các tổ chức tín dụng. nhóm 3

Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ tín dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng hóa. Về sau, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ. Thực chất, tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.

I. TÍN DỤNG VÀ TỔ CHỨC TÍN DỤNG (V nghĩ nên gom lại thành 1 mục cho tiện)

"Tín dụng" xuất phát từ chữ Latin là "Creditium" có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng Anh là "Credit". Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, "tín dụng" có nghĩa là sự vay mượn. Có thể định nghĩa tín dụng như sau:

Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng sau đó hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn.

Có thể hiểu tín dụng là việc một bên (cho vay) cung cấp nguồn tài chính cho đối tượng khác (đi vay), trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên vay trong một thời hạn thỏa thuận kèm theo lãi suất. Tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên - Một bên cho vay, và một bên đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cho vay, lãi suất phải trả,...

Cơ chế tín dụng được thể hiện ba mặt cơ bản sau đây:

+ Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người khác.

+ Sự chuyển giao mang tính chất tạm thời.

+ Khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm theo một lượng giá trị dôi thêm gọi lợi tức.

TỔ CHỨC TÍN DỤNG:

Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.

Hoạt động của tổ chức tín dụng

Các hoạt động chủ yếu của một tổ chức tín dụng

• Huy động vốn: gồm Nhận tiền gửi, Phát hành giấy tờ có giá, Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng, Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước.

• Cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính.

• Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: Mở tài khoản, Dịch vụ thanh toán, Dịch vụ ngân quỹ, tham gia các hệ thống thanh toán.

• Các hoạt động khác: Góp vốn, mua cổ phần, Tham gia thị trường tiền tệ, Kinh doanh ngoại hối và vàng, Nghiệp vụ uỷ thác và đại lý, Kinh doanh bất động sản, Kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm, Dịch vụ tư vấn ...

HÌNH THỨC TỔ CHỨC CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG:

- Ngân hàng thương mại trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần.

- Ngân hàng thương mại nhà nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.

- Tổ chức tín dụng phi ngân hàng trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.

- Tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.

- Ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân được thành lập, tổ chức dưới hình thức hợp tác xã.

Tổ chức tài chính vi mô được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.

I. ĐẶC ĐIỂM CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Hệ thống tín dụng Việt Nam gồm có

 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

 Các TCTD nhà nước

 NHTM Cổ phần đô thị

 NHTM Cổ phần nông thôn

 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài

 Ngân hàng liên doanh

 Công ty tài chính

 Công ty cho thuê tài chính

 VP đại diện ngân hàng nước ngoài

1. Ngân hàng nhà nước Việt Nam :

Đây là cơ quan cấp bộ, trực thuộc chính phủ, là ngân hàng trung ương ở Việt Nam. Là một trong những cơ quan có vị trí cực kỳ quan trọng. là ngân hàng đứng đầu trong hệ thống các ngân hàng. Đặc điểm nổi bật của ngân hàng trung ương là nó không giao dịch , làm nghiệp vụ trực tiếp với các nhà kinh doanh và công chúng.

Ngân hàng Trung ương có chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, quản lý nhà nước các dịch vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tới doanh nghiệp có vốn Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện có hơn 10 vụ như : Vụ Chính sách Tiền tệ, Vụ Chiến lược phát triển Ngân hàng, Vụ Hợp tác Quốc tế, Vụ Quản lý Ngoại hối, vụ các Tổ chức tín dụng hợp tác... Hiện nay, có ý kiến cho rằng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phải cải cách mới có thể thực hiện tốt được chức năng và vai trò là Ngân hàng Trung ương của mình.

2. Các tổ chức tín dụng nhà nước :

Tổ chức tín dụng nhà nước là tổ chức tín dụng được nhà nước thành lập cấp vốn điều lệ và bổ nhiệm người quản trị điều hành, là quan hệ cho vay phát sinh giữa nhà nước và dân cư.

Về tính sở hửu là một doanh nghiệp nhà nước.

Về phương diên pháp lý là một doanh nghiệp công lập, được nhà nước cấp vốn điều lệ.

Kinh doanh tiền tệ với mọi loại hình kinh tế.

3. NHTM cổ phần :

Ngân hàng thương mại cổ phần bao gồm :

 NHTM cổ phần đô thị

 NHTM cổ phần nông thôn

NHTM cổ phần là một phần của ngân hàng thương mại.

Là tổ chức tín dụng cổ phần, được thành lập trên cơ sở góp vốn của nhà nước và các cổ đông khác để thực hiện hoạt động kinh doanh ngân hàng và và tuân theo các luật riêng của Chính phủ và các quy chế, quy định của ngân hàng nhà nước Việt Nam khi hoạt động.

Đươc khai thác mọi nguồn vốn trong và ngoài nước từ mọi thành phần kinh tế.

Được nhận vốn tài trợ, ủy thác đầu tư từ ngân sách từ các tổ chức quốc tế, quốc gia cho các hương trình đầu tư và phát triển kinh tế xã hội.

Được quyền cho vay đối với mọi đối tượng khi thõa mãn các điều kiện vay vốn theo luật định.

Được hùn vốn bằng nguồn vốn tự có theo tỉ lệ quy định của nhà nước.

Được làm dịch vụ thanh toán giữa các ngân hàng.

Được kinh doanh tiền tệ và dịch vụ đối ngoại khi được ngân hàng nhà nước cho phép.

Được tiến hành các hoạt động kinh doanh dịch vụ khác nếu có các điều kiện về thị trường ngồn vốn, về hiệu quả kinh doanh, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ.

4. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài :

Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ( 50 tỷ USD ) là một bộ phận của ngân hàng nước ngoài (ngân hàng xuyên xứ ) hoạt động tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.

Chỉ có đủ tư cách pháp nhân khi được cấp giấy phép kinh doanh. Ngoài chi nhánh chính không được mở chi nhánh phụ ( bên chi nhánh nước ngoài ) tất cả là một pháp nhân duy nhất. chi nhánh ngân hàng nước ngoài chịu sự điều chỉnh của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và luật các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

5. Ngân hàng liên doanh :

Ngân hàng liên doanh là tổ chức dụng liên doanh ( 5 triệu USD ) là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Vốn điều lệ là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng liên doanh có trụ sở tại Việt Nam và chịu sự điều hành của pháp luật Việt Nam.

Được hoạt động cả VNĐ và ngoại tệ theo quy định trong giấy phép.

Ngân hàng liên doanh chỉ đủ tư cách pháp nhân khi được cấp giấy phép điều hành kinh doanh.

Là tổ chức tín dụng phi ngân hàng là 100% vốn nước ngoài.

6. Công ty tài chính :

Công ty cho thuê tài chính là tổ chức tín dụng phi ngân hàng.

Là tổ chức tín dụng được thành lập nhầm mục đích cho vay để phát triển sản xuất hoặc phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của các đối tượng khác trong xã hội.

Công ty tài chính có thẩm quyền cơ bản giống như ngân hàng thương mại:

 Chỉ được huy động vốn dưới hình thức phát hành tín phiếu trong giới hạn cho phép.

 Không được nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân.

 Cho vay ngắn hạn và trung hạn là chủ yếu, phục vụ việt mua bán hàng hóa dịch vụ của các tổ chức và cá nhân trên địa bàn.

7. Công ty cho thuê tài chính :

Công ty cho thuê tài chính là tổ chức tín dụng phi ngân hàng.

Là tổ chức cho vay tài sản thông qua việt đầu tư tài chính vào tài sản

Là hoạt động tín dụng trung va dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giũa bên cho thuê và bên thuê

8. VP đại diện ngân hàng nước ngoài :

Văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài là tổ chức tin dụng nước ngoài.

Làm chức năng văn phòng liên lạc.

Nghiên cứu thị trường.

Xúc tiến xây dựng các dư án đầu tư của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam.

Thúc đẩy và theo dõi việc thực hiện các hợp đồng thõa thuận đã ký giữa tổ chức tín dụng nước ngoài với các tổ chức tín dụng tại Việt Nam và doanh nghiệp việt nam , các dự án do nước ngoài tài trợ tại Việt Nam.

Các hoạt động khác phù hợp với pháp luật việt nam khi được ngân hàng nha nước cho phép.

II. BỨC TRANH HỆ THỐNG CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM

1. Hiện trạng các tổ chức tín dụng:

Tổng số vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu và mức huy động vốn từ dân cư của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam.

a. Tổng số vốn điều lệ

Tính đến tháng 7/2009 tổng vốn điều lệ của các TCTD đạt 173.779,68 tỷ đồng, tăng 16,80% so với thời điểm tháng 12/2008 (là 148.788,12 tỷ đồng); vốn chủ sở hữu đạt 244.818,01 tỷ đồng, tăng 19,60% (tháng 12/2008 là 204.693,69 tỷ đồng).

Sau đây là một số số liệu cụ thể về vốn điều lệ của một số tổ chức

Ngân hàng Chính sách - Phát triển (Nhà nước)

STT Tên ngân hàng Vốn điều lệ

tỷ đồng

Tên giao dịch tiếng Anh, tên viết tắt

1 Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam

15000 VBSP

2 Ngân hàng Phát triển Việt Nam

10000 VDB

3 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

10.499 BIDV

4 Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long

3000 MHB

5 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam

21000 Agribank

Hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam

STT Tên ngân hàng Vốn điều lệ

tỷ đồng

Tên giao dịch tiếng Anh, tên viết tắt

1 Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung ương

1.112 CCF

Ngân hàng thương mại cổ phần

STT Tên ngân hàng Vốn điều lệ

tỷ đồng

Tên giao dịch tiếng Anh, tên viết tắt

1 Ngân hàng Phương Đông

3100 Orient Commercial Bank, OCB

2 Ngân hàng Á Châu

7814 Asia Commercial Bank, ACB

3 Ngân hàng Đại Á

3100 Dai A Bank

4 Ngân hàng Đông Á

3400 DongA Bank, DAB

5 Ngân hàng Đông Nam Á

5068 SeABank

6 Ngân hàng Đại Dương

5000 Oceanbank

7 Ngân hàng Đệ Nhất

1000 FICOMBANK

8 Ngân hàng An Bình

3482 ABBank

9 Ngân hàng Bắc Á

3000 NASBank, NASB

10 Ngân hàng Dầu khí Toàn Cầu

2000 GP.Bank

11 Ngân hàng Gia Định

1000 GiadinhBank

12 Ngân hàng Hàng hải Việt Nam

3000 Maritime Bank, MSB

13 Ngân hàng Kỹ Thương Việt Nam

6932 Techcombank

14 Ngân hàng Kiên Long

1000

15 Ngân hàng Nam Á

1252

16 Ngân hàng Nam Việt

1000

17 Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng

4000

18 Ngân hàng Nhà Hà Nội

3000

19 Ngân hàng Phát Triển Nhà TPHCM

20 Ngân hàng Phương Nam

3049

21 Ngân hàng Quân Đội

5300

22 Ngân hàng Phương Tây

2000

23 Ngân hàng Quốc tế

4000

24 Ngân hàng TMCP Sài Gòn

3653

25 Ngân hàng Sài Gòn Công Thương

3000

26 Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín

9179

27 Ngân hàng Sài Gòn-Hà Nội

3500

28 Ngân hàng Việt Nam Tín Nghĩa

3399

29 Ngân hàng Việt Á

3000

30 Ngân hàng Bảo Việt

1500

31 Ngân hàng Việt Nam Thương Tín

3000

32 Ngân hàng Xăng dầu Petrolimex

2000

33 Ngân hàng Xuất nhập khẩu

10.560,096

34 Ngân hàng Liên Việt

5160

35 Ngân hàng Tiên Phong

1250

36 Ngân hàng TMCP Ngoại thương

13223

37 Ngân hàng TMCP Phát Triển Mê Kông

3000

38 Ngân hàng Đại Tín

3000

39 Ngân hàng Công Thương Việt Nam

11252

b. Huy động vốn

Tầm quan trong của viêc huy động vốn .

Vốn huy động từ xã hội luôn luôn chiếm từ 60%-70% tổng nguồn vốn hoạt động của mỗi ngân hàng. Đối với riêng các ngân hàng cổ phần và công ty tài chính cổ phần, nếu kể cả vốn cổ phần do phát hành cổ phiếu, thì vốn huy động trong xã hội chiếm tới 80-85% tổng nguồn vốn hoạt động. Trong cơ cấu nguồn vốn huy động, thì vốn phát hành kỳ phiếu, trái phiếu... chiếm từ 42-46%.

* Đặc biệt với các ngân hàng

Trong hoạt động huy động vốn, các NHTM cũng rất chú trọng đến nguồn vốn từ dân cư, đến nay tỷ trọng nguồn vốn huy động từ dân cư của các NHTM chiếm đến 48% tổng nguồn tiền gửi.

Thị phần của các ngân hàng thương mại nhà nước có xu hướng thu hẹp nhưng hiện nay vẫn giữ vai trò chi phối trong cả huy động và cho vay , do chiếm tới 56,9 % thị phần ( năm 2005 , các ngân hàng thương mại nhà nước có thị phần huy động vốn từ 75,2-805 và thị phần cho vay từ 76.9-79,9 %).

Thị phần của ngân hàng thương mại cổ phần là 26,5%.Khối các ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ , 9,4 % thị phần mặc dù chiếm giữ tới 30% vốn chủ sở hữu trong hệ thống các ngân hàng thương mại .

Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng về tiền gửi để đảm bảo nguồn vốn và thanh khoản,.Thị phần tiền gửi , đứng thứ 1 là VBARD (26,09%), thứ 2 là BIDV (14,21%) và thứ 3 là VCB (13,66%). , thứ 4 là Vietinbank (10,58 %)

Trong năm 2010 , với thông tư 13 , các tổ chức tín dụng đang lỗ lực tăng vốn điều lệ bằng nhiều biện pháp .chưa có các số liệu cụ thể nhưng ta có thể dùng bảng số vốn pháp định làm 1 yếu tố xét được 1 mặt của sự biến động này

DANH MỤC MỨC VỐN PHÁP ĐỊNH CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG

STT Loại hình tổ chức tín dụng Mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm

2008 2010

I. Ngân hàng

1. Ngân hàng thương mại

a. Ngân hàng thương mại nhà nước 3.000 tỉ đồng 3.000 tỉ đồng

b. Ngân hàng thương mại cổ phần 1.000 tỉ đồng 3.000 tỉ đồng

c. Ngân hàng liên doanh 1.000 tỉ đồng 3.000 tỉ đồng

d. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 1.000 tỉ đồng 3.000 tỉ đồng

đ. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 15 triệu USD 15 triệu USD

2. Ngân hàng chính sách 5.000 tỉ đồng 5.000 tỉ đồng

3. Ngân hàng đầu tư 3.000 tỉ đồng 3.000 tỉ đồng

4. Ngân hàng phát triển 5.000 tỉ đồng 5.000 tỉ

5. Ngân hàng hợp tác 1.000 tỉ đồng 3.000 tỉ đồng

6. Quỹ tín dụng nhân dân

a. Quỹ tín dụng nhân dân trung ương 1.000 tỉ đồng 3.000 tỉ đồng

b. Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 100 triệu đồng 100 triệu đồng

II. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng

1. Công ty tài chính 300 tỉ đồng 500 tỉ đồng

2. Công ty cho thuê tài chính 100 tỉ đồng 150 tỉ đồng

c. Tăng trưởng tín dụng

Ngân hàng Nhà nước chính thức công bố số liệu tăng trưởng tín dụng tính đến cuối tháng 8, với mức tăng ước 16,27% so với cuối năm 2009. Theo đánh giá ,đó là mức tăng trưởng hợp lý và phù hợp với định hướng 25% đặt ra cho năm nay.

Cũng trong tháng 8 năm 2010, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng tiếp tục có tốc độ tăng trưởng cao hơn tín dụng; đến cuối tháng 8/2010 ước tăng 17,75% so với cuối năm 2009.

2. Đánh giá về cơ cấu tổ chức tín dụng:

Do chiếm phần lớn trong cơ cấu các tổ chức tín dụng là hệ thống các ngân hàng do đó chúng ta chỉ đánh giá về cơ cấu hệ thống các ngân hàng ở Việt Nam:

a. Ưu điểm:

Với đặc điểm là một tổ chức TTTD công nên hệ thống TTTD ngân hàng Việt Nam sẵn có tất cả các ưu điểm chung giống như các tổ chức đăng ký tín dụng công khác, đó là:

• Cung cấp thông tin cho Ngân hàng Trung ương để đưa ra các quy định về giám sát các tổ chức tín dụng (TCTD) nhằm góp phần đảm bảo an toàn, phát triển bền vững hệ thống ngân hàng tài chính của mỗi nước. Đây là một cách cung cấp các dịch vụ TTTD cho các tổ chức tài chính để họ có quyết định cho vay chính xác hơn

• Thu thập TTTD về người vay từ các TCTD và cung cấp thông tin trở lại cho các TCTD để phục vụ kinh doanh tín dụng. Hệ thống TTTD trong thị trường tài chính góp phần làm giảm sự không cân xứng thông tin giữa những người vay và người cho vay, cho phép người cho vay đánh giá rủi ro chính xác hơn và cải thiện chất lượng đầu tư, dễ dàng tư vấn chọn lựa phương án và giảm chi phí tín dụng cho người vay tốt, từ đó tăng khối lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng và góp phần phát triển kinh tế.

Ngoài ra, hệ thống TTTD ngân hàng Việt Nam còn có những đặc điểm ưu việt riêng, đó là:

• Hoàn toàn phù hợp với xu thế và thông lệ chung về hoạt động TTTD của khu vực và quốc tế.

• Là một bộ phận trong cơ cấu của NHNN nên hiệu lực pháp lý cao trong việc báo cáo thông tin chia sẻ cũng như trong việc khai thác sử dụng thông tin trong Ngành.

• Thông tin chia sẻ gồm cả thông tin tích cực và thông tin tiêu cực nên đã giúp ích nhiều cho việc quản lý của NHNN. Đối với TCTD, một mặt, nó góp phần ngăn ngừa hạn chế rủi ro tín dụng nhằm đảo bảo an toàn hệ thống. Mặt khác, với thông tin tích cực, nó góp phần lựa chọn khách hàng tốt, giảm chi phí điều tra thông tin, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng, mở rộng tín dụng an toàn.

• Là một hệ thống thông tin riêng của Ngành Ngân hàng, những người ngoài hệ thống không được tiếp cận thông tin chia sẻ của TCTD, do đó rất đảm bảo về an toàn bảo mật thông tin, không gây các khiếu kiện không cần thiết cũng như không làm ảnh hưởng đến việc cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD.

Do là hệ thống riêng của Ngành Ngân hàng, có tính bảo mật cao nên trong những trường hợp cần thiết, NHNN có thể sử dụng công cụ này để thực hiện những cuộc điều tra khảo sát hoặc thực hiện thêm những nhiệm vụ khác ngoài nhiệm vụ TTTD thông thường như: Thu thập báo cáo những khoản vay vượt quá 5%, 15% vốn tự có của từng TCTD; thu thập, lưu trữ, thông báo việc phát hành séc quá số dư, séc giả, séc khống...; thu thập, điều tra thông tin về doanh nghiệp nước ngoài có quan hệ kinh tế với Việt Nam phục vụ cho nhiệm vụ quản lý Nhà nước; điều tra đột xuất về rủi ro tín dụng; khảo sát thông tin về các doanh nghiệp lớn của Việt Nam.

b. Khuyết điểm:

- Sự kiểm soát quá mức của các ngân hàng nhà nước làm méo mó quan hệ cung cầu của thị trường tín dụng:

• Những can thiệp của nhà nước đến doanh nghiệp nhà nước được hình thành và duy trì từ thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và được thực hiện trên nhiều phương diện: ưu đãi về vốn, đất đai, các thủ tục hành chính thành lập doanh nghiệp.... Về vốn doanh nghiệp nhà nước nhận được sự ưu đãi từ quỹ đầu tư và các dự án cho vay của chính phủ, được ưu tiên trong tiếp cận vốn ngân hàng, ưu đãi từ bao cấp của nhà nước đối với doanh nghiệp qua việc xử lý nợ tồn đọng bắng ngân sách của nhà nước, thậm chí nhà nước vẫn còn phân bổ nguồn vốn cho doanh nghiệp bằng cơ chế "xin-cho" và nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chủ yếu từ nguồn vốn tín dụng nhà nước. Những ưu đãi của nhà nước đã tạo thói quen trông chờ, ỷ lại và không tính tới hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực nhà nước của các doanh nghiệp nhà nước, khiến cho các doanh nghiệp nhà nước không còn là một chủ thể độc lập, nhạy cảm trên thị trường.

• Bản thân của các ngân hàng thương mại nhà nước cũng chịu tác động trực tiếp của chính phủ do Việt Nam chưa tách bạch triệt để cho vay chính sách ra khỏi hoạt động cho vay thương mại. Các ngân hàng thương mại đều phải có trách nhiệm thực hiện sự tài trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước hay các ngân hàng nhà nước được chính phủ sử dụng như kênh ngân sách thứ hai trong hoạt động tài trợ cho doanh nghiệp nhà nước. Những khoản tín dụng liên quan tới doanh nghiệp nhà nước đã gây khó khăn không nhỏ cho các ngân hàng thương mại nhà nước hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Kết quả kiểm toán trong những năm gần đây cho thấy nợ của các doanh nghiệp nhà nước trong các ngân hàng thương mại nhà nước đều ở mức cao( năm 2007 nợ tồn đọng của các doanh nghiệp nhà nước trong ngân hàng thương mại nhà nước lên tới 400000 tỷ đồng). Đặc biệt sức ép từ địa phương vẫn còn rất lớn trong các quyết định cho vay vốn ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý, do đó các ngân hàng thương mại nhà nước thường phải lựa chọn phương án cho vay và khách hàng vay vốn hiệu quả thấp, rủi ro cao.

• Sự can thiệp trực tiếp của nhà nước tới các doanh nghiệp nhà nước và các ngân hàng thương mại nhà nước đã làm cho bản thân các doanh nghiệp, ngân hàng vẫn chưa trở thành những chủ thể kinh tế đủ mạnh trong môi trường cạnh tranh do tính chưa hoàn thiện của thị trường này ở Việt nam, điều này đã làm méo mó quan hệ cung cầu trên thị trường tín dụng.

- Trên thị trường tín dụng này vẫn chưa có một sự thống nhất và bình đẳng giữa các lực lượng tham gia thị trường.

Mặc dù trong những năm gần đây thị phần các ngân hàng thương mại có xu hướng thu hẹp, nhưng các ngân hàng này vẫn giữ vai trò chi phối trong cả huy động vốn và cho vay do chiếm tới 56.4% thị phần( năm 2005 các ngân hàng thương mại nhà nước có thị phần huy động vốn từ 75,2-80% và thị phần cho vay từ 76,9-79,9% ); thị phần của các ngân hàng thương mại cổ phần là 25,6%; khối các ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài chiếm tới 30% vốn chủ sở hữu trong hệ thống các ngân hàng thương mại nhưng chỉ chiếm 9,4% thị phần.Trong quá trình hoạt động mỗi loại ngân hàng lại thường tập trung vào một nhóm khách hàng nhất định, trong đó các ngân hàng thương mại nhà nước thường tập trung cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước. Tỉ trọng tín dụng dành cho các doanh nghiệp nhà nước của các ngân hàng thương mại nhà nước đã giảm từ 49,6% tổng nợ dư năm 1997 xuống còn 39,6% năm 2002, nhưng từ cuối năm 2002 đến nay, tỉ trọng này lại tăng lên 50%.Các ngân hàng thương mại cổ phần, các ngân hàng thương mại nước ngoài chủ yếu cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân và các khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong điều kiện thị trường tín dụng chưa có sự thống nhất, còn bị phân mảng sẽ không có mặt bằng chung về lãi suất, hơn nữa lãi suất vẫn chưa được hình thành theo tín hiệu thị trường, do vậy mức độ nhạy cảm của các chủ thể kinh tế đối với lãi xuất vẫn còn thấp. Đây là trở ngại rất lớn khi Việt nam chuyển mạnh sang hoạt động theo cơ chế thị trường và tham gia "sân chơi" quốc tế, trong đó mọi chủ thể kinh tế đều bình đẳng.

- Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng nội địa vẫn còn thấp.

Nhìn chung năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại nội địa vẫn còn thấp: quy mô nhỏ, tỷ lệ vốn tự có/tài sản tự có thấp, tỷ lệ nợ quá hạn vẫn còn cao( Bốn trong năm ngân hàng thương mại nhà nước gồm Vietcombank, Agribank, Vieetinbank, Bidvbank đều không đủ hệ số an toàn vốn tự có của hiệp định Bales), số lượng và chất lượng dịch vụ thấp. Đây là những trở ngại lớn của các ngân hàng Việt Nam khi tham gia hội nhập quốc tế.

c. Giải pháp khắc phục:

VN cần phải nổ lực trong việc xóa bỏ sự can thiệp trực tiếp của nhà nước tới doanh nghiệp và ngân hàng; đẩy mạnh công cuộc cải cách DNNN; tiến hành cải cách mạnh mẽ và nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM VN, nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh và những chủ thể cạnh tranh thực sự trên thị trường tín dụng.

- Xóa bỏ sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước tới doanh nghiệp và ngân hàng

Những ưu đãi cho DNNN sẽ không còn khi VN bước vào thực hiện các cam kết WTO. Những cam kết quốc tế này đòi hỏi hoạt động trợ cấp đối với doanh nghiệp phải được minh bạch theo thông lệ quốc tế, phải được đối xử bình đẳng với mọi loại doanh nghiệp. Do vậy, VN cần phải có những điều chỉnh trong mức độ và cách thức can thiệp vào doanh nghiệp và ngân hàng, đó là: giảm dần đối tượng được hưởng trợ cấp, tiến tới hoạt động trợ cấp bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; giảm dần những ưu đãi về lãi suất, chuyển dần ưu đãi về lãi suất sang ưu đãi về điều kiện được hỗ trợ, mức độ hỗ trợ hay thời hạn hỗ trợ; thu hẹp quy mô sở hữu nhà nước bằng giải pháp cổ phần hóa DNNN, đa dạng hóa các loại hình sở hữu nhằm đảm bảo tính hiệu quả và định hướng phát triển của nền kinh tế; các DNNN ngay sau khi được cổ phần hóa phải hoạt động theo Luật doanh nghiệp đã ban hành.

- Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước

Theo kế hoạch, đến năm 2010 VN sẽ chỉ còn 554 doanh nghiệp 100% vốn của Nhà nước. Do vậy, nhiệm vụ của cải cách DNNN còn rất nặng nề. Để đạt được mục tiêu này, cần phải tích cực đẩy mạnh cải cách DNNN bằng nhiều biện pháp như: tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để từng bước và tiến tới xóa bỏ sự khác biệt về điều khoản kinh doanh đối với các loại hình doanh nghiệp có vị thế độc quyền kinh doanh; tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại DNNN theo hướng hình thành các DNNN có nhiều chủ sở hữu; hoàn thiện cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả DNNN; nâng cao vai trò quản lý Nhà nước, tiến tới xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu của các cơ quan, ban ngành đối với DNNN...

Có thể khảng định rằng việc hoàn thiện và phát triển của thị trường tín dụng VN phụ thuộc rât nhiều vào tiến độ cải cách DNNN. Các DNNN khi đã hoạt động theo Luật doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, có sự cạnh tranh bình đẳng giữa DNNN, doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhu cầu thực sự về vốn sẽ được phản ánh chính xác trên thị trường tín dụng VN.

- Cải cách mạnh mẽ và nâng cao năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng Thương mại VN

Nhằm tạo ra một hệ thống ngân hàng theo mô hình hiện đại, an toàn và hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, ngày càng hội nhập kinh tế sâu rộng, VN đã tiến hành cải cách một cách thận trọng hệ thống ngân hàng trước hết về tổ chức và cơ chế hoạt động. Từ hệ thống ngân hàng tổ chức theo mô hình một cấp, hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tâp trung, đến nay VN đã xây dựng được hệ thống ngân hàng 2 cấp, từng bước hoạt động theo cơ chế thị trường.

Cải cách NHTM nhà nước bằng giải pháp cổ phần hóa được coi là yêu cầu thiết nhằm tạo ra "sân chơi" bình đẳng cho các thành phần kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh cho hệ thống ngân hàng VN.

Từ 1/4/2007, theo các cam kết WTO, các ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ được phép hoạt động ở VN. Cùng với việc đẩy mạnh quá trình cải cách về tổ chức và hoạt động của hệ thống ngân hàng, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM VN được coi là vấn đề sống còn đối với các ngân hàng này trong môi trường cạnh tranh mới.

Sự đa dạng hóa dịch vụ cung ứng sẽ cho phép ngân hàng tạo ra nhiều nguồn thu nhập khác nhau từ các dịch vụ đa dạng và giảm được những rủi ro từ biến động của lãi suất.

Để nâng cao được năng lực cạnh tranh, các NHTM nội địa VN cần tích cực thực hiện một số giải pháp như: tăng vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu; giải quyết triệt để nợ quá hạn và ngăn ngừa nợ xấu phát sinh; tăng cường tính minh bạch trong hoạt động ngân hàng; nâng cao số lượng, chất lượng các loại hình dịch vụ; nâng cao trình độ công nghệ ngân hàng...

III. THỰC TRẠNG VÀ DỰ BÁO HTTCTD ĐẾN CUỐI NĂM 2010

Quản lý rủi ro

o Về vốn điều lệ:

a) Vấn đề nâng vốn điều lệ:

 Ngày 20/5/2010, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Theo Điều 4, là các tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản "Có" rủi ro của tổ chức tín dụng (tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ).

Cũng theo Điều 4, tổ chức tín dụng phải thực hiện báo cáo tài chính hợp nhất theo quy định của pháp luật, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ theo quy định nói trên, phải đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) 9% trên cơ sở hợp nhất vốn, tài sản của tổ chức tín dụng và công ty trực thuộc (tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất).

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) mà các tổ chức phải đảm bảo được nâng từ 8% lên 9%. Thời điểm bắt đầu áp dụng tỷ lệ mới là từ ngày 1/10/2010. Theo văn bản trên, nhiều ngân hàng cho biết không thể thực hiện được việc nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu từ 8% lên 9% vào thời điểm quy định mới có hiệu lực. Nguyên do là họ phải có thời gian để điều chỉnh tài sản có rủi ro và phụ thuộc vào việc tăng vốn điều lệ của mình, đặc biệt là với các ngân hàng thương mại quy mô nhỏ và các ngân hàng thương mại phụ thuộc vào vốn ngân sách nhà nước cấp.

 Nghị định 141 ngày 22/11/2006 của Chính phủ ban hành về danh mục vốn pháp định của các NH năm 2010 phải đạt 3000 tỷ đồng đối với các NHTM, các NH đầu tư, các NH liên doanh liên kết, 5000 tỷ đối với các NH phát triển và chi nhánh của các NH nước ngoài tại Việt Nam là 15 triệu USD. Các NH chủ yếu huy động vốn qua kênh chứng khoán: niêm yết hoặc phát hành thêm cổ phiếu. Trong số 23 ngân hàng thương mại (NHTM) phải tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng thì mới có khoảng 9 NHTM đã hoàn thành lộ trình, số còn lại vẫn đang loay hoay tìm nguồn vốn. Ngoài kênh chính là thu hút vốn qua TTCK, một số NH đang hướng tới một giải pháp là tìm đến các đối tác chiến lược. Đó là các NĐT tổ chức, các đối tác nước ngoài, những đơn vị có thể mua lượng cổ phần lớn. Nhưng để tìm được đối tác đồng hành, có cùng chiến lược phát triển là điều không đơn giản, bởi nó liên quan đến quy định về tỷ lệ nắm giữ cổ phần cũng như giá bán cho đối tác. Mặc dù vậy, hiện vẫn có một số NH tiếp cận được với kênh huy động vốn này.

Tăng vốn điều lệ, không chỉ là bài toán của những ngân hàng nhỏ, mà những ngân hàng có số vốn vượt xa con số 3000 tỷ đồng cũng đưa ra phương án tiếp tục huy động vốn. Điều đó đã tạo ra một cuộc chạy đua khốc liệt, mà ưu thế thuộc về các ngân hàng lớn. Hầu hết các NH đều đang tiến hành lộ trình tăng vốn để đạt đến con số tối thiểu là 3000 tỷ đồng vào cuối năm, thậm chí là các NH đã có vốn 3000 tỷ cũng có kế hoạch tăng vốn để tăng quy mô hoạt động của mình.

 Tuy nhiên ngày 27/9, Ngân hàng Nhà nước chính thức ban hành Thông tư số 19 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 13 ban hành ngày 20/5/2010. Với những điểm được sửa đổi trong Thông tư 13 chủ yếu là vấn đề nguồn vốn, các ngân hàng cho rằng áp lực về vốn trong thời gian tới sẽ nhẹ hơn so với việc phải thực hiện theo thông tư cũ.

Điểm thuận lợi cho ngân hàng là được dùng 25% vốn của các tổ chức kinh tế để cấp tín dụng, tiền gửi của Kho bạc Nhà nước tại các tổ chức tín dụng và vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên cũng được tính vào vốn huy động dùng để cho vay. Việc không tính các khoản bảo lãnh vào dư nợ cho vay của ngân hàng cũng là một điểm thuận lợi. Đối với các ngân hàng nhỏ: sẽ không còn bị hạn chế bởi tỷ lệ 20% vốn vay trên thị trường liên ngân hàng để cấp tín dụng khi Ngân hàng Nhà nước cho phép sử dụng vốn vay các tổ chức tín dụng khác với kỳ hạn từ 3 tháng trở lên để cấp tín dụng

b) Vấn đề sáp nhập:

Xu hướng mua lại, sáp nhập (M&A) không còn là mới tại các nước phát triển, nhưng ở Việt Nam thì vẫn chưa có những thương vụ thực sự đáng kể, nhất là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Chính vì vậy, theo nhận định chung của đại diện NHNN, Nghị định 141/NĐ-CP sẽ tạo ra một cuộc sáp nhập để đáp ứng đủ vốn điều lệ, qua đó nâng cao năng lực của khối các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay vốn nhỏ bé, ít sản phẩm dịch vụ và thiếu sức cạnh tranh khu vực.

Trong số 20 ngân hàng thương mại trong nước và 4 ngân hàng 100% vốn nước ngoài cần tăng vốn điều lệ năm 2010, chúng ta nhận thấy tiềm lực vốn và nguồn lực bổ sung có từ các yếu tố sau: một là nội lực cổ đông, hai là bán cổ phiếu ra bên ngoài và ba là chào bán cổ phần cho các nhà đầu tư/ ngân hàng nước ngoài.

Hai phương án đầu đã được các ngân hàng trong nước áp dụng nhưng không thành công, chỉ còn phương án bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài hoặc sáp nhập với các ngân hàng khác (xu thế M&A) là khả thi nhất trong hoàn cảnh hiện tại, nhất là những ngân hàng đang có vốn điều lệ bằng 1/3 so với yêu cầu (như Ngân hàng Gia Định (GiaDinhBank), vốn điều lệ hiện tại là 1.000 tỷ đồng, phải tăng thêm 2.000 tỷ đồng).

[Ngân hàng Thương mại Cổ phần Thái Bình Dương (Pacific Bank) đầu năm 2009 đã tiến hành đổi tên thành Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Tín Nghĩa (Vietnam Tin Nghia Bank). Tính đến tháng 11/2009, vốn điều lệ của ngân hàng này tăng vọt từ 1.133 tỷ đồng lên 3.399 tỷ đồng.

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng dầu Petrolimex chọn cách chuyển đổi 1.000 tỷ đồng từ trái phiếu chuyển đổi (dự kiến hoàn thành trong trước tháng 3/2011), bên cạnh kế hoạch phát hành tăng vốn thêm 1.000 tỷ đồng trong năm 2010.]

Như để tránh trường hợp xấu nhất là giải thể, các ngân hàng đã bắt đầu chọn phương án thứ 3 là tìm và chào bán cho nhà đầu tư nước ngoài thông qua phát hành riêng lẻ để tăng vốn. Nhưng biện pháp này được coi là "xương" nhất, vì tính đến cuối 2008 chỉ có 2/20 ngân hàng tuyên bố thực hiện theo cách này là Ngân hàng Phương Đông (OCB) và Ngân hàng Phương Nam (Southern Bank).

[Trường hợp Ngân hàng Quốc tế (VIB) chỉ đảm bảo được yêu cầu vốn pháp định trước khi ký thỏa thuận bán vốn cho nhà đầu tư nước ngoài (Commonwealth of Australia - CBA) và đến tháng 12/2009, OCB đã thông qua kế hoạch phát hành cổ phiếu riêng lẻ cho BNP Paribas - nhà đầu tư chiến lược nước ngoài - để tăng vốn điều lệ, đồng nghĩa với cổ đông này nâng tỷ lệ sở hữu từ 10% lên 15%.

Còn ở Southern Bank, Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông ngày 21/4 cũng đã xác định bán tiếp 5% cổ phần United Overseas Bank Ltd., đi cùng với tỷ lệ sở hữu từ 15% lên 20%.]

Ý kiến chuyên gia: Tuy nhiên, theo đại diện NHNN, việc tăng vốn điều lệ là xu hướng tất yếu của các ngân hàng thương mại hiện nay bởi nó giải quyết được 3 vấn đề cấp thiết là: tăng khả năng tài chính của các ngân hàng, tăng khả năng cung ứng sản phẩm và dịch vụ ngân hàng bán lẻ trong thời kỳ hội nhập và nâng cao vị thế các ngân hàng trong nước trước các ngân hàng xu thế rất nhiều ngân hàng nước ngoài đang xin thành lập tại Việt Nam hiện nay. Và cuộc sáp nhập giữa các ngân hàng sẽ là cần thiết để nâng cao sức cạnh tranh của các ngân hàng nội...

c) Chuẩn Basel:

Hiệp định Basel I năm 1988 mang tính chất thỏa thuận quốc tế và các tiêu chuẩn về vốn đã trở thành chuẩn mực quốc tế về vốn tự có. Nó quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và quản lý rủi ro tín dụng đối với ngân hàng, là một trong những căn cứ, tiêu chuẩn để các ngân hàng của các quốc gia trên thế giới áp dụng quản lý, bảo đảm an toàn trong hoạt động. Thực hiện thỏa ước an toàn vốn tối thiểu của Basel I đã và đang là một trong những mục tiêu quản lý rủi ro đối với các tổ chức tín dụng ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên, Basel I mới chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa đề cập đến những rủi ro khác như rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất...

Trước đòi hỏi của sự phát triển, về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với những tập đoàn ngân hàng lớn có phạm vi hoạt động quốc tế, Basel II đã ra đời. Đây là hiệp ước quốc tế về tiêu chuẩn an toàn vốn, tăng cường quản trị toàn cầu hóa tài chính cũng như việc khai thác tối đa tiềm năng lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Nó được xem là giải pháp được đưa ra nhằm nâng cao các tiêu chuẩn ngân hàng châu Á với những yêu cầu về quản lý rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, rủi ro lãi suất. Và đặc biệt, vai trò chức năng của thanh tra trong công tác quản lý, bảo đảm an toàn cho các tổ chức tín dụng là đòi hỏi tất yếu.

 Mặc dù sau năm 2010 Việt Nam mới áp dụng Basel II, nhưng Basel II đã ảnh hưởng lớn đến các NHTM Việt Nam, nhất là yêu cầu về quản lý rủi ro. Việc áp dụng Basel II đòi hỏi chi phí khá cao, các TCTD phải sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, bao gồm các qui trình, thủ tục và công nghệ thông tin để đánh giá khách hàng với mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Vì vậy mức rủi ro của các ngân hàng lớn có thể giảm, nhưng của các ngân hàng nhỏ và yếu kém có thể tăng lên. Khi đó, các ngân hàng nhỏ sẽ chịu chi phí đầu vào tăng, nên lãi suất đầu ra sẽ tăng hoặc chênh lệch lãi suất thấp hơn, gây ảnh hưởng bất lợi đến lợi nhuận của ngân hàng. Trong điều kiện đó, các ngân hàng nhỏ phải hợp nhất hoặc sáp nhập để hạn chế rủi ro. Điều này dường như đã được các NHTM Việt Nam xác nhận và nhiều ngân hàng đã xây dựng chiến lược kinh doanh riêng, trong đó chú trọng mở rộng qui mô về vốn và loại hình dịch vụ theo hướng sáp nhập thành ngân hàng lớn hơn và liên doanh, liên kết với các ngân hàng nước ngoài.

Về giám sát vĩ mô, NHNN đã ban hành Quyết định 457 và Quyết định 493 qui định về các tỉ lệ an toàn, về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động của TCTD, trong đó Quyết định 493 đã tiến dần đến những đánh giá mang các yếu tố định tính và dự phòng được chia thành dự phòng chung và dự phòng cụ thể đã hướng tới khuôn khổ thuộc dự phòng theo Basel II.

Trong xu thế hội nhập và tự do hóa hoạt động ngân hàng với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới, áp dụng Basel II là yêu cầu cấp thiết và bắt buộc đối với mọi NHTM, trên cơ sở đó sẽ tăng cường năng lực hoạt động và giảm thiểu rủi ro, mặc dù việc tiếp cận Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, trong khi hệ thống ngân hàng Việt Nam mới đang ở giai đoạn phát triển ban đầu. Các TCTD có thể tự xác định được thực trạng rủi ro hoạt động theo từng lĩnh vực kinh doanh và xác định thế mạnh của ngân hàng trong từng lĩnh vực kinh doanh để định hướng hoạt động ngân hàng, từng bước áp dụng các chẩn mực Basel II.

Riêng đối với phương pháp đo lường nâng cao, phần lớn các NHTM Việt Nam chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn định tính và định lượng do Ủy ban Giám sát ngân hàng thuộc BIS đề ra, nên việc áp dụng phương pháp này đòi hỏi phải có thời gian. Với sự phát triển của thị trường vốn và yêu cầu của hội nhập quốc tế, nguồn thông tin về các ngân hàng ngày càng công khai và minh bạch, việc tăng vốn ngày càng khó khăn hơn, đòi hỏi mỗi ngân hàng phải quan tâm đặc biệt đến hiệu quả sử dụng vốn và khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng, càng mở rộng qui mô và loại hình dịch vụ thì ngân hàng càng phải chủ động trong việc đối mặt với rủi ro hoạt động. Trong khi hoạt động ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro đáng lo ngại do hệ thống quản trị điều hành và quản trị kinh doanh của các NHTM còn nhiều yếu kém, các ngân hàng cần thường xuyên đánh giá thực trạng tình hình tài chính để kịp thời có biện điều chỉnh và can thiệp cần thiết, qua đó có thể ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro.

d) Đầu tư:

Mục tiêu giảm lãi suất cho vay xuống còn 12% như kỳ vọng của các cơ quan quản lý dường như đã không trở thành hiện thực khi quý 3/2010 đã sắp hết mà biểu lãi suất huy động và cho vay ở các ngân hàng thương mại vẫn đứng ở mức khá cao. Lo lắng cho một mùa kinh doanh cuối năm của các DN khi phải tiếp cận với đồng vốn giá cao là rất có cơ sở trong bối cảnh hiện tại. Bên cạnh thực trạng "đứng giá" của của lãi suất huy động cho vay VND, các DN còn đang phải đối mặt với việc tăng giá lãi suất cho vay đối với USD từ các ngân hàng.

Thực tế, có nhiều kênh cung cấp vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), tuy nhiên kênh vốn tín dụng ngân hàng vẫn là kênh trực tiếp quan trọng và là tổ chức trung gian tạo điều kiện để DNNVV tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi. Trên thực tế, nợ xấu của Ngân hàng đối với các khoản tín dụng của DNNVV rất thấp, nhưng các DNNVV vẫn rất khó tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Nhiều ngân hàng rất dè dặt trong việc cho DNNVV vay vốn. Kết quả điều tra gần đây của Cục Phát triển DNNVV, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, chỉ có 32,38% DNNVV có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn của ngân hàng; 35,25% khó tiếp cận, còn lại không thể tiếp cận.

Tiến sĩ Cao Sỹ Kiêm, thành viên Hội đồng Chính sách tiền tệ quốc gia, nguyên Thống đốc NHNN, phân tích: Nhu cầu vốn trong thực tế có tăng nhưng tăng trưởng tín dụng thấp vì cung - cầu chưa khớp nhau. Có 3 nguyên nhân dẫn đến tình trạng này:

• Thứ nhất, nguồn vốn tín dụng ít trong khi nhu cầu vay vốn tăng cao (do nguồn vốn NH có hạn, do năng lực thẩm định còn hạn chế, nhưng lý do chủ yếu là sự thận trọng trong các quyết định cho vay, do yêu cầu đảm bảo an toàn vốn và lòng tin vào các DNNVV).

• Thứ hai, có những DN cần vay vốn nhưng không được đáp ứng vì không đủ điều kiện cho vay (do doanh nghiệp thiếu tài sản và nguồn vốn, dễ bị tổn thương trước những thay đổi của thị trường... Việc các DNNVV thiếu hệ thống theo dõi kế toán, các báo cáo tài chính phù hợp cũng như các kế hoạch kinh doanh cũng đang gây cản trở hoạt động cho vay của các ngân hàng. Mức chi phí hành chính và chi phí giao dịch trong việc đầu tư và cho vay đối với các DNNVV cao khiến cho việc sinh lời của các ngân hàng không nhiều..).

• Thứ ba, DN đủ điều kiện vay, ngân hàng cũng sẵn sàng vốn nhưng DN không vay vì lãi suất cao. Cho nên nguồn vốn cuối năm căng thẳng không chỉ do thiếu vốn cục bộ chỗ này chỗ kia mà còn do lãi suất cao.

 Để thu hẹp khoảng cách giữa ngân hàng và DN, để DN có thể dễ tiếp cận được các nguồn vốn, thì trước hết, phải nâng cao năng lực tài chính của cả ngân hàng và DN.

Ngân hàng cần nâng cao năng lực tài chính để đảm bảo đủ vốn cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Hoạt động tín dụng (cả huy động và cho vay) phải minh bạch công khai, an toàn và hiệu quả. Hệ thống kiểm soát nội bộ (gồm cả quy trình nghiệp vụ, quy chế hoạt động, điều hành và tổ chức) cần được thiết lập, duy trì và thường xuyên có sự đánh giá về tính hiệu quả và hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ. Mọi rủi ro trong kinh doanh phải được quản trị và kiểm soát.

Đối với DN, tài chính của DN phải lành mạnh, minh bạch có độ tin cậy cao với ngân hàng, đảm bảo mọi khoản vốn và tài sản được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Hệ thống kiểm soát nội bộ cần được tạo lập và duy trì có hiệu lực, hiệu quả. Hệ thống kiểm soát nội bộ là vòng kiểm soát trực tiếp, thứ nhất để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh. Đó là các quy trình, quy tắc quản trị, các quy trình và thủ tục nghiệp vụ, các nguyên tắc tổ chức và phân công phân nhiệm trong bộ máy kinh doanh và quản trị kinh doanh. Vòng kiểm soát thứ hai và thứ ba là kiểm toán nội bộ và kiểm toán dịch vụ từ bên ngoài.

Giải pháp khả thi nhất là các DNNVV cần phải xác lập niềm tin nơi ngân hàng bằng cách mời công ty kiểm toán đáng tin cậy, có đủ địa vị pháp lý và năng lực chuyên môn về kiểm tra và xác nhận thông tin cho DN mình. Đây chính là bên thứ ba cần thiết trong hành trình tạo niềm tin của DN. Cần phải có hành lang pháp lý để "đỡ đầu" cho việc ra đời các giải pháp mang tính chiến lược. Độ tin cậy về năng lực tài chính, tính đúng đắn của các báo cáo tài chính cũng như "lý lịch" về quan hệ tín dụng của DNNVV mới chính là "thước đo" mang tính thủ tục, không thể thiếu khi tiếp cận vốn của DNNVV.

o Quản lý & sử dụng vốn NH trong nền kinh tế:

a) Về bất động sản

Kênh cấp vốn chủ lực cho thị trường bất động sản hiện vẫn là vốn vay từ các tổ chức tín dụng, vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp và vốn huy động từ thế chấp, tiết kiệm, trái phiếu và đầu tư nước ngoài. Theo đánh giá của các chuyên gia trong ngành, khi Thông tư 13 có hiệu lực thi hành vào 1/10/2010 sẽ có tác động đến dòng tiền đổ vào bất động sản, cụ thể các ngân hàng sẽ phải thu hẹp lại các khoản vay này để tránh nguy cơ bong bóng bất động sản xảy ra.

 Theo nội dụng của Thông tư 13, các khoản vay đối với công ty con, công ty liên doanh, công ty liên kết sẽ có hệ số rủi ro điều chỉnh tăng từ 100% lên 150%. Các khoản vay kinh doanh bất động sản và các khoản vay đối với Công ty chứng khoán (CTCK) có hệ số rủi ro lên 250%. Hệ số rủi ro của khoản cho vay đầu tư chứng khoán vẫn giữ nguyên ở mức 250% theo như Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN.

Với việc gia tăng hệ số rủi ro đối với lĩnh vực kinh doanh bất động sản lên 250%, đồng thời tăng hệ số an toàn vốn (CAR) của các ngân hàng lên 9% sẽ dẫn đến việc vay vốn mua nhà sẽ khó khăn hơn, vì các ngân hàng sẽ phải thu hẹp tín dụng trong lĩnh vực này để đảm bảo an toàn vốn cho hệ thống ngân hàng.

Nguồn cung tín dụng cũng bị thu hẹp do ngân hàng bị hạn chế tỷ lệ cho vay. Các ngân hàng sẽ buộc phải cân nhắc để hạn chế bớt các khoản cho vay bất động sản và để vốn cho vay các lĩnh vực sản xuất.

 Nghị định 71 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật nhà ở cũng mới được ban hành trước đó vào ngày 23/6/2010 và có hiệu lực thi hành vào ngày 8/8/2010. Chủ đầu tư kinh doanh bất động sản lớn, có tiềm lực về tài chính lại có cơ hội huy động vốn một cách thông thoáng hơn, có thể khơi thông được nguồn vốn đầu tư dự án bằng nhiều cách huy động khác nhau như quy định được huy động trước 20%, phát hành trái phiếu,... (Điều 9 Nghị định 71). Trái lại, các nhà đầu tư thứ cấp, cá nhân,... lại đang gặp rất nhiều khó khăn trước những quy định chặt chẽ của Nghị định này. Vấn đề bán nhà trên giấy khó có thể diễn ra như trước đây nữa, và chính điều này đã làm cho thị trường ảm đạm hơn, giao dịch èo uột hơn,...

 Dưới tác động kép như trên, cùng với lãi suất huy động từ ngân hàng luôn ở mức cao thị trường bất động sản đã gặp khó khăn, đến nay sẽ càng khó khăn hơn khi tín dụng bị thu hẹp. Điều này sẽ tác động xấu đến thị trường và có nguy cơ đóng băng. Tính đến cuối tháng 7/2010, tổng dư nợ cho vay trong lĩnh vực bất động sản đạt 210.770 tỷ đồng, tăng 14,38% so với thời điểm 31/12/2009. Trong đó, dư nợ cho vay xây dựng khu đô thị mới tại thời điểm 31/7/2010 sụt giảm âm (-) 2,35% so với tăng trưởng 10,2% của cả năm 2009. Số liệu đáng chú ý trong báo cáo này là dư nợ cho vay xây dựng, sửa chữa, mua nhà để ở chỉ tăng 5,47% so với 27,2% của cả năm ngoái (nguồn: Bộ Xây Dựng). Đó là những minh chứng rõ nét nhất cho mảng tín dụng nhà đất đang nhuốm màu ảm đạm ở Việt Nam hiện tại. Bức tranh ảm đạm của thị trường bất động sản hẳn sẽ kéo dài hết năm nay và thậm chí là nửa đầu năm 2011. Để sang trang mới, thị trường bất động sản Việt Nam cần có những giải pháp thiết thực hơn.

 Tuy nhiên, xét về lâu dài cả hai chính sách này đều nhằm mục đích hướng thị trường bất động sản phát triển bền vững và ổn định hơn, chúng giúp thanh lọc thị trường và loại khỏi cuộc chơi những doanh nghiệp không có tính chuyên nghiệp cao và năng lực tài chính thấp kém...

Một số chuyên gia tài chính cho rằng, tăng trưởng tín dụng ngân hàng trong đầu tư bất động sản ngày càng ít có đột biến, do đó những công ty bất động sản lớn thường không phụ thuộc quá nhiều vào kênh này. Việc tăng dự trữ an toàn của các ngân hàng do đó không có ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp. Tác động về mặt lãi suất cũng như tâm lý lo ngại chỉ là trong ngắn hạn (từ 3-6 tháng). Còn về dài hạn, việc tăng hệ số rủi ro đối với lĩnh vực bất động sản có thể sẽ giúp cho hệ thống ngân hàng đảm bảo được mức độ an toàn vốn và ổn định vững chắc hơn trước những biến động không tich cực của kinh tế vĩ mô. Mặt khác, nó sẽ khiến thị trường bất động sản phát triển bền vững, chuyên nghiệp, hạn chế đầu cơ. Từ đó nguồn vốn cho vay từ các ngân hàng sẽ tập trung vào các kênh có độ rủi ro thấp hơn như các hoạt động sản xuất. Khi nguồn thu cho thị trường ổn định và tăng trưởng thì lãi suất cho vay sẽ từ từ giảm bớt. Các chủ đầu tư kinh doanh bất động sản lớn có tiềm lực về tài chính sẽ có cơ hội huy động vốn một cách thông thoáng hơn, có thể khơi thông được nguồn vốn đầu tư dự án bằng nhiều cách huy động khác nhau như quy định được huy động trước 20%, phát hành trái phiếu...

b) Về thị trường chứng khoán

Thị trường hiện có nhiều công cụ hỗ trợ nhà đầu tư như cầm cố cổ phiếu (nghiệp vụ repo), đòn bẩy tài chính, hợp đồng quyền chọn (option).

Cầm cố cổ phiếu là việc nhà đầu tư dùng chứng khoán đã mua để thế chấp vay tiền đầu tư tiếp vào thị trường. Khi dùng công cụ này, xem như nhà đầu tư đã bán cổ phiếu cho công ty chứng khoán trong một thời hạn nhất định và cam kết sẽ mua lại đúng số lượng và giá trị đã bán vào thời điểm hợp đồng cầm cố hết hạn. Khi hết hạn, nhà đầu tư sẽ thanh lý hợp đồng với công ty chứng khoán (nhà đầu tư trả lại số tiền bằng giá công ty chứng khoán đã mua cùng với lãi suất cho vay theo thời hạn cầm cố). Lúc đó, công ty chứng khoán sẽ làm giấy chuyển nhượng sang lại tên cho nhà đầu tư.

Hiện nay, các nhà đầu tư rất ít sử dụng công cụ này, vì giá trị cầm cố rất thấp, thường chỉ từ 20 - 50% thị giá (tùy loại cổ phiếu). Để tạo điều kiện cho nhà đầu tư vay vốn và đạt mức lợi nhuận kỳ vọng cao hơn, các công ty chứng khoán đã cung cấp thêm một số công cụ như đòn bẩy tài chính và hợp đồng quyền chọn. Trong trường hợp quyền chọn mua, người mua (nhà đầu tư) sẽ trả cho người bán quyền chọn (công ty chứng khoán) một khoản phí. Người mua sẽ có quyền được mua (nhưng không bắt buộc phải thực hiện) một số lượng chứng khoán nhất định theo mức giá đã được thỏa thuận và chỉ phải đặt cọc số tiền theo quy định của bên bán.

Trên thị trường, hiện đã có một số công ty chứng khoán tung ra sản phẩm quyền chọn. Tại Công ty Chứng khoán VNDirect, khi chọn mua 1 loại cổ phiếu trong khoảng thời gian từ 1 - 3 tháng, nhà đầu tư chỉ phải đặt cọc số tiền từ 7 - 11% tổng giá trị mua cổ phiếu.Chẳng hạn, nhà đầu tư chọn quyền mua 10.000 cổ phiếu NTL với giá 60.000 đồng/cổ phiếu. Nếu kỳ vọng trong 1 tháng tới cổ phiếu này sẽ tăng giá, nhà đầu tư sẽ phải đặt cọc số tiền là 7% giá trị của 10.000 cổ phiếu NTL (hợp đồng 1 tháng). Đối với hợp đồng 2 tháng, con số này là 9% và 3 tháng là 11%.Trong thời gian hợp đồng có hiệu lực, nếu cổ phiếu NTL tăng giá như kỳ vọng, nhà đầu tư có thể chốt lời. Mức lãi nhà đầu tư được hưởng sẽ phải trừ đi khoản đặt cọc thanh toán cho công ty chứng khoán. Ngược lại, nếu cổ phiếu NTL giảm giá mạnh, khi hợp đồng hết hạn, nhà đầu tư chỉ mất số tiền đặt cọc. Trường hợp quyền chọn bán cũng tương tự.

Đối với công cụ đòn bẩy tài chính, hiện nay, nhiều công ty chứng khoán cho nhà đầu tư vay với hạn mức lên tới 300%. Ví dụ, nếu nhà đầu tư có 100 triệu đồng, công ty chứng khoán sẽ hỗ trợ thêm 300 triệu đồng với lãi suất từ 1,5 - 1,8%/tháng. Nếu sử dụng công cụ này đúng lúc thị trường tăng mạnh, lợi nhuận thu được sẽ rất cao vì mức lãi này được tạo ra từ tổng số vốn 400 triệu đồng chứ không phải 100 triệu đồng. Tuy nhiên, nếu gặp lúc thị trường giảm mạnh, nhà đầu tư sẽ lỗ nặng. Chỉ cần lỗ 30% tổng vốn đầu tư, mức lỗ của riêng khoản vay (300 triệu đồng) đã là 90 triệu đồng. Cộng với tiền lãi gần 10 triệu đồng/tháng, nhà đầu tư gần như mất sạch tiền.

Hoạt động kinh doanh chung

o Sản phẩm Ngân hàng:

a) Trong điều kiện nguồn vốn không được dư dả lắm thì việc lựa chọn đối tượng nào cho vay để mang lại hiệu quả nhất cũng là một vấn đề đối với các ngân hàng. Trên thực tế, huy động vốn của các ngân hàng từ khu vực dân cư, tổ chức kinh tế đang gặp khó khăn. Hiện lãi suất huy động phổ biến vẫn 11,2%. Vì vậy, để đảm bảo kế hoạch lợi nhuận năm, nhiều ngân hàng đã cố gắng cho vay tiêu dùng với lãi suất cao hơn lãi suất cho vay kinh doanh. Tuy nhiên, nỗ lực đẩy mạnh cho vay tiêu dùng cũng không đạt hiệu quả cho lắm khi lãi suất vẫn còn ở mức cao. Cho vay doanh nghiệp thì áp lực cạnh tranh rất lớn giữa các ngân hàng, nhất là những doanh nghiệp tốt. Hơn nữa, với điều kiện kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro như hiện nay, điều kiện cho vay cũng theo đó mà khó hơn, doanh nghiệp tiếp cận cũng khó khăn hơn. Trong khi cho vay tiêu dùng lại an tâm hơn khi người vay thường có tài sản thế chấp tốt hơn và lãi suất cho vay cũng cao hơn. Việc làm khó các doanh nghiệp nhỏ, chủ doanh nghiệp kinh doanh cá thể trong việc vay vốn kinh doanh cũng dễ hiểu, bởi những doanh nghiệp này không cần nhiều vốn, hơn nữa khó có thể phân biệt được nhu cầu vay tiêu dùng và kinh doanh ở những doanh nghiệp này.

b) Đón đầu mùa tiêu dùng cuối năm nay, đồng thời kỳ vọng tăng trưởng dư nợ tín dụng sẽ cải thiện trong quý IV/2010, các ngân hàng đang đẩy mạnh cho vay khách hàng cá nhân. So với 2 quý trước, hiện lãi suất cho vay của các ngân hàng lớn áp dụng đối với khách hàng cá nhân giảm từ 1 - 1,5%/năm, đồng thời nới điều kiện tín dụng và kéo dài thời gian trả nợ. Trong đó, phải kể đến là tín dụng mua nhà, căn hộ cũng như sửa chữa nhà dưới hình thức trả góp, nhiều ngân hàng cho vay lên đến 15 - 20 năm, thay vì tối đa 10 năm đổ lại như trước đây. Thế nhưng, để kích thích tăng trưởng dư nợ tín dụng cá nhân trong lúc này, các ngân hàng cho biết là không dễ. Các ngân hàng dự báo, khả năng trong quý còn lại của năm 2010, nhu cầu vốn của khách hàng cá nhân sẽ tăng, nhưng mức tăng khó có thể đạt được như cùng kỳ năm trước. Vì thế, việc đẩy mạnh tăng trưởng dư nợ cá nhân năm nay của các ngân hàng sẽ khó thực hiện hơn. Lý do một phần là lãi suất cho vay vẫn cao đối với các khách hàng cá nhân. Trong khi đó, với các ngân hàng, không thể mạnh tay cắt giảm chi phí đầu vào để giảm lãi suất đầu ra, vì bị ràng buộc bởi các quy định mới liên quan đến hoạt động của ngân hàng, trong đó phải kể đến là Thông tư 13/2010/TT-NHNN.

c) Hiện nay, nhiều ngân hàng "nội" và "ngoại" đang đua nhau phát hành thẻ tín dụng. Theo các ngân hàng, thẻ tín dụng là thị trường của tương lai. Để cạnh tranh thị phần, nhiều ngân hàng không chỉ áp dụng các chương trình mở thẻ tín dụng miễn phí mà còn tiếp thị trực tiếp đến từng khách hàng.

Không riêng gì ngân hàng "nội", các ngân hàng "ngoại" như HSBC, ANZ... cũng chạy đua cạnh tranh thị phần bán lẻ thông qua việc mời chào trên các trang web công cộng, gửi email và gọi điện thoại trực tiếp đến khách hàng đã và chưa mở tài khoản. Tuy nhiên phần lớn người tiêu dùng vẫn khá "thờ ơ" với sự mời chào như vũ bão của các ngân hàng. Thực tế là không phải khách hàng nào cũng có thể đáp ứng được điều kiện của ngân hàng để mở thẻ. Bởi theo quy định, khách hàng phải có mức lương chuyển khoản qua ngân hàng từ 8 triệu đồng/tháng trở lên mới có thể mở thẻ. Ngoài chi phí về phát hành thẻ, phí "nuôi" thẻ hàng năm, khách hàng phải quan tâm nhất đến "lãi suất" khi "vay" tiền qua thẻ tín dụng. Có ngân hàng lãi suất chỉ khoảng 1,5%/tháng, nhưng có ngân hàng lên gần 1,9%/tháng. Bên cạnh đó, nhiều người vẫn chưa có thói quen sử dụng thẻ tiêu dùng do vẫn thích sử dụng tiền "tươi" hơn qua chuyển khoản. Nhiều điểm mua sắm vẫn chưa lắp đặt hệ thống POS nên chưa tạo được hiệu quả thói quen tiêu dùng bằng thẻ tín dụng. Đặc biệt, các ngân hàng vẫn chưa xây dựng được hệ thống quản lý thẻ tín dụng để kiểm tra sự xác thực của cá nhân, để khi bị mất thẻ không coi việc "cầm thẻ là... cầm nợ." Do đó nhiều người tiêu dùng vẫn chưa mặn mà sử dụng loại thẻ này.

Chắc là nên có thêm 1 phần tổng kết?

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #minhhoang