởi dạ, bệnh sẽ chóng khỏi. Có phải mời thày uống thuốc cũng đỡ tốn tiền.

- Những lời chị nói, tôi biết cả rồi. Chị cứ yên tâm.

Nói xong Phương Quan đi về.

Con Năm trở về, hai mẹ con đều cám ơn Phương Quan. Mẹ nó nói:

- Không ngờ lại được những thứ này. Tuy là của quý thực, nhưng uống nhiều sinh nóng, chi bằng rót một ít mang đi biếu người khác, mình lại được ơn.

- Biếu ai?

- Biếu anh con cậu mày một ít. Nó bị bệnh nóng cũng muốn uống rượu này. Ta rót nửa chén đưa cho nó.

Nghe vậy con Năm ngồi lặng một lúc, mặc cho mẹ rót nửa chén và đem chai rượu cất vào trong chạn. Sau đó nó cười nhạt:

- Cứ ý con thì không nên cho anh ấy. Lỡ có người biết lại xảy ra lôi thôi.

- Cần gì mà phải sợ. Sợ gì cái ấy. Chúng ta vất vả hầu hạ, kiếm được chút ít thứ này thứ nọ là lẽ tất nhiên, chứ có phải đi ăn trộm đâu?

Thím Liễu không nghe lời con, đi thẳng một mạch đến là anh. Đứa cháu đương nằm. Trông thấy cả nhà vui mừng, liền đem pha với nước lạnh cho cháu uống một bát, trong bụng nó khoan khoái, mắt sáng lên, đầu mát dần. Còn thừa nửa chén, nó lấy giấy bịt lại để trên bàn.

Ngay lúc ấy có mấy đứa hầu nhỏ là bạn chơi thân với cháu thím Liễu, đến hỏi thăm, trong đó có Tiền Hòe là cháu họ dì Triệu. Bố mẹ Tiền Hòe hiện giữ sổ trong kho, còn nó thì được cắt đến hầu Giả Hoàn đi học. Nhà nó cũng khá, nhưng chưa lấy vợ. Ngày thường thấy con Năm xinh đẹp, nó cố xin với bố mẹ hỏi làm vợ, và đã nhờ bà mối đến nói ba bốn lần. Vợ chồng họ Liễu thì bằng lòng, riêng con Năm nhất định không thuận, nhưng chưa nói ra, vì thế vợ chồng họ Liễu cũng chưa dám nhận lời.

Gần đây con Năm lại muốn vào hầu trong vườn, nên không nhắc đến việc ấy nữa. Chờ dăm ba năm sau khi trở về, sẽ lấy chồng ở bên ngoài. Nhà Tiền Hòe thấy thế, cũng thôi không đến hỏi. Tiền Hòe không lấy được con Năm, trong bụng vừa tức vừa xấu hổ, nhất định tìm cách lấy cho bằng được mới thỏa lòng. Hôm nay nó cùng bạn đến chơi nhà cháu thím Liễu, không ngờ thím Liễu lại ở đây.

Thấy một lũ người đến, trong đó có Tiền Hòe, thím Liễu nói lảng là bận việc, đứng dậy ra về. Anh và chị dâu vội nói:

- Sao cô không uống nước đã về ngay? Cám ơn cô đã nhớ đến cháu.

Thím Liễu cười nói:

- Sợ ở nhà gọi cơm, khi nào rỗi, tôi sẽ lại sang thăm cháu.

Người chị dâu liền lấy một gói giấy ở trong ngăn kéo ra, cầm ở trong tay, tiễn thím Liễu ra đến cạnh tường, dúi đưa cho thím, cười nói:

- Anh có trực nhật ở ngoài cửa suốt năm ngày chẳng vớ được món bổng nào. Hôm qua có một ông quan ở Việt Động đến thăm, đem biếu trên nhà hai giỏ bột phục linh, còn lại một giỏ để làm quà cho người canh cửa, anh cô cũng được chia một ít. Ở đó có nhiều cây tùng bách sống hàng nghìn năm, chỉ nguyên lấy nhựa phục linh hòa với thuốc là được, không biết làm thế nào mà bột trắng ngần như vậy? Tối hôm qua, tôi giở ra xem, đẹp quá, trắng như tuyết. Họ bảo: thứ nhất là, hòa với sữa người, sáng dậy uống một bát, bổ lắm. Thứ hai là dùng sữa bò; không dùng được sữa thì dùng nước lã đun sôi cũng được. Tôi nghĩ cháu đằng ấy ăn cũng tốt. Sáng hôm nay cho hầu nhỏ đưa đến, nhưng nó nói là khóa cửa, và cháu bên ấy cũng đi đâu vắng. Tôi vẫn muốn sang thăm và mang cho cháu gói này, nhưng các vị chủ đi vắng cả, chỗ nào cũng canh gác cẩn thận, tôi lại không có việc gì, đến thế nào được. Vả chăng hai ngày hôm nay nghe nói có người trong nhà làm bậy, sang đó mà bị vạ lây lại thêm khổ. Cô đến thật là đúng lúc, nhờ mang về hộ cho cháu.

Thím Liễu cám ơn rồi về. Vừa đi đến trước cửa bên cạnh, có một đứa bé con cười nói:

- Thím đi đâu thế? Trên nhà sai người gọi ba, bốn lượt đấy, bắt ba, bốn đứa chúng tôi đi tìm các ngả. Thím ở đâu về? Đường này lại không phải là đường đi về nhà thím, tôi lấy làm ngờ lắm.

Thím Liễu cười nói:

- Con khỉ con này!

------------------------

(1). Cây hoa nhài.

Hồi thứ sáu mươi mốt

Ném chuột sợ vỡ đồ, Bảo Ngọc đành phải nhận lỗi;

Xét việc thấy oan uổng, Bình Nhi khéo tòng quyền.

Thím Liễu nghe đứa bé nói thế, cười bảo:

- Đồ khỉ con này! Thím mày đi kiếm một ông chồng nữa thì mày chẳng được thêm một ông chú hay sao? Có gì mà đáng ngờ! Đừng để cho tao phải túm chỏm mày dúi xuống! Còn không mở cửa cho tao vào à!

Đứa bé vẫn không mở cửa, kéo thím lại cười nói:

- Thím ơi! Thím có vào, thế nào cũng ăn cắp cho cháu mấy quả mận. Cháu sẽ chờ mãi ở đây. Thím quên thì sau này đêm khuya có đi mua rượu mua dầu, cháu không mở cửa cho đâu, tha hồ thím gọi.

Thím Liễu mắng:

- Mày mê rồi! Năm nay có được như năm ngoái nữa đâu? Bao nhiêu cây cối ở đây đã chia cho các bà già cả. Người nào người ấy mặt cứ sưng lên. Hễ có ai đi qua gốc cây là mắt cứ nhìn hau háu như cú vọ ấy. Thế thì còn ai dám động đến hoa quả của họ. Hôm qua tao đi qua gốc mận, gặp phải con ong mật bay qua mặt, tao lấy tay đập, không ngờ mợ mày ở đằng xa đi lại nhìn không rõ, lại cho tao trẩy mận, thế là cứ mồm năm miệng mười, tru tréo lên. Nào là "còn chưa cúng Phật; cụ và bà Hai không có nhà, chưa biếu của mới, đợi biếu bậc trên xong, các chị em sẽ đều có phần cả". Cứ như người mắc bệnh lao, đợi có quả mận mới ra được mồ hôi ấy, làm cho tao không giữ được lời, cãi nhau với bà ấy một trận. Mợ mày và dì mày cũng đều trông nom trong vườn đấy, sao mày không xin, lại cứ đi xin tao? Thật không khác gì "chuột ở trong kho lại hỏi vay thức ăn của quạ". Cái giống ở liền trong kho không có thức ăn lại còn đi hỏi cái giống bay trên trời à?

Đứa bé cười nói:

- Úi chà ! Không có thì thôi, thím cứ nói dài dòng mãi! Liệu từ nay trở đi thím không cần đến cháu nữa hay sao? Chị Năm có việc làm thì sau này còn phải sai khiến đến chúng cháu nhiều. Chỉ cần chúng cháu ngoan một tý là được.

Thím Liễu cười nói:

- Con khỉ con này lại giở lối ranh mãnh ra! Chị mày có việc làm ở đâu?

Đứa bé cười nói:

- Cháu biết rồi, đừng nói đối nữa. Chỉ thím có tay trong, chứ chúng cháu không có tay trong hay sao? Tuy cháu ở ngoài này nhưng có hai chị là người hầu có thể diện ở trong ấy, còn giấu cháu sao được!

Chợt có tiếng bà già ở trong gọi ra:

- Đồ khỉ con, đi gọi ngay thím Liễu mày về đây, nếu không thì nhỡ việc đấy.

Thím Liễu không nói chuyện với đứa bé nữa, vội đẩy cửa đi vào, cười nói:

- Vội gì thế, tôi đã về đây.

Nói rồi đi vào bếp. Trong bếp cũng có mấy người cùng làm, nhưng họ không dám tự tiện, cứ phải đợi thím về đề cắt đặt.

Thím Liễu hỏi:

- Con Năm đi đâu?

Mọi người đều nói:

- Nó vừa sang phòng trà tìm chị em.

Thím Liễu nghe nói, cất gói bột phục linh rồi đi chia thức ăn cho các phòng. Chợt thấy Liên Hoa là hầu nhỏ ở buồng Nghênh Xuân đến nói:

- Chị Tư Kỳ bảo muốn ăn trứng gà luộc lòng đào.

Thím Liễu nói:

- Thứ ấy đắt lắm, không biết vì sao năm nay hiếm trứng gà thế! Mười đồng một quả trứng cũng không mua được. Hôm nọ ở nhà trên muốn cho bà con ít trứng để ăn cháo, bốn, năm người đi mua mãi mới được hai nghìn quả. Bây giờ bảo tôi tìm đâu ra? Về nói với chị ấy, hôm khác hãy ăn vậy.

Liên Hoa nói:

- Bữa ăn đậu phụ hôm nọ, thím cho đậu thiu, làm tôi bị mắng một trận. Hôm nay muốn ăn trứng gà, thím lại bảo không có. Thế thì còn ăn món gì? Tôi không tin được, đến cả trứng gà cũng không có nữa kia? Thím đừng để tôi phải đi lục!- Vừa nói nó vừa đến chạn lục, thấy có độ mười quả trứng gà để đó, liền nói:

- Không phải trứng đây à? Sao thím ghê gớm thế? Chúng tôi ăn vào phần của chủ cho, sao thím cũng tiếc đứt ruột ra thế? Có phải trứng của thím đẻ ra đâu mà sợ người ta ăn đi?

Thím Liễu chạy lại nói:

- Mày đừng có mở mồm nói láo! Mẹ mày mới đẻ ra trứng ấy. Tất cả còn mấy quả trứng để bày trên món ăn, các cô chưa ăn, nên chưa làm vội, sắp sẵn đấy để chờ khi cần. Bây giờ cho các người ăn, lỡ khi hỏi đến, món gì không có thì thôi, chứ quả trứng cũng không có à? Các người ở nơi nhà cao cửa rộng, cơm bưng tận miệng, nước rót tận tay, nên mới coi thường quả trứng, chứ có biết đâu ngoài chợ mua bán khó khăn? Không nói đến trứng làm gì, có khi rễ cỏ cũng chẳng có mà ăn nữa kia! Ta bảo cho mà biết, ngày nào cũng ăn cơm trắng gạo ngon, gà béo, vịt to, thì có sút đi một chút cũng được. Ăn lắm cho đầy ruột rồi đi bới chuyện: nào là trứng gà, đậu phụ rồi miến, củ cải xào, muốn ăn gì là tự ý thay đổi. Ta không thể chiều các người được. Mỗi nơi đòi một thứ, đến hàng chục thứ ấy, thì ra ta không còn hầu chủ nhất, mà chỉ sắp sẵn để hầu chủ nhì thôi!

Liên Hoa đỏ mặt lên, nói to:

- Ai là người ngày ngày đến đòi, thím phải kể ra hàng tràng thế! Không phải để trên sai bảo thì cho thím đến đây làm gì? Hôm nọ Xuân Yến đến bảo chị Tình Văn muốn ăn rau ngải, tại sao thím lại còn hỏi xào với thịt gà hay thịt lợn? Xuân Yến bảo món ấy xào mặn không ngon, phải xào riêng một món miến, cho ít mỡ mới ngon, thím lại bảo là thím đâm mê, vội rửa tay đi xào, rồi tự mình bưng ngay lên, thím cứ xoăn xoe như con chó vẫy đuôi ấy! Thế mà hôm nay thím lại lấy tôi ra làm bung xung, rêu rao trước mặt mọi người!

Thím Liễu nói:

- A di đà phật, ai cũng trông thấy cả đấy! Không nói hôm nọ làm gì, ngay từ năm ngoái đến nay, trong các phòng, bất cứ cô nào, chị nào, thỉnh thoảng muốn thêm thức ăn gì, ai chẳng đưa tiền trước để mua riêng. Dù có hay không, cũng phải giữ tiếng chứ! Nếu tôi nấu riêng cho các cô, sẽ lại được thừa nữa. Khi tính sổ càng làm người ta ghét thêm. Tất cả các cô với bọn chị em hàng bốn, năm mươi người, mỗi ngày chỉ có hai con gà, hai con vịt, non chục cân thịt, một quan tiền rau, các chị thử tính xem, như thế có đủ vào đâu. Ngay hai bữa cơm cũng còn chưa xoay nổi, lại người này đòi thứ này, người kia đòi thứ kia. Thứ mua về thì không thèm ăn, lại còn ăn thứ khác! Chi bằng trình với bà, cho thêm phần ăn rồi cũng như nhà bếp của cụ, thiên hạ có bao nhiêu thứ ăn cứ viết lên bảng, mỗi ngày thay món ăn một lần, đến cuối tháng tính tiền, thế là xong chuyện. Ngày hôm nọ cô Ba và cô Bảo tình cờ bàn với nhau muốn ăn đậu xào mỡ, sai cô bé đưa cho tôi năm trăm đồng tiền. Tôi cười nói: "Bụng hai cô có to bằng bụng phật Di Lặc cũng chả ăn hết năm trăm đồng. Món ấy chỉ đáng độ vài ba chục đồng, tôi có thể mua được." Sau tôi trả lại tiền, các cô ấy cũng không chịu nhận, bảo là thưởng cho tôi để uống rượu. Các cô lại bảo: "Hiện giờ bếp dọn vào trong này, không tránh khỏi mọi người đến quấy rầy. Một tí tương, một tí muối, cái gì mà chẳng phải mua? Không cho thì không đành lòng, nếu cho thì thím lấy tiền đâu mà mua bù. Thím cứ giữ lấy món tiền ấy coi như để bù những thứ trước quấy rầy". Hai cô thực là biết thương kẻ dưới, trong bụng tôi luôn luôn cầu khấn cho hai cô được khỏe mạnh. Không ngờ dì Triệu biết việc này, tức mà không nói ra, cho là hai cô ấy dễ dãi với tôi quá, chưa đầy mười hôm đã sai đứa hầu nhỏ đến đòi thứ nọ, đòi thứ kia, thực đáng buồn cười. Các chị lại coi như có lệ sẵn rồi, người nọ đòi, người kia đòi, tôi lấy đâu mà bù được.

Đang lúc ồn ào, thấy Tư Kỳ sai người đến giục Liên Hoa, bảo:

- Mày chết ở đây à? Sao không đi về?

Liên Hoa hậm hực trở về lại bày thêm chuyện mách với Tư Kỳ. Tư Kỳ nghe vậy nổi giận, hầu cơm Nghênh Xuân xong, liền mang mấy đứa hầu nhỏ chạy đến. Lúc ấy mọi người đương ăn cơm, thấy Tư Kỳ đến với vẻ mặt hầm hầm, đều đứng dậy đon đả mời ngồi.

Tư Kỳ thét bảo bọn hầu nhỏ:

- Mang hết cả thức ăn ở trong rương, trong chạn ra cho chó ăn, chẳng ai được ăn nữa.

Bọn hầu nhỏ ba chân bốn cẳng chạy ùa cả vào lục lọi bừa bãi, quăng vứt lung tung. Mọi người sợ quá, vừa ngăn lại, vừa van xin:

- Xin cô đừng nghe trẻ con nói nhảm! Dù thím Liễu có ba đầu sáu tay cũng chả dám hỗn với cô. Thím ấy có nói trứng gà khó mua thực. Chúng tôi vừa mới trách thím ấy không biết điều, dù là thứ gì cũng phải cố tháo vát tìm cách mà mua chứ. Thím ấy đã biết lỗi và đi luộc rồi. Cô không tin, vào bếp mà xem.

Mọi người khuyên răn mãi, Tư Kỳ mới bớt giận. Bọn hầu nhỏ cũng thôi không vứt thức ăn nữa. Tư Kỳ mắng ầm lên một lúc mới về. Thím Liễu vùng vằng quăng mâm quăng bát, lủng bủng một lúc, rồi luộc một bát trứng cho người mang đi. Tư Kỳ hắt cả xuống đất. Người kia trở về không dám nói, sợ lại sinh chuyện.

Thím Liễu cho con gái ăn một bát canh, nửa bát cháo, rồi nói đến việc mợ nó gửi cho bột phục linh. Con Năm nghe nói, muốn cho Phương Quan một ít, liền lấy giấy sẻ ra một nửa gói, nhân buổi chiều tối vắng người, lẻn lút dưới khóm hoa, rặng liễu đi tìm Phương Quan. May sao đến tận cửa viện Di Hồng cũng không có ai hỏi. Con Năm không tiện đi vào, đành đứng xa xa trước rặng hoa hồng nghe ngóng. Độ uống xong một chén nước, thấy Xuân Yến ra, con Năm cất tiếng gọi, Xuân Yến không biết là ai, đến gần mới rõ, liền hỏi:

- Chị đến làm gì đây?

- Chị bảo hộ Phương Quan ra đây, tôi có câu chuyện muốn nói với chị ấy.

- Chị nóng nảy quá. Chẳng qua chỉ chờ độ mươi ngày nữa thì vào, cứ đến tìm chị ấy làm gì? Vừa rồi chị ấy có việc đi ra đằng kia, chị hãy chờ một lúc; hay là có việc gì cứ nói, tôi sẽ nói lại với chị ấy cho. Chị chờ không được đâu, sợ cửa vườn lại đóng.

Con Năm đưa gói bột phục linh cho Xuân Yến, nói:

- Đây là bột phục linh. Ăn bổ lắm. Tôi có một ít biếu chị ấy, nhờ chị đưa hộ.

Nói xong quay về. Khi ra đến bến Lục Tự, thấy vợ Lâm Chi Hiếu dẫn mấy bà già đi tới, con Năm không kịp tránh, đành phải đứng lại chào. Vợ Lâm Chi Hiếu hỏi:

- Tao nghe nói mày ốm, sao lại ra được đây?

- Mấy hôm nay đã khá, tôi theo mẹ tôi đi chơi cho đỡ buồn. Vừa rồi mẹ tôi sai tôi đưa mấy thứ đồ dùng đến viện Di Hồng.

- Mày nói dối rồi, vừa nãy thấy mẹ mày đi ra, tao mới đóng cửa. Nếu mẹ mày sai mày đi, tại sao không bảo cho tao biết? Lại cứ để cho tao đóng cửa, thế là nghĩa làm sao?

Con Năm không biết trả lời thế nào, chỉ nói:

- Mẹ tôi bảo tôi đi lấy đồ từ sớm. Tôi quên mất, đến bây giờ mới nhớ ra. Có nhẽ mẹ tôi tưởng tôi đi từ trước rồi, nên không nói gì với bà.

Thấy nó vẻ mặt hoảng hốt, ăn nói lúng túng, lại vì gần đây Ngọc Xuyến nói ở buồng bên ấy mất đồ đạc, mấy a hoàn đổ lẫn cho nhau, chưa tìm ra manh mối, vợ Lâm Chi Hiếu đâm ra ngờ vực. Vừa lúc ấy Tiểu Thiền, Liên Hoa cùng mấy bà già đi đến, thấy vậy liền nói:

- Bà Lâm nên tra hỏi nó. Hai ngày nay nó cứ thậm thụt đi vào đây không biết làm việc gì?

Tiểu Thiền lại nói:

- Phải đấy. Hôm nọ chị Ngọc Xuyến đã nói: Cái hòm của bà để ở buồng bên cạnh bị mở, mất khá nhiều đồ vật. Mợ Hai sai cô Bình đến nói với chị Ngọc Xuyến để lấy ít rượu mai quế lộ thấy mất một chai. Nếu không lục đến, có nhẽ cũng không biết.

Liên Hoa cười nói:

- Việc ấy tôi không nghe thấy. Nhưng tôi lại trông thấy cái chai đựng rượu mai quế lộ.

Vợ Lâm Chi Hiếu vì chưa tra ra việc này, ngày nào Phượng Thư cũng sai Bình Nhi đến giục, nên hỏi ngay:

- Trông thấy ở đâu?

- Ở trong bếp nhà nó ấy.

Vợ Lâm Chi Hiếu liền sai thắp đèn lồng dẫn người đi tìm.

Con Năm vội nói:

- Đó là chị Phương Quan ở nhà cậu Bảo cho tôi đấy.

Vợ Lâm Chi Hiếu nói:

- Phương Quan hay "viên quan"(1) cũng mặc kệ! Hiện bắt được tang chứng, tao phải đi trình! Mày cứ đến chỗ chủ mà nói!

Vừa nói vừa đi vào trong bếp. Liên Hoa đi theo lấy chai rượu ra. Vợ Lâm Chi Hiếu vẫn ngờ nó còn ăn trộm thứ khác, lại khám kỹ một lượt, bắt được một gói phục linh, liền cầm cả lấy rồi dẫn nó đến trình Lý Hoàn và Thám Xuân.

Vì Giả Lan ốm, Lý Hoàn không trông nom công việc, bảo đến trình Thám Xuân.

Thám Xuân lúc này đã về buồng và đang tắm rửa trong nhà, bọn a hoàn thì đứng hóng mát ở ngoài sân. Thị Thư vào trình, một lúc ra nói:

- Cô đã biết rồi, bảo các người đến nói với chị Bình để trình lên mợ Hai.

Vợ Lâm Chi Hiếu đành phải dẫn sang bên nhà Phượng Thư, nhờ Bình Nhi vào trình. Phượng Thư vừa mới đi ngủ, nghe vậy liền bảo:

- Đánh cho mẹ nó bốn mươi roi rồi đuổi đi, từ nay không được vào đến cửa thứ hai; đánh cho con Năm bốn mươi roi, rồi mang trả ngay lên trại, hoặc bán hay gả cho người ta.

Bình Nhi theo thế bảo vợ Lâm Chi Hiếu. Con Năm sợ quá khóc ầm lên, quỳ xuống trước mặt Bình Nhi kể lại việc Phương Quan cho nó.

Bình Nhi nói:

- Việc ấy cũng không khó. Ngày mai hỏi lại Phương Quan sẽ biết thực hay dối. Nhưng gói bột phục linh, hôm nọ người ta đem biếu, còn phải chờ cụ và bà về xem mới dám động đến, sao đã lấy trộm trước.

Con Năm kể lại việc ông cậu nó cho nó. Bình Nhi cười nói:

- Nếu thế thì mày là đứa thẳng thắn, không có tội gì, người ta mang mày ra để thế mạng đấy thôi. Bây giờ tối rồi, mợ vừa uống thuốc đi nghỉ, việc nhỏ không nên làm phiền. Hãy giao nó cho người gác giữ một đêm, ngày mai ta trình với mợ, sẽ liệu sau.

Vợ Lâm Chi Hiếu không dám trái lời, đành phải mang nó ra giao cho các bà già canh đêm rồi mới về.

Con Năm bị người ta giam lỏng ở đấy, không dám đi đâu một bước. Bọn bà già có người khuyên nó: "Không nên làm những việc xấu xa như thế!" Cũng có người ghét nó, nói: "Canh đêm không xong, lại còn đưa con ăn cắp này đến đây cho chúng mình giữ, nếu không cẩn thận, lỡ nó tự tử hoặc trốn đi, lại rầy rà đến mình đây!" Lại có một bọn xưa nay không ưa thím Liễu, thấy thế lấy làm thích thú, chạy đến đùa cợt chế giễu nó. Con Năm trong bụng vừa tức vừa oan, không biết kêu vào đâu. Vả xưa nay người nó hay ốm yếu, bây giờ muốn uống chè không có, nước cũng không, muốn ngủ không có chăn gối, nên cứ khóc nức nở suốt đêm.

Những người xưa nay có thù hằn với mẹ con nó, chỉ mong sao đuổi ngay được nó đi, kẻo mai sự việc lại thay đổi chăng, nên họ dậy thật sớm đưa quà đến mua chuộc Bình Nhi, vừa ton hót cô ta làm việc dứt khoát, vừa kể tội mẹ con Năm xưa nay làm nhiều điều không tốt. Bình Nhi gật đầu bảo họ về, còn mình đến đằng Tập Nhân hỏi xem có thực Phương Quan cho nó rượu mai quế lộ không. Tập Nhân nói:

- Có cho Phương Quan rượu mai quế lộ, nhưng sau Phương Quan cho ai thì không biết.

Tập Nhân lại hỏi Phương Quan. Phương Quan giật mình, nhận là có cho con Năm thực. Phương Quan lại nói với Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cũng cuống lên nói:

- Rượu mai quế lộ thì đúng là có cho rồi. Bột phục linh nó khai cũng đúng đấy. Nhưng nếu người ta biết là cậu nó khi gác cửa nhận được, tất có lỗi. Thế chẳng hóa ra người ta có bụng tốt lại bị chúng ta làm hại hay hao?

Liền bàn với Bình Nhi:

- Việc rượu thì xong rồi, nhưng việc bột phục linh cũng có lỗi đấy. Chị cứ bảo nó nói của Phương Quan cho là xong cả.

Bình Nhi cười nói:

- Dù thế, nhưng hôm qua nó đã nói với mọi người là cậu nó cho nó rồi. Sao bây giờ lại bảo là Phương Quan cho? Vả lại, bên ấy mất bột phục linh chưa tìm ra manh mối, bây giờ có tang chứng rõ ràng, lại tha trắng đi, thế thì còn đi bắt ai? Ai còn chịu nhận? Xử thế chắc người ta không phục đâu.

Tình Văn chạy lại cười nói:

- Rượu mai quế lộ ở bên bà không ai lấy đâu, rõ ràng là Thái Vân ăn cắp cho cậu Hoàn đấy thôi, các chị đừng có nhắm mắt nói liều.

Bình Nhi cười nói:

- Ai chẳng biết nguyên do như vậy? Bấy giờ Ngọc Xuyến tức quá phát khóc lên. Lẽ ra khẽ hỏi nó, nó nhận đi thì Ngọc Xuyến cũng thôi, mà cả nhà cũng lờ đi, ai hơi đâu còn bôi chuyện ra nữa. Nhưng đáng giận là Thái Vân không những không nhận, còn đổ cho Ngọc Xuyến ăn cắp! Hai đứa trong một nhà lại cứ hục hặc cãi cọ nhau, cả phủ đều biết, chúng ta làm ngơ đi sao được? Thế nào cũng phải tra hỏi. Biết đâu đứa kêu mất trộm lại chả là đứa ăn trộm. Nhưng không có tang chứng thì làm gì được nó?

Bảo Ngọc nói:

- Thôi việc này tôi lại đứng ra nhận cho, cứ nói là tôi lẻn sang ăn cắp của bà để dọa họ chơi đấy. Như thế là hai việc đều xong cả.

Tập Nhân nói:

- Cũng là việc làm phúc đấy, đỡ cho người ta khỏi mang tiếng ăn cắp, nhưng nếu bà nghe thấy lại bảo cậu là trẻ con, không biết hay dở gì cả.

Bình Nhi cười nói:

- Chỉ là việc nhỏ thôi. Bây giờ nếu vào tìm tang vật ở nhà dì Triệu thì cũng dễ đấy, nhưng tôi sợ lại làm mất thể diện của một người tốt. Người khác không sao chứ người ấy thì thế nào mà không tức giận? Người ấy thực đáng thương, không nên vì việc "ném chuột làm vỡ mất bình ngọc".

Nói xong giơ ba ngón tay lên.

Bọn Tập Nhân nghe nói, biết ngay là chỉ vào Thám Xuân. Mọi người liền nói:

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #luudiecthu