21-30
Chương 21
đảo tiboulen
Dantès bị choáng váng, gần như nghẹt thở. Nhưng anh nhanh trí, cầm con dao sắc đã chuẩn bị từ trước rạch cái bao và chui được ra ngoài. Song anh vẫn thấy một vật gì nặng cứ kéo anh xuống phía dưới. Anh vội co người lại, nắm được sợi dây thừng quấn ở cổ chân, nghiến răng, cố lấy hết sức cầm dao cắt đứt được sợi dây thừng. Tức thì anh dùng chân đạp mạnh một cái, và nhô lên được khỏi mặt nước.
Anh hít một hơi không khí, rồi lại hụp ngay xuống nước để đề phòng có ai nhìn thấy chăng. Một lát sau anh ngoi lên và thấy đã cách xa chỗ bị quẳng xuống khoảng năm mươi bước.
Bầu trời đen như mực, biển động rất mạnh như báo trước một cơn dông tố. Trước mặt anh, trên nền trời đen ngòm, in hình tòa lâu đài khủng khiếp. Anh định được phương hướng. Xung quanh lâu đài If có mấy hòn đảo có người ở, riêng đảo Tiboulen ở cách xa một dặm là hoang vắng. Giữa lúc đó anh thấy phía xa cây đèn biển le lói như một ngôi sao, và cứ bơi theo phía bên trái là sẽ tới được đảo đó. Những lời dặn dò của linh mục Faria vẫn còn văng vẳng bên tai như tiếp thêm cho anh sức lực và lòng can đảm trong lúc nguy nan.
Anh vẫn bơi, lòng tràn đầy niềm sung sướng vô hạn của một con người tự do. Khoảng một giờ sau, hình bóng tòa lâu đài khủng khiếp đã khuất trong đám sương mù của đêm tối. Anh bơi ngửa để nghỉ một lát, nhưng biển động mỗi lúc một mạnh, bầu trời càng tối đen. Một đám mây dày đặc sa xuống mặt nước và bỗng nhiên anh thấy đau nhói ở đầu gối. Anh lấy tay sờ thì tay chạm phải một hòn đá. Ở cách xa anh chừng hai mươi bước là đảo Tiboulen với những tảng đá hình thù cổ quái.
Dantès tiến vào bờ, lần đi được vài bước rồi nằm bên một tảng đá. Anh cảm ơn Thượng đế đã dành cho anh một cái giường rất êm, nhất là trong lúc này. Rồi mặc cho bão táp, mặc cho những giọt mưa bắt đầu rơi, mặc cho người mệt nhoài, anh đánh một giấc ngon lành, tâm hồn sảng khoái và đê mê bởi một niềm hạnh phúc mà không bao giờ anh ngờ tới. Một giờ sau, một tiếng sét nổ long trời làm anh choàng dậy. Cơn bão đang điên cuồng lòng lộn, thỉnh thoảng một tia chớp lóe lên chiếu sáng nền trời đầy mây và những ngọn sóng đang dồn dập xô vào bờ.
Bằng con mắt sắc sảo của một thủy thủ lành nghề, Dantès nhìn xung quanh tìm một tảng đá cao nhất để trú ẩn. Anh ngồi thu mình trong một cái hốc nhỏ, những đợt sóng bắn tung tóe sát chân anh. Anh có cảm tưởng hòn đảo đang rung lên như một con tàu bị đứt neo quay cuồng trong bão táp bao la, lôi anh xuống đáy biển. Anh sực nhớ ra là từ hai mươi bốn giờ qua anh chưa ăn một chút gì. Bụng anh đói cồn cào và khát khô cả họng. Anh giơ tay hứng nước mưa uống. Một tia chớp lóe lên làm sáng rực một góc trời giúp anh trông thấy ở phía xa xuất hiện một con thuyền đánh cá tựa hồ một bóng ma nhấp nhô trên làn sóng.
Một tia chớp nữa làm anh nhìn thấy có bốn người đang bấu víu vào cột buồm, và người thứ năm cầm chiếc bánh lái đã bị gãy. Họ đang kêu la thảm thiết và tuyệt vọng. Trên cột buồm, một cánh buồm rách bươm, ngả nghiêng tung bay trước gió, rồi bỗng dưng nó bị tiếng "rắc" rùng rợn kéo theo những tiếng kêu thất thanh vọng tới tai anh.
Một tia chớp khác làm anh thấy chiếc thuyền đã bị vỡ tung và giữa những mảnh thuyền trôi lềnh bềnh trên sóng, những bộ mặt trắng bệch và những cánh tay giơ lên trời. Cảnh tượng khủng khiếp ấy chỉ diễn ra trong giây lát, cảnh vật lại chìm vào trong đêm tối. Dantès chú ý nhìn, nghe ngóng. Không còn một tiếng động nào, một tiếng kêu la nào, mà chỉ còn cơn bão hãi hùng đang gào thét trong gió rít và trên những ngọn sóng bọt tung trắng xóa.
Ngày đã rạng, Dantès đứng lặng lẽ nhìn cảnh tượng hùng vĩ của đất trời mà đã từ lâu lắm anh không được thấy. Biển đã lặng. Xác chiếc thuyền đánh cá nhô lên khỏi mặt nước lặng như tờ.
Anh nghĩ thầm: "Một vài giờ nữa tên cai ngục sẽ mang thức ăn vào. Nhìn thấy xác linh mục nằm trên giường của ta, hắn sẽ khám phá ra mưu mô của ta và báo động. Chúng sẽ hỏi những đứa đã quẳng ta xuống biển. Bọn này sẽ khai là có nghe thấy tiếng kêu của ta lúc sắp rơi xuống nước. Rồi chúng sẽ bắn súng hiệu và bọn cảnh binh nai nịt đầy đủ vũ khí sẽ chèo thuyền đi tìm. Bọn cảnh binh và đặc vụ ở trên bờ sẽ được lệnh truy nã tên tù vượt ngục, và thế là ta sẽ bị bao vây bởi đất, bởi trời và bởi những con người hung hãn. Tính mạng của ta sẽ nằm trong tay bất cứ kẻ nào bắt được ta đem nộp để lĩnh hai mươi francs tiền thưởng".
Trong lúc Dantès đang lo sợ như thế thì đôi mắt rất tinh tường của anh phát hiện một cánh buồm nhỏ ở phía chân trời. Dần dần hiện ra một chiếc thuyền buồm. Qua hình dáng anh nhận ra được là thuyền của người Ý đi từ cảng Marseilles tới và đang rẽ sóng tiến về phía anh. Dantès nghĩ thầm có lẽ chiếc thuyền này là của bọn buôn lậu hoặc cướp biển. Chúng sẽ sẵn sàng bán rẻ anh hơn là làm một việc lương thiện.
Đang phân vân, không biết sẽ đối xử và trả lời chúng ra sao, Dantès quay lại nhìn chiếc thuyền đánh cá bị đắm. Anh thấy một chiếc mũ vải của một thủy thủ mất tích mắc vào một mỏm đá. Gần đó, một vài xà gỗ nổi lênh bềnh trên mặt nước. Anh nẩy ra một ý, bơi ra chỗ đó, vớ lấy một cái xà gỗ, đội chiếc mũ vải lên đầu rồi tiến ra chiếc thuyền buồm lúc này cũng đang tiến gần. Tuy đã kiệt sức nhưng anh vẫn ngồi thẳng trên cái xà, tay cầm mũ vẫy, miệng kêu cứu. Tiếng kêu thất thanh của anh vọng tới tai những người trên thuyền và lập tức có hai người chèo một chiếc xuồng con đến. Giữa lúc đó anh bị luồng sóng rất mạnh lật anh xuống biển. Chân tay rã rời, người mệt lả anh cố ngoi lên, thét lên một tiếng rùng rợn của một người sắp bị nước cuốn trôi. Một đợt sóng khác lại dìm anh xuống sâu. Anh vừa kịp ngoi lên thì một bàn tay nắm lay tóc anh và cùng lúc đó anh ngất đi.
Lúc mở mắt Dantès thấy mình nằm trên sàn thuyền, anh thốt lên một tiếng reo mừng. Một thủy thủ đang cầm một cái chăn dạ xát mạnh vào chân tay và mình mẩy anh. Một thủy thủ khác ấn cái bầu đựng rượu vào miệng anh. Người thứ ba, mà anh đoán là chủ thuyền hoặc hoa tiêu, đang nhìn anh bằng con mắt ái ngại. Sự chăm sóc của hai thủy thủ làm anh hồi tỉnh và mấy ngụm rượu rum sưởi ấm thêm cho anh.
Thấy anh đã có vẻ tỉnh, người chủ thuyền hỏi anh bằng tiếng Pháp lơ lớ:
- Anh là ai và ở đâu đến?
- Tôi là một thủy thủ ở đảo Malta, làm việc trên một chiếc tàu chở rượu từ Ý về đến đây thì bị đắm. Ông thuyền trưởng bị va đầu vào một mỏm đá chết và ba bạn đồng nghiệp của tôi cũng bị mất tích - Dantès đáp bằng tiếng Ý và chỉ về phía chiếc thuyền bị đắm - Cảm ơn các bạn đã cứu tôi sống, nếu không tôi đã nằm trong bụng cá rồi. Lúc nãy bạn nào đã nắm tóc tôi kéo lên?
Một thủy thủ vẻ mặt thật thà, chất phác, có bộ râu quai nón đen đáp:
- Tôi đây, chỉ chậm một tí nữa là anh đi đứt. Trông thấy bộ tóc và râu dài của anh, tôi cứ ngỡ anh là quân cướp biển. Bây giờ anh tính sao? - Người chủ thuyền hỏi.
- Chao ôi - Dantès đáp - Chiếc thuyền bị đắm rồi, ông thuyền trưởng và bạn tôi không còn nữa. Tôi mong các ông thả tôi xuống một cảng gần nhất và tôi sẽ đi kiếm việc làm.
- Anh hiểu rõ Địa Trung Hải chứ?
- Tôi đi biển từ thuở nhỏ, không một bến nào tôi không biết và nhắm mắt cũng tìm được đường đi, mặc dù khó khăn, hiểm trở đến mấy.
- Thế thì còn đợi gì mà chả cho anh ta gia nhập vào bọn mình - Người thủy thủ đã cứu Dantès nói.
- Được - Người chủ thuyền nói - Để còn xem tài anh ta ra sao đã. Anh hãy cầm lái cho thuyền này lên đường đi Leghorn xem sao.
Dantès bước ra điều khiển tay lái và bảo mấy thủy thủ làm theo lệnh của mình với một kinh nghiệm nhà nghề rất thành thạo khiến người chủ thuyền nhìn anh ngạc nhiên và thán phục.
Thuyền buồm len lỏi qua những núi đá rồi vững vàng ra khơi để về phía đảo Rion dưới sự điều khiển khéo léo của Dantès. Mọi người thấy anh có đôi mắt sáng, vóc người khỏe mạnh và nhanh nhẹn đều trầm trồ, khen ngợi.
Jacopo, tên người thủy thủ đã cứu anh, đưa cho anh mượn một bộ quần áo để mặc, một mẩu bánh mì và một bầu rượu rum. Anh vừa đưa bầu rượu lên môi thì ở phía lâu đài If có một làn khói trắng bay lên bầu trời, rồi một tiếng súng nổ vang. Chủ thuyền và các thủy thủ đều ngạc nhiên nhìn về phía đó.
༺༒༻
Dantès điềm nhiên tu hết chỗ rượu còn lại rồi chậm rãi nói:
- Chắc có một tên tù vượt ngục và người ta bắn súng báo động đấy.
Nói xong, anh lại đàng hoàng ra ngồi bẻ lái. Khi chiếc thuyền buồm đã đi khỏi lâu đài If, Dantès hỏi Jacopo:
- Hôm nay là ngày bao nhiêu nhỉ? Tôi đi chuyến này lâu quá nên quên cả ngày tháng.
- Ngày 28 tháng Hai năm 1829.
༺༒༻
Tính đến hôm nay, Dantès bị bắt vừa đúng mười bốn năm. Anh bước vào lâu đài If hồi mới mười chín tuổi, bây giờ đã ba mươi ba.
Một nụ cười chua chát và đau khổ nở trên môi anh. Giờ đây, Mercédès ra sao sau khi cho là anh đã chết? Anh càng thêm căm thù bọn khốn kiếp đã hãm hại đời anh.
Chương 22
bọn buôn lậu
Dantès mới sống có một ngày với những người bạn mới mà anh đã biết được ông chủ chiếc thuyền buồmLa Jeune Amélienày là ai. Những ngôn ngữ, cử chỉ của họ không thể lọt qua cặp mắt tinh tường của anh. Ngược lại, ông chủ thuyền vẫn chưa hoàn toàn tin cậy vào anh vì nghề buôn lậu của ông bắt buộc phải đề phòng những mánh lới và thủ đoạn của hải quan. Thoạt đầu, ông nghi anh là nhân viên hải quan trá hình. Sau khi nghe phát súng nổ trên lâu đài If, ông lại ngờ anh là tù vượt ngục nên thấy vững tâm hơn. Rồi dần dần thấy anh thông thạo nghề đi biển, nói năng dịu dàng và điềm đạm, ông thấy hài lòng có được một người giúp việc nhanh nhẹn và tháo vát như vậy.
Khi thuyền cập bến Leghorn, Dantès tìm đến một hiệu cắt tóc để xem mặt mũi mình ra sao sau mười bốn năm trời. Người thợ rất ngạc nhiên khi thấy khách có bộ tóc dài chấm lưng và bộ râu rậm đen ngòm. Khi bộ tóc đã được sửa sang gọn ghẽ, bộ râu đã được cạo nhẵn, Dantès cầm gương lên soi và giật mình trước sự biến đổi của bộ mặt mình.
༺༒༻
Bộ mặt tròn trĩnh của chàng thanh niên lúc bước chân vào lâu đài If bây giờ đã là bộ mặt gân guốc, cứng rắn của một con người đầy nghị lực. Đôi lông mày uốn cong trên cặp mắt u buồn, sắc sảo, ánh lên những tia chán chường và lòng căm thù thầm kín. Da mặt từ lâu không tiếp xúc với ánh nắng trở nên xanh nhợt và mớ tóc đen nhánh làm cho khuôn mặt anh lại có một vẻ đẹp đài các của giới thượng lưu. Những hiểu biết mà anh đã học tập được trong tù phản chiếu thêm lên bộ mặt vẻ thông minh, lanh lợi. Tầm vóc to lớn của anh một phần là do kết quả của những năm tháng lao động đào hầm trong tù, biểu lộ một sức lực phi thường. Giọng nói của anh cũng đã thay đổi, lúc dịu dàng, lúc đanh thép. Nhìn vào mặt mình trong gương anh phải mỉm cười vì mình cũng không nhận ra mình thì còn một ai biết đây là Edmond Dantès xưa kia nữa!
Ở hiệu cắt tóc ra, anh đi mua một bộ quần áo thủy thủ mới, mặc vào. Khi trở về thuyền, ai cũng phải kinh ngạc thấy anh chàng râu tóc xồm xoàm sắp chết đuối, đã đổi lốt thành một thủy thủ lịch sự, bảnh bao. Anh báo với mọi người rằng thời hạn để tang của anh đã chấm dứt nên anh có thể cắt tóc và cạo râu được. Người chủ thuyền cũng có cảm tình với anh nên muốn thuê mướn anh lâu dài, nhưng anh chỉ nhận giúp việc trong ba tháng thôi.
Chiếc thuyền cập bến Leghorn tám ngày, khi trong khoang đã đầy ắp hàng cấm, nó lại lên đường đi đảo Corse. ChiếcLa Jeune Amélierẽ sóng ra khơi, đưa Edmond đến chân trời xanh thẳm mà anh đã từng sống trong thời niên thiếu và hằng mơ ước trong bao năm bị giam cầm. Sáng hôm sau, anh lên sàn thuyền đứng nhìn về một hòn núi đá lởm chởm mà ánh dương nhuộm đỏ: đó là đảo Monte Cristo. Anh muốn nhào xuống để bơi ra hòn đảo thần kỳ ấy, và với tài bơi của anh chỉ mất chừng nửa giờ thôi... Nhưng anh nghĩ không có vũ khí, không có dụng cụ để đào bới thì cũng vô ích và chỉ tổ gây thắc mắc cho những người trên thuyền, nên anh chờ. Một con người như Dantès đã chờ đợi tự do trong mười bốn năm trời, bây giờ đây anh đã biết chờ đợi dù là sáu tháng, dù là một năm để chiếm cái kho tàng khổng lồ đó. Anh đã nắm được mọi chi tiết bản sơ đồ và đã học thuộc lòng tờ di chúc của Hồng y giáo chủ Spada theo lời chỉ bảo tận tình của linh mục Faria, nên không cần phải vội vã lắm.
Chiếc thuyền buồm vẫn tiến về đảo Corse. Một đêm, người ta nhìn thấy có ánh đèn le lói trên bờ. Trên thuyền một chiếc đèn hiệu được treo lên và một lát sau có bốn chiếc xuồng từ trong bờ chèo ra đậu sát vào chiếcLa Jeune Amélie.
Đến hai giờ sáng, số hàng hóa đã được chuyển hết xuống những chiếc xuồng rồi được đưa lên bờ rất kín đáo và an toàn. Theo luật lệ của những người buôn lậu, số tiền lời được chia ngay ngày hôm sau, và mỗi người được một trăm đồng tiền Ý. Sau đó chiếcLa Jeune Amélielại chở thuốc lá và rượu vang đến đảo Lucca, nhưng lần này bị chạm trán với nhân viên hải quan. Một cuộc đọ súng đã xảy ra. Kết quả một nhân viên hải quan bị hạ và hai thủy thủ bị thương. Dantès là một trong hai thủy thủ đó. Một viên đạn đã xuyên qua vai trái anh.
Dantès hầu như lấy làm sung sướng về cuộc đọ súng đó và anh hài lòng về vết thương của mình, vì những cái đó đã dạy cho anh cách đối diện với gian nguy và cách chịu đựng đau đớn. Anh đã nhìn người hải quan chết, nhưng do tình cảm nhân đạo đã nguội lạnh, anh hầu như không thấy xúc động gì. Jacopo thấy anh ngã xuống, chạy đến nâng anh dậy và sau đó đã săn sóc anh một cách tận tình. Dantès lấy làm ngạc nhiên về mối thiện cảm của con người ấy đối với mình. Người ấy mong đợi gì ở ta, ngoài món tiền chia nhau thường kỳ?
Cũng may Dantès chỉ bị thương nhẹ. Nhờ có một thứ cỏ mà những người buôn lậu thường dự trữ sẵn, vết thương của anh lành nhanh chóng. Dantès muốn thử Jacopo, biếu anh ta số tiền được chia để đền công lao săn sóc, nhưng đã bị Jacopo bực tức khước từ.
Sau ba tháng sống chung với những người buôn lậu, Dantès đã thu lượm được rất nhiều. Anh trở thành một kẻ buôn lậu thành thạo cũng như trước đây anh là một thủy thủ dũng cảm. Anh bắt liên lạc được với tất cả những người buôn lậu ở bờ biển. Anh biết được tất cả các mật hiệu để bọn cướp biển ấy nhận ra nhau. Anh cũng đã đi qua, đi lại vài chục lần đảo Monte Cristo nhưng chưa lần nào anh tạo được cơ hội để ghé lên đó. Anh quyết định, sau khi hết hạn làm việc với ông chủ thuyền, anh sẽ thôi việc và thuê một chiếc thuyền nhỏ dùng vào việc riêng của anh. Anh có thể làm được việc này vì anh đã dành dụm được một số tiền.
༺༒༻
Giữa lúc đó, một sự kiện vô cùng may mắn xảy đến. Anh được ông chủ thuyền tin cậy nên một buổi tối ông chủ cầm tay anh dắt vào quán Via del’ Oglio, là nơi thường tụ tập những người buôn lậu để bàn bạc. Lần này có một việc quan trọng: Một chiếc tàu chở tơ lụa từ vùng Cận Đông tới. Cần phải tìm một địa điểm trung gian để chuyển hàng hóa tới đó rồi “đẩy” vào bờ biển nước Pháp. Một món hời lớn, mỗi người ít ra cũng được chia năm, sáu chục peso.
Ông chủ thuyền gợi ý nơi chuyển hàng là đảo Monte Cristo, vì đảo này hoang vắng, không có lính canh, không có hải quan. Nghe thấy tên Monte Cristo, Dantès sướng run lên. Anh phải đứng dậy để che giấu niềm xúc động. Cuối cùng, công việc ngã ngũ: Tối mai, nếu biển yên tĩnh họ sẽ gặp nhau trên hòn đảo làm nơi chuyển hàng ấy.
Chương 23
đảo monte cristo
Dantès không thể ngờ rằng, sau một thời gian dài số phận khắc nghiệt đeo đẳng theo anh, thì giờ đây anh đã gặp được dịp may mắn lạ thường. Suốt đêm đó anh nôn nóng vì những ý nghĩ quay cuồng trong óc. Vừa nhắm mắt, tờ di chúc của Hồng y giáo chủ Spada đã hiện ra rực rỡ với những hàng chữ sáng ngời. Anh vừa chợp mắt một lát thì những giấc mộng kỳ quái lại đến. Anh thấy mình bước xuống một cái động thần kỳ chất đầy vàng bạc châu báu giống như Ali Baba trong truyện “Nghìn lẻ một đêm”.
Sáng hôm sau, chiếcLa Jeune Améliegiương tất cả buồm, lướt với một tốc độ lớn, tiến tới đảo Monte Cristo. Hai giờ sau, nó đã vượt qua đảo Elba, và hòn đảo "kho tàng" đã thấy xuất hiện lờ mờ ở phía chân trời. Đến năm giờ chiều, toàn bộ hòn đảo đã nom rõ. Dantès chăm chú nhìn hòn đảo nhuốm đỏ ánh dương, lòng vô cùng bồi hộp. Đúng mười giờ đêm chiếc La Jeune Améliecập bến, đến chỗ hẹn đầu tiên. Dantès nhảy vội lên bờ và nếu không tự kiềm chế được, anh đã quỳ xuống hôn mặt đất như Lucius Brutus ngày xưa.
༺༒༻
Một giờ sau, trăng lên cao tỏa ánh bạc lên những mỏm đá nhấp nhô. Hòn đảo này rất quen thuộc đối với những thủy thủ của thuyền La Jeune Amélie, vì đấy là nơi họ thường đậu lại. Riêng có Dantès là chưa xuống đấy bao giờ. Anh hỏi Jacopo:
- Đêm nay chúng ta ngủ ở đâu?
- Ở dưới thuyền chứ còn ở đâu - Anh chàng đảo Corse đáp.
- Sao không tìm một cái hang để trú chân có tốt hơn không?
- Trên đảo này làm gì có cái hang nào.
Câu trả lời làm Dantès lạnh gáy. Anh nghĩ có thể những cái hang đã bị chôn vùi sau một biến cố nào đó, hoặc do Hồng y giáo chủ cho lấp đi vì thận trọng. Vậy thì đêm nay không thể tìm ra được, phải chờ đến sáng hôm sau vậy.
Vừa lúc đó ở ngoài có tiếng súng hiệu và chiếc La Jeune Améliecũng nổ súng trả lời. Một lát sau, một chiếc tàu chậm rãi, lặng lẽ tiến vào đảo, thả neo ở gần đó. Công việc chuyển hàng bắt đầu. Dantès làm việc suốt đêm mà không hề tỏ vẻ mệt nhọc. Đến sáng thì mọi việc xong xuôi. Anh mượn một khẩu súng và xin mấy viên đạn nói là để đi săn con sơn dương đang chạy nhảy trên những mỏm đá. Không ai ngăn cản thú đi săn của anh và để mặc anh đi. Chỉ có Jacopo là nằng nặc đòi đi theo. Anh không dám từ chối vì sợ có người nghi kỵ điều gì chăng. Vừa đi được mấy trăm bước, anh đã bắn được một con dê rừng đưa giao Jacopo đem về để mấy thủy thủ làm thịt sớm cho tươi. Anh dặn Jacopo khi nào nấu nướng xong thì bắn một phát súng báo tin để anh về cùng ăn.
Jacopo vừa đi khỏi, Dantès liền len lỏi giữa hai bức vách của những tảng đá và lần theo một con đường mòn mà nước biển đã bào mòn theo thời gian và chưa hề có ai đặt chân tới. Anh cứ theo bờ biển, quan sát kỹ lưỡng mọi địa hình. Tới một chỗ nghi vấn là vết tích của những hang đá, anh nhận ra những kẽ hở đó do bàn tay của con người tạo ra. Mặc dù bị rêu phong phủ kín, những kẽ hở đó được vạch đều đặn thành hàng, dường như có ý đánh dấu. Đi thêm mấy chục bước, những kẽ hở đó dẫn đến một tảng đá hình tròn và những kẽ hở đó đến đây cũng chấm dứt. Anh cho là mình đã tìm được mục tiêu rồi, liền quay trở lại.
Trong lúc đó, những người bạn anh đã quay xong con dê, bày bánh mì và hoa quả ra chuẩn bị bữa ăn. Họ bắn một phát súng báo hiệu và thấy ngay Dantès đang nhanh nhẹn nhảy trên những mỏm đá tìm đường về. Giữa lúc họ đang thích thú theo dõi những bước nhảy như bay của Dantès thì đột nhiên thấy anh bị trượt chân loạng choạng mất một giây và rơi xuống cùng một tiếng kêu to. Mọi người hoảng hốt, đổ xô đến chỗ anh, thấy Dantès nằm sóng soài, máu me đầy người, gần như bất tỉnh. Jacopo vội đổ vào miệng anh một ít rượu rum và thấy có hiệu quả ngay. Một lát sau, Dantès mở mắt, kêu đau ở đầu gối và lưng. Họ muốn khiêng anh xuống thuyền, nhưng vừa mới được nâng lên, anh đã kêu la, rên rỉ và yêu cầu tránh cho anh mọi sự di chuyển vì quá đau đớn. Anh bảo mọi người trở về ăn trước, anh không thấy đói và cần nằm yên một lát. Khi họ ăn uống xong trở lại thì thấy Dantès kêu đau hơn, thậm chí không thể cử động được. Ông chủ thuyền rất phân vân, không nỡ bỏ anh lại nên muốn hoãn giờ khởi hành. Dantès không muốn ông vi phạm luật lệ của phường buôn lậu do tình cảm riêng tư, bèn nói với ông:
- Cơ sự này do chính tôi gây ra thì tôi phải gánh chịu hậu quả. Tôi chỉ yêu cầu ông để lại cho tôi một số bánh bích quy, một khẩu súng, một ít đạn và một cái cuốc chim để tôi có thể sống ở đây vài ngày.
- Nhưng chúng tôi còn phải đi những tám hôm - ông chủ thuyền lưỡng lự - Lúc trở về không biết có ghé được vào đây để đón anh không?
- Không hề gì, nay mai nếu ông có gặp được một chiếc thuyền đánh cá nào đó, ông nhắn họ đến đây chở tôi tới Leghorn, tôi sẽ trả cho họ hai mươi lăm peso.
- Ông chủ ạ - Jacopo ngập ngừng - Chỉ có cách này tôi thấy là tiện nhất: Tôi sẽ cùng ở lại đây để chăm nom Dantès.
- Jacopo - Dantès nắm tay người bạn thủy thủ - Anh thật là một người bạn tốt bụng. Thượng đế sẽ ban phước lành cho anh. Anh và các bạn cứ yên lòng ra đi và tôi xin cám ơn lòng nhiệt tình của các bạn.
Ông chủ thuyền đành lắc đầu vì biết rằng không thể lay chuyển được ý định của Dantès. Ông hứa làm đúng theo các ý muốn của anh. Mọi người lưu luyến chia tay. Khi thuyền đã ra xa, họ vẫn còn quay lại nhìn và vẫy tay. Dantès nghĩ thầm: "Lạ lùng thay, từ chính những con người này mà ta tìm thấy được tình bạn chân thành và thắm thiết".
༺༒༻
Thế rồi anh thận trọng lê lên một mỏm đá, từ đấy anh có thể nhìn bao quát ra biển. Anh thấy chiếc thuyền nhổ neo, bập bềnh một cách duyên dáng như con chim hải âu sắp cất cánh bay.
Một giờ sau, con thuyền hoàn toàn biến mất, Dantès nhẹ nhàng và nhanh nhẹn đứng lên. Anh cầm khẩu súng và chiếc cuốc chim chạy như bay đến chỗ tảng đá tròn có những kẽ hở. Anh bỗng nhớ đến câu chuyện về một người đánh cá Ai Cập mà linh mục Faria đã kể, anh kêu to: “Vừng ơi! Hãy mở cửa ra”.
Chương 24
Dantès chạy như bay trên những tảng đá được ánh nắng tháng Năm sưởi ấm và càng thêm sinh động giữa tiếng ve kêu inh ỏi và lá cây xào xạc. Anh vừa xúc động vừa lo sợ. Mặc dù đứng trên một hòn đá vắng tanh, chỉ có một mình mà anh vẫn cứ có cảm tưởng như hàng trăm, hàng nghìn con mắt đang nhòm ngó. Cái cảm giác đó mạnh đến nỗi lúc sắp bắt tay vào việc, anh phải ngừng lại, bỏ cuốc xuống, cầm lấy khẩu súng, trèo một lần nữa lên mỏm đá cao nhất của đảo và nhìn ra xung quanh. Anh chẳng thấy một bóng thuyền, một bóng người nào hết, chỉ có mặt biển xanh biếc mênh mông cùng tiếng sóng vỗ ì ầm.
Anh lại chạy nhanh xuống nhưng rất thận trọng. Anh sợ rằng đúng vào lúc này nhỡ lại xảy ra đúng cái tai nạn mà lúc nãy anh đã khôn khéo đóng kịch.
༺༒༻
Anh loay hoay không biết dùng cách nào để bẩy được tảng đá tròn khổng lồ ra khỏi bệ của nó. Việc đó đòi hỏi phải có sức khỏe ghê gớm mới làm nổi. Anh bèn trèo lên tảng đá và để ý thấy có một cái rãnh thoai thoải ra phía sau. Anh bèn lần theo cái rãnh đó và tụt xuống. Một tảng đá to, cỡ một người ôm, nằm ở dưới chân như thể để chèn tảng đá lớn, và hình như đã có bàn tay khôn khéo nào phủ đất lên trên. Cỏ và rêu mọc kín, thoạt trông tưởng chừng như nó gắn liền với tảng đá lớn. Anh cạo hết đất và đá vụn quanh tang đá và chỉ mười phút sau đã bẩy được hòn đá chèn ra. Lúc đó hiện ra một cái hốc trống có thể đút lọt tay vào. Anh chặt một cành cây dùng làm đòn để bẩy nhưng vô hiệu. Tảng đá chỉ có thể lay chuyển khi có một sức mạnh thần kỳ. Anh chợt nhớ là Jacopo có để lại cho anh một cái sừng tê giác chứa đầy thuốc súng. Anh liền nảy ra một ý và mỉm cười. Anh dùng cuốc xẻ một cái rãnh giữa hai tảng đá như của người đánh mìn. Anh đổ đầy thuốc súng vào rồi xé chiếc khăn tay ra cuốn một ít thuốc súng vào làm ngòi. Anh châm ngòi rồi chạy ra xa. Một tiếng nổ dữ dội, làm vỡ tan tảng đá nhỏ và làm bật luôn tảng đá lớn ra xa khỏi bệ. Dantès bước lại gần và thấy tảng đá lớn đã nằm nghiêng không còn chỗ tựa. Anh cầm đầu đòn bẩy cố hết gân sức lay chuyển tảng đá, xê dịch nó dần dần. Một lát sau nó đã lăn lông lốc rồi rơi tòm xuống biển để lộ ra một cái bệ hình tròn, ở chính giữa có một cái vòng sắt gắn vào một phiến đá hình vuông.
༺༒༻
Dantès kêu lên một tiếng kinh ngạc. Anh không ngờ đạt được kết quả một cách mau lẹ như vậy. Anh muốn tiếp tục công việc nhưng hai chân anh run bắn lên, tim anh đập dồn dập. Anh như thấy một đám mây nóng bỏng bay qua trước mắt. Anh buộc lòng phải dừng lại.
Nhưng thời gian lưỡng lự ấy chỉ như ánh chớp. Edmond lại đưa đòn bẩy vào trong vòng sắt và từ từ nâng phiến đá lên. Phiến dưới lộ ra một cái nền dốc như kiểu một chiếc cầu thang thoai thoải dẫn xuống một cái hang tối om.
Nếu là một người khác thì đã lao xuống, đã reo lên những tiếng vui mừng, nhưng Dantès thì khác. Anh dừng lại, tái mặt vì nghi ngờ. Anh tự nhủ: “Nào, hãy can đảm lên chứ! Ta đã từng quen với bao nỗi bất hạnh, đừng để cho sự thất vọng quật ngã ta. Cũng có thể là bác Faria đã nằm mơ, chứ giáo chủ Spada chả chôn cái gì ở đây cả. Có thể là ngay bản thân ông ta cũng chưa bao giờ lai vãng đến đây”.
Anh cứ đứng im lặng một lúc như vậy rồi lại nói một mình: “Bây giờ ta chẳng còn trông mong gì nữa cả. Ta đã bao lần tự nhủ chỉ có điên rồ mới nuôi một hy vọng nào đó. Rút cục cuộc mạo hiểm này chỉ là để thỏa mãn tính tò mò của ta, thế thôi... Nào, ta cứ xuống xem...”
Thế rồi anh bước xuống hang, nụ cười nghi hoặc nở trên môi và lẩm bẩm: "Biết đâu đấy". Anh tưởng tượng sẽ bước vào hang tối với bầu không khí khó thở. Nhưng ngược lại, anh thấy một ánh sáng êm dịu màu xanh và một bầu không khí mát rượi. Không khí và ánh sáng bên trong không phải chỉ do miệng hố mới mở, mà còn do những kẽ hở của những tảng đá, đứng bên ngoài không trông thấy, để lọt vào. Cũng qua những kẽ hở thấy cả những mảng trời xanh và những cành lá run rẩy đùa cợt.
Sau một vài phút đứng trong cái động đó, anh cảm thấy không khí ấm áp hơn, hang vẫn ẩm thấp nhưng đã có mùi thơm của hoa lá. Đã quen với bóng tối nên anh có thể nhìn thấy những góc xa nhất trong hang. Hang toàn bằng những phiến đá có vảy óng ánh như kim cương.
- Than ôi! - Dantès nghĩ thầm - Phải chăng đó là cái kho tàng của giáo chủ Spada mà linh mục Faria đã nhìn thấy trong giấc mơ và cho đó là những của cải khổng lồ?
Nhưng anh bỗng nhớ lại những đòng chữ trong bản di chúc mà linh mục Faria đã bắt anh phải học thuộc lòng: "Trong góc xa nhất của cái động thứ hai". Vậy đây mới chỉ là động thứ nhất, còn phải tìm động thứ hai nữa. Lối vào của nó Dantès định hướng: động thứ hai tất nhiên phải ăn sâu vào phía trong đảo. Anh thămdò các kẽ đá, anh dùng cuốc gõ vào một vách đá mà anh đoán đấy có thể là cái cửa, do cẩn thận người ta đã lấp đi. Tiếng vang lên khác với tiếng cuốc ở những chỗ khác làm cho Dantès giật mình toát mồ hôi. Anh dán mắt vào chỗ đó, và do linh tính đặc biệt của một người tù, anh nhận thấy chỗ đó có thể là một cái cửa. Anh bổ một nhát nữa mạnh hơn, tức thì một lớp vữa như vữa trát tường long ra, rơi xuống và để lộ một viên đá trắng, mềm như những viên đá thường dùng. Người ta đã bít cái cửa ấy lại bằng những viên đá rồi trát lên một lớp vữa, trên mặt lớp vữa đó người ta làm giả màu óng ánh của đá.
Dantès lại dùng đầu nhọn của chiếc cuốc bổ thêm một nhát mạnh nữa. Lưỡi cuốc ngập sâu vào cỡ một gang tay. Đó đúng là nơi cần phải đào bới.
Kỳ lạ thay con người. Đáng lẽ điều đó càng chứng tỏ linh mục Faria đã không lầm và càng cổ vũ Dantès, thì ngược lại nó làm anh bủn rủn cả chân tay. Cái cuốc rời khỏi bàn tay rơi phịch xuống đất. Anh chùi tay lên trán, tự nhủ phải ra xem có người nào dò la không. Anh chạy ra ngoài, nhưng thực tế là anh thấy mình đang thiếu không khí và cảm thấy hình như mình sắp ngất.
Đảo hoàn toàn hoang vắng. Dantès chưa có tí gì vào bụng. Nhưng lúc này mà ăn uống thì mất thì giờ quá. Anh tợp một ngụm rượu rum rồi trở vào động, lòng vững tin hơn.
Sau vài nhát cuốc, anh thấy những viên đá không phải là xây dính vào với nhau, mà chỉ là đặt cạnh nhau rồi phủ sơ sài lên bên ngoài một lớp vữa. Anh đưa lưỡi cuốc vào một kẽ đá bẩy lên. Anh vui sướng thấy hòn đá rơi xuống. Bây giờ anh chỉ còn việc dỡ từng viên đá ra.
Cửa đã mở ra một lỗ, Dantès đã có thể chui vào được. Nhưng anh chậm lại ít phút như để có thêm thời gian bấu víu vào niềm hy vọng đang tới.
Cái động thứ hai này thấp hơn, tối hơn và có vẻ đáng sợ hơn cái trước. Không khí luồn được vào bên trong chỉ qua cái cửa vừa mở. Bên trái cái cửa là một góc sâu và tối. Nhưng, như ta đã biết, đối với Dantès, tối tăm không có nghĩa lý gì. Anh đưa cặp mắt thăm dò. Động thứ hai này cũng rỗng tuếch như cái thứ nhất.
Kho tàng, nếu có, chắc phải được chôn trong góc tối ấy. Giờ phút ghê gớm đã đến. Bới hai tấc đất nữa sẽ là sự sung sướng tột cùng hoặc là nỗi thất vọng hoàn toàn. Anh tiến vào góc đó và cương quyết tấn công mặt đất. Đến nhát cuốc thứ năm hoặc thứ sáu thì có tiếng sắt va vào nhau. Anh thăm dò chỗ bên cạnh. Ở đây cuốc cũng bị vấp phải một vật gì đó nhưng,không có tiếng kim loại như vừa rồi.
Dantès tự nhủ: "Chắc là một cái hòm gỗ bịt đai sắt". Vừa lúc đó, một cái bóng lướt nhanh qua cửa hang. Dantès quẳng ngay cuốc xuống, cầm lấy khẩu súng, nhảy qua lỗ, lao vọt ra ngoài. Một con dê rừng chồm qua cái hang thứ nhất đang đứng gặm cỏ cách đấy có mấy bước. Đó thật là một dịp rất tốt để bảo đảm bửa ăn cho anh. Nhưng Dantès không dám bắn, anh sợ tiếng nổ làm cho người nào đó chú ý chăng. Suy nghĩ một lát, anh chặt một cành cây có nhựa đốt lên làm đuốc theo kiểu những người buôn lậu vẫn nấu thức ăn. Anh lại trở vào trong hang. Anh không muốn bỏ sót một chi tiết nào về những sự kiện anh sắp thấy.
Anh đưa bó đuốc lại gần chỗ anh mới đào và nhận thấy anh đã không nhầm. Lưỡi cuốc của anh vừa lần lượt chạm vào sắt và gỗ. Anh cắm bó đuốc xuống đất rồi lại tiếp tục đào. Chẳng bao lâu, một khoảng trống, rộng mỗi chiều một bước chân, được,đào xong và để lộ ra trước mắt một chiếc hòm gỗ có đai sắt. Ở giữa nắp hòm nổi bật lên một miếng bằng bạc mà đất chưa làm mờ được. Đó là gia huy của dòng họ Spada: một thanh gươm đặt chéo lên trên một cái khiên và phía trên có hình mũ giáo chủ. Dantès nhận ra dễ dàng vì linh mục Faria đã bao lần vẽ cái đó cho anh xem.
༺༒༻
Kho tàng đây rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Chẳng ai lại đi chôn một cái hòm rỗng một cách cẩn thận đến thế này. Chỉ một loáng sau, tất cả đất xung quanh nắp hòm đã được vét sạch và Dantès thấy một ổ khóa, khóa hai đầu đai sắt. Anh nắm cái đai định nhấc hòm lên nhưng không tài nào nhấc nổi. Khóa cũng không tài nào mở ra được vì không có chìa. Anh lách mũi cuốc vào khe giữa nắp và hòm rồi bẩy mạnh lên. Một tiếng "rắc", nắp hòm bật ra khỏi bản lề và nẹp sắt.
Dantès cảm thấy như đang lên cơn sốt dữ dội. Anh cầm lấy khẩu súng, nạp đạn vào để xuống bên cạnh. Anh nhắm mắt lại như đứa trẻ thường làm khi không đếm được hết các vì sao trên trời. Rồi anh mở mắt ra, mắt anh hoa lên.
Chiếc hòm có ba ngăn. Ngăn thứ nhất chứa đầy tiền vàng óng ánh. Ngăn thứ hai toàn vàng nén sắp xếp có thứ tự. Ngăn thứ ba đầy kim cương, ngọc trai, ngọc bích sáng ngời.
Dantès run rẩy đưa tay thọc sâu xuống hòm. Anh mân mê nắm vuốt số vàng và châu báu hồi lâu rồi mới đứng lên chạy ra khỏi hang như một kẻ sắp lên cơn điên. Anh nhảy lên một hòn đá cao trông ra biển, nhìn quanh đảo, vẫn thấy vắng lặng. Chỉ có anh, một mình anh với cái kho tàng khổng lồ, khủng khiếp, kỳ quái, không sao đếm được, nó thuộc quyền sở hữu của anh. Anh tỉnh hay mê đây? Hai tay ôm đầu, anh chạy như điên như cuồng trên đảo, làm cho những con dê rừng và đàn hải âu phải hoảng sợ vì những tiếng la hét của anh.
Một chốc anh quay trở lại hang mà vẫn còn ngập ngừng chưa tin hẳn vào mắt mình. Anh chạy thẳng vào hang rồi đứng trước cái hòm đầy vàng bạc, châu báu. Anh quỳ xuống, hai tay ôm lấy ngực như sợ tim mình vỡ tung ra, miệng anh lầm rầm cầu nguyện. Dần dần anh bình tĩnh trở lại, và từ giờ phút đó anh cảm thấy sung sướng lạ thường bởi vì anh đã có niềm tin vào hạnh phúc của mình.
Anh bắt đầu đếm kho báu: có một nghìn thỏi vàng. Anh nhặt ra hai mươi nhăm nghìn đồng Guinea vàng, trị giá mỗi đồng 80 francs hiện tại, và nhận thấy ngăn đó mới chỉ vơi có một nửa. Anh chụm hai lòng bàn tay lại để vốc những vốc kim cương, châu báu.
Trời đã ngả về chiều. Sợ bị ai bất chợt thấy mình trong hang, anh cầm lấy khẩu súng, đi ra. Một miếng bánh bích quy và vài ngụm rượu, đó là tất cả bữa ăn của anh. Rồi anh đặt lại viên đá, nằm lên đó, dùng thân mình để bịt cửa vào. Anh ngủ được vài giờ. Đêm hôm đó là một đêm vừa sung sướng vừa hãi hùng. Con người đó đã hai ba lần trong đời gặp phải những nỗi xúc động ghê gớm.
Chương 25
ngườilạ mặt
Đến nửa đêm Dantès thức giấc, nằm đợi trời sáng. Ánh bình minh đầu tiên vừa hé, anh đã nhổm dậy và trèo lên mỏm đá. Cũng như hôm qua, anh thăm dò xung quanh. Cảnh vật vắng lặng, hoang vu. Anh đi xuống hang, mở hòm ra, vốc một vốc kim cương, ngọc quý nhét vào túi rồi đậy nắp hòm lại, rắc cát lên trên làm mất hết dấu vết đào bới. Xong đâu đấy, anh ra khỏi hang, đặt phiến đá vào chỗ cũ, lấy đất phủ lên miệng hang, trồng mấy cây lau lên trên, xóa những vết chân ở quanh đó rồi đi ra bờ biển.
Giờ đã đến lúc anh phải trở về với cuộc sống, với loài người và dùng tiền tài, vốn là một sức mạnh vô biên để chiếm lấy một địa vị, một ảnh hưởng và một uy quyền trong xã hội.
Ngày thứ sáu, thuyền La Jeune Améliequay trở lại. Từ xa, bóng con thuyền lướt trên biển đã được Dantès nhận ra. Anh giả vờ lết ra bờ biển. Khi các thủy thủ lên bờ, họ thấy anh hãy còn rên. Anh nói với họ rằng anh đã đỡ nhiều. Jacopo cho anh biết, đêm qua họ bị chiếc tàu tuần tiễu lùng bắt, may nhờ đêm tối mới chạy thoát nên phải quay về đảo Monte Cristo nhân thể đón luôn anh. Nói chung chuyến đi đó không đến nỗi xấu và tất cả mọi người, nhất là Jacopo, đều lấy làm tiếc là Dantès không tham gia nên không được chia phần, mỗi phần lên tới năm mươi đồng Guinea. Ngay tối hôm đó anh xuống thuyền đi Leghorn.
Đến Leghorn, anh bán cho một người Do Thái bốn viên kim cương loại nhỏ nhất, được hai chục vạn francs. Hôm sau, anh mua một chiếc thuyền nhỏ mới nguyên cho Jacopo và còn cho thêm một trăm đồng peso để thành lập nhóm thủy thủ với điều kiện Jacopo sẽ đi Marseilles để thăm dò tin tức về một ông già tên là Louis Dantès ở phố Allées de Meilhan và một cô gái tên là Mercédès ở xóm Catalans. Sau đó hai bên hẹn gặp nhau ở đảo Monte Cristo. Bây giờ đến lượt Jacopo, anh ta ngạc nhiên tưởng như mình đang ở trong một giấc mơ. Edmond phải giải thích là anh vừa được thừa hưởng gia tài của một ông bác ở Leghorn và việc anh bỏ nhà ta đi làm nghề thủy thủ là do bất hòa với gia đình.
༺༒༻
Sau đó Dantès từ biệt ông chủ thuyền vì giao kèo đã hết hạn. Ông chủ rất tiếc vì mất Dantès, nhưng thấy anh vừa được thừa hưởng gia tài nên cũng mừng cho anh. Sáng hôm sau, Jacopo lên đường đi Marseilles, còn Dantès đi về Genoa. Anh đến hải cảng này vốn là nơi nổi tiếng có những thợ đóng tàu giỏi. Anh gặp một ông chủ hãng đóng tàu đang cho hạ thủy một chiếc du thuyền của một người Anh đặt với giá bốn vạn francs. Dantès liền trả sáu vạn để lấy chiếc du thuyền đó, còn ông chủ hãng đóng tàu sẽ đóng chiếc khác cho người Anh. Người chủ hãng thấy được giá hời liền ưng thuận ngay.
༺༒༻
Hai giờ sau Dantès đã tự mình điều khiển chiếc du thuyền, rời cảng Genoa ra đảo Monte Cristo. Chiều hôm sau anh tới nơi và ghé thuyền vào một vũng nhỏ. Anh vào hang và thấy tất cả vẫn còn nguyên vẹn. Anh liền chuyển hết xuống thuyền, xếp tất cả vào một cái tủ bí mật. Hôm sau, anh lái thuyền đi quanh đảo, xem xét rất kỹ tất cả các ngõ ngách để biết rõ từng chi tiết và đặc điểm.
༺༒༻
Được mấy hôm, Jacopo đến chỗ hẹn, báo cho Dantès biết là ông già Dantès đã chết, còn cô Mercédès thì mất tích. Anh nghe tin đó rất bình tĩnh, từ biệt Jacopo rồi đi Marseilles. Cái chết của cha không làm anh ngạc nhiên vì lúc anh bị bắt ông già đã bảy mươi tuổi. Nhưng còn Mercédès? Anh không thể để lộ bí mật của anh được, anh không thể nói hết chi tiết cho Jacopo được. Vả lại, còn có những điều anh muốn biết mà chỉ có thể đích thân anh đi tìm. Cái gương trong hiệu cắt tóc ở Leghorn đã cho anh biết không ai có thể nhận được ra anh nữa. Hơn nữa bây giờ anh có đầy đủ các phương tiện để cải trang.
Một buổi sáng, chiếc du thuyền cặp bến Marseilles và Dantès thả neo ở chỗ trước đây người ta đã đưa anh xuống thuyền để ra lâu đài If. Anh không khỏi hồi hộp khi một tên cảnh sát tiến đến hỏi giấy tờ. Anh xuất trình hộ chiếu người nước Anh mà anh đã mua ở Leghorn. Với tư cách người nước ngoài, anh sẽ được kính nể hơn.
Người đầu tiên mà anh gặp trên đại lộ Canebière là một thủy thủ cũ của tàuPharaonmà anh đã từng chỉ huy. Chính con người này sẽ cho anh biết người ta có còn nhận ra được anh nữa không. Anh tiến thẳng đến, hỏi người đó vài câu. Người đó trả lời mà không hề có một chút biểu hiện nào quen biết anh. Anh đưa cho người thủy thủ đó một đồng tiền để thưởng công. Một lát sau, thấy người đó chạy theo. Dantès quay lại, người thủy thủ nói:
- Thưa ông, có lẽ ông nhầm. Đáng lẽ ông thưởng cho tôi một đồng 2 franc thì lại đưa cho tôi một đồng vàng!
- Anh bạn ạ - Dantès đáp - Tôi không nhầm đâu. Nhưng lòng thật thà của anh xứng đáng được thưởng nữa. Đây là đồng thứ hai mong anh cầm lấy để uống rượu để chúc sức khỏe cho tôi và cho các bạn anh.
Anh thủy thủ nhìn Dantès kinh ngạc đến nỗi quên cả cám ơn. Một lúc sau anh ta tự lẩm bẩm: "Có lẽ là một tay tỉ phú vừa ở Ấn Độ về".
Dantès tiếp tục đi. Mỗi bước đi lại làm anh thêm hồi hộp. Những kỷ niệm của thời niên thiếu lại xuất hiện ở mỗi đầu phố. Tới đường Allées de Meilhan, anh cảm thấy đầu gối như muốn quỵ xuống. Anh phải vịn vào một gốc cây, dừng lại một lát để trấn tĩnh. Anh đi vào một ngôi nhà tồi tàn mà trước đây anh đã sống với cha anh. Anh bước qua cửa, vào hỏi xem còn có buồng nào trống để thuê. Nhà đã chật hết, nhưng anh cố nài để được vào thăm tầng thứ năm. Người gác cổng buộc lòng phải đưa anh lên. Buồng này gồm hai ngăn, có một cặp vợ chồng mới cưới được tám ngày đangở.
Thấy cặp vợ chồng đó, Dantès thở dài. Căn buồng đã khác xưa nhiều lắm. Anh không còn nhận ra là căn buồng của cha anh xưa kia nữa. Đâu phải thứ giấy dán tường thưở xưa, tất cả đồ đạc cũ vốn là bạn thời niên thiếu của anh, đã biến hết. Anh quay lại phía chiếc giường, cũng không phải là cái giường hồi xưa mà người cha già của anh đã nằm, và lúc hấp hối còn gọi tên anh.
Cặp vợ chồng trẻ ngạc nhiên nhìn con người có vầng trán nghiêm trang, nhưng trên má đang lăn hai giọt nước mắt long lanh, trong khi đôi mắt anh vẫn mở to, không chớp. Lúc đi xuống tầng dưới anh hỏi thăm người thợ may Caderousse, thì được người ta cho biết hắn làm ăn thua lỗ và bây giờ đã mở một quán trọ ở đường Beaucaire.
༺༒༻
Sau đó, Dantès tìm đến ông chủ ngôi nhà, tự giới thiệu là hầu tước Wilmore (tên trong hộ chiếu) ngỏ ý muốn mua ngôi nhà nhỏ đó với giá hai mươi lăm nghìn francs, nghĩa là đắt hơn mười ngàn francs, với điều kiện là cặp vợ chồng mới cưới sẽ dọn xuống tầng dưới và ở bất cứ tầng nào mà họ thích, nhưng không phải trả thêm tiền nhà. Sự việc lạ lùng này làm xôn xao dư luận những người ở nhà thuê và cả Allées de Meilhan.
Ngay buổi chiều hôm đó, người ta thấy ông khách lạ mặt ấy đi dạo khắp xóm Catalans, rồi bước vào một cái lều của dân chài lưới hỏi thăm các tin tức khác.
Chương 26
quán trọ cầu pont du gard
Những người khách, có dịp đi thăm miền Nam nước Pháp, đều nhìn thấy trên đường đi Beaucaire một quán trọ có tấm biển bằng tôn trên vẽ hình cái cầu máng Pont du Gard, nằm ở mé đường bên trái, quay lưng ra sông Rhône. Bên cạnh quán trọ là một mảnh vườn trồng ôliu và vả dại. Từ tám năm nay người ta thấy quán trọ này do một cặp vợ chồng quản lý và chỉ mướn có một cô hầu phòng và một anh coi chuồng ngựa cho khách mà thôi.
Ông chủ quán là một người trạc bốn mươi lăm tuổi, cao, gầy, cặp mắt sâu hoắm và sáng, mũi khoằm, tóc và râu quai nón rậm, xoăn, điểm vài sợi bạc. Thêm nữa, ông ta còn có nước da rám nắng của những người miền biển và hàm răng trắng khập khiễng trông rất sợ. Người đàn ông đó không phải ai xa lạ, chính là gã thợ may Caderousse, người hàng xóm trước đây của Dantès.
Vợ hắn, ngược lại, là một mụ đàn bà xanh rớt, gầy gò như que củi và ốm yếu luôn. Suốt ngày mụ ngồi thu hình trên giường hoặc trong chiếc ghế bành, người run bần bật. Còn anh chồng thì suốt ngày đứng tựa cửa đón khách qua đường, mà khách thì đi lại rất thưa thớt. Quán trọ vắng khách làm mụ vợ luôn mồm mè nheo chồng và anh chồng chỉ còn cách đổ lỗi cho số phận.
༺༒༻
Một buổi chiều, Caderousse đứng ngóng khách trên quãng đường vắng tanh. Hắn chán nản, vừa định quay vào trong nhà thì thấy từ đằng xa một người cưỡi ngựa đi tới rồi dừng lại trước quán trọ. Đó là một vị linh mục, đầu đội mũ ba múi, tay cầm một chiếc gậy ngắn đầu bịt sắt. Vị linh mục xuống ngựa, buộc con vật vào hàng rào. Lập tức chủ quán chạy ra tất tả đón khách. Vị linh mục nhìn hắn một lát bằng cặp mắt kỳ dị và chăm chú dường như muốn tìm xem có sự phản ứng nào ở hắn không. Nhưng khi thấy hắn không có chút gì ngạc nhiên, ông nói bằng một giọng lơ lớ tiếngÝ:
༺༒༻
[font=""times new roman", times; font-size: medium"] - Ông có phải tên là Caderousse không?
- Thưa ông vâng - Chủ quán ngạc nhiên đáp - Tôi chính là Gaspard Caderousse.
- Gaspard Caderousse... phải, có lẽ đúng tên, họ. Trước đây ông ở ngõ Allées de Meilhan, tầng thứ tư có phải không?
- Dạ đúng ạ.
- Ông làm nghề thợ may?
- Vâng, nhưng nghề đó không sinh lợi. Trời đất ở cái tỉnh Marseilles ấy nóng quá, chẳng ai còn muốn mặc quần áo nữa. Mà này, trời đang nóng hầm hập, ông có cần phải giải khát không?
- Có chứ. Cho tôi một chai rượu loại ngon nhất và chúng ta sẽ nói chuyện với nhau.
༺༒༻
Và không để mất cơ hội có thể tiêu thụ được chai rượu Cahors cuối cùng còn lại, Caderousse vội mở cửa hầm, chui xuống. Năm phút sau trở lên, hắn thấy linh mục đã ngồi trên chiếc ghế đẩu, chống khuỷu tay lên mặt bàn.
- Ông có một mình thôi à? - Linh mục hỏi.
- Ôi, lạy Chúa! Một mình. Vâng, gần như thế, thưa ông linh mục, vì rằng vợ tôi chẳng giúp gì cho tôi được. Nó lúc nào cũng ốm yếu, khổ thân cho mụ La Carconte nhà tôi!
- À thế ra ông đã lấy vợ - Linh mục nói và nhìn ra xung quanh như muốn đánh giá tài sản đồ đạc của cái gia đình nghèo nàn này.
- Thưa ông linh mục, ông thấy tôi chẳng lấy gì làm sung túc có phải không? Biết làm sao được. Trên đời này những người làm ăn lương thiện khó phát đạt lắm.
Vị linh mục quắc mắt nhìn hắn. Caderousse lắc đầu quầy quậy nói tiếp:
- Vâng, một người lương thiện. Tôi có thể tự khoe với ông như vậy. Trong thời đại này, mọi người không có thể nói vậy được.
- Điều ông vừa tự hào ấy - Linh mục nói - Nếu đúng thì càng tốt, vì tôi tin tưởng rằng sớm hay muộn người lương thiện cũng sẽ được thưởng, còn kẻ gian ác sẽ bị trừng trị.
- Ở địa vị ông có thể nói thế được, sau đó người ta có muốn tin ông hay không là tùy người ta.
- Ông nói như vậy là nhầm đấy. Bây giờ tôi muốn biết một số bằng chứng về việc tôi sắp làm.
- Ông nói thế là thế nào? - Caderousse ngạc nhiên hỏi lại.
- Tôi muốn cần phải xác minh trước hết xem ông có phải là người tôi đang tìm không.
- Ông muốn tôi có những bằng chứng gì?
- Vào năm 1814 - 1815, ông có biết một người thủy thủ tên là Dantès không?
- Dantès!... Có chứ, cậu Edmond đáng thương ấy. Đó là một người bạn tốt của tôi trước kia - Caderousse kêu lên, mặt đỏ bừng, trong khi đó thì cặp mắt sáng và quả quyết của linh mục như mở to ra để chụp lấy con người mà ông đang hỏi.
- Phải, anh ta tên là Edmond thì phải.
- Đúng, tên cậu ta là Edmond mà. Tôi biết lắm chứ. Cũng đúng như tên tôi là Gaspard Caderousse. Ông biết cậu Edmond à? Cậu thanh niên đáng thương ấy bây giờ ra sao? Còn sống không? Được tự do rồi chứ? Có được sung sướng không?
- Anh ta đã chết trong tù rồi, thất vọng và khốn khổ hơn bất cứ một người tù khổ sai nào.
༺༒༻
Mặt Caderousse tái đi như cái xác chết. Hắn quay lại và linh mục thấy hắn chùi một giọt nước mắt bằng góc cái khăn quàng cổ.
- Khốn khổ thay cậu bé - Caderousse lẩm bẩm - Đấy lại là một bằng chứng về câu nói của tôi! Chúa chỉ tốt với những kẻ xấu.
- Ông có vẻ yêu mến cậu ta lắm thì phải? - Linh mục hỏi.
- Vâng, tôi mến cậu ta lắm, mặc dù tôi tự trách mình đã có lúc ghen tị với hạnh phúc của cậu ta. Nhưng từ đó tôi xin thề rằng tôi đã rất đau lòng về số phận hẩm hiu của cậu Edmond.
Im lặng một lúc, trong lúc đó cặp mắt sắc sảo của linh mục không ngớt quan sát nét mặt thay đổi của tên chủ quán.
- Ông cũng biết cậu ta à? - Caderousse hỏi.
- Tôi đã được mời đến bên giường để làm lễ rửa tội cho anh ta.
- Thế Edmond vì sao mà chết? - Caderousse nghẹn ngào hỏi.
- Còn vì sao nữa khi người ta chết lúc ba mươi tuổi trong tù - Trong khi Caderousse lau mồ hôi trán, linh mục nói tiếp - Điều lạ lùng nhất là lúc Dantès sắp chết, anh ta đã hôn lên cây thánh giá và thề với tôi là anh ta không hiểu vì nguyên nhân gì mà anh bị bắt.
- Đúng, đúng đấy - Caderousse thì thào - Cậu ta không biết được đâu. Không, thưa ông linh mục, cậu ta không nói dối đâu.
- Vì vậy anh ta đã trao cho tôi nhiệm vụ làm sáng tỏ vấn đề đó để vong linh anh ta được giải thoát. Trong khi ở tù, Edmond có gặp một nhà tư sản người Anh bị ốm nặng. Anh đã tận tình chăm sóc ông nên lúc được tha ra, nhà tư sản Anh đã biếu Edmond một viên kim cương trị giá năm vạn francs.
- Năm vạn francs kia ư? - Caderousse nói - Chắc là nó phải to bằng quả lê ấy nhỉ?
- Cũng chưa hẳn - Linh mục nói - Rồi ông cũng sẽ thấy vì tôi có mang theo đây.
Nói xong linh mục rút trong túi ra một cái hộp con bọc da lừa và giơ cho Caderousse xem viên kim cương sáng long lanh nằm trên một cái nhẫn tuyệt đẹp. Xong ông lại đóng hộp lại, cất vào túi Nhưng viên kim cương ấy vẫn còn sáng rực trong đầu óc Caderousse. Cặp mắt hắn nẩy lửa, hắn hỏi ông linh mục:
- Nhưng vì sao ông có hạt kim cương này? Edmond tặng ông chăng?
- Không, tôi chỉ là người thực hiện lời di chúc của anh ta thôi. Anh ta đã nói với tôi như sau: "Tôi có ba người bạn tốt và một người vợ chưa cưới, cả bốn người tôi tin chắc rằng đều tiếc thương tôi lắm. Một trong những người bạn đó là Caderousse...
Caderousse run lên. Linh mục làm ra vẻ không để ý nói tiếp:
- Người bạn thứ hai tên là Danglars, người thứ ba, tuy là tình địch của tôi, nhưng cũng yêu tôi lắm...
Một nụ cười quỷ quái nở trên môi Caderousse, hắn định ngắt lời linh mục nhưng linh mục cứ nói:
- Khoan đã, hãy để tôi nói tiếp, nếu ông có ý kiến gì thì sẽ nói sau. Người thứ ba tuy là tình địch của tôi nhưng cũng yêu tôi lắm tên là Fernand. Còn người vợ chưa cưới của tôi tên là... tên là gì ấy nhỉ tôi quên mất rồi - Linh mục nói.
- Mercédès - Caderousse nhắc.
- A phải, đúng đấy - Linh mục nói có vẻ nghẹn ngào - Mercédès...
- Thế rồi sao nữa? - Caderousse hỏi.
- "Ông sẽ đến Marseilles" vẫn là lời Dantès nói đấy nhé. "Ông bán viên kim cương này và chia làm năm phần, tặng những người bạn tốt của tôi mà tôi đã nói".
- Sao lại năm phần? - Caderousse nói - ông mới nêu tên có bốn người.
- Bởi vì người thứ năm đã chết rồi, theo như người ta đã nói với tôi... Người thứ năm là cha của Dantès.
- Than ôi! Vâng - Caderousse nói - Vâng, ông già đã chết rồi.
- Tôi đã biết tin ấy ở Marseilles - Linh mục nói cố làm ra vẻ tự nhiên - Chết từ lâu rồi nên tôi chưa hiểu vì sao mà chết.
- Còn ai biết chuyện ấy hơn tôi, lúc ấy tôi đứng ở cửa buồng ông già. Trời ơi! Vâng, một năm sau khi con trai mất tích thì ông già chết.
- Nhưng vì sao mà chết?
- Các thầy thuốc có nói tên bệnh... Những người biết ông thì nói ông già chết vì đau khổ... Còn tôi, chính mắt tôi nom thấy ông chết, tôi nói rằng ông già chếtvì...
Caderousse ngừng lại, linh mục bồn chồn hỏi:
- Vì sao?
- Chết vì đói!
- Vì đói! - Linh mục chồm lên khỏi chiếc ghế đẩu - Chết đói! Trời ơi! Những con súc vật khốn khổ nhất cũng không đến nỗi chết đói! Những con chó lang thang trên đường phố cũng tìm được từ bàn tay từ thiện ném cho nó một mẩu bánh. Thế mà một người, một con chiên của Chúa, lại chết đói giữa những con người cùng giáo dân như người đó. Không, không thể thế được! Không thể thế được!
- Tôi nói điều tôi đã nói - Caderousse nói tiếp.
Một giọng từ cầu thang nói vọng ra:
- Anh nhầm rồi đấy, anh Caderousse. Việc gì anh can thiệp vào chuyện ấy?
Hai người quay đầu lại và thấy cái đầu ốm yếu của mụ La Carconte xuất hiện ở đầu tay vịn của thang gác.
༺༒༻
- Thế cô cũng can thiệp vào đây làm gì? Ông linh mục đây hỏi thì tôi đáp, đó là theo phép lịch sự.
- Phải, nhưng sự thận trọng yêu cầu anh phải từ chối. Ai bảo cho anh biết người ta hỏi với ý định gì? Đồ ngốc.
- Thưa bà, với một ý định tốt. Ông chồng của bà không phải lo ngại gì cả, miễn là ông nói đúng sự thật.
- Không phải lo ngại gì cả. Phải, người ta bắt đầu bằng những lời hứa tốt đẹp, nhưng khi bỏ ra đi thì quên hết điều đã nói, để rồi một ngày kia nỗi bất hạnh rơi xuống đầu những kẻ thấp hèn mà chẳng hiểu từ đâu tới cả.
- Cứ yên trí bà ơi! Điều bất hạnh không phải vì tôi mà ra, tôi xin bảo đảm với bà như vậy.
Mụ La Carconte lầu bầu vài câu nữa rồi lại bắt đầu run lên vì sốt rét. Trong khi đó linh mục, sau khi uống vài ngụm nước, đã trở lại bình tĩnh. ông hỏi tiếp:
- Nhưng ông già đau khổ ấy đã bị mọi người bỏ rơi đến nỗi phải chết một cái chết như vậy sao?
- Ôi, thưa ông, không phải là cô gái Mercédès xóm Catalans, không phải là ông Morrel đã bỏ rơi ông già đâu. Nhưng ông già khốn khổ ấy có một ác cảm sâu sắc với Fernand. Tên này mà Dantès cũng kể vào số những bạn tốt của cậu ta à?
- Không đúng thế sao? - Linh mục hỏi.
- Gaspard, Gaspard - mụ La Carconte lại từ đầu cầu thang nói vọng xuống - Hãy coi chừng lời nói của anh đấy.
Caderousse phác một cử chỉ sốt ruột, không trả lời vợ mà tiếp tục với vị linh mục:
- Người ta có thể là bạn với người cướp vợ mình không? Nếu Dantès có một trái tim vàng mới coi người đó là bạn... Khổ thân cậu Edmond!... Cậu ta không nên biết gì thì hơn. Cậu ta đau khổ lắm nên lúc chết mới tha thứ cho chúng. Và người ta muốn nói gì thì nói, tôi rất sợ những lời chửi rủa của người chết hơn là sợ thù hằn của người sống!
- Đồ ngốc! - Mụ La Carconte quát lên.
- Vậy ông có biết Fernand đã làm gì đối với Dantès không?
- Biết lắm chứ!
- Vậy ông hãy nói đi.
- Gaspard! - Mụ La Carconte lại lên tiếng. - Anh muốn làm gì thì làm nhưng phải nghe tôi đấy.
- Lần này thì tôi nghe vậy - Caderousse đáp lời vợ.
- Vậy là ông không muốn nói gì nữa hả? - Linh mục hỏi.
- Để làm gì kia chứ? - Caderousse đáp - Nếu cậu ta còn sống đến tôi để tìm hiểu sự thật, tôi cũng không nói. Nay theo ông nói, cậu ta đã chết rồi cậu ta không còn có thể trả thù được nữa. Chúng ta hãy dập tắt tất cả cái đó đi là khôn ngoan hơn cả.
- Vậy ông muốn là tôi sẽ chia cho những con người mà ông cho không phải là bạn, một phần thưởng về lòng trung thành?
- Ông nói đúng đấy. Vả lại phần của Dantès dành cho họ chỉ như giọt nước bỏ vào biển cả thôi.
- Ấy là chưa kể họ có thể bóp anh chết bẹp - Mụ La Carconte chen vào.
- Sao kia? Những người đó đã trở nên giàu sang và có thế lực lắm à? - Linh mục vội hỏi.
- Vậy ông chưa biết chuyện à?
- Chưa. Ông hãy kể cho tôi nghe đi.
Caderousse có vẻ suy nghĩ một lát:
- Không được đâu, chuyện dài lắm!
- Tùy ông thôi. Tôi tôn trọng sự thận trọng của ông. Vả lại ông làm như thế là rất đúng. Thôi chúng ta không nói đến nữa. Nhiệm vụ tôi là gì? Một nghi thức bình thường thôi. Vậy tôi sẽ bán viên kim cương này đi.
Linh mục rút trong túi ra và mở nắp hộp. Viên kim cương sáng óng ánh trước cặp mắt đang hoa lên của Caderousse. Hắn hấp tấp gọi vợ:
- Này nhà nó ơi, lại đây mà xem viên kim cương.
- Kim cương à? - Mụ La Carconte bước xuống cầu thang - Kim cương nó thế nào?
- Nhà không nghe thấy gì à? Đó là viên kim cương mà cậu bé đã để lại cho chúng ta theo di chúc: Trước tiên cho bố cậu, rồi cho ba người bạn thân là Danglars, Fernand và tôi cùng với người vợ chưa cưới Mercédès nữa. Trị giá năm mươi ngàn francs đấy!
- Ồ, đẹp quá! - Mụ La Carconte kêu lên.
- Một phần năm của nó thuộc về tôi chứ? - Caderousse hỏi.
- Phải - Linh mục đáp - Cộng thêm một phần của ông già bố Dantès. Vậy là tôi sẽ chia món tiền ra làm bốn phần bằng nhau cho bốn ông.
- Tại sao lại cho bốn chúng tôi? - Mụ La Carconte hỏi.
- Vì là bốn người bạn tốt của Dantès.
- Bạn phải là những người không bao giờ phản bội - Mụ La Carconte lầu bầu.
- Phải, phải - Caderousse nói - Đó là điều tôi đã nói rồi: thưởng cho một sự phản bội là một điều xúc phạm, một điều phạm thánh, có thể nói là một tội lỗi nữa.
Linh mục lại bỏ hộp đựng kim cương vào túi áo rồi điềm nhiên nói:
- Chính ông đã muốn như vậy. Bây giờ ông cho tôi địa chỉ của những người bạn của Dantès để tôi thực hiện nguyện vọng cuối cùng của anh ta.
Những giọt mồ hôi to tướng chảy từ trên trán Caderousse xuống. Hắn thấy linh mục đứng lên, đi ra cửa như để xem qua con ngựa rồi lại trở vào. Hai vợ chồng Caderousse nhìn nhau một cách đầy ý nghĩa. Caderousse bảo vợ:
- Đáng lẽ viên kim cương đó phải thuộc cả về chúng ta.
- Anh tin thế à?
- Lão thầy tu không muốn lừa dối chúng ta đâu.
- Thôi thế tùy anh, tôi không can thiệp vào nữa.
Nói xong, mụ lại rên hừ hừ và leo lên cầu thang, hai hàm răng va vào nhau lập cập mặc dù trời rất nóng.
- Tôi đã quyết định rồi.
- Quyết định thế nào? - Linh mục hỏi.
Nói cho ông biết tất cả.
- Tôi cho như vậy mới đúng. Không phải là tôi muốn biết những điều ông muốn giấu tôi, mà chỉ chia của cho đúng theo nguyện vọng của người quá cố.
- Tôi cũng mong như vậy - Caderousse đáp lại, mặt nóng lên vì hy vọng và tham lam.
- Nào, bây giờ tôi nghe ông.
- Ông chờ cho một chút, người ta có thể đến quấy rầy chúng ta ở những đoạn quan trọng thì phiền lắm. Vả lại tôi cũng không muốn có ai biết ông đã đến đây.
Caderousse đứng dậy, ra đóng cửa. Hắn còn cẩn thận chốt thêm một cái then ngang. Linh mục chọn một chỗ thuận tiện để ngồi nghe cho được thoải mái. Ông ngồi vào một góc khuất ánh sáng, trong lúc đó ánh sáng lại dọi vào mắt kẻ nói chuyện. Caderousse mang một cái ghế đẩu lại và ngồi đối diện với linh mục.
Chương 27
câu chuyện kể
Caderousse nói:
- Trước hết tôi đề nghị Cha phải hứa với tôi một điều.
- Điều gì vậy?
- Là Cha chỉ được sử dụng những chi tiết trong câu chuyện của tôi vào công việc riêng của Cha, chứ không được để lộ ra tôi là người đã nói. Vì những người mà tôi sắp nói đến đây đều giàu và có thế lực cả. Họ chỉ cần búng móng tay là đủ làm tôi tan xác pháo rồi.
- Ông cứ yên tâm ông bạn ạ. Tôi là linh mục, tôi biết giữ bí mật những lời xưng tội. Ông nên nhớ là chúng ta chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là làm toại nguyện một cách trọn vẹn ý muốn của người bạn của chúng ta. Vậy xin ông hãy chớ rụt rè, và mong ông vô tư. Ông hãy nói lên sự thật, tất cả sự thật. Tôi không biết và có lẽ cũng không bao giờ biết tới những nhân vật mà ông sắp kể với tôi. Vả lại tôi là người Ý chứ không phải người Pháp. Tôi thuộc về Chúa chứ không thuộc về loài người. Tôi sẽ trở về tu viện và chỉ ra ngoài khi nào phải hoàn thành những nguyện vọng cuối cùng của người chết mà thôi.
- Vậy thì - Caderousse nói - tôi muốn hơn thế nữa phải có trách nhiệm tố giác những tình bạn mà cậu Edmond đáng thương ấy đã lầm tưởng là trung thành và tận tụy.
- Ta hãy bắt đầu từ người bố đã. Edmond đã nói với tôi rất nhiều về ông già ấy và tỏ ra có một tình thương yêu sâu sắc.
- Câu chuyện thương tâm lắm Cha ạ! - Caderousse lắc đầu - Có lẽ Cha cũng đã biết bắt đầu ra sao rồi.
- Phải. Edmond đã kể cho tôi nghe sự việc cho đến lúc anh ta bị bắt ở một cái quán nhỏ ở gần Marseilles.
- Vâng, trong bữa tiệc đính hôn. Bữa tiệc bắt đầu thì vui mà kết thúc rất buồn thảm. Ông Morrel chạy đi xem tình hình ra sao. Chẳng có gì vui vẻ cả. Còn ông già Dantès trở về nhà một mình, vừa khóc vừa gấp bộ quần áo cưới lại. Suốt ngày ông đi đi lại lại trong phòng, buổi tối ông cũng không chịu nằm. Tôi ở buồng dưới, nghe thấy tiếng chân ông bước suốt đêm.
Ngày hôm sau cô Mercédès đi Marseilles cầu xin sự che chở của ông Villefort nhưng không kết quả gì. Cô muốn đón bố của Edmond về nhà cô để chăm sóc nhưng ông không chịu, ông cụ bảo:
- Không, tôi không rời bỏ ngôi nhà tôi đang ở đi đâu cả, vì con trai tôi nó yêu quý tôi hơn mọi thứ trên đời này. Nếu nó được ra khỏi tù sẽ chạy đến đây tìm tôi trước tiên. Nó sẽ nghĩ sao một khi nó không thấy tôi đợi nó ở đây?
Tôi nghe thấy những câu nói ấy vọng từ trên gác xuống. Trong thâm tâm, tôi cũng muốn cô gái dỗ được ông già đi, vì những tiếng bước chân của ông hàng ngày trên đầu tôi làm tôi không thể chịu được.
- Nhưng tại sao chính ông không lên tận nơi khuyên nhủ ông già?
- Ôi, lạy Chúa! Người ta chỉ an ủi những ai muốn được an ủi. Ông già này thì không muốn thế. Vả lại, tôi cũng cảm thấy hình như ông già không muốn gặp tôi. Một đêm bỗng nhiên tôi nghe những tiếng khóc nức nở. Không thể đừng được, tôi lên gác xem sao. Nhưng khi tôi tới cửa buồng thì ông già không khóc nữa, ông cầu nguyện. Thật không có lời lẽ nào nói hết được nỗi đau khổ. Tôi tự nhủ thầm: "May mắn làm sao trời đã không cho ta có một đứa con nào" vì nếu tôi làm cha mà phải chịu nỗi thống khổ như của ông già này thì tôi sẽ nhảy luôn xuống biển mà chết quách đi cho rảnh.
- Ông già khốn khổ quá chừng.
- Càng ngày ông già càng sống cô độc và xa lánh mọi người. Thỉnh thoảng ông Morrel, tức ông chủ tàu và cô Mercédès có đến thăm, nhưng cửa đóng kín mít. Tôi biết là ông già có ở nhà nhưng ông không muốn tiếp. Một hôm, trái với thường lệ, ông già chịu tiếp cô Mercédès. Và bản thân cô bé cũng khốn khổ, mặc dù đang ở trong nỗi thất vọng hoàn toàn, cô vẫn cố gắng động viên ông già. Ông bảo cô:
- Con ơi, hãy tin lời cha, nó chết rồi. Và đáng lẽ chúng ta đợi nó, thì nó lại đang đợi chúng ta. Cha sung sướng quá vì cha già hơn con nên cha sẽ là người được gặp nó trước tiên.
Dù người ta có lòng tốt đến đâu đi nữa, người ta cũng không thể đến mãi với kẻ không muốn tiếp mình. Vì vậy, chẳng bao lâu ông già hoàn toàn bị cô độc. Chỉ đôi khi tôi thấy có một số người lạ mặt đi lên nhà ông già. Lúc xuống, họ mang theo một số gói gì đó. Tôi hiểu là ông già đang bán dần đồ đạc để sống. Sau cùng, không còn gì để bán nữa. Ông già đã ba lần lỗi hẹn tiền nhà rồi, người ta dọa đuổi ông ra ngoài, ông già xin khất lần cuối cùng là tám ngày nữa. Tôi biết chi tiết việc này vì ông chủ nhà sau khi ra khỏi buồng ông già, lại vào buồng tôi.
Trong ba ngày đầu cuộc hẹn, tôi đều nghe thấy tiếng bước chân ông già như thường lệ. Đến ngày thứ tư, tôi không nghe thấy gì nữa. Tôi đánh liều lên xem sao. Cửa buồng đóng, nhưng qua lỗ khóa tôi nhìn thấy ông già xanh xao, yếu ớt đến độ tôi cho là ông ốm nặng.
Tôi đi báo cho ông Morrel và cô Mercédès biết. Hai người vội chạy đến, ông Morrel còn mang theo một người thầy thuốc. Thầy thuốc chẩn đoán bệnh loét dạ dày và ra lệnh ông phải nhịn ăn. Lúc đó tôi cũng có mặt ở đấy. Tôi không thể nào quên được cái mỉm cười của ông già khi nghe thấy lệnh của thầy thuốc. Từ đó ông già mở cửa, ông đã có lý do để chẳng phải ăn gì.
Mercédès đến, thấy ông già thay đổi nhiều quá cho nên, cũng như lần trước, cô muốn mang ông già về nhà cô. Ông Morrel cũng muốn như vậy và muốn dùng cả sức mạnh để cưỡng bức ông già. Nhưng ông già la hét ghê quá nên họ lại đành phải thôi.
Cô Mercédès ngồi lại bên giường. Ông Morrel, lúc về, ra hiệu cho cô gái biết ông để lại một túi tiền trên mặt lò sưởi. Nhưng dựa vào lệnh của thầy thuốc, ông già chẳng chịu ăn gì. Cuối cùng, sau chín ngày tuyệt vọng và tuyệt thực, ông già trút hơi thở cuối cùng. Lúc hấp hối ông trối trăng với cô Mercédès: "Nếu con gặp lại được Edmond, con nói với nó rằng cha chết và cầu phúc cho nó!".
Nghe đến đây, vị linh mục đứng lên, đi hai vòng quanh buồng, đưa bàn tay run rẩy lên cổ họng khô bỏng, rồi nói:
- Vậy là ông già chếtvì...
- Vì đói, thưa Cha, và xin bảo đảm đó là sự thật hiển nhiên như hai chúng ta đây đều là giáo dân cả.
Linh mục vội đưa tay ra cầm lấy cốc nước. Ông uống một hơi cạn, rồi lại ngồi xuống, cặp mắt đỏ ngầu, hai má tái ngắt.
Caderousse kể tiếp vụ tố cáo Dantès, do Danglars chủ mưu, đã diễn ra như thế nào. Linh mục đột nhiên kêu lên:
- Nhưng lúc đó chính ông cũng có mặt ở đấy kia mà.
- Tôi? - Caderousse ngạc nhiên hỏi - Ai nói cho Cha biết là tôi cũng có mặt ở đấy?
Linh mục thấy mình đã quá đà, vội nói chữa:
- Chẳng ai nói cả. Nhưng phải có mặt ở đấy thì mới biết được những chi tiết như thế chứ.
- Đúng đấy - Caderousse ấp úng nói - Tôi có ở đấy.
- Thế tại sao ông không phản đối hành động xấu xa ấy? Vậy thì ông là tòng phạm rồi.
- Thưa Cha - Caderousse đáp - Chúng chuốc rượu cho tôi say mèm gần như mất cả lý trí. Tôi nhìn thấy như qua một đám mây mờ. Tôi đã nói những gì mà một người trong tình cảnh đó có thể nói được, nhưng chúng trả lời chỉ là một câu chuyện đùa thôi, và chuyện đó chẳng có hậu quả gì đâu.
- Nhưng ngày hôm sau, ngày hôm sau ông thấy rõ hậu quả như thế nào rồi, thế mà không nói gì cả. Lúc Dantès bị bắt ông cũng được chứng kiến kia mà!
- Thưa Cha vâng, tôi được chứng kiến và tôi muốn nói, nhưng Danglars ngăn cản tôi. Hắn bảo: "Nếu chẳng may nó có tội thật, nếu đúng nó có mang bức thư cho nhóm thân Bonapar ở Paris, thì kẻ nào ủng hộ nó cũng sẽ bị ghép vào tội tòng phạm". Tôi rất sợ cái món chính trị nên đành phải câm mồm. Đó là một điều hèn, tôi công nhận, nhưng không phải là một tội lỗi.
- Tôi hiểu rồi, ông đã để mặc cho chúng làm, có thế thôi.
- Thưa Cha vâng. Đó là điều hối hận đêm ngày của tôi. Tôi vẫn thường cầu Chúa xin tha tội. Mặc dù đó là việc độc nhất trong đời tôi đáng phải khiển trách, tôi vẫn cho nó là nguyên nhân của tất cả vận xúi quẩy của tôi. Do đó thỉnh thoảng vợ tôi có phàn nàn, tôi vẫn phải mắng át nó đi rằng: "Hãy im đi! Thượng đế muốn như vậy đó".
- Tốt thôi. - ông đã thành khẩn nhận lỗi như vậy là đáng được Edmond tha thứ.
- Khốn khổ thay, Edmond đã chết rồi và chưa tha thứ cho tôi.
- Edmond chưa biết.
- Nhưng bây giờ cậu ta biết rồi, có thể như vậy. Người ta nói rằng người chết biết hết.
Im lặng một lát, linh mục đứng lên, đi đi lại lại có vẻ suy nghĩ. Cuối cùng ông trở về chỗ ngồi rồi hỏi tiếp:
- Tôi thấy ông đã nhiều lần nói đến tên ông Morrel, ông đó là ai vậy?
- Đó là ông chủ tàuPharaon, ông chủ của Dantès.
- Thái độ của ông ta như thế nào trong suốt cả tấn kịch bi thảm ấy?
- Thái độ của một người lương thiện, can đảm và đầy tình nghĩa. Dễ có đến mấy chục lần ông ta can thiệp cho Edmond. Khi Hoàng đế trở về, ông viết đơn lên Người, thỉnh cầu, đe dọa, đến nỗi đến thời kỳ Phục hưng thứ hai ông đã bị ngược đãi, bị coi như là kẻ thân Bonapar. Như tôi đã nói, hàng chục lần ông ta đến nhà ông già Dantès để lôi ông già ra khỏi nhà. Và trước hôm ông già mất, tôi xin nói lại rằng ông ta đã để lại một túi tiền trên mặt lò sưởi. Người ta đã dùng số tiền đó để trang trải nợ nần và lo ma chay cho ông già. Tôi còn giữ cái túi đựng tiền đó, một cái túi lưới to, màu đỏ.
- Thế... - Linh mục hỏi - ông Morrel còn sống không?
- Còn - Caderousse đáp.
- Vậy ông ta là người được Chúa che chở. Ông ta hẳn là... giàu có, hạnh phúc lắm?
Caderousse mỉm cười chua chát:
- Vâng, cũng hạnh phúc như tôi đây.
- Ông Morrel đang bị khốn khổ ư? - Linh mục kêu lên.
- Ông ta sắp bần cùng rồi, hơn thế nữa, sắp mất cả danh dự.
- Sao thế?
- Vâng, như thế đấy. Sau hai mươi lăm năm làm việc, sau khi đã chiếm được địa vị danh giá nhất trong giới thương nhân ở Marseilles, ông Morrel đã bị phá sản từ đầu đến cuối. Trong hai năm ông bị mất liền năm chiếc tàu buôn, bị vỡ nợ ba lần rất kinh khủng và hiện nay chỉ còn hy vọng vào một chiếc tàu, chính là chiếcPharaonmà Dantès đã chỉ huy trước kia. Nó đang từ Ấn Độ trở về với đầy hàng hóa trong khoang. Nếu chiếc này bị đắm nốt như những chiếc khác thì ông ta sẽ nguy to.
- Ông ta có vợ con gì không?
- Có chứ, bà vợ ông rất hiền lành, tốt bụng. Cô con gái sắp lấy người cô yêu. Cậu con trai làm trung uý trong quân đội. Nhưng ông cũng biết rõ là tất cả các cái đó chỉ làm tăng gấp đôi nỗi thống khổ của ông ta thôi chứ không làm giảm được. Vì nếu ông ta chỉ có một mình thì một viên đạn vào óc là xong tất cả.
- Kinh khủng thật! - Linh mục lẩm bẩm.
- Đấy, Cha xem, Thượng đế ban thưởng cho những người có đạo đức như thế đấy! Như tôi đây, ngoài cái việc tôi vừa kể với ông, suốt đời tôi chưa làm một việc gì xấu, thế mà tôi cứ khốn khổ như thế này đây. Sau khi trông thấy vợ tôi chết vì bệnh sốt rét mà tôi chẳng làm gì được, tôi cũng đến phải chết đói như ông già Dantès mất thôi. Trong khi đó Danglars và Fernand nằm trên đống vàng.
- Thế nào?
- Bởi vì bọn chúng gặp đầy may mắn. Còn những người lương thiện thì luôn gặp số phận hẩm hiu.
- Danglars, tên thủ phạm chính, tên đầu sỏ, hiện giờ thế nào?
- Hắn được ông Morrel giới thiệu vào làm trong một ngân hàng Tây Ban Nha. Trong cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, hắn có dự phần vào việc cung cấp vũ khí và quân dụng cho quân đội Pháp. Nhờ những mánh khóe tinh vi, hắn trở nên giàu kếch xù và lấy được con gái ông chủ ngân hàng. Sau khi góa vợ, hắn lại lấy một bà góa, bà Nargonne, con gái vị cận thần của đức vua hiện nay, nhờ đó hắn được phong nam tước. Bây giờ hắn là triệu phú nam tước Danglars... có một tòa biệt thự ở phố Mont-Blanc, mười con ngựa trong chuồng, sáu gia nhân trong nhà và không biết bao nhiêu là triệu đồng trong két.
- Thế - Linh mục bỗng nói bằng một giọng lạ lùng - Danglars có sung sướng không?
- Sung sướng. Bố ai mà biết được. Khổ cực hay hạnh phúc, đó là bí mật của những bức tường. Tường có tai nhưng không có lưỡi. Nếu người ta được sung sướng vì tiền thì Danglars quả rất sung sướng.
- Còn Fernand?
- Fernand thì lại còn đặc biệt hơn.
- Nhưng một anh đánh cá nghèo hèn làm thế nào mà trở nên giàu có. Anh ta không mưu lược, không học thức. Thú thực là tin đó vượt quá trí tưởng tượng của tôi.
- Điều đó ai cũng thấy thế. Trong cuộc đời của hắn phải có một sự bí mật nào đó chưa ai khám phá ra được.
- Thế tuần tự, hắn leo thang như thế nào, xin ông cứ nói cho tôi biết.
- Sau khi trở lại ngôi báu, Napoleon ra lệnh tuyển rất nhiều quân. Fernand buộc phải đăng lính. Cả tôi cũng vậy. Nhưng vì tôi nhiều tuổi hơn hắn, lại vừa mới lấy vợ, nên chỉ bị điều ra bờ biển mà thôi. Còn Fernand bị phân công vào một đơn vị chiến đấu và có dự chiến trận Ligny. Một đêm, sau chiến trận, hắn gác ở cổng nhà một viên tướng. Viên tướng này có quan hệ bí mật với quân địch. Đêm hôm đó, viên tướng phải đến gặp quân Anh, ông ta dụ dỗ Fernand đi theo. Thế là Fernand bỏ vọng gác đi theo viên tướng sang hàng ngũ quân địch. Việc làm của Fernand, nếu Napoleon còn ở ngôi, thì thế nào cũng bị đưa ra tòa án binh. Nhưng ngược lại, được tín nhiệm của dòng họ Bourbons, hắn trở về Pháp với lon thiếu uý. Nhờ có sự che chở của viên tướng, hắn được phong đại úy năm 1823 trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha, nên được cử sang Madrid làm sĩ quan tình báo. Vì quen thuộc địa dư và đường đi lối lại hiểm trở nên hắn giúp được đơn vị một số việc. Do vậy, trong chiến dịch ngắn ngày đó, và sau khi chiếm được Trocadero hắn được phong thiếu tá và được thưởng Bắc đẩu bội tinh cùng với chức vị bá tước.
- Số phận! Số phận! - Linh mục lẩm bẩm.
- Vâng, nhưng như thế vẫn chưa hết đâu. Chiến tranh Tây Ban Nha kết thúc, tương lai của Fernand sẽ mờ mịt nếu có hòa bình lâu dài ở châu Âu. Nhưng Hy Lạp đã nổi lên chống lại Thổ Nhĩ Kỳ để giành độc lập. Tất cả mọi người đều đổ dồn cặp mắt về phía Athens. Đó là phong trào ủng hộ Hy Lạp. Chính phủ Pháp cũng phải ủng hộ Hy Lạp và phái Fernand sang phục vụ ở Hy Lạp.
Ít lâu sau người ta nghe tin bá tước Morcerf, tên của Fernand, vào làm việc cho quốc vương Ali Pasha với quân hàm thiếu tướng.
༺༒༻
Rồi Ali Pasha bị giết như ông đã biết. Nhưng trước khi chết, để đền bù công lao cho người đã giúp mình, Ali Pasha thưởng cho Fernand một món tiền lớn và hắn trở về Pháp. Ngày nay ngài bá tước De Morcerf có một biệt thự lộng lẫy ở Paris, phố Helder, số nhà 27.
Linh mục lưỡng lự một lát ròi cố gắng hỏi tiếp:
- Còn Mercédès, người ta nói cô mất tích có phải không?
- Mất tích, vâng. Mất tích như mặt trời về chiều để sáng hôm sau lại mọc lên chói lọi hơn.
- Cô ta cũng trở nên giàu có? - Linh mục hỏi với một nụ cười châm biếm.
- Mercédès giờ đây là một trong những bà lớn ở Paris.
- Ông nói tiếp đi, tôi nghe chuyện cứ như trong một giấc mơ.
- Khi Dantès bị bắt, trước tiên phải công nhận là Mercédès rất thất vọng. Tôi đã kể ông nghe cô ta đến van nài với Villefort và sự tận tâm của cô với ông già Dantès. Đang thất vọng thì lại một đau khổ nữa đến với cô: Fernand ra trận. Cô không biết tội lỗi của Fernand và vẫn coi hắn như một người anh. Fernand đi rồi, Mercédès sống cô độc. Ba tháng trôi qua, ba tháng đầy nước mắt: không tin tức gì về Edmond, không tin tức gì về Fernand, trước mắt cô chỉ còn là một ông già đang chết dần chết mòn vì đau khổ.
Một buổi chiều, sau khi đã ngồi suốt ngày như thường lệ ở góc hai con đường đi Marseilles và về Catalans, cô rũ rượi trở về nhà. Bỗng nhiên cô nghe thấy tiếng bước chân quen thuộc. Cô quay lại, cánh cửa mở ra và Fernand xuất hiện trong bộ quân phục thiếu uý.
Đây không phải là một nửa vấn đề mà cô khóc. Một phần tư thôi! Fernand đã trở về với cô. Mercédès nắm tay Fernand với một niềm vui sướng mà Fernand tưởng lầm là tình yêu. Nhưng đó chỉ là một niềm vui sướng của một người thấy mình không còn bị cô độc nữa, và thấy lại một người bạn sau bao ngày buồn thảm đơn độc. Và cần phải nói thêm là Fernand chưa hề bị cô ghét bỏ, mà chỉ không được cô yêu, có thế thôi. Một người khác đã chiếm mất trái tim của Mercédès rồi người đó đi vắng... bị mất tích... có thể là chết rồi. Nghĩ đến đây; Mercédès nức nở khóc. Trước đây cô không tin như thế, nhưng ông già Dantès đã chả nhiều lần nói với cô: "Edmond của chúng ta chết thật rồi, nếu không, nó đã trở về".
Ông già đã chết, như tôi đã nói với ông. Nếu ông già còn sống, Mercédès có thể không bao giờ là vợ người khác. Fernand hiểu như thế. Khi ông già chết, hắn trở về lần này với lon thiếu uý. Lần đi trước, hắn không nói một câu yêu đương nào với cô. Lần này hắn nhắc lại với cô rằng hắn yêu cô. Mercédès xin hắn gia hạn cho sáu tháng nữa để chờ đợi và khóc Edmond.
Nghe đến đây, linh mục mỉm cười chua chát nói:
- Thực tế tổng cộng tất cả là mười tám tháng. Còn đòi hỏi gì hơn ở một người tình yêu quý? - Rồi ông lẩm bẩm một câu của một thi sĩ người Anh - "Mong manh yếu đuối, tên của mi là phụ nữ".
Caderousse nói tiếp:
- Sáu tháng sau cuộc hôn lễ diễn ra tại nhà thờ Accoules là nơi đáng lẽ làm lễ cưới với Edmond. Vậy là Mercédès đã lấy chồng. Trước mắt mọi người, cô có vẻ bình tĩnh, nhưng rất có thể cô ngã ngất khi đi qua cái quán trước đây đã tổ chức lễ đính hôn với Edmond.
Fernand sung sướng hơn nhưng không yên tâm.hơn. Thời kỳ đó tôi gặp hắn luôn nên tôi biết, hắn rất lo sợ Edmond sẽ trở về. Hắn vội vã thu xếp đưa vợ ra nước ngoài, vì ở Catalans nguy hiểm và nhiều kỷ niệm quá. Tám ngày sau lễ cưới, hai vợ chồng ra đi.
༺༒༻
- Thế ông có bao giờ gặp lại Mercédès không? - linh mục hỏi.
- Có - Caderousse đáp - Trong thời gian có chiến tranh với Tây Ban Nha, Fernand đưa vợ đến Perpignan cùng với đứa con trai. Tôi gặp họ ở đấy.
Linh mục rùng mình hỏi:
- Có con rồi à?
- Vâng, con trai lên là Albert. Cô ta bây giờ giàu sang phú quý rồi nhưng không hạnh phúc đâu, tôi có cảm giác như vậy.
- Còn viên phó biện lý Villefort, ông ta có nhúng tay vào vụ bắt bớ Dantès không?
- Ông ta không phải là bạn tôi nên tôi không biết rõ chuyện. Tôi chỉ biết là sau khi làm lễ thành hôn với tiểu thư Saint-Méran, ông ta được chuyển đi nơi khác. Rất có thể là ông ta cũng giàu có như Danglars, danh vọng như Fernand, chỉ còn mình tôi là nghèo khổ và bị Thượng đế bỏ quên.
- Ông bạn ơi, ông lầm đấy. Thượng đế quang minh, chính trực không bỏ quên ai đâu và đây là bằng chứng.
Nói xong, linh mục rút viên kim cương ra trao cho Caderousse rồi nói tiếp:
- Viên kim cương này đáng lẽ chia cho bốn người, nhưng tôi thấy chỉ có mình ông xứng đáng là bạn của Dantès nên nó sẽ thuộc quyền sở hữu của riêng ông. Mời ông cầm lấy, nó đáng giá năm chục nghìn francs đấy.
Caderousse vừa vuốt mồ hôi trên trán vừa nói:
- Ôi thưa ông, ông không nói đùa tôi đấy chứ? Ông đừng nên làm tôi vừa sung sướng vừa thất vọng.
- Tôi đã hiểu thế nào là sung sướng và thất vọng - Linh mục mỉm cười nói - Và tôi không bao giờ nỡ đùa với tình cảm của người khác. Xin ông cứ cầm lấy, và ngược lại, ông cho tôi xin cái túi đựng tiền bằng chỉ đỏ mà ông Morrel đã để lại trên mặt lò sưởi buồng ông già Dantès, ông đã nói với tôi là ông còn giữ.
Caderousse càng ngạc nhiên hơn, hắn vội chạy đi mở tủ lấy cái túi ra. Túi bằng tơ đỏ có đính hai cái vòng đồng mạ vàng. Linh mục cầm lấy cái túi và trao viên kim cương cho Caderousse. Tên chủ quán kêu lên:
- Ôi ông thật là người nhà trời, thưa ông! Vì sự thật là không ai biết Edmond đã trao nó cho ông và ông hoàn toàn có thể im đi.
Linh mục nghĩ thầm "Chà, điều đó có nghĩa là mi có thể làm như vậy lắm". Rồi linh mục đứng lên, cầm lấy mũ và găng tay, nói:
- Tất cả những điều ông nói với tôi là sự thật cả đấy chứ?
- Tôi xin thề trước cây thánh giá kia và sự thể thế nào, tôi đã nói đúng như thế.
- Vậy thì tốt lắm! Mong ông sử dụng lương thiện số tiền này nhé! Vĩnh biệt ông, tôi phải đi xa khỏi loài người đã tự gây cho nhau biết bao tai họa.
Rồi, không chú ý đến những tình cảm dạt dào của tên chủ quán, vị linh mục đẩy cửa bước ra ngoài, lên ngựa đi thẳng.
Lúc Caderousse quay lại hắn thấy mụ La Carconte đứng đằng sau hắn tái xanh và run rẩy hơn bao giờ hết. Mụ hỏi:
- Những điều tôi vừa nghe thấycó đúng là sự thật không?
- Chẳng có gì thật hơn, vì nó đây - Caderousse sướng như điên đáp, và xòe tay ra.
Mụ vợ ngắm nghía nó một lát rồi nói như gầm lên:
- Nó giả thì sao?
༺༒༻
Mặt Caderousse tái mét, người lảo đảo, hắn thì thào:
- Giả, giả!... Thế tại sao người ta cho mình kim cương giả để làm gì?
- Đồ ngu! Để moi hết bí mật của anh mà không phải trả tiền chứ sao!
Caderousse đứng lặng đi một lúc lâu chịu đựng sức nặng của giả thiết đó. Lát sau hắn cầm mũ lên và nói:
- Rồi chúng ta sẽ biết.
- Làm sao mà biết được?
- Ở ngoài chợ có những tay thợ kim hoàn ở Paris về, tôi sẽ đưa họ xem.
Rồi hắn lao ra khỏi nhà, ngược chiều với hướng đi của vị linh mục. Còn lại một mình, mụ La Carconte lẩm bẩm: "Năm chục nghìn francs! Đó là một món tiền... nhưng chưa hẳn là một gia tài".
Chương 28
cuốn sổ nhà tù
Ngày hôm sau, trên đường đi Beaucaire, người ta thấy một người đàn ông trạc ngoài ba mươi tuổi, mặc chiếc áo đuôi tôm màu lơ, một chiếc quần bằng lụa Trung Quốc, một áo gilê trắng, giọng nói lơ lớ tiếng Anh, đến ra mắt viên thị trưởng thành phố Marseilles.
- Thưa ngài thị trưởng, tôi là người đại diện của hãng Thomson & French ở Rome. Từ mười năm nay hãng chúng tôi giao dịch với công ty Morrel ở Marseilles. Vừa qua chúng tôi nghe tin công ty này sắp bị phá sản. Điều đó làm chúng tôi rất lo lắng. Vậy xin ngài cho chúng tôi được biết tình hình công ty Morrel hiện nay bởi công ty còn giữ của chúng tôi mười vạn francs.
- Vâng, tôi biết rõ là trong vòng năm năm nay ông Morrel đã gặp rủi ro dồn dập. Ông ta bị đắm luôn năm chiếc tàu và ba bốn lần suýt bị phá sản. Về đạo đức của ông ta, với danh nghĩa thị trưởng, tôi có thể cam đoan với ông, ông ta là một người thật thà, đứng đắn và đáng tin cậy. Còn về tiền nong thì phải hỏi ông De Boville, thanh tra các nhà tù. Nghe đâu ông ấy có mua nhiều cổ phần của công ty Morrel nên nhất định biết rõ công việc làm ăn của công ty đó.
Người Anh ngỏ lời cám ơn, chào viên thị trưởng và gặp ông Boville, thanh tra nhà tù, theo lời giới thiệu của ông thị trưởng. Viên thanh tra đang ngồi ở bàn giấy. Lúc nom thấy ông ta, người Anh có vẻ giật mình như không phải lần đầu tiên gặp ông. Song với vẻ thản nhiên thường có theo bản tính, người Anh đặt vấn đề với ông Boville như đã làm với ông thị trưởng. Ông Boville nói:
- Chao ôi! Những lo âu của ngài không phải là vô căn cứ. Bản thân tôi cũng đang thất vọng. Tôi mua hai trăm nghìn francs cổ phiếu của công ty Morrel, một nửa đến ngày 15 tháng này thì được hoàn lại, còn một nửa sang tháng sau. Nhưng vừa đây ông Morrel báo cho tôi biết nếu ngày 15 này tàuPharaonkhông trở về Marseilles thì ông ta không thể thanh toán với tôi được. Như thế có nghĩa là ông ta phá sản, còn tôi thì sẽ mất sạch gia tài.
༺༒༻
Người Anh có vẻ suy nghĩ một lát rồi nói:
- Ngài lo sợ ư?
- Tôi thì coi như đã mất rồi.
- Nếu vậy tôi sẽ mua lại.
- Ngài mua lại! Chắc với điều kiện là với giá hạ?
- Không đâu - Người Anh mỉm cười đáp - Công ty chúng tôi không làm việc ấy. Hai trăm nghìn là hai trăm nghìn.
- Ngài trả tiền nào?
- Bằng tiền mặt ngay lập tức.
Nói xong, người Anh rút trong túi ra một tập giấy bạc có thể là nhiều gấp đôi số tiền cần cho ông Boville. Bộ mặt của viên thanh tra rạng rỡ hẳn lên, nhưng ông ta cố trấn tĩnh lại và nói:
- Thưa ngài, nhưng tôi cần phải báo trước để ngài biết rằng chỉ có năm phần trăm may rủi là thu lại được số tiền đó.
- Điều đó không can gì đến tôi. Tôi chỉ cần biết rằng hãng Thomson & French chúng tôi được cái lợi là làm phá sản được một hãng đối địch. Còn tôi, tôi muốn xin ngài một cái lợi khác: món hoa hồng.
- Vâng thưa ngài, như vậy là hợp lý quá rồi! Thông thường là 1,5 phần trăm nhưng ngài yêu cầu hai hay ba? Hay hơn nữa xin ngài cứ nói.
- Thưa ông - Người Anh mỉm cười nói - Tôi cũng như hãng của chúng tôi không làm cái việc đó. Khoản hoa hồng của tôi tính bằng cách khác.
- Xin ngài cứ nói, tôi sẵn sàng nghe.
- Ngài là thanh tra các nhà tù có phải không?
- Từ mười bốn năm nay.
- Ngài giữ các sổ giam tù nhân?
- Vâng, và cả những hồ sơ của từng tù nhân nữa.
- Ngày trước, lúc ở Rome tôi có một ông thầy học là linh mục bỗng nhiên bị mất tích. Sau này tôi được biết ông ta đã bị bắt và bị giam ở lâu đài If, tôi muốn biết một số chi tiết về ông ấy.
- Ông ấy tên là gì?
- Linh mục Faria.
- À, tôi biết rõ lắm, ông ấy bị điên.
- Người ta nói thế! - Người Anh thản nhiên nói.
- Ờ. Chắc chắn là thế mà! - ông Boville kêu lên.
- Cũng có thể. Nhưng điên như thế nào?
- Ông ta quả quyết là ông ta biết chỗ chôn cất một kho tàng rất lớn và hứa tặng cho chính phủ những món tiền điên rồ nếu thả ông ấy ra.
- Tội nghiệp ông ấy! Ông ấy chết rồi phải không?
- Vâng, cách đây khoảng năm sáu tháng, vào tháng Hai năm vừa qua.
- Ông có trí nhớ tốt quá nhỉ?
- Tôi nhớ được vụ đó bởi vì cái chết của ông ấy có kèm theo một sự kiện kỳ lạ.
- Tôi có thể biết được không? - Người Anh hỏi với vẻ tò mò.
- Được chứ! Cái hầm giam linh mục cách một cái hầm khác chừng vài ba chục bước, trong hầm này giam một tên thân Bonapar rất nguy hiểm.
- Thật vậy ư? - Người Anh hỏi.
- Vâng - ông Boville đáp - Tôi đã có dịp gặp con người đó vào năm 1816 hoặc 1817. Con người này để lại cho tôi một cảm tưởng sâu sắc, không bao giờ tôi quên được bộ mặt anh ta - Người Anh mỉm cười kín đáo, ông Boville nói tiếp - Hai cái hầm giam hai người ở cách nhau chừng ba chục bước như tôi đã nói, tên anh ta là Edmond Dantès thì phải...
- Con người nguy hiểm đó tênlà...
- Edmond Dantès... Vâng, thưa ông. Hình như tên Edmond Dantès ấy đã tạo ra những dụng cụ, vì người ta khám phá ra một con đường ngầm mà hai tù nhân đã dùng để đi lại với nhau.
- Con đường ngầm đó dùng vào mục đích vượt ngục?
- Đúng thế, nhưng không may cho cả hai là linh mục Faria bị lên cơn bại liệt rồi chết.
- Tôi hiểu rồi, điều đó làm kế hoạch vượt ngục bị phá sản.
- Đối với người chết thì đúng - ông Boville đáp - Nhưng không đúng với người sống. Ngược lại, tên Dantès đã tìm thấy ở đó một biện pháp để tiến hành vượt ngục nhanh hơn. Có lẽ hắn đã nghĩ rằng những người chết ở lâu đài If được chôn ở nghĩa địa như bình thường. Hắn đem xác chết sang hầm của hắn, rồi chui vào bao thay thế xác chết, khâu lại cẩn thận và đợi lúc chôn.
- Đấy là một biện pháp mạo hiểm - Người Anh nói, - chứng tỏ một sự can đảm phi thường
- Ồ, thì tôi chẳng nói với ông rằng hắn là một con người nguy hiểm mà! Nhưng may thay cho nhà cầm quyền, hắn đã tự giết mình.
- Thế nào kia?
- Ông không hiểu à? Lâu đài If không có nghĩa địa. Người ta quẳng xác hắn tù trên mỏm đá cao xuống biển, chân lại buộc một viên đạn đại bác. Nếu không bị đập đầu vào đá thì hắn cũng bị nhấn chìm xuống đáy biển rồi.
- Vậy là - Người Anh cố trấn tĩnh nói - kẻ vượt ngục đã bị chết đuối?
- Việc đó đã quá rõ ràng?
- Thế là ông giám thị nhà tù cùng một lúc thoát nợ được một tên điên và một tên tù nguy hiểm!
- Đúng thế. Người ta có thể cấp giấy chứng nhận bất kỳ vào lúc nào là hai tên ấy đều không còn ở trên trần thế này nữa.
- Thôi - Người Anh nói - Ta quay về với quyển sổ tù.
- À vâng, xin ông vào phòng giấy của tôi, tôi sẽ đưa ông xem.
༺༒༻
Tất cả đều rất ngăn nắp, trật tự. Mỗi cuốn sổ đều có số của nó. Mỗi hồ sơ đều có ngăn riêng. Viên thanh tra mời người Anh ngồi vào ghế bành và đặt trước mặt ông ta cuốn sổ và hồ sơ có liên quan đến lâu đài If. Để khách có thể tự do tra cứu, ông ngồi vào cái ghế ở góc buồng và đọc báo.
Người Anh tìm được một cách dễ dàng hồ sơ về linh mục Faria. Nhưng rồi ông ta chỉ giở lướt qua để tìm đến tập của Edmond Dantès. Mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn thư tố cáo, khẩu cung can thiệp của ông Morrel, chú thích của Villefort. Ông gập bức thư tố cáo lại và nhét vào túi áo của mình. Ông đọc những bức thư của ông Morrel kêu nài lên Hoàng đế Napoleon thời kỳ Hoàng đế mới trở về cầm quyền. Ông hiểu ra rằng tất cả những bức thư này Villefort không gửi đi mà giữ lại và chúng đã trở thành một thứ vũ khí lợi hại của hắn khi vua Louis trở lại ngai vàng.
༺༒༻
Ông đọc chú thích của Villefort: "Edmond Dantès, kẻ theo phái Bonapar cuồng nhiệt, đã tích cực tham gia vào vụ Napoleon từ đảo Elba quay về. Phải giam giữ hết sức bí mật và canh phòng nghiêm ngặt".
Dưới đó là một dòng chữ khác: "Không thể làm gì khác được", Đó là lời ghi của viên thanh tra hồi đến thăm Dantès.
- Xin cảm ơn ngài, tôi thỏa mãn rồi!
Nói xong ông cúi chào và lặng lẽ bước ra.
Chương 29
ở nhà ông morrel
Cách đây dăm năm, những ai đã từng có dịp đến Marseilles vào thăm hãng tàu Morrel, thì giờ đây hẳn phải ngạc nhiên về sự đổi thay bất ngờ. Còn đâu cảnh dư dật, phồn vinh, làm ăn vui vẻ, tấp nập trước kia. Nay trong hãng chỉ còn cảnh vắng vẻ tiêu điều. Chỉ còn lại hai người làm công: Emmanuel, một thanh niên trạc hai mươi ba tuổi, người yêu của cô Julie Morrel, anh nhất quyết ở lại làm việc, mặc dù bị bố mẹ đẻ ngăn cấm; và lão thủ quỹ Cocles tận tụy, trung thành với chủ.
Ông Morrel đang phải trải qua những giờ phút khắc nghiệt. Để có thể đương đầu được từ nay đến cuối tháng, ông đã phải dồn tất cả những gì còn lại trong gia sản gồm một số bát đĩa bằng bạc và một ít đồ trang sức của vợ để mang đi Beaucaire bán. Hy sinh như vậy mới tạm thời cứu vãn được danh dự của hãng Morrel. Nhưng rồi quỹ lại rỗng tuếch. Những chủ nợ lo sợ về những lời đồn đại ích kỷ đã đua nhau đến đòi rút vốn.
Để đương đầu với số tiền một trăm nghìn francs phải trả cho ông Boville vào ngày 15 tháng sau, ông Morrel chỉ còn hy vọng vào việc tàuPharaontrở về. Một chiếc tàu khác cùng trong cảng, cũng nhổ neo với nó đã về rồi, còn tàuPharaonvẫn chẳng có tin tức gì.
Chính vào lúc diễn ra tình trạng này thì người Anh, sau hôm từ biệt ông thanh tra Boville, đã tìm đến hãng Morrel nhân danh đặc phái viên của hãng Thomson & French.
Anh thanh niên Emmanuel tiếp ông khách. Cứ mỗi người khách đến là anh thanh niên lại lo sợ. Anh lo lắng hỏi người khách, khách đáp chỉ có thể trả lời được với chính ông Morrel. Anh thở dài, gọi người thủ quỹ đưa ông khách vào. Đến cầu thang, ông khách gặp một cô gái trạc mười sáu, mười bảy tuổi. Cô lo lắng nhìn ông khách lạ. Người thủ quỹ hỏi:
- Ông nhà có trong buồng làm việc chứ cô Julie?
- Có, hay ít ra cháu cũng tin như vậy - Cô thiếu nữ do dự đáp - Bác Cocles, bác hãy lên trước báo tin có ông đây...
- Không phải báo trước đâu cô ạ - Khách đáp - ông Morrel không biết tên tôi đâu. Bác đây chỉ cần nói tôi là đặc phái viên của hãng Thomson & French từ Rome đến...
Người khách theo Cocles vào và trông thấy ông Morrel đang ngồi trước bàn giấy, mặt tái xanh, đang đọc những con số khủng khiếp trong cuốn sổ thương mại. Thấy có khách vào, ông Morrel đóng cuốn sổ lại, đứng lên kéo ghế mời ngồi. Khi khách đã an tọa, ông cũng ngồi xuống.
༺༒༻
Mười bốn năm trôi qua đã làm ông thay đổi quá nhiều, tóc đã bạc, trên trán đã hằn những nếp nhăn vì lo nghĩ. Cặp mắt ông lờ đờ chứ không còn trong sáng và đầy nghị lực như trước kia. Ông lên tiếng trước:
- Thưa ông, ông muốn nói chuyện với tôi?
- Thưa ông vâng. Chắc ông đã biết tôi từ đâu đến rồi phải không?
- Ông ở hãng Thomson & French như bác thủ quỹ vừa cho tôi biết.
- Đúng ạ. Hãng Thomson & French trong tháng này và tháng sau phải trả tại Pháp một số tiền là ba, bốn trăm nghìn francs. Được biết quý hãng rất đúng hẹn nên hãng chúng tôi đến đây để xin lại ông số tiền đó.
Ông Morrel thở dài, đưa tay lên trán ướt đẫm mồ hôi và nói:
- Vậy ông đã có đủ giấy chứng khoán nhận tiền có chữ ký của tôi?
- Vâng, với một số tiền cũng khá lớn đấy ạ!
- Xin cho biết bao nhiêu tất cả? - ông Morrel cố lấy giọng bình tĩnh hỏi.
- Bốn mươi vạn francs cộng với cổ phần của ông Boville thanh tra các nhà tù, đã được chuyển vào tay chúng tôi hai mươi vạn nữa. Giấy tờ đây, mời ông kiểm tra.
- Vâng đúng cả. Thời hạn trả là 15 tháng này và 15 tháng sau.
- Thưa ông Morrel, tôi xin thành thực với ông, từ trước đến nay ông rất sòng phẳng. Nhưng dư luận hiện nay ở Marseilles cho chúng tôi biết là ông không còn đủ khả năng trang trải. Như thế là thế nào ạ?
Mặt ông Morrel tái đi một cách khủng khiếp, ông đáp:
- Thưa ông, đã trên hai mươi bốn năm tôi nhận hãng này từ tay bố tôi, cũng như bố tôi đã quản lý nó ba mươi lăm năm, cho đến nay chưa một cổ phiếu nào có chữ ký của Morrel đưa đến quỹ chúng tôi mà không được thanh toán.
- Vâng, điều đó chúng tôi biết - Người Anh nói - Nhưng đứng về danh sự mà nói với nhau, xin ông thành thật cho biết, ông có thể thanh toán được những món này đúng như hạn định không?
Ông Morrel rùng mình, nhìn con người đang nói với ông bằng một giọng chắc chắn như vậy, ông đáp:
- Đối với những câu hỏi đặt ra một cách thành khẩn như vậy cũng phải có câu trả lời thành khẩn. Thưa ông vâng, tôi sẽ trả lời như tàuPharaoncủa tôi về đến đích an toàn, tôi cầu mong như vậy, còn nếu như vì bất hạnh mà tàuPharaonmất...
Giọng ông Morrel nghẹn ngào, nước mắt trào ra. Khách liền hỏi:
- Nếu chẳng may như vậy thì sao, thưa ông?
- Thì, thưa ông, nói ra đau đớn lắm... nhưng đã quen với đau khổ rồi, tôi cần phải làm quen với sự nhục nhã nữa. Thì tôi cho rằng tôi buộc lòng phải đình chỉ mọi thanh toán của hãng tôi.
- Ông không có bạn bè thân thuộc nào có thể giúp được ông trong cảnh ngộ này ư?
Ông Morrel mỉm cười buồn bã đáp:
- Thưa ông, trong nghề buôn bán làm gì có bạn bè, chỉ có đối thủ!
- Đúng thế - Vị khách người Anh nói - Vậy ông chỉ còn một nguồn hy vọng ấy thôi ư? Nếu nguồn hy vọng ấy tan vỡ thì ông tính sao?
- Tôi sẽ lỗi hẹn, tôi sẽ nguy mất.
Giữa lúc đó, ngoài cầu thang có tiếng huyên náo và tiếng kêu não ruột:
- Trời đất ơi! Lại chuyện gì nữa đây? - ông Morrel mặt nhợt nhạt, người run rẩy, muốn đứng lên nhưng không còn sức nữa, lại rơi phịch xuống ghế.
Hai người đối diện nhau. Ông Morrel chân tay run rẩy; người khách nhìn ông với nỗi thương hại sâu sắc. Tiếng ồn ào đã hết, nhưng người ta thấy rõ ông Morrel đang chờ đợi một cái gì. Tiếng ồn ào đó tất phải có nguyên nhân, vậy ắt phải có một kết quả.
Có tiếng người nhẹ nhàng bước trên cầu thang, có thể là của nhiều người nữa, rồi dừng lại trước cửa phòng. Tiếng chìa khóa lách cách rồi cửa mở. Cô Julie xuất hiện, mặt đầy nước mắt. Ông Morrel run rẩy đứng lên tựa vào thành ghế, cô con gái chạy lại nép đầu vào ngực cha nức nở.
- Cha ơi cha! Cha hãy can đảm lên!
- Vậy là tàuPharaonđắm rồi phải không? - ông Morrel nghẹn ngào nói - Cô gái không trả lời, chỉ khẽ gật đầu.
- Thế còn anh em thủy thủ? - ông Morrel vội hỏi tiếp.
- Thoát hết và đã được một tàu Bồ Đào Nha vớt lên, tàu này vừa cập bến.
Ông Morrel giơ hai tay lên trời nói:
- Cám ơn Thượng đế! Người chỉ hại có mình tôi!
Dù phớt lạnh như người Anh, vị khách lạ cũng long lanh một giọt nước mắt trên mi.
- Thôi vào cả đi - ông Morrel nói tiếp - Tôi biết là mọi người đứng ở ngoài cửa!
Tức thì bà Morrel bước vào khóc thút thít, theo sau bà là Emmanuel rồi đến bảy tám thủy thủ. Nom thấy những người đó, khách rùng mình bước lên một bước như muốn chạy lại với họ. Nhưng ông ta tự kìm được và đứng nép vào một góc nhà.
- Bác Penelon - Emmanuel nói - Bác hãy kể cho ông chủ biết sự thể ra sao.
༺༒༻
Một thủy thủ già, da mặt cháy nắng mặt trời vùng xích đạo, tay xoắn một mảnh mũ còn lại, tiến lên nói:
- Xin chào ông Morrel. Thưa ông, con tàu ở Ý trở về đi đến Cape Blanc. Tôi đang bẻ lái thì ông thuyền trưởng Gaumard đến bảo là trời sắp có dông, rồi ra lệnh cuốn hết những cánh buồm lớn.
Ông Morrel liền ngắt lời hỏi:
- Ông thuyền trưởng đâu rồi nhỉ?
- Ông Gaumard bị ốm phải nằm lại ở Palma. Nhưng không sao, chỉ vài ngày nữa là ông trở về mạnh khỏe như ông chủ và chúng tôi.
- Thế thì tốt - ông Morrel nói - Tiếp tục đi, Penelon.
- Vâng... sau đó quả nhiên những đám mây đen ngòm từ chân trời ùn ùn kéo đến, gió thổi đùng đùng, mặt biển chuyển động mạnh. Tàu tròng trành dữ dội, mũi chúi ra phía trước. Nước tràn vào ngập đến ba bộ. Ông thuyền trưởng ra lệnh bơm nước và cuốn hết những cánh buồm còn lại.
- Tôi thì tôi không làm thế. - Khách người Anh đứng ở phía sau vẫn theo dõi câu chuyện, buột mồm nói - Vì con tàu đã quá cũ rồi không thể nào chịu được cơn gió thốc.
- Vâng đúng thế, gió càng mạnh, nước tràn vào mỗi lúc một nhiều không tài nào bơm hết ra được. Không còn cách gì cứu nổi, tàu chìm dần, chìm dần. Ông Gaumard ra lệnh thả xuồng xuống cho anh em thủy thủ, chỉ còn mình ông đứng trên tàu. Tôi hiểu ý ông muốn hy sinh với tàu. Tôi vội ôm ngang lưng ông và vừa kịp nhảy xuống xuồng thì sàn tàu vỡ toang, làm rung chuyển cả một góc trời, tàu chìm nghỉm. TàuPharaonkhông còn nữa. Chúng tôi lênh đênh trên mặt biển suốt ba ngày đêm không được ăn uống gì thì may mắn gặp được chiếc tàu bạn cứu thoát và đưa về đây. Đó là tóm tắt những việc đã xảy ra, thưa ông Morrel, tôi xin lấy danh dự mà thề là sự việc đã xảy ra đúng như vậy. Có phải không các bạn?
༺༒༻
Tiếng rì rầm nổi lên tỏ ý tán thành. Ông Morrel nói:
- Thôi các bạn, các bạn đều là những người dũng cảm và chân thành. Tai nạn này tôi đã biết trước là do số phận của tôi. Đó là ý muốn của Thượng đế chứ đâu có phải lỗi tại con người. Bây giờ tôi nợ các bạn bao nhiêu tiền lương?
- Ôi dào! Nói đến lương lậu làm gì ông Morrel!
- Trái lại, cần phải nói đến chứ! - ông chủ thuyền mỉm cười buồn rầu nói.
- Nếu vậy - Penelon nói - ông nợ chúng tôi ba tháng...
- Cocles, trả cho mỗi anh em hai trăm francs. Ở vào thời buổi khác tôi sẽ nói thêm: trả thêm cho mỗi người hai trăm francs tiền thưởng nữa. Nhưng thời gian không ủng hộ tôi, số tiền ít ỏi còn lại không thuộc tôi nữa, mong các bạn thông cảm và đừng vì thế mà giảm bớt mất tình cảm giữa chúng ta.
Penelon cảm động quá, quay lại các bạn. Họ trao đổi với nhau vài câu rồi nói với ông Morrel:
- Thưa ông Morrel, các bạn tôi nói là trong hoàn cảnh này mỗi người chúng tôi chỉ cần năm chục francs cũng đủ, số còn lại sau sẽ hay.
- Cám ơn, cám ơn các bạn - ông Morrel cảm động nói - Các bạn đều có trái tim dũng cảm. Nhưng xin các bạn cứ cầm lấy cầm lấy và nếu các bạn tìm được nơi nào tốt cho các bạn cứ nhận việc ở đó, tùy các bạn.
Câu nói sau cùng này gây nên một ảnh hưởng kỳ lạ trong đám thủy thủ. Họ ngơ ngác nhìn nhau. Penelon thở dốc, nói giọng nghẹn ngào:
- Thưa ông chủ, ông chủ giận chúng tôi sao mà nỡ đuổi chúng tôi đi?
- Không đâu các bạn ạ! Tôi không hề giận các bạn mà trái lại. Tôi không đuổi các bạn, nhưng các bạn thử nghĩ xem, tôi làm gì còn tàu nữa, vậy dùng thủy thủ làm gì?
- Sao, ông chủ không còn tàu nữa à! Vậy ông chủ lại đóng cái khác chớ sao! Chúng tôi sẽ đợi.
- Tôi còn tiền đâu nữa mà đóng tàu. Tôi không thể nhận lời được.
- Nếu ông chủ không còn tiền thì chúng tôi cũng chả dám lấy lương.
- Thôi, thôi đủ rồi, tôi van các bạn. Tôi ước mong chúng ta sẽ gặp lại nhau trong một hoàn cảnh tốt đẹp hơn. Emmanuel đâu, Emma con hãy đưa các bạn ra và thực hiện cho tốt ý muốn vừa rồi của cha.
- Tạm biệt ông Morrel, có phải không ạ? - Penelon nói.
- Phải, phải, các bạn ạ! Tôi cũng cầu mong như vậy.
Nói xong, ông Morrel ra hiệu cho Cocles ra trước. Các thủy thủ theo sau ông thủ quỹ và Emma đi sau cùng. Ông Morrel quay lại nói với vợ con:
- Tôi cần được nói chuyện riêng một lát với ông khách đây.
Lúc đi ra, cô thiếu nữ nhìn người khách lạ với cái nhìn cầu khẩn. Và lạ lùng thay trên bộ mặt lạnh lùng ấy lại nở một nụ cười đáp lại. Khi chỉ còn lại hai người, ông Morrel ngồi phịch xuống ghế nói:
- Thưa ông, ông đã nghe thấy và nom thấy hết, tôi không còn gì để cho ông biết thêm nữa.
- Thưa ông - khách nói - tôi đã chứng kiến một tai họa mới, không mong đợi, đã xay đến với ông, vì thế tôi muốn giúp ông đôi chút. Tôi là người chủ nợ chính của ông có phải không ạ?
- Ít ra ông cũng là chủ món nợ lớn mà tôi sẽ phải trả sớm nhất.
- Ông có muốn được gia thêm hạn phải trả không?
- Sự gia hạn sẽ bảo tồn được danh dự cũng như cứu sống được đời tôi.
- Ông cần bao lâu?
Ông Morrel lưỡng lự một lát rồi nói:
- Hai tháng.
- Được - Người Anh nói - Tôi xin tặng ông ba tháng.
- Thế ông tin là hãng Thomson & French...
- Xin ông cứ yên tâm, tôi có toàn quyền. Hôm nay là ngày mồng 5 tháng Sáu và bây giờ là 11 giờ. Vậy đúng 11 giờ ngày mồng 5 tháng Chín tôi sẽ có mặt tại đây.
- Tôi sẵn lòng đợi ông - ông Morrel nói - ông sẽ thu được nợ hoặc tôi sẽ phải chết.
Câu cuối cùng ông Morrel nói rất nhỏ, khách không nghe thấy và điềm nhiên nhận sự cám ơn nhiệt liệt của chủ rồi ra đi. Ông Morrel tiễn chân khách đến tận cầu thang. Trên cầu thang ông khách gặp Julie, cô thiếu nữ làm ra vẻ đi xuống, nhưng thực tế cô đợi ông.
- Ôi, thưa ông? - Julie chắp hai tay lại nói.
- Thưa cô - người khách lạ nói - một ngày kia cô sẽ nhận được một bức thư ký tên là... thủy thủ Sinbad... Cô sẽ hành động đúng như lời bức thư viết dù có kỳ dị đến đâu đi nữa.
- Thưa ông vâng ạ! - Thiếu nữ đáp.
- Cô hứa với tôi chứ?
- Tôi xin thề.
- Tốt lắm! Xin tù biệt cô. Mong cô mãi mãi sẽ là một cô gái hiền hậu như hiện nay và tôi hy vọng rằng Chúa sẽ ban thưởng Emmanuel cho cô làm chồng.
Julie khẽ kêu lên một tiếng, thẹn đỏ mặt và phải giữ lấy tay vịn cầu thang cho khỏi ngã.
Người khách lạ tiếp tục đi và đưa tay vẫy từ biệt. Xuống đến sân ông gặp người thủy thủ già Penelonmỗi tay cầm một tập giấy bạc hình như còn chưa quyết định mang đi. Người khách lạ gọi:
- Này ông bạn, lại đây ta nói chuyện.
Chương 30
ngày mồng 5 tháng chín
Kỳ hạn mà người đại diện hãng Thomson & French gia thêm đã đem lại cho ông Morrel một chút hy vọng và thư thái trong lòng. Nhưng khốn thay, những chủ nợ khác có phả được như ông khách người Anh kia đâu. Trước những tai họa dồn dập của ông chủ tàu, tin chắc rằng ông sẽ bị phá sản, họ lại càng thúc ông tợn.
Ngày 20 tháng Tám người ta thấy ông Morrel thuê một cỗ xe ngựa đi Paris. Trong lúc không còn biết xoay xở vào đâu được nữa, ông nghĩ tới Danglars, nhà triệu phú đang ngồi trên đống vàng ở Paris, người trước kia đã từng đội ơn ông và chỉ cần một chữ ký bảo đảm của y là ông có thể vay được tiền của một ngân hàng.
Ngày đầu tháng Chín, ông Morrel trở về Marseilles đầy đau khổ và nhục nhã vì đã bị Danglars khước từ. Ông không than thở một câu nào, lặng lẽ ôm hôn vợ con, bắt tay Emmanuel rồi vào buồng khóa cửa lại. Nhìn thấy vẻ mặt thảm hại của ông, hai mẹ con lo lắng và bàn nhau viết thư gọi Maximilian Morrel về. Max là một thanh niên mới hai mươi tuổi, sau khi tốt nghiệp đại học quân sự, được phong thiếu úy ở lữ đoàn 53 và được ông Morrel rất yêu quý vì tâm đầu ý hợp, vì tính cương trực và thẳng thắn.
Lúc xuống phòng ăn, ông Morrel rất bình tĩnh, nhưng thái độ bình tĩnh khác thường đã làm cho hai mẹ con bối rối, lo sợ. Đến đêm, hai mẹ con vẫn thức. Hai người rón rén lên buồng ông làm việc, nhìn qua lỗ khóa, thấy ông đang ngồi lúi húi viết lên một tờ giấy đặc biệt. Linh tính báo cho bà biết ông đang viết chúc thư. Hai mẹ con nhìn nhau rụng rời và run bần bật. Hai ngày sau vẫn tình trạng như thế.
Đêm ngày mồng 4 rạng ngày mồng 5, hai mẹ con nghe ngóng ở cửa buồng, thấy ông Morrel vẫn đi đi lại lại, đến 3 giờ sáng mới thấy đi nằm.
Tám giờ sáng ngày mồng 5, Julie đang ngồi trong buồng đợi anh ruột về thì chợt có hai cánh tay ôm chặt lấy vai cô. Cô quay lại và reo lên:
- Trời ơi! Anh Max!
Nghe tiếng reo, bà mẹ chạy lại và ngã vào cánh tay con trai yêu quý. Anh thanh niên nói:
- Nhận được thư của em Julie con sợ quá. Gia đình ta có chuyện gì thế mẹ?
Bà Morrel ra hiệu bảo con trai nói khẽ và bảo con gái chạy lên báo tin cho bố biết. Cô gái lao ra khỏi buồng, nhưng vừa đến đầu cầu thang, cô gặp một người đàn ông tay cầm một phong thư. Trông thấy cô, người đó hỏi, giọng lơ lớ tiếng Ý:
- Thưa cô, cô có phải là Julie Morrel không ạ?
- Thưa ông vâng - Cô thiếu nữ ấp úng nói - Nhưng ông cần gì ạ, cháu không biết ông?
- Cô hãy đọc bức thư này - người lạ mặt nói và đưa bức thư ra.
Thấy Julie còn lưỡng lự, người đó nói tiếp:
- Vấn đề quan hệ đến vận mệnh của cha cô đó!
Cô thiếu nữ cầm vội lấy bức thư trong tay người đó rồi vội vàng mở ra đọc:
"Cô đến ngay ngõ Meilhan, số nhà 15, hỏi người gác cổng chìa khóa cửa buồng tầng 5, vào trong đó cô sẽ thấy phía trên góc lò sưởi có một cái túi lưới bằng lụa đỏ. Cô cầm lấy và mang về cho cha cô.
Cha cô cần có nó trước 11 giờ.
Cô đã hứa sẽ nghe theo lời tôi, tôi xin nhắc lại lời hứa đó".
"Thủy thủ Sinbad".
༺༒༻
Cô gái reo lên một tiếng vui mừng, ngẩng mặt lên định hỏi thêm thì người đưa thư đã biến đâu mất. Cô đọc lại bức thư một lần nữa và nhận thấy còn có một dòng tái bút, cô vội đọc tiếp:
"Điều quan trọng là cô phải đến đó một mình, nếu cô đi kèm một người nào khác thì người gác cổng sẽ trả lời không biết gì cả".
Lời tái bút đó làm cô thiếu nữ cụt hứng. Cô do dự rồi quyết định cần phải xin ý kiến. Nhưng do một tình cảm lạ lùng, cô không hỏi anh cô, không hỏi mẹ cô, mà lại đi hỏi người yêu Emma. Cô kể hết chuyện cho Emma nghe. Suy nghĩ một lát ròi anh thanh niên nói:
- Phải đi thôi em ạ!
- Cứ đi một mình à?
- Phải, anh phải đi theo em.
- Nhưng anh không thấy điều kiện chỉ được đi một mình thôi sao?
- Thì vẫn chỉ có một mình. Anh sẽ đợi em ở một góc phố, nếu thấy em chậm ra, anh sẽ xông vào và anh dám bảo đảm với em là kẻ nào định hãm hại em sẽ biết tay anh.
- Vậy là anh bằng lòng để em đi, hả anh Emma?
- Phải! Bức thư có nói đến vận mệnh của cha em.
- Vậy anh Emma, cha em có điều gì nguy hiểm thế?
Emma lưỡng lự một lát nhưng vì muốn cho Julie mạnh dạn đi ngay anh bèn nói hết một cách tóm tắt, rồi kết luận:
- Hôm nay đúng là ngày mồng 5 tháng Chín, cha em hẹn đến 11 giờ, nếu không có một vị cứu tinh nào đó thì cha em buộc phải tuyên bố phá sản.
- Ôi - Cô thiếu nữ kêu lên - Vậy ta phải đi ngay, anh!
Trong thời gian đó bà Morrel kể hết cho con trai nghe. Chàng thanh niên, chỉ thoáng nhìn qua tình hình chi tiêu trong gia đình cũng đã thấy được cảnh khó khăn về kinh tế, nhưng anh không ngờ vấn đề lại đến nông nỗi này. Anh lặng người đi. Đột nhiên anh lao ra khỏi buồng, lên gác rất nhanh vì anh tưởng cha anh ở trong phòng làm việc. Anh gõ cửa rất mạnh thì lại thấy cửa buồng ngủ mở ra và cha anh xuất hiện. Ông đã ở trong buồng ngủ và bây giờ mới ra.
Ông Morrel thốt lên một tiếng ngạc nhiên khi nhìn thấy con trai, ông chưa biết anh đã về. Anh lao đến ôm lấy cổ cha, nhưng bỗng nhiên anh lùi lại, mặt tái xanh như xác chết, anh kêu lên:
- Thưa cha, tại sao cha lại giắt khẩu súng ngắn ở cạnh sườn?
Ông Morrel nhìn chằm chằm vào con trai nói:
- Maximilian con, con đã là một người và là một người có danh dự. Lại đây cha sẽ nói cho con nghe.
Ông Morrel dẫn con trai vào phòng làm việc rồi khóa trái cửa lại. Ông bước đến bàn giấy, đặt hai khẩu súng ngắn lên một góc bàn và đưa cho con cuốn sổ còn để mở trên bàn, rồi nói:
- Đây con đọc đi.
Anh thanh niên đọc dòng chữ 287.500 francs cần phải có trong nửa giờ nữa mà trong quỹ hiện chỉ có tất cả 15.257 francs. Đọc xong, anh thanh niên điếng người, lặng đi một lát, mãi sau mới hỏi:
- Thưa cha, cha đã làm tất cả để đối phó với vấn đề này rồi chứ?
- Phải - ông Morrel đáp.
- Cha không trông cậy được vào đâu nữa à?
- Không.
- Và trong nửa giờ nữa - Max nói một cách rầu rĩ - Dòng họ của chúng ta sẽ bị nhục.
- Máu sẽ rửa nhục con ạ!
- Cha nói đúng và con rất hiểu cha - Rồi đưa tay về phía khẩu súng Max nói tiếp - Một khẩu cho con và một khẩu cho cha. Cám ơn cha!
Ông Morrel ngăn bàn tay con trai lại nói:
- Còn mẹ con... Còn em gái con... ai nuôi?
Một cái rùng mình chạy khắp người anh con trai:
- Thưa cha, cha còn nghĩ đến việc bảo con phải sống à?
- Phải, cha bảo thế đấy, vì đó là nhiệm vụ của con. Con có một tâm hồn trầm tĩnh và mạnh mẽ. Max con, con không phải là một người bình thường, cha không bắt buộc con điều gì hết, cha không ra lệnh cho con gì hết. Cha chỉ nói với con rằng: Con hãy tỉnh táo mà nghiên cứu hoàn cảnh và tự con phải giải quyết lấy.
༺༒༻
Anh thanh niên suy nghĩ một lát, ròi với một sự nhẫn nhục cao cả biểu hiện trên cặp môi, anh từ từ giật bỏ lon sĩ quan trên cầu vai, chìa tay ra cho cha nói:
- Thôi được, thưa cha, con sẽ sống.
Ông Morrel định quỳ xuống chân con, anh thanh niên vội kéo cha đứng lên và hai trái tim cao thượng ấy cùng đập bên nhau một lúc. Ông Morrel nói:
- Con nên biết rằng đó không phải là lỗi tại cha.
- Con biết, con biết! Cha là một người lương thiện nhất trên đời này!
- Thôi được, chúng ta đã nói hết với nhau rồi. Bây giờ con hãy trở lại với mẹ và em gái con.
Max quỳ xuống chân cha nói:
- Thưa cha, xin cha hãy cầu phúc cho con!
Ông Morrel ôm lấy đầu con trai kéo lại, hôn mấy cái rồi nói:
- Phải, phải, cha cầu phúc cho con nhân danh cha và nhân danh cả ba đời dòng họ nhà ta làm ăn lương thiện. Con hãy nghe cha nói đây: Sự nghiệp mà tai họa đã tàn phá, bàn tay con người có thể xây dựng lại được. Vậy con hãy bắt tay vào làm việc, làm việc thật hăng say, thật dũng cảm. Mẹ con, em gái con và con hãy nghĩ đến một ngày kia, một ngày vĩ đại, một ngày trọng thể, ngày phục hồi danh dự, một ngày mà cũng trong căn phòng này con sẽ nói: "Cha tôi đã phải chết vì không làm nên sự nghiệp mà tôi đã làm ngày nay. Nhưng cha tôi đã chết yên lành và thanh thản vì trong khi chết Người biết là tôi sẽ làm nên".
- Ôi, thưa cha, thưa cha! Nếu vậy thì cha có thể sống được.
- Nếu cha sống thì mọi việc sẽ thay đổi hết. Nếu cha sống thì lòng thương cảm sẽ trở thành hận thù. Nếu cha sống thì cha sẽ chỉ là con người thất tín không giữ lời hứa, một con người mất hết danh dự. Nếu cha chết đi, con ơi, cái xác của cha là xác của một người lương thiện không gặp may. Nếu cha sống, tất cả các bạn bè thân thuộc sẽ xa lánh nhà ta. Nếu cha chết đi, tất cả thành phố Marseilles sẽ ngậm ngùi đưa cha đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cha sống con sẽ nhục vì mang tên cha. Cha chết, con ngẩng đầu lên nói: "Tôi là con một người đã phải tự sát vì lần đầu tiên ông bị buộc không giữ được lời hứa".
Anh thanh niên rên lên một tiếng, như chính anh phải chịu cực hình này, ông Morrel lại nói tiếp:
- Thôi, con hãy để cha ở lại một mình và cố gắng đưa mẹ và em gái con đi nơi khác.
- Cha không muốn gặp em gái con một lần nữa à?
- Cha đã gặp nó sáng nay rồi. - ông lắc đầu nói - Và đã vĩnh biệt nó rồi.
- Thế cha có còn muốn trối trăng một điều gì nữa cho con không?
- À có, con ạ, một lời dặn dò thiêng liêng.
- Xin cha cứ nói.
- Hãng Thomson & French là hãng độc nhất có lòng thương đến ta, mặc dù là do lòng ích kỷ hay gì chăng nữa. Phái viên của hãng ấy 11 giờ sẽ có mặt ở đây để lĩnh số tiền nợ. Chính ông ta đã không phải là thỏa thuận mà là đã biếu ta một thời hạn khất nợ là ba tháng. Hãng đó phải được trả đầu tiên, và người phái viên đó phải được con kính mến.
- Thưa cha, vâng.
- Thôi bây giờ, một lần nữa vĩnh biệt con, con đi đi! Cha can được một mình. Con sẽ tìm thấy bản di chúc của cha trong ngăn kéo bàn ngủ.
Hai cha con ôm hôn nhau một lần nữa rồi người con lao ra khỏi phòng. Còn lại một mình, ông Morrel đứng lặng yên một lúc, mắt nhìn chằm chằm ra cửa phòng, rồi ông giơ tay với lấy dây chuông kéo một cái. Một lát sau người thủ quỹ vào, ông Morrel nói:
- Anh Cocles thân mến, anh sẽ đợi ở buồng bên ngoài. Khi có ông khách mà cách đây ba tháng đã đến, anh biết đấy, phái viên của hãng Thomson & French, anh báo trước cho tôi biết nhé!
Nói xong ông ngồi phịch xuống ghế, đưa mắt nhìn lên đồng hồ, còn bảy phút nữa, chỉ có thế thôi! Chiếc kim đồng hồ chạy với tốc độ nhanh không thể tưởng được.
Những gì đang diễn ra trong óc con người đó, trong những giây phút cuối cùng này, thật là khó tả. Phải trông thấy tận mắt cái trán ông đẫm mồ hôi nhưng đầy nhịn nhục, cặp mắt ông đẫm lệ ngước lên trời, thì mới có thể có khái niệm được.
Kim đồng hồ vẫn nhích lên, súng vẫn nạp đạn sẵn. Ông cầm lấy một khẩu súng và lẩm nhẩm tên con gái ông.
Rồi ông lại bỏ súng xuống, cầm lấy cây bút viết vài chữ, hình như ông nói vĩnh biệt cô con gái còn chưa đủ.
Rồi ông lại nhìn đồng hồ. Không còn đủ một phút nữa mà chỉ còn lại ít giây. Ông lại cầm khẩu súng lên, miệng há ra, mắt dán vào cái kim đồng hồ, rồi tiếng động ông lên cò súng lại làm ông giật mình. Lúc đó trán ông lạnh toát mồ hôi, một nỗi khủng khiếp làm tim ông thắt lại.
Ông nghe thấy tiếng cầu thang mở.
Rồi cửa buồng ông mở ra.
Đồng hồ chuẩn bị điểm 11 giờ.
Ông không quay lại, ông chờ tiếng Cocles báo cáo "Vị đại diện hãng..."
Ông gí khẩu súng vào miệng...
Đột nhiên ông nghe thấy có tiếng kêu: đúng là tiếng con gái ông. Ông quay lại và trông thấy Julie. Khẩu súng tuột khỏi tay. Cô con gái thở không ra hơi kêu lên:
- Thoát nạn rồi! Thoát nạn rồi cha ơi!
Và cô lao người vào lòng ông, tay cô giơ lên một cái túi lưới màu đỏ.
- Thoát nạn ư! Con ơi, con nói gì thế?
- Vâng, cha xem đây này!
Ông Morrel cầm lấy cái túi. Giật mình, ông mang máng nhớ ra đã có thời kỳ cái túi này là của ông. ông mở túi và thấy trong túi có một tập hóa đơn cho biết đã thanh toán đủ số tiền 287.500 francs. Bên cạnh đấy là một viên kim cương to bằng hạt dẻ, đính theo mẩu giấy có hàng chữ: "Tặng cô Julie làm của hồi môn".
༺༒༻
Ông Morrel đưa tay lên trán ngỡ là mình chiêm bao. Đúng lúc ấy đồng hồ điểm 11 giờ. Mỗi tiếng ngân của đồng hồ như dội mạnh vào trái tim ông.
- Con ơi, con lấy cái túi này ở đâu?
- Trong nhà số 15 ngõ Meilhan, trên mặt lò sưởi, tầng gác thứ năm.
- Nhưng - ông Morrel kêu lên - Cái túi này không phải của con!
Julie liền đưa bức thư cho ông đọc. Đọc xong ông hỏi:
- Thế con đã vào đấy một mình à?
- Anh Emma dẫn con tới. Anh ấy phải đợi con ở góc phố, thế mà lạ quá, lúc con ra anh ấy đã biến đi đằng nào mất!
Một tiếng kêu từ ngoài cầu thang vang lên:
- Bác Morrel! Bác Morrel!
- Tiếng anh ấy đấy - Julie reo lên!
Đồng thời anh thanh niên lao vào, nét mặt vừa xúc động vừa hớn hở, anh reo lên:
- TàuPharaon! TàuPharaon!
- Sao? Tàu Pharaon! Cháu điên đấy à! Cháu Emma, tàuPharaonbị đắm rồi kia mà!
- TàuPharaon! Thưa bác, người ta báo tin tàuPharaonđang cập bến!
Ông Morrel rơi phịch xuống ghế, ông cảm thấy không còn sức lực nữa và tâm thần ông rối loạn vì những sự kiện xảy ra quá bất ngờ, quá thần kỳ, quá vĩ đại.
Nhưng cậu con trai của ông cũng vào và kêu lên:
- Cha ơi! Sao cha bảo tàuPharaonđã đắm rồi? Nó đang lù lù cập bến kia kìa!
- Các con ơi - ông Morrel nói - Nếu quả thực như thế thì đây là một phép kỳ diệu của Thượng đế! Không thể có được!
Nhưng một sự thật rành rành ra là cái túi lưới màu đỏ ông đang cầm trong tay, là tập hóa đơn đã được thanh toán, là viên kim cương tuyệt diệu này. Ông bèn đứng lên nói:
- Thôi, nào các con, chúng ta ra tận nơi xem thực hư thế nào!
Một lát sau cả nhà kéo nhau ra bến, lúc bấy giờ đã đông đặc người. Đám đông giãn ra trước ông Morrel.
- TàuPharaon! TàuPharaon! - Tất cả mọi người đồng thanh.
Quả là điều kỳ lạ chưa từng có. Một chiếc tàu mang tênPharaon(“ThePharaon, Morrel & Son, of Marseilles”) kẻ bằng chữ trắng toát ở mũi, y hệt chiếc cũ, cũng chở đầy hàng hóa của chiếc tàu cũ, đang bỏ neo và cuốn buồm. Trên cầu tàu vẫn viên thuyền trưởng Gaumard và bác thuỷ thủ già bẻ lái Penelon, họ đang giơ tay ra hiệu cho ông Morrel.
Không còn nghi ngờ gì nữa, tất cả các giác quan của ông Morrel đã chứng kiến và hàng vạn người đã chứng kiến.
Trong lúc hai cha con ông Morrel hôn nhau trên bờ biển giữa những tràng vỗ tay của dân chúng trước sự kỳ diệu này, có một người đàn ông nửa mặt bị che lấp dưới bộ râu đen, đứng nép sau cái chòi gác. Người này đang quan sát cảnh tượng đó với một vẻ xúc động rồi lẩm bẩm: "Hãy hưởng hạnh phúc đi, hỡi những tâm hồn cao đẹp! Hãy hưởng phúc lành về những việc từ thiện mà Người đã làm và sẽ làm! Việc trả ơn của ta cũng sẽ được giữ kín như việc làm của Người!".
Và với nụ cười vui vẻ xen lẫn hạnh phúc, người lạ mặt rời khỏi chỗ nấp. Không một ai để ý thấy việc đó vì mọi người còn đang bận rộn về sự kiện đang xảy ra. Người đó xuống một cái thang thường dùng để lên xuống bến thuyền, rồi gọi liền ba tiếng:
- Jacopo! Jacopo! Jacopo!
Tức thì có một cái xuồng lớn đến đón người đó, đưa ông ta ra một du thuyền rất lịch sự đậu ở phía xa. Người lạ mặt, một lần nữa quay lại nhìn gia đình ông Morrel đang ôm nhau khóc trong niềm vui sướng lạ lùng. Người đó nói một mình: "Và bây giờ xin vĩnh biệt tấm lòng từ thiện, thủy chung, nhân hậu... Vĩnh biệt tất cả những tình cảm đang nở rộ lòng người! Ta đã thay quyền Thượng đế để đền ơn những người tốt... Bây giờ xin Thượng đế hãy trao cho ta cái quyền trừng trị những kẻ xấu!".
Nói xong người lạ mặt ra hiệu, con thuyền từ từ lướt ra khơi.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top