Chương 49: Lạc đường

这里的风已经不像刚才那么霸道,风打着卷儿在四周甩,前面肯定是有挡风的东西没错的,可是刚才跟着我那两家伙哪儿去了,我走的也不快啊,这样也能掉队,他娘的是不是给飞石砸中了,摔在后面了?

Gió ở đây không còn dữ dội như vừa rồi nữa. Gió cuồn cuộn khắp bốn phía, phía trước chắc chắn là có thứ gì đó chắn gió lại, nhưng còn hai người vừa chạy cùng tôi thì đi đâu cả rồi? Tôi chạy đâu có nhanh, thế mà cũng tụt lại phía sau được ư? Hay là bị đá bay táng trúng, ngã mẹ nó luôn ở đằng sau rồi?

我举高矿灯往四周照,并没有看到任何的影子,不由有点后悔,刚才注意力太集中了,我没有太过注意四周的情况。不过,在这样狂风中行进,其实四周也根本就没有什么情况可以注意,风声响的人都听不到,而所有的精力都必须放在眼前的目的地和身体的平衡上。

Tôi giơ cao chiếc đèn mỏ chiếu khắp xung quanh mà vẫn không thấy bất cứ một bóng người nào, tôi không khỏi có chút hối hận khi nãy quá tập trung về một hướng mà không chú ý đến tình hình xung quanh mình. Có điều, đi lại trong gió lớn như thế này, thực ra xung quanh cũng chẳng có gì để chú ý, tiếng gió thổi quá lớn nên chẳng nghe thấy được gì, mà tất cả tinh thần và thể lực đểu phải dồn hết cả vào mục tiêu trước mắt và thăng bằng cơ thể.

一下子落单,我还是在一瞬间感觉到一种恐惧,不过我很快就将恐惧驱散了,我休息了一下喘了几口气,就开始继续往前走,此时我不能后退去找他们,我已经失去了方向的感觉,如果往回走不知道会走到哪里,最好的办法就是往前。

Nhoáng cái đã bị bỏ lại một mình, trong một chớp mắt tôi vẫn còn cảm thấy được một nỗi sợ hãi dâng lên, nhưng rất nhanh đã bị tôi xua tan mất. Tôi nghỉ ngơi một chút, hổn hển hít thở mấy hơi, sau đó tiếp tục đi về phía trước. Bây giờ tôi không thể quay lại tìm bọn họ được nữa, tôi đã mất cảm giác về phương hướng rồi, nếu quay lại sẽ chẳng biết đi đến đâu nữa, vì vậy biện pháp tốt nhất là đi về phía trước.

我甩掉了一包装备,这东西实在是太重了,老外的探险装备很个性化,有一次我还看到有人带着他老婆的盾牌一样大的像框和电话本一样的资料书,我懒的给他们背了,自己轻装就往灯光的地方跑去。

Tôi vứt bớt một ba lô trang bị đi, thứ này thật sự là nặng quá đi mất. Đồ nghề thám hiểm của người nước ngoài cá nhân hóa lắm, có lần tôi còn thấy có người mang theo một cái khung ảnh vợ của mình to như cái khiên, hay một quyển sách cỡ cái tablet vậy. Tôi lười vác giùm bọn họ lắm rồi, bèn trang bị nhẹ nhàng rồi tiếp tục chạy về phía ngọn đèn nọ.

可是,无论我怎么跑,那灯光却还是遥不可及,好像一点也没有靠近一样,我喘的厉害,心里想放弃,但是又不甘心。跑着跑着,前方的灯光就迷离了起来。

Thế nhưng dù tôi có chạy đến cỡ nào ngọn đèn kia vẫn cứ ở xa tít mù tắp, cứ như thể tôi chẳng đến gần thêm được tí gì. Tôi thở hồng hộc. nghĩ muốn bỏ cuộc rồi, nhưng vẫn thấy không cam lòng. Lại chạy tiếp, chạy mãi, ngọn đèn phía trước liền hoa hết cả lên.

就在我快要失去知觉,扑倒在地上的时候,忽然间,有人一下子把我架住了。我已经没有体力了,给他们一拉就跪倒在地上。抬头去看,透过风镜,我认出了这两个人的眼睛,一个是闷油瓶,一个是黑眼镜,他的风镜也是黑色的。这两个人亟亟将我拉起来,就将我拖向另外一个方向。

Ngay khi tôi sắp mất đi tri giác mà té nhào xuống đất thì bỗng nhiên, có người nào đó chợt kéo tôi lại. Tôi đã kiệt sức rồi, bọn họ kéo một cái tôi liền khuỵu xuống đất. Ngẩng đầu nhìn, qua một lớp kính chắn gió, tôi nhận ra đôi mắt của hai người kia. Một người là Muộn Du Bình, người còn lại là tên Kính Râm, kính chắn gió của tên này cũng màu đen nốt. Hai người kia vội vàng kéo tôi đi sang một hướng khác.

我挣脱他们,指着前方,想告诉他们那里有避风的地方。

Tôi giãy khỏi bọn họ, chỉ vào phía trước, muốn nói rằng ở đó có nơi tránh gió.

然而我再一看,却呆住了,什么都没有看到,前方的灯光竟然消失了,那里是一片的黑暗,连那个巨大的轮廓也不见了。

Nhưng khi tôi vừa nhìn lại liền ngây ra, phía trước không thấy gì cả, ngọn đèn lúc nọ đã biến mất, ở đó chỉ có bóng tối mịt mùng, ngay cả cái bóng khổng lồ kia cũng không thấy đâu nữa.

闷油瓶和黑眼镜没有理会我,一路拖着我,这时候我看到黑眼睛的手里拿着信号枪。两个人的力气极大,我近一百八十斤的体重被他们提的飞快。很快我也清醒了过来,开始用脚蹬地,表示我可以自己跑。

Muộn Du Bình và Hắc Nhãn Kính không thèm để ý đến tôi, một mạch kéo lê tôi đi. Lúc bấy giờ tôi nhìn thấy khẩu súng tín hiệu trong tay tên Hắc Nhãn Kính. Hai người này khỏe khủng khiếp, tôi nặng gần chín mươi cân mà cũng bị bọn họ xách đi thoăn thoắt. Rất nhanh, tôi dần tỉnh lại, bắt đầu đạp chân lên mặt đất, ý rằng tôi có thể tự chạy được.

他们放开了我,我一下就后悔了,这两个人跑的太快,跟着他们简直要用尽全身的力气,我咬牙狂奔,一路跟着,足跑了二十分钟,眼睛里最后只剩下前面跑的两个影子。恍惚中我知道我们已经冲上河岸,绕过了一团土丘,接着前面两个黑影就不见了。

Bọn họ thả tôi ra, tôi lập tức hối hận ngay. Hai người kia chạy quá nhanh, muốn đuổi theo phải dồn hết cả hơi sức mà chạy. Tôi cắn răng chạy như điên, chạy một mạch, chạy đủ hai mươi phút, trước mắt tôi cuối cùng chỉ còn lại hai cái bóng của hai người nọ. Tôi hoảng hốt, biết bọn tôi đã chạy đến bờ sông rồi. Trèo lên được một đồi đất, hai bóng người phía trước đã không thấy tăm hơi.

我大骂了一声等等我,脚下就突然一绊,摔了好几个跟头,一下滚到了什么斜坡下。我挣扎的爬起来吐出嘴巴里的泥,向四周一看,斜坡下竟然是一道深沟,里面全是人,都缩在沟里躲避狂风。看到我摔下来,都抬起头看着我。

Tôi gào toáng lên chờ tôi với, dưới chân lại đột nhiên vấp một cái, ngã lộn tùng phèo xuống dưới sườn dốc. Tôi vùng vẫy đứng lên, nhổ hết bùn đất trong mồm ra, nhìn khắp bốn phía xung quanh. Thì ra bên dưới sườn dốc này là một con rãnh sâu, trong rãnh toàn là người, tất cả đều co lại trong rãnh để tránh cơn cuồng phong. Thấy tôi ngã xuống, cả đám bèn ngẩng đầu nhìn tôi.

我们缩在沟的底部,沙尘从我们头上卷过去,戈壁滩并不总是平坦的,特别是在曾经有河流淌过的地方,河道的两边有很多潮汛时候冲出来的支渠,这些戈壁上的伤疤不会很深,但是也有两三米,已经足够我们避风了。

Chúng tôi co người lại dưới đáy rãnh, cát bụi cuồn cuộn lướt qua trên đầu chúng tôi. Hoang mạc Gobi không phải lúc nào cũng bằng phẳng, đặc biệt là ở những nơi từng có con sông chảy qua. Hai bên bờ sông có rất nhiều những con rạch nhỏ ngập nước mỗi khi thủy triều lên, những vết sẹo trên bề mặt hoang mạc này không quá sâu nhưng cũng phải cỡ hai, ba mét, thế là đã đủ cho chúng tôi tránh gió rồi.

我已经精疲力竭,几个人过来,将我扯到了沟渠的底部。原来在沟渠的底部的一侧有一处很大的凹陷,好像是一棵巨大的胡杨树给刮倒后,根部断裂形成的坑被水冲刷后形成的,胡杨的树干已经埋在沟渠的底部,只能看到一小部分,他们都缩在这个凹陷里面,里面点着无烟炉取暖,一点风也没有。

Tôi đã sức cùng lực kiệt, có mấy người chạy đến đưa tôi xuống đáy con rạch. Hóa ra ở chếch bên trong con rạch này còn có một cái ao trũng rất lớn, có lẽ ở đây từng có một cây hồ dương lớn, cây hồ dương này sau khi bị đổ, bộ rễ của nó gãy lìa tạo thành một cái hố, lâu dần bị nước xối vào bào mòn nên mới hình thành cái ao trũng này. Thân cây hồ dương đã bị chôn vùi dưới đáy con rạch, chỉ có thể nhìn thấy một phần nhỏ nhô lên. Tất cả mọi người đều lui vào trong ao trũng này, còn đốt một bếp lò không khói để sưởi ấm, bên trong không có một chút gió nào.

我给人拖了进去,凹陷很浅,也不高,里面已经很局促了,他们给我让开了一个位置,一边有一个人递给我水。这里是风的死角,已经可以说话,可是我的耳朵还没有适应,一时听不到他们在说什么。

Tôi bị người ta kéo vào trong. Ao trũng rất nông, cũng không cao lắm, ở bên trong đã chật chội lắm rồi, bọn họ co vào nhường cho tôi một chỗ, lại có một người khác đưa nước cho tôi. Nơi này là góc chết gió không thổi đến được, cho nên nói gì cũng có thể nghe thấy, thế nhưng tai tôi vẫn còn chưa thích ứng được, nhất thời không nghe thấy nổi bọn họ đang nói cái gì.

喝了几口水后,我感觉好多了,拿掉了自己的风镜,就感慨他娘的,中国有这么多的好地方,为什么偏偏我要来这里?

Uống mấy ngụm nước xong tôi mới cảm thấy khá hơn. Tôi tháo kính chắn gió ra, không khỏi bùi ngùi:《Trung Quốc này thiếu gì nơi tốt đẹp, thế đếch nào tôi cứ đâm đầu vào nơi này thế không biết?》

不过,这样的风在柴达木应该不算罕见,这还不是最可怕的风,我早年看过关于柴达木盆地地质勘探的纪录片,当时勘探队在搭帐篷的时候来了信风,结果人就给风筝一样给吹了起来,物资一瞬间全给吹出去十几里外。只不过我感觉到奇怪的是,定主卓玛为什么没有警告我们?戈壁上的信风是很明显的,不要说老人,只要是在这里生活上一段时间都能摸到规律。

Có điều, gió như vậy ở Sài Đạt Mộc chưa được tính là hiếm, cũng chưa phải mùa gió đáng sợ nhất ở đây. Trước đây tôi từng xem qua một số phim tài liệu về khảo sát địa chất ở bồn địa Sài Đạt Mộc, lúc đó đội khảo sát đang dựng lều thì gặp phải gió mùa, kết quả cả đám người đều bị thổi tung lên trời như mấy con diều, đồ đạc trong nháy mắt liền bị thổi bay ra xa cả chục mét. Chỉ có điều tôi cảm thấy rất kỳ lạ, vì sao Định Chủ Trác Mã lại không cảnh báo chúng tôi về điều này? Gió mùa trên hoang mạc Gobi rất rõ ràng, đừng nói là một bà già, chỉ cần là người sống ở đây một khoảng thời gian là có thể tự mò ra được quy luật của gió rồi.

同样,不知道这风什么时候才能刮完,经常听戈壁上的人说,这种地方一年只刮两次风,每一次刮半年,一旦刮起来就没完没了。要是长时间不停,我们就完蛋了。

Vả lại, chẳng biết gió này bao giờ mới chịu ngừng. Bình thường nghe người trên hoang mạc nói, ở nơi như thế này một năm chỉ có hai mùa gió, mỗi mùa phải đến nửa năm, một khi gió đã nổi là sẽ thổi không ngừng. Nếu cứ kéo dài như vậy, chúng tôi coi như xong đời.

闷油瓶子和那个黑眼镜很快又出去了,肯定又是去找其他的人,这里的人显然都受到了惊吓,没有几个人说话,都蜷缩在一起。我心里感觉好笑,心说还以为这些人都像印地安那琼斯一样,原来也是这样的不济,不过我随即就发现自己的脚不停的在抖,也根本没法站起来。

Muộn Du Bình và Hắc Nhãn Kính chẳng mấy chốc lại đi ngoài, hẳn là đi tìm những người khác. Những người ở đây rõ ràng đều đã khiếp sợ vô cùng, chẳng có mấy ai nói chuyện, tất cả đều co rúm người lại một chỗ. Tôi thầm cảm thấy tức cười, nghĩ bụng còn tưởng bọn họ cũng giống như Indiana Jones chứ, hóa ra cũng chẳng ăn thua gì. Có điều tôi liền nhận ra chân của mình cũng không ngừng run rẩy, không thể đứng lên nổi.

递给我水的人问我没事吧?身上有没有地方挫伤?我摇头说我没事。

Người đưa nước cho tôi uống hỏi tôi có sao không, có bị bầm tím chỗ nào không? Tôi lắc đầu đáp tôi không sao.

说实在的,在长白山冒着暴风雪的经历我还记忆犹新,现在比起那时候,已经算是舒服了,至少我们可以躲着,也不用担心冻死。

Thực ra, ký ức của tôi về một chuyến mạo hiểm trong bão tuyết trên núi Trường Bạch kia hẵng còn mới mẻ, như bây giờ là đã thoải mái hơn hồi đó rồi, cuối cùng cũng có thể xem như là được nghỉ ngơi thư thái một chút, chí ít chúng tôi còn có chỗ ẩn náu, cũng không phải lo bị chết cóng.

倒了一点水给自己洗脸,眼睛给风镜勒的生疼,这个时候也逐渐舒缓了。

ChatGPT 说:

Tôi rót một ít nước ra rửa mặt, đôi mắt bị dây kính bảo hộ siết chặt đến mức đau rát, lúc này mới dần dần dịu đi.

放松了之后,我才得以观察这坑里的人,我没有看到阿宁。定主卓玛、他儿媳妇扎和西三个人,在凹陷的最里面,乌老四也在,人数不多,看来大部分的人还在外面,没有看到高加索人。

Sau khi nghỉ ngơi một lúc, tôi mới có thể quan sát khắp mọi người trong ao trũng này một lượt, lại không thấy A Ninh đâu. Ba người Định Chủ Trác Mã, cô con dâu và Trát Tây ở tít bên trong cùng của cái ao trũng, Ô Lão Tứ cũng ở đây, nhân số không nhiều lắm, xem ra đa số mọi người vẫn còn ở bên ngoài, cũng không thấy anh chàng Caucasus đâu.

这支队伍的人数太多了,我心想,阿宁他们肯定还在外面寻找,这么多的人,纵使闷油瓶他们三头六臂,也照顾不过来了,幸好不是在沙漠中,不然,恐怕我们这些人都死定了。

Đội ngũ này nhân số nhiều lắm, tôi thầm nghĩ, bọn A Ninh chắc hẳn vẫn đang ở bên ngoài tìm kiếm. Nhiều người đến vậy, cho dù bọn Muộn Du Bình có ba đầu sáu tay cũng chẳng thể lo hết được. Cũng may đây còn chưa phải ở trong sa mạc, nếu không, chỉ e là mấy người bọn tôi đều chết chắc rồi.

三个小时后,风才有点减缓,闷油瓶他们刚开始偶尔还能带几个人回来,后来他们的体力也吃不消了,也就不再出去。我们全部缩在了里面,昏昏沉沉的,一直等到天色真真的黑下来,那是真的漆黑一片了。外面的风声好比恶鬼在叫,一开始还让人烦躁,到后来就直感觉想睡觉。

Ba giờ sau, gió mới chậm lại một chút, mới đầu bọn Muộn Du Bình thỉnh thoảng còn có thể đưa được vài người trở về, về sau bọn họ cũng kiệt sức, không ra ngoài nữa. Tất cả chúng tôi chui vào bên trong, nằm mê man, mãi cho đến khi sắc trời tối sụp xuống thật, bấy giờ mới quả thực là tối đen như mực. Tiếng gió thổi bên ngoài như tiếng ác quỷ gầm thét, mới đầu còn khiến người ta khó chịu, về sau thì chỉ cảm thấy buồn ngủ.

我早就做好了过夜的准备,也就没有什么惊讶的,很多人其实早就睡着了。有人冒着风出去,翻出了在外面堆着的很多行李里的食物,我们分了草草的吃了一点,我就靠着黄沙上睡着了。

Tôi đã chuẩn bị sẵn việc gác đêm, cũng không có gì đáng ngạc nhiên, thực ra có nhiều người đã ngủ từ lâu. Có người mạo hiểm xông ra ngoài gió cát, lấy ít thức ăn trong các ba lô hành lý xếp chất đống ở bên ngoài. Chúng tôi phân chia thức ăn, ăn qua loa một ít, tôi liền ngả mình xuống cát vàng mà ngủ thiếp đi.

也没有睡多久,醒来的时候风已经小了很多,这是个好迹象,我看到大部分人都睡觉了,扎西坐在凹陷的口子上,似乎在守夜。这里并不安稳,在我们头顶上的不是石头,就是干裂的泥土和沙石,所以不时的有沙子从上面掉下来,我睡着的时候吃了满口的沙子,感觉很不舒服,一边呸出来,一边就走到扎西身边去。

Không biết ngủ được bao lâu, khi tỉnh lại thì gió đã nhỏ đi nhiều. Đây là một dấu hiệu tốt. Tôi thấy đa số mọi người vẫn còn đang ngủ, Trát Tây ngồi trên chỗ cửa chui vào ao trũng, có lẽ là đang gác đêm. Ở đây không an ổn cho lắm, trên đỉnh đầu chúng tôi không phải là đá, mà là đất bùn khô nứt cùng cát đá, cho nên thỉnh thoảng lại có cát từ phía trên lọt xuống. Lúc tôi ngủ đã ăn cả một mồm toàn cát, cảm giác rất khó chịu, cho nên tôi phun cát phì phì vừa đi ra đến bên cạnh Trát Tây.

我并不想找扎西去说话,扎西不是一个很好相处的人,或者说他对我们有着戒备,而我也不是那种能用热脸去贴冷屁股的人,所以他的态度我并不在乎。我走到他的身边,只是想吸几口新鲜的空气,换个地方睡觉。

Tôi không có ý định tìm Trát Tây để nói chuyện phiếm. Trát Tây không phải loại người dễ sống chung, có lẽ cậu ta có tâm lý đề phòng với chúng tôi, mà tôi thì không phải cái loại người rảnh háng đi đem mặt nóng úp vào mông lạnh làm gì, cho nên cậu ta có thái độ mấy tôi cũng chẳng để tâm. Tôi đi tới bên cạnh cậu ta, chỉ là vì muốn hít mấy hớp khí trong lành, đổi chỗ ngủ.

不过我走过去的时候,就听到外面有声音,然后看到外面有矿灯的光线,似乎有人在外面。

Có điều, khi tôi vừa đến chỗ đó, chợt nghe bên ngoài có tiếng động, sau đó thấy ở ngoài có ánh sáng đèn mỏ, hình như có người nào ở ngoài.

我心中奇怪,问扎西怎么了?扎西递给我一支土烟,说阿宁回来了,风小了,他们叫了人出去找其他人去了,顺便看看车子怎么样了。

Tôi lấy làm lạ, hỏi Trát Tây có chuyện gì thế? Trát Tây đưa cho tôi một điếu thuốc lá, nói A Ninh đã về, gió đã nhẹ bớt, bọn họ gọi người ra ngoài tìm những người khác, tiện thể xem xe cộ thế nào.

我想到陷在沙子里的车子,心里也有一些担心,这么大的风沙,不知道这些车子挖出来还能不能开,而且我比较担心高加索人,不知道他回来了没有,于是戴上了风镜,批上斗篷也走了出去,想去问问情况。

Tôi nghĩ đến chiếc xe bị cát lún, trong lòng cũng có chút lo lắng. Bão cát lớn đến vậy, không biết mấy chiếc xe này còn có thể chạy được không nữa. Hơn nữa, tôi khá là lo cho anh chàng người Caucasus nọ, không biết anh đã về chưa. Thế là tôi bèn đeo kính chắn gió lên, khoác áo choàng, đi ra ngoài xem, định đi hỏi thăm tình hình một chút.

一走到外面,我心里就松了口气,外面的风比我想象的还要小,看来风头已经过去了,空气中基本上没有了沙子,我扯掉斗篷,大口的呼吸了几下戈壁上的清凉空气,然后朝矿灯的方向走去。

Vừa đi ra ngoài, tôi liền thở phào một cái. Gió ở bên ngoài còn nhẹ hơn so với trong tưởng tượng của tôi, xem ra gió đầu đã qua rồi, trong không khí không còn nhiều cát bụi nữa. Tôi kéo áo choàng xuống, hít mấy hơi đầy lồng ngực cái bầu không khí mát rượi nơi hoang mạc, sau đó đi về phía có ánh đèn mỏ.

那是河床的方向,我走了下去,来到了他们身边。

Đó là hướng phía lòng sông. Tôi đi xuống đó, đến bên mấy người bọn họ.

他们正在查看一辆车,这辆车斜着陷在了沙子里,只剩下一个车头,阿宁拿着无线电,正在边上焦急的调拨着频率。

Bọn họ đang kiểm tra một chiếc xe. Chiếc xe này đã ngập trong hố cát, chỉ còn chừa lại cái mũi xe. A Ninh tay cầm bộ đàm, sốt ruột điều chỉnh tần số.

我问他们:"怎么样?"

Tôi hỏi bọn họ: "Sao rồi?"

一个人摇头,只说了一句:"妻离子散。"

Một người lắc đầu, chỉ nói một câu: "Thê ly tử tán."

我莫名其妙,并不是很能理解他的意思,于是看向阿宁。

Tôi ù ù cạc cạc, không hiểu anh này nói vậy là có ý gì cho lắm, vì vậy bèn nhìn về phía A Ninh.

她看到我,很勉强的笑了笑,就走过来解释道:"刚才定主卓玛说,可能还要起风,我们必须尽快找到更好的避风点。不过我们的车都困住了,有几辆肯定报废了,其他的恐怕也不能开动,需要整修。"她顿了顿,"最麻烦的是,有四个人不见了,有可能在刚刚风起的时候就迷失了方向,我们刚才找了一圈也找不到。"

Cô ta nhìn tôi, cười rất miễn cường, đi tới giải thích: "Vừa rồi Định Chủ Trác Mã nói, rất có thể gió sẽ lại nổi lên lần nữa, chúng ta phải mau chóng tìm một nơi có thể tránh gió tốt. Có điều, xe của chúng ta đều bị cát lún cả, có mấy chiếc chắn chắn là hỏng rồi, những chiếc xe khác chỉ sợ cũng không thể khởi động được, cần phải sửa lại." Cô ta dừng lại một chút, "Phiền toái nhất chính là, có bốn người không tìm thấy được. Có lẽ khi nãy nổi gió họ bị lạc đường, chúng tôi vừa đi một vòng tìm mà không thấy."

我问是哪几个人,阿宁就说是那个高加索人,还有三个人我不熟悉。

Tôi hỏi mấy người đó gồm những ai, A Ninh nói đó là anh chàng người Caucasus kia và ba người còn lại tôi không quen biết.

高加索人在失踪的时候是和我在一起的,我就给他们指了方向,问他们有没有去那一带找过。阿宁就点头,说附近都找了,这些人肯定走得比她想的更远。

Khi anh chàng người Caucasus mất tích là ở cùng với tôi, tôi liền chỉ hướng cho bọn họ, hỏi bọn họ đã tìm ở vùng đó chưa. A Ninh bèn gật đầu, nói đã tìm khắp các vùng xung quanh rồi, những người này chắc chắn còn đi xa hơn cô ta nghĩ.

我叹了口气,安慰了她几句,让她不要着急。这些人都有GPS,而且风这么大,肯定走不远,现在还有风,视野不是很清晰,等到天亮,找起来就方便点了。

Tôi thở dài, an ủi cô ta mấy câu, bảo cô đừng lo lắng. Những người này đều có GPS, hơn nữa, gió lớn như vậy, chắc chắn không thể đi xa được. Bây giờ vẫn còn có gió, tầm nhìn không quá rõ ràng, đợi đến rạng sáng lại tìm thì tiện hơn.

她咬着下嘴唇点了点头,但是表情并没有变化,让我感觉似乎有些不妙。我对于戈壁也不熟悉,此时不知道会发生什么事,只好闭嘴了。

Cô ta cắn môi gật đầu nhưng vẻ mặt không thay đổi gì, làm tôi cảm thấy có chút không ổn. Tôi cũng không biết gì về hoang mạc Gobi, bây giờ không biết sắp xảy ra chuyện gì nữa, cho nên không còn cách nào khác ngoài im miệng lại.

我们强行打开了两辆车的车门,拿出了里面的装备,然后他们还要去找下一辆,我只好跟着过去。

Chúng tôi gắng sức mở cửa hai chiếc xe, lấy hết trang bị bên trong ra, sau đó bọn họ còn định đi tìm thêm một chiếc xe nữa, tôi chỉ biết chạy theo sau.

此时我发现把车子陷入到河床当中的,似乎不是小说中经常提到的流沙,而是在河床的底部,地面被压塌了,车子给整个陷了下去,又没有没顶。有个人告诉我,是盐壳给压碎了,这里的戈壁下面很多地方都有大量的盐壳,这里是河床,之前有水的时候,河底的情况非常复杂,有着大量的沉淀物,干旱之后,盐壳结晶的时候就留下了很多的空隙,所以这种河床中有些地方其实像干奶酪一样,并不经压,我们停车停错了地方。

Lúc này tôi phát hiện ra xe bị lún xuống ở giữa lòng sông, dường như không phải do cát lún thường nhắc đến trong tiểu thuyết, mà là mặt đất ở dưới đáy lòng sông kia bị sụt xuống, cả xe bị rơi xuống dưới, cho nên mới không bị ngập quá nóc xe. Có người nói với tôi, đó là do lớp vỏ muối bị vỡ vụn. Nhiều nơi ở bên dưới hoang mạc này có rất nhiều lớp vỏ muối. Nơi này vốn là lòng sông, trước kia khi sông vẫn còn nước, đáy sông vô cùng phức tạp, có một lượng lớn các chất tích tụ ở dưới. Khi khô hạn, vỏ muối kết tinh để lại rất nhiều khe hở, cho nên, ở nơi lòng sông này có những vùng có kết cấu như một miếng pho-mát, không chịu được sức ép. Như vậy là chúng tôi đã đỗ xe ở sai chỗ rồi.

我奇怪道:"但是我们一路过来都是在河床上走的,一直没出事情啊。"

Tôi lấy làm lạ, nói: "Nhưng suốt dọc đường chúng ta đều đi trên lòng sông này, đâu có xảy ra chuyện gì?"

那人道:"那是因为之前我们走的河道已经干旱了很久了,但是现在我们脚下的河道,最多干了半年时间。你没有发现这里几乎没有草和灌木吗?"

Người kia đáp: "Đó là bởi vì con đường sông trước đó chúng ta đi đã khô cạn từ rất lâu rất lâu về trước rồi, còn đường sông ngay dưới chân chúng ta đây cùng lắm mới chỉ khô cạn được khoảng nửa năm. Cậu có thấy ở đây gần như không có một cọng cỏ hay một bụi cây nào không?"

我吃惊的看了看四周,果然如此,四周光秃秃的,连梭梭都不长。

Tôi giật mình nhìn xung quanh, quả là vậy, bốn phía đều trơ trụi, ngay cả một cây saxaul cũng không mọc nổi.

那人朝我道:"我们现在肯定是朝着这条河的上游走,这条河的尽头肯定是一座高山,如果河流没有改过道的话,在这种河的附近肯定会有古城或者遗迹,这说明那个藏族老太婆并不是瞎带路的。我老早还以为这老太婆是个骗子。"

Người kia nói với tôi: "Bây giờ chúng ta hẳn là đang đi về phía thượng du con sông này. Ở đầu nguồn con sông này chắc chắn phải có một ngọn núi cao, nếu sông không bị đổi dòng thì ở gần con sông này nhất định sẽ có thành cổ hoặc di tích gì đó, như vậy có nghĩa là bà lão người Tạng kia cũng không phải chỉ đường bậy bạ gì. Lúc đầu tôi còn tưởng bà già này là kẻ lừa đảo cơ đấy."

我看着他指的河道上游,在平坦的戈壁上,好像真有点什么。想起在风里看到的那巨大的黑影,我总感觉那不是我的错觉。

Tôi nhìn anh ta chỉ tay về phía thượng du con sông, trên hoang mạc bằng phẳng dường như quả thật có một điểm gì đó. Nhớ đến bóng đen khổng lồ giữa cơn gió lớn nọ, tôi vẫn có cảm giác đó không phải là ảo giác của tôi.

当天晚上,我们将所有的车都找了出来,然后把行李都集中了起来。天亮的时候,其他人陆续的醒了,阿宁开始组织他们忙活,修车的修车,找人的找人。

Đến nửa đêm, chúng tôi tìm thấy được toàn bộ xe của mình, sau đó chất hết hành lý lên xe. Bình minh lên, mọi người lần lượt tỉnh giấc, A Ninh bắt đầu phân chia các công việc: người thì sửa xe, người thì đi tìm những người khác.

我和另外几个晚上找车的人就吃了点东西,到睡袋里去补觉,非常疲倦,一睡就睡到了夕阳西下。

Tôi cùng với mấy người đi tìm xe tối hôm trước thì đi kiếm chút gì đó ăn, sau đó chui vào túi ngủ ngủ bù. Chúng tôi mệt mỏi rã rời, ngủ một lần là ngủ đến tận khi mặt trời ngả về tây.

醒来之后,风已经完全听了,沙尘都没了,那批人的效率很高,好几辆车都修好,整装待发,各种物资也都重新分配好了,正在重新装车。

Khi tỉnh lại, gió đã hoàn toàn ngừng hẳn. Không còn cát bay nữa, hiệu suất làm việc của mọi người lại càng tăng cao: có mấy chiếc xe đã được sửa xong, chỉ còn chờ xuất phát; các loại đồ dùng trang bị đã được sắp xếp lại, cất ở trong xe.

阿宁一天一夜没睡,在不停的听着无线电,闷油瓶和那个黑眼镜都不在,一问,两个人还在外面找那四个失踪的人。

A Ninh đã không ngủ một ngày một đêm, đến giờ vẫn đang không ngừng nghe bộ đàm. Muộn Du Bình và tên Hắn Nhãn Kính kia cũng không có ở đây, đi hỏi thăm thì được biết, hai người họ vẫn đang ở bên ngoài đi tìm bốn người bị mất tích.

我听了感觉到不太妙,已经一天时间了,那四个人竟然还没有找到,不是有GPS吗?难道真的如扎西说的,这东西在戈壁里不管用?

Tôi nghe xong liền cảm thấy lo lắng. Đã một ngày một đêm rồi, vậy mà vẫn không tìm được bốn người nọ, chẳng phải bọn họ có GPS đấy sao? Hay lẽ nào lại đúng như lời Trát Tây nói, thứ này không thể dùng được trong hoang mạc?

我从包里拿了干粮出来,边吃边到阿宁身边,问具体的情况。

Tôi lấy từ trong ba lô ra một ít lương khô, vừa ăn vừa đến chỗ A Ninh hỏi tình hình cụ thể.

阿宁眉头紧锁,黑眼圈都出来了,感觉很憔悴,问她她也没什么心思回答我,对讲机一直是在外面找人的对话,用的是英文,我草草听了,都不是好消息。

A Ninh cau mày, hai vành mắt đều đã thâm sì, trông có vẻ rất tiều tụy, tôi hỏi cô cô cũng chẳng có tâm tư đâu mà trả lời tôi, vẫn liên tục nói chuyện qua bộ đàm với người đang đi tìm ở bên ngoài. Bọn họ nói chuyện bằng tiếng Anh, tôi nghe loáng thoáng cũng biết đó không phải là tin tốt gì.

我问她要不要我也出去找一下,她就摇头说不用了,已经分了三组出去,都在找第三遍了,我去了也不见得有用,让我收拾一下,扎西他们在前面二十公里的地方发现了一个魔鬼城,等一下我们出发到那里去休整,晚上还有起风。

Tôi hỏi cô ta có cần tôi ra ngoài đi tìm nữa không, cô ta lắc đầu, nói rằng không cần đâu, cô đã cử ba nhóm người ra ngoài tìm, đã đi đến lần thứ ba rồi, tôi có đi cũng chỉ vô dụng. Rồi cô ta lại bảo tôi đi thu dọn ít đồ, bọn Trát Tây đã tìm thấy một tòa thành ma ở cách đây khoảng hai mươi kilomet phía trước, một lúc nữa chúng tôi sẽ đi đến đó nghỉ ngơi, kẻo buổi tối trời sẽ nổi gió.

我看她的样子已经焦头烂额,也不想烦她,就去看另外一批人修车,帮忙递工具。

Tôi thấy cô ta đã vò đầu bứt tai lắm rồi, cũng không muốn làm phiền thêm nữa, bèn đi ra chỗ nhóm người đang sửa xe, giúp bọn họ lấy dụng cụ.

大概看了半个多小时,扎西从远处的河床里回来,对我们道又要起风了,前面的地平线已经起沙线了,我们要快走,不然车子就白修了。

Khoảng nửa tiếng sau, Trát Tây từ phía lòng sông phía xa xa trở về, nói với chúng tôi rằng trời sắp nổi gió rồi, đường chân trời phía trước đã nổi cát bụi mù mịt, chúng ta phải mau đi thôi, nếu không công sức sửa chữa xe cộ nãy giờ sẽ đổ sông đổ bể mất.

我们马上准备,很快就把东西准备好,因为车子少了,没修好的车子就给拖在后头,我和几个藏人一辆车,起程朝太阳落山的地方出发。

Chúng tôi lập tức chuẩn bị, rất nhanh đã chuẩn bị xong. Bởi vì thiếu xe, cho nên những xe nào chưa sửa xong thì được kéo đi ở đằng sau. Tôi ngồi cùng xe với mấy người Tạng, lên đường đi về phía nơi mặt trời khuất núi phía xa xa.

在浩瀚戈壁上大概开了二十分钟,夕阳下前方就出现了雅丹地貌的影子,一座座石头山平地而起,对讲机里传来扎西的声音,指引我们调整方向,很快便看到一座巨大的"城堡",出现在视野里。

Đi giữa hoang mạc Gobi mênh mông này khoảng chừng hai mươi phút, nơi mặt trời lặn phía trước dần xuất hiện những bóng hình núi đá bị phong hóa của dạng địa hình Yardang, từng ngọn núi đá nhô lên trên mặt đất bằng. Từ trong bộ đàm vang lên tiếng của Trát Tây chỉ hướng đi cho chúng tôi, chẳng mấy chốc, một "tòa thành" to lớn liền xuất hiện trước tầm mắt.

那就是扎西选择的避风的地方,我们直开过去,开近看时,发现那是一座馒头一样的大石山,后面就是逐渐密集的大片雅丹地貌,好比城堡后面的防御工事。

Đó chính là nơi tránh gió mà Trát Tây đã chọn, chúng tôi bèn đi thẳng đến đó. Khi đến gần, ngước nhìn lên mới thấy, hóa ra đó là một ngọn núi đá hình dáng giống như một cái bánh bao, đằng sau nó là cả một khoảng lớn lố nhố đầy những tảng đá núi bị phong hóa của địa hình Yardang, trông như những pháo đài phòng thủ của một tòa thành vậy.

魔鬼城又叫风城,是大片岩石被大风雕琢出来的奇特地形,一大片区域内,分布着大量奇形怪状的岩山,可以给人想象成各种诡异的事物,而且风刮过这些岩石的时候,因为分布的关系,会发出鬼哭狼嚎的声音,所以叫做魔鬼城。在戈壁上,这样的地貌非常常见。我以前在新疆参观过,这一次也并不好奇。

Tòa thành ma này còn có tên là phong thành, do ở đây rất nhiều những tảng đá lớn ở đây bị gió bào mòn, tạo thành một dạng địa hình vô cùng đặc biệt: trải dài trong cả một khu vực lớn rải rác những mỏm núi đá hình thù kỳ lạ, dễ khiến người ta liên tưởng đến những chuyện ma quỷ; hơn nữa, do sự phân bố của các mỏm núi đá nên khi gió thổi qua sẽ vang lên những tiếng động nghe như tiếng gào khóc thảm thiết, vì vậy nó mới được gọi là tòa thành ma. Dạng địa hình này rất phổ biến trên các hoang mạc. Trước đây tôi từng đi tham quan ở Tân Cương cho nên lần này thấy vậy cũng không lấy gì làm kỳ lạ.

我们在那"城堡"外面,一座底部平坦的岩山停了下来,扎西先跳下来吆喝,我们都下来开始扎营,两个小时后,果然开始起风,一下又是遮天蔽日的风沙,一直刮到半夜,才像昨天一样慢慢小了下来。

Chúng tôi dừng chân bên dưới một mỏm núi đá bằng phẳng ở bên ngoài "tòa thành". Trát Tây nhảy xuống trước rồi gọi to, chúng tôi bắt đầu xuống xe lục tục hạ trại. Hai tiếng sau, quả nhiên trời bắt đầu nổi gió, chẳng mấy chốc cát bụi mù mịt che kín cả bầu trời. Giống như hôm qua, gió thổi mãi đến tận nửa đêm mới dần dần dịu lại.

风太大,魔鬼城里鬼哭狼嚎的,谁也睡不着,风小了,才逐渐一个一个睡了过去。那两个白天睡觉的守夜,这两个人都对魔鬼城很感兴趣,看我和扎西也没有睡,都到外面去拍照。扎西就让他们小心点,不要走进去,里面很容易迷路。

Gió quá lớn, ma quỷ trong thành gào khóc thảm thiết, chẳng ai có thể ngủ nổi. Gió nhỏ dần, mọi người mới dần dần thiếp đi. Có hai người do ban ngày đã ngủ nên giờ phải gác đêm, hai người này cảm thấy rất hứng thú với những ma quỷ trong tòa thành kia, thấy tôi và Trát Tây vẫn chưa ngủ bèn đi ra ngoài chụp ảnh. Trát Tây nhắc nhở bọn họ phải cẩn thận một chút, đừng đi vào bên trong, rất dễ lạc đường.

我白天睡了觉,非常精神,阿宁则是琢磨明天的搜索办法,手还一直抓着对讲机,看来不找到那几个人,阿宁是不会休息了。

Tôi buổi sáng đã ngủ đủ, bây giờ hẵng còn tỉnh như sáo. A Ninh đang vắt óc suy nghĩ cách tìm người vào ngày hôm sau, tay vẫn cầm khư khư cái bộ đàm. Xem ra, nếu không tìm được mấy người kia thì A Ninh sẽ không chịu đi nghỉ ngơi.

我过去劝她睡一会儿,还没说了几句话,忽然就有人在远处的戈壁上大叫:"队医!队医!"

Tôi đi đến khuyên cô đi ngủ một lúc, còn chưa nói được mấy câu, bỗng có tiếng người ở bên ngoài kêu to: "Bác sĩ! Bác sĩ!"

阿宁的队医是个胖子,也没睡在看书,一听就醒了,我们也朝那边望去,就听到那边在喊:"快过来!找到阿K了!"

Bác sĩ của đội A Ninh là một ông béo mập, lúc này ông ta cũng không ngủ mà đang đọc sách, nghe thấy tiếng người gọi liền ngồi dậy. Chúng tôi cũng nhìn về phía tiếng gọi, liền nghe bên đó có tiếng gọi: "Mau tới đây! Tìm được A K rồi!"

阿K就是失踪的四个人中的一个,我们一听全部跳起来,三步并成两步的跑过去,一下就看到是那两个拍魔鬼城的人,在一个土丘上朝我们招手,冲过去一看,只见在土丘上有一个大坑,坑底就躺着一个人,正是那个阿K。

A K là một trong bốn người mất tích. Chúng tôi vừa nghe liền giật cả mình, vội vã chạy tới bên đó. Chúng tôi nhìn thấy ở đó có hai người đi chụp ảnh tòa thành ma lúc nãy, đang đứng trên một gò đất vẫy tay với chúng tôi. Chạy đến nhìn xem, chỉ thấy trên gò đất này có một cái hố rất to, trong hố có người đang nằm. Đó chính là A K.

队医跑得气喘吁吁,跳了下去,摸了一下,就大叫:"还活着。"

Bác sĩ hồng hộc chạy đến, nhảy xuống hố, sờ soạng một lúc rồi kêu to: "Còn sống."

几个人手忙脚乱的冲下去抬人,队医大叫让他们把他抬到帐篷里去。

Có mấy người luống cuống nhảy xuống hố khiêng người bị nạn lên. Bác sĩ kêu bọn họ khiêng anh ta vào trong lều.

现场一片混乱,扎西背起那人跑了回去,我就给挤到了一边,看了看那个坑,又看了看一边我们来的方向,心说天哪,这人怎么会倒在这里,这和我们昨天停车的地方还有二十公里还多啊,而且当时这方向还是逆风。他是顶着风过来的?

Cảnh tượng rất hỗn loạn. Trát Tây cõng người nọ chạy về lều, tôi bị đẩy sang một bên. Nhìn cái hố kia một lúc, rồi lại nhìn về hướng chúng tôi đi tới đây, nghĩ bụng:《Trời ạ, sao người này lại có thể ngã lộn cổ ở đây, nơi này cách nơi chúng tôi đỗ xe hôm qua những hơn hai mươi cây số, chưa kể lúc đó còn bị ngược gió nữa. Chẳng lẽ anh ta đi ngược gió mà tới đây sao?》

回到队医的帐篷里,看着队医抢救,很快那个阿K就被救了过来,队医松了口气就说只是因为疲劳过度晕倒了。队医给他打了一针,很快他就醒了。

Quay trở lại căn lều y tế, do được bác sĩ cấp cứu kịp thời, chẳng mấy chốc mà anh A K nọ đã được cứu về. Bác sĩ thở phào nhẹ nhõm, nói rằng anh ta chỉ bị kiệt sức mà té xỉu thôi. Bác sĩ châm cứu cho anh một cái, anh liền tỉnh lại.

他醒了以后,我们就问他是怎么回事,他就说他也不知道是怎么回事,一路走,走着走着,就看到前面有影子,他以为有石头山,就靠过去,结果走啊走啊,也不知道走了多久,就摔坑里去了。说着他就问:"哎,那个老高和另外两个人回来了没有?"

Sau khi anh tỉnh lại, chúng tôi bèn hỏi anh đã gặp phải chuyện gì. Anh ta đáp, anh cũng chẳng biết có chuyện gì xảy ra nữa, anh cứ đi miết, đi mãi một hồi lâu, liền thấy trước mặt có một cái bóng, anh tưởng rằng ở đó có núi đá bèn đi thẳng về phía đó, cuối cùng đi mãi đi mãi, chẳng biết đi được bao lâu, liền bị ngã xuống hố. Nói rồi anh ta hỏi: "Ôi, thế Lão Cao với hai người khác đã về được chưa?"

老高就是高加索人,我一听他说那影子的事情,心中就一个激灵,想问他详细。但是阿宁一听到他问老高,马上就问他为什么这么问,是不是见过他们。

Lão Cao chính là anh chàng người Caucasus nọ. Tôi nghe anh ta nói về cái bóng liền âm thầm giật mình, định nhờ anh ta kể lại chi tiết. Thế nhưng A Ninh vừa nghe anh ta hỏi về Lão Cao lập tức hỏi lại anh vì sao lại hỏi như thế, có phải anh đã gặp bọn họ rồi không.

他道:"当时他们就在我前面,我怎么叫他们,他们都不回头,想想是逆风走,他们听不到,后来我就摔晕了,怎么,他们没回来?"

Anh ta đáp: "Lúc đó bọn họ ở ngay phía trước tôi, tôi gọi thế nào họ cũng không quay đầu lại. Nghĩ lại thì chắc là do đi ngược gió nên bọn họ không nghe thấy, sau đó tôi bị ngã rồi ngất đi. Sao thế, bọn họ chưa về à?"

阿宁惊讶道:"你是说你在摔晕前还看到他们?"

A Ninh kinh ngạc nói: "Ý anh là trước khi anh ngất đi vẫn còn nhìn thấy bọn họ?"

阿K就点头,阿宁转过头,对我道:"听到了没有?发现老K的地方是魔鬼城外面,前面就是魔鬼城,这么说,他们进城里去了!难怪我们怎么找也找不到。"

A K gật đầu. A Ninh quay đầu, nói với tôi: "Anh nghe thấy không? Nơi tìm thấy Lão K là bên ngoài tòa thành ma, phía trước chính là thành ma, như vậy, chắc hẳn bọn họ đã vào thành rồi! Chẳng trách chúng ta tìm mãi cũng không tìm thấy họ."

她一下眼睛都有了神采,马上拍手让我们出去,我们走出队医的帐篷,一商议,阿宁就坚持马上进魔鬼城去搜索。

Đôi mắt cô lập tức sáng bừng lên, vỗ tay ý bảo chúng tôi đi ra ngoài. Chúng tôi ra khỏi lều y tế, bàn bạc một hồi, A Ninh khăng khăng muốn đi vào trong thành ma tìm kiếm.

这些人也不知道是怎么回事,逆风走了二十多公里,老K在外面摔昏了,里面的人可能也已经精疲力竭了,必须马上把他们找出来,这样我们也可以安心一点。

Không biết những người này đã xảy ra chuyện gì, đi ngược gió suốt hơn hai mươi cây số, Lão K thì bị té xỉu ở bên ngoài, người ở trong thành có lẽ cũng đã sức cùng lực kiệt rồi, phải mau chóng tìm được bọn họ, như vậy chúng tôi mới an tâm hơn được.

我精神很好,就点头答应。我们马上分配了一下队伍,很多人就睡了,没有叫醒他们,就是队医和我,准备三个人先进去探一圈看看,其他人等两个小时,再叫醒跟进来。

Tôi hào hứng gật đầu đồng ý. Chúng tôi lập tức sắp xếp đội ngũ, có nhiều người giờ vẫn đang ngủ thì không đánh thức họ dậy, chỉ có ba người gồm ông bác sĩ, tôi và A Ninh đi vào trước xem xét một vòng. Những người còn lại thì để chừng hai tiếng nữa hẵng gọi họ dậy cùng vào.

说完我们马上开始准备,刚把包拿起来,一边的扎西走了过来,拦住了我们,道:"等一下,我奶奶说,你们不能进去。"

Nói xong, chúng tôi liền đi chuẩn bị ngay. Khi vừa mới xách ba lô lên, Trát Tây bỗng đi tới, nói: "Chờ một chút, bà tôi nói, các anh không được vào đó."

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top